Thân Hữu Tiếp Tay...
VĂN HÓA ẨM THỰC ĐỒNG QUÊ: -CÁ HÔ VỚI NHỮNG MÓN ĂN NỔI TIẾNG "NHỚ HOÀI NGÀN NĂM" (1)
VĂN HÓA ẨM THỰC ĐỒNG QUÊ:
CÁ HÔ VỚI NHỮNG MÓN ĂN NỔI TIẾNG
"NHỚ HOÀI NGÀN NĂM" (1)
Trần Văn
Nói về cá mắm ở miền Tây mà không đề cập đến cá hô là
một điều thiếu sót. Cá nước ngọt, có thể nói chỉ có cá hô là giống cá lớn nhứt,
có con nặng hàng trăm ký lô. Thân hình cá hô còn nhỏ trông na ná như con cá
chài dinh, một loại cá mè. Chỉ khác có cái miệng hô, đầu to. Thông thường,
người ta làm cá chặt bỏ cái phần ngoài của cái miệng cá, nào là râu ria, hàm
răng ở bên trong. Cá hô nhỏ cũng vậy, chặt bỏ cái phần hô nhô ra ngoài. Nhưng
nếu cá hô lớn vài chục ký hoặc đến trăm ký, cái phần hô cân cũng được vài ba ký
lô mà lại là phần sụn, nấu mềm ăn ngon hết sẩy, dại sao mà bỏ?
LỘ TRÌNH DI CHUYỂN CỦA CÁ
HÔ
-
Nam mô chư vị Thánh Thần năm non bảy núi về chứng giám lòng thành... vân vân...
(H: Cá hô từ Wikipedia)
Chứng
tỏ ở vùng nầy không chỉ có bảy núi mà còn có năm non, non cũng là núi nhưng là
núi nhỏ?
Trước
Tòa Hành Chánh tỉnh Châu Đốc có một cái cầu dài bằng khung sắt, lót ván gọi là
"cầu quan". Đúng với tên của nó, đây là cây cầu dành riêng cho quan
Tham Biện, hồi xa xưa cũng còn gọi là ông Chánh, quan Đầu Tỉnh, sau nầy gọi là
ông Tỉnh Trưởng. Cây cầu quan rất dài có đến hai chục mét nối liền với lề đường
trước ngay giữa Tòa Hành Chánh tỉnh. Năm 1946, khi Pháp trở lại Việt Nam, các
vị chức sắc đầu não của tỉnh hoặc những người ở trung ương đến thanh tra hay có
chuyện gì đó quan trọng thường dùng thủy phi cơ mà có người gọi là thủy phi
thoàn (thuyền) đáp trên sông, cũng về đậu tại bến cầu quan này. Nơi đây, thường
xuyên có một hai chiếc ca-nô nhỏ của thời xưa, sau này là ho-bo chạy nhanh hơn
để cho các vị quan chức của tỉnh đi kinh lý các quận, xã...
Tại
bến cầu quan cũng là nơi công chức, học sinh thường đến đây tắm, bơi lội. Người
ta mô tả Châu Đốc có tiền tam giang, hậu thất đỉnh, mà tam giang là ở trước cầu
quan này - có ngã 3 sông, hậu thất đỉnh, bảy núi, kể từ núi Sam có Miếu Bà Chúa
Xứ, chùa Tây An nổi tiếng, chạy đến các núi khác và núi Tượng ở trong cùng.
Trước cầu quan, phía bên kia xã Đa Phước có một cái cồn gọi là Cồn Tiên nhô ra
và bên kia sông là xã Châu Giang, nơi có nhiều người sắc tộc Chàm sinh sống ở vùng
ngã 3 sông. Một hướng sông từ sông Tiền thuộc địa phận quận Tân Châu chạy tới,
một hướng từ đất Miên đến, một hướng nước
chảy xuôi về Long Xuyên. Trước cầu quan là nơi giao lưu ba dòng nước. Dòng nước
của con sông Hậu bắt đầu từ tỉnh Châu
Đốc chạy ngang qua An Giang, Cần Thơ xuôi ra biển qua ngã Đại Ngãi của tỉnh Sóc
Trăng (Ba Xuyên) qua quận Trà Ôn của tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình).
Lộ
trình di chuyển và sinh cư của loài cá hô đi đúng hướng này. Từ Biển Hồ (Tonlé
Sap) của xứ Chùa Tháp, dòng sông Cửu Long đổ xuống miền đất thấp mà Châu Đốc là
nơi địa đầu biên giới Miên Việt, sông Cửu Long chạy xuống Việt Nam qua hai
nhánh gọi là Tiền Giang và Hậu Giang. Sông Tiền chạy ngang qua quận Tân Châu,
sâu và rộng hơn. Sông Hậu chạy ngang quận An Phú, Châu Phú. Ba quận này cùng
với quận Tịnh Biên của tỉnh Châu Đốc giáp với biên giới Miên có cá tôm nhiều
nhất.
Cá
hô sống ở Biển Hồ lưu niên. Đến mùa nước lớn, các họ nhà cá xuôi dòng về Việt
Nam sinh trưởng. Những con cá hô cỡ năm, mười ký, có rất nhiều hầu như khắp
tỉnh Châu Đốc chỗ nào cũng có. Từ thập niên 60 trở về sau này, cá hô rất hiếm
và đến nay không biết có bị diệt chủng chăng?
Cá
hô cỡ năm, mười ký sống ít nhứt vài năm, còn những con cá khổng lồ hàng trăm ký
có lẽ trải qua hàng bao nhiêu năm, mà lại tồn tại rất quí hiếm vô cùng. Con cá
hô nhỏ một hai ký là cá mới sanh và sống chỉ trong một mùa nước lớn.
VÙNG NƯỚC CÓ NHIỀU CÁ HÔ LỚN
Địa
thế của tỉnh Châu Đốc do hàng trăm con sông lớn, nhỏ, kinh, rạch, mương bao
quanh mà những con cá hô lớn thường bắt được lại ở vùng sông nước sâu, giáp với
tỉnh An Giang, có lẽ nơi đây yên tĩnh và hạp với loài cá này. Riêng quận Tân
Châu như là một hải đảo, cù lao. Từ quận lỵ qua xã Phú Lâm, Long Thuận, đến xã
Hòa Hảo, nơi có Thánh Địa của Phật Giáo Hòa Hảo chạy lên xã Bình Thạnh Đông,
Châu Giang, Vĩnh Hậu... cũng là nơi có cá hô nhiều nhứt trong tỉnh. Nhưng, có
cá hô lớn năm bảy chục ký và có khi được những con cá hô bành tổ suýt soát hai
trăm ký lô lại ở vùng từ Cái Dầu và phía cuối xã Bình Thạnh Đông chạy đến Chợ
Mới, Cù Lao Ông Chưởng của tỉnh An Giang.
Năm
1966, trong một chuyến công tác về Châu Đốc, từ Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật ở
Cần Thơ, bốn thầy trò: tài xế, nhiếp ảnh viên, quay phim và Ngọc đi trên một
chiếc xe Jeep, đến Cái Dầu, cách thị xã Châu Đốc hai mươi hai cây số, dừng xe
lại nhà một người bà con mà Ngọc gọi là bà Út. Các con trai, con gái và dâu rể,
cháu nội cháu ngoại của bà Út làm nghề mua bán cá. Mùa nào có cá gì bán cá ấy.
Bà Út cũng có một vựa cá để bán lại cho bạn hàng chuyên chở đi bán ở Sài Gòn.
Nhà của bà Út cũng dùng làm vựa cá nữa. Dừng xe trước cửa nhà, Ngọc vào thăm bà
Út, cả nhà đổ xô ra chào hỏi, mừng rỡ tíu tít, bà Út nói :
-
Thằng Mười, con về đúng lúc, hôm nay bà mua được một con cá hô tổ bà nái trên
một trăm năm mươi ký lô. Con ở lại ăn cơm với gia đình, ăn món cá hô này, cả
chục năm nay mới lại có một con cá hô lớn như vậy.
Ngọc
chưa có phản ứng, bà Út nói tiếp :
-
Vợ thằng Diệp mướn xe lam đi chở về đây. Chừng nửa tiếng trở lại nó về tới, tha
hồ mà con ăn món tả pín lù cá hô, ngon lắm Mười ơi! Đừng đi vội nghe Mười. Bà
dồn dập bảo Ngọc gọi ba nhân viên của mình vào nhà nghỉ ngơi chờ xe chở cá hô
về.
Ngọc
là người sinh trưởng ở Châu Đốc cũng từng thấy nhiều lần cá hô cỡ năm mười ký
và vài lần chứng kiến cá hô ba bốn chục ký ở nhà một người bạn cùng dạy học, ở
xã Bình Mỹ, giáp với xã Bình Long (Cái Dầu). Bây giờ, lại nghe có cá hô to tổ
chản đến trên một trăm năm chục ký lô, thật quá bất ngờ, không thể tin nếu không
thấy tận mắt mình?.
Tính
hiếu kỳ, dù bận công tác, Ngọc cũng nán lại xem và ăn cơm trưa luôn thể.
Bà
Út bảo sắp nhỏ con cháu của bà nướng khô cá nóc, cá lìm kìm để cho bốn thầy trò
Ngọc lai rai chờ con bà Út đem cá hô về.
TẢN MẠN VỀ CÁ NÓC CHO VUI
Cái
vụ cá nóc, Ngọc có hai kỷ niệm nhớ đời. Một anh bạn cũng là dân đá banh với
nhau lúc còn đi học tiểu học. Cả bọn hơn một chục thằng, từ sân vận động đạp xe
về cầu quan, ai cũng lật đật cởi quần áo nhảy "ùm" xuống sông tắm,
bơi lội như rái, nô đùa la giỡn inh ỏi. Bỗng một tiếng la thất thanh kêu cầu
cứu, tất cả mọi người đổ xô lại xem coi chuyện gì, thằng Q. leo vội lên cầu, tay
bụm cái của quí máu chảy lòng ròng, mặt mày tái mét. Mọi người hỏi nó dồn
dập, nó nói :
-
Cá nóc cắn "c" tao, đau quá mạng. Thằng nào chở tao đi nhà thương gấp
?
Cả
bọn có dịp cười bò lăn bò càng, nhưng ai cũng ớn không dám xuống tắm nữa. Cũng
may con cá nóc chỉ có đớp được bao da qui đầu của thằng Q. Vào bịnh viện lại
gặp y tá nữ, mặt mày của thằng Q. từ xanh sang đỏ vì mắc cỡ. Cô y tá chỉ xức
thuốc đỏ có pha ten-tua-dốt để sát trùng và cầm máu. Sau này thằng Q. có đến cả
chục đứa con, không biết có phải nhờ cá nóc thiến cái bao qui đầu khỏi phải đi
bác sĩ cắt ?
Một
lần khác, bảy năm sau, khi Ngọc đi dạy học và cũng mê đá banh, chiều chiều cũng
tắm ở cái cầu quan này, lại một người bạn đá banh, anh này là lính cảnh sát. Cả
bọn xuống tắm, hôm ấy anh ta không có mặc quần "xì" chỉ có mặc xà
lỏn, lại sợ ướt xuống bậc thang chót, anh ta cởi quần xà lỏn ra, tuột xuống
nước tắm bơi lội, lặn hụp đã đời. Tắm sắp xong, anh đứng trên gò cát nước ngập
đến ngực, kỳ cọ. Bỗng anh la trời như bọng, hai tay anh bụm hạ bộ ở dưới nước.
Anh
nói lớn :
-
Tao bắt được con cá nóc. Miệng vừa nói, tay mặt cầm con cá nóc đưa lên trời,
tay trái tiếp tục nắm cái của quí đi nhanh đến cầu thang.
Trở
lại món khô cá nóc. Cá nóc chỉ có làm khô là ăn ngon nhứt. Trẻ con hay bắt cá
nóc, chọc nó phình bụng lên rồi lấy đá, hoặc lấy cây đập lên mình nghe nổ một
cái "bốp" chơi cho vui. Khô cá nóc ăn ngon, bùi, nhậu rất bắt. Mật cá
nóc cũng độc gần như mật cóc, ăn phải cũng gây ngộ độc và có thể chết nữa.
Hôm
ấy, bọn Ngọc ăn khô cá nóc và cá lìm kìm với nước mắm me chua sống đâm nhuyễn
có thêm một chút đường, tỏi và ớt chín đỏ, ăn rất bắt, nhậu đã quá trời!.
VẪY CÁ HÔ VỚI
MÔN THỂ THAO ĐÁ CẦU
Chưa
uống hết một ly bia, thiếm Hai Diệp chở về một con cá hô lớn quá. Trong cuộc
đời của Ngọc chưa bao giờ thấy con cá nào lớn như vậy, cả một khu xóm đổ xô đến
xem. Đầu mình con cá hô nằm chật cứng lòng thùng xe lam, còn cái phần đuôi dư
ra gần nửa thước, người chủ xe lam dùng một sợi "dây luộc" to bằng
ngón tay buộc vòng hai nấc cái đuôi kéo lên buộc trên nóc mui xe, nếu không làm
như vậy, cái đuôi con cá hô sẽ có thể bị kéo lê lết trên mặt lộ.
Bốn
người đàn ông đem dây và đòn khiêng con cá hô vào sàn nước, xối nước rửa sạch,
bắt đầu đánh vẩy. Một cái vẩy cá hô to gần bằng miệng cái chén nhỏ, dầy cũng
vài ly.
Hồi
xưa, thập niên 50, 40 trở về trước, kỹ nghệ đồ nhựa còn phôi thai, đồ chơi của
trẻ con bằng nhựa rất ít bắt gặp. Trái cầu dùng để đá chơi, người ta lấy vẩy cá
hô đã được phơi khô làm đế trái cầu, chỉ dùng năm bảy cái vẩy cá hô cũng vừa đủ
nặng. Đá cầu nghe âm thanh "bành bạch" vui tai, người ta còn dùng vài
cái vẩy cá hô và kèm thêm một đồng xu màu đồng hoặc màu xanh xám (bằng chì hoặc
kẽm) để cho đủ nặng.
Trên
các dòng sông, ghe chài chở lúa lưu thông, hồi xưa làm gì có máy đuôi tôm để
chiếc ghe chài to nặng di chuyển hàng mấy chục cây số, chỉ có sức người hoặc
sức gió căng buồm đẩy ghe đi mà thôi. Một chiếc ghe chài lớn có sức chứa vài
chục tấn trở lên phải có nhiều thành viên lực lưỡng làm công việc dùng sào
chống ghe đi hoặc lên bờ dùng dây luộc loại lớn dùng sức kéo ghe dọc theo bờ
sông, trên ghe lại có vài người dùng sào chống đẩy tiếp.
Chiều
đến lặng gió, mọi người ăn cơm ngơi nghỉ cũng là lúc các chàng thanh niên lực
lưỡng chơi đá cầu ở trên mui ghe chài. Mui ghe chài tương đối bằng phẳng, độ
dốc ít và rất rộng, có ghe lớn bốn người đứng bốn góc đá cầu giao qua lại rất
ngoạn mục. Họ giao đấu cầu tài tình, những cú đá giò lái, biểu diễn đầy tính
nghệ thuật. Chúng ta đã từng thấy những cuộc vui chơi, lễ lạc hoặc những ngày
thứ bảy, chủ nhật ở Sở Thú Sài Gòn trước năm 1975, các thanh niên nam nữ thường
biểu diễn bộ môn thể thao này. Các hội Tết của người Việt ở hải ngoại, không
biết có nơi nào tổ chức biểu diễn lại trò chơi thể thao hấp dẫn, đẹp mắt đá cầu
? Trái cầu gồm có hai phần, phần trên gồm có ba hoặc bốn cái lông vịt kết dính
lại, phần dưới là đế cầu, hồi xưa dùng vẩy cá hô, ngày nay dùng những miếng cao
su mỏng cắt tròn thay thế. Môn đá cầu vừa là một môn thể thao rèn luyện thân
thể rất tốt, vừa là một trò chơi nghệ thuật tao nhã, đẹp mắt. Con em chúng ta ở hải ngoại nên luyện tập
chơi lại môn đá cầu nầy.
CÁ HÔ VỚI CÁC
MÓN ĂN NGON NỔI TIẾNG "NHỚ HOÀI NGÀN NĂM"
Khi
con cá hô làm xong, rửa sạch, hai người con trai và cô con dâu chặt ra nhiều
khúc: đầu, đuôi và thân cá, chia ra mỗi miếng chừng năm ba ký cân bán cho bạn
hàng đến mua đưa ra chợ Cái Dầu bán lẻ. Vài người bạn hàng có phương tiện và
buôn bán lớn, mua vài chục ký chở lên chợ Châu Đốc, chợ Long Xuyên bán có giá,
lời nhiều hơn. Bà Út bảo chặt để lại vài ký cái phần miệng hô để nấu
"mẵn" và khoảng mười ký thịt cá để gia đình dùng.
Cháu
gái, hai tay thoăn thoắt vừa đun củi nấu nước làm món canh chua xong, dùng dao
xắt lia lịa, thái mỏng cá để làm món tả pín lù. Bà Út phụ giúp làm món nước
mắm, lặt, rửa rau, xắt dưa leo, khế, chuối chát, khóm. Bà Út đem một lò dầu hôi
- "rề-sô" - đặt giữa bàn. Cô cháu ngoại chặt hai trái dừa lửa đổ vào
xoong cho thêm một ít tóp mỡ, nước nổi màn màn, bắt lên lò. Ngọc châm đốt vặn
cao ngọn lửa lên, chừng mười phút, nước bắt đầu lên tim, sôi. Hai dĩa rau dưa,
hai dĩa đầy ắp cá hô thái nhỏ, một dĩa bún, hai tô nước mắm nêm được cô cháu
gái bưng lên để chật trên mặt bàn. Đó mới là món ăn thứ nhứt gọi là ăn
"lai rai" để nhậu "ba sợi" trước đã. Sau còn hai món nữa,
món cá hô xào khóm (thơm) và món thứ ba cũng là món nấu lâu hơn, món canh chua
mà lại canh chua nấu cái phần vành ngoài miệng hô của nó, thay vì nấu mẵn, bà
Út thay đổi món, nấu canh chua, bà biết tính thằng Mười thích ăn canh chua.
Bàn
tiệc có sáu người, bốn thầy trò Ngọc, chú Hai, người con trai trưởng làm thợ
may, một thợ may thuộc hạng giỏi nhứt của thị trấn Cái Dầu, chú may được đồ
"vết" còn gọi đồ lớn rất khéo không thua kém các tay thợ giỏi của
tỉnh, anh Chi Cuộc Trưởng Cảnh Sát, nhà gần bên. Chỉ cái món tả pín lù ăn hết
cũng no cành hông rồi, đàng nầy còn hai món xào khóm và nấu canh chua hấp dẫn
nữa.
Thịt
cá hô ngon nhứt, hơn bất cứ loại cá nào ở nước ngọt hay nước mặn mà Ngọc đã ăn
qua. Không biết có chủ quan hay không? Theo nhận xét của Ngọc, thịt cá hô làm
món gì ăn cũng ngon mà món "tả pín lù" và món xào khóm không có món
thịt, cá nào sánh bằng.
Ở
vùng quận Nhà Bè của tỉnh Gia Định, sát nách trung tâm Thủ Đô Sài Gòn, có cá
chìa vôi (sống trong nước lợ), hình dạng cũng gần giống cá hô. Thịt cá chìa vôi
là một loại cá ngon cao cấp quí hiếm nhứt của dân nhậu, của người sành điệu thưởng
thức các món ăn cá.
Thật
tình mà nói, người ta thường cho cái gì của quê hương mình cũng đều hơn các nơi
khác. Ngọc đã từng trải và lăn lóc thưởng thức nhiều món ăn mà lại nhậu ít nên
có nhận xét không phải rượu nói mà chính kinh nghiệm nói: Cá chìa vôi ngon nhất
đối với dân sống ở miền Đông, Sài Gòn, nhưng Ngọc là người ở Châu Đốc, miền
Tây, cho rằng cá hô mới là ngon số một, cá chìa vôi đứng hàng thứ ba sau cá
bông lớn trong món tả pín lù hay còn gọi món nhúng dấm của quê hương tôi - Châu
Đốc.
Thịt
cá hô không dai như thịt heo, thịt bò mà nó dai và có nhiều sụn hơn bất cứ loại
cá nước ngọt nào (có thể sụn của cá hô thua xa cá turgeon của Delta Valley
California - Stockton & Sacramento vì toàn thân cá có rất nhiều sụn).
Da
cá hô dày như là một lớp sụn mỏng, thịt vừa ngọt vừa dai, không bở như các thứ
cá khác.
Da
cá hô lớn, nhai gần như da heo sữa, hơi sần sật một chút thật ngon miệng. Món
tả pín lù, có người còn gọi là "tả bí lù", có nghĩa là "bí
lù" không biết gì hết. Món ăn này ngon quá không biết đặt tên gì vì nó rất
đa dạng. Thịt cá gì, tôm mực tươi cũng làm được cả. Ngày nay ở Mỹ có món Hot
Pot na ná như món tả pín lù ở quê nhà. Nước trong lẩu nếu dùng nước dừa tươi
thay nước pha giấm đường để ăn món tả pín lù có lẽ ngon hơn. Nếu có dừa lửa sẽ
còn ngon gấp bội. Nước dừa lửa ngọt đậm đà hơn nước dừa thường.
Cá
hô xào khóm thật ngon. Một món xào khóm khác được xếp vào danh sách các món ăn
ngon của dân nhậu là món khóm xào với ruột già (heo), lại có xắt thêm dưa leo
mà phải xắt dầy, xéo, để cả vỏ xào chung với khóm và ruột già. Còn nữa, thêm
hành củ xắt từng khúc cùng xào chung và sau cùng rắc tiêu lên... Mùi thơm bốc
nghi ngút làm thực khách thèm quá cỡ thợ mộc, nuớc miếng muốn tuôn trào ra!
Cái
phần vành miệng của cá hô là sụn, nấu canh chua hay nấu mẳn - một cách nấu cũng
có chất chua nhưng dùng giấm không dùng me và nêm mặn hơn nấu canh chua. Thịt
cá hô nấu món gì cũng ngon, thơm phức. Sụn của miệng hô nấu ninh kỹ ăn nghe sần
sật thật đúng là câu mà người miền Bắc thường mô tả "miệng nhai tai
nghe", vừa sướng răng sướng miệng mà còn sướng cả tai!
Ba
món ăn thiệt đã, không phải ăn chơi mà là ăn thiệt. Ba món ăn cá hô độc đáo ghi
dấu ấn kỷ niệm nhớ đời của những người từng thưởng thức những món ăn ngon của đất
nước, là triết lý của cuộc sống trên cõi đời này.@
(1) - Nhớ hoài
ngàn năm - tác giả mượn ý của 2 bản nhạc: Thương hoài ngàn năm & Yêu hoài
ngàn năm, để nói về các món ăn ngon tuyệt vời trên cả tuyệt của loài Cá Hô ở vùng
sồng bằng sông Cửu Long.
(Sacramento
23.5.2017)
Trần Văn (HNPD)
VĂN HÓA ẨM THỰC ĐỒNG QUÊ: -CÁ HÔ VỚI NHỮNG MÓN ĂN NỔI TIẾNG "NHỚ HOÀI NGÀN NĂM" (1)
VĂN HÓA ẨM THỰC ĐỒNG QUÊ:
CÁ HÔ VỚI NHỮNG MÓN ĂN NỔI TIẾNG
"NHỚ HOÀI NGÀN NĂM" (1)
Trần Văn
Nói về cá mắm ở miền Tây mà không đề cập đến cá hô là
một điều thiếu sót. Cá nước ngọt, có thể nói chỉ có cá hô là giống cá lớn nhứt,
có con nặng hàng trăm ký lô. Thân hình cá hô còn nhỏ trông na ná như con cá
chài dinh, một loại cá mè. Chỉ khác có cái miệng hô, đầu to. Thông thường,
người ta làm cá chặt bỏ cái phần ngoài của cái miệng cá, nào là râu ria, hàm
răng ở bên trong. Cá hô nhỏ cũng vậy, chặt bỏ cái phần hô nhô ra ngoài. Nhưng
nếu cá hô lớn vài chục ký hoặc đến trăm ký, cái phần hô cân cũng được vài ba ký
lô mà lại là phần sụn, nấu mềm ăn ngon hết sẩy, dại sao mà bỏ?
LỘ TRÌNH DI CHUYỂN CỦA CÁ
HÔ
-
Nam mô chư vị Thánh Thần năm non bảy núi về chứng giám lòng thành... vân vân...
(H: Cá hô từ Wikipedia)
Chứng
tỏ ở vùng nầy không chỉ có bảy núi mà còn có năm non, non cũng là núi nhưng là
núi nhỏ?
Trước
Tòa Hành Chánh tỉnh Châu Đốc có một cái cầu dài bằng khung sắt, lót ván gọi là
"cầu quan". Đúng với tên của nó, đây là cây cầu dành riêng cho quan
Tham Biện, hồi xa xưa cũng còn gọi là ông Chánh, quan Đầu Tỉnh, sau nầy gọi là
ông Tỉnh Trưởng. Cây cầu quan rất dài có đến hai chục mét nối liền với lề đường
trước ngay giữa Tòa Hành Chánh tỉnh. Năm 1946, khi Pháp trở lại Việt Nam, các
vị chức sắc đầu não của tỉnh hoặc những người ở trung ương đến thanh tra hay có
chuyện gì đó quan trọng thường dùng thủy phi cơ mà có người gọi là thủy phi
thoàn (thuyền) đáp trên sông, cũng về đậu tại bến cầu quan này. Nơi đây, thường
xuyên có một hai chiếc ca-nô nhỏ của thời xưa, sau này là ho-bo chạy nhanh hơn
để cho các vị quan chức của tỉnh đi kinh lý các quận, xã...
Tại
bến cầu quan cũng là nơi công chức, học sinh thường đến đây tắm, bơi lội. Người
ta mô tả Châu Đốc có tiền tam giang, hậu thất đỉnh, mà tam giang là ở trước cầu
quan này - có ngã 3 sông, hậu thất đỉnh, bảy núi, kể từ núi Sam có Miếu Bà Chúa
Xứ, chùa Tây An nổi tiếng, chạy đến các núi khác và núi Tượng ở trong cùng.
Trước cầu quan, phía bên kia xã Đa Phước có một cái cồn gọi là Cồn Tiên nhô ra
và bên kia sông là xã Châu Giang, nơi có nhiều người sắc tộc Chàm sinh sống ở vùng
ngã 3 sông. Một hướng sông từ sông Tiền thuộc địa phận quận Tân Châu chạy tới,
một hướng từ đất Miên đến, một hướng nước
chảy xuôi về Long Xuyên. Trước cầu quan là nơi giao lưu ba dòng nước. Dòng nước
của con sông Hậu bắt đầu từ tỉnh Châu
Đốc chạy ngang qua An Giang, Cần Thơ xuôi ra biển qua ngã Đại Ngãi của tỉnh Sóc
Trăng (Ba Xuyên) qua quận Trà Ôn của tỉnh Trà Vinh (Vĩnh Bình).
Lộ
trình di chuyển và sinh cư của loài cá hô đi đúng hướng này. Từ Biển Hồ (Tonlé
Sap) của xứ Chùa Tháp, dòng sông Cửu Long đổ xuống miền đất thấp mà Châu Đốc là
nơi địa đầu biên giới Miên Việt, sông Cửu Long chạy xuống Việt Nam qua hai
nhánh gọi là Tiền Giang và Hậu Giang. Sông Tiền chạy ngang qua quận Tân Châu,
sâu và rộng hơn. Sông Hậu chạy ngang quận An Phú, Châu Phú. Ba quận này cùng
với quận Tịnh Biên của tỉnh Châu Đốc giáp với biên giới Miên có cá tôm nhiều
nhất.
Cá
hô sống ở Biển Hồ lưu niên. Đến mùa nước lớn, các họ nhà cá xuôi dòng về Việt
Nam sinh trưởng. Những con cá hô cỡ năm, mười ký, có rất nhiều hầu như khắp
tỉnh Châu Đốc chỗ nào cũng có. Từ thập niên 60 trở về sau này, cá hô rất hiếm
và đến nay không biết có bị diệt chủng chăng?
Cá
hô cỡ năm, mười ký sống ít nhứt vài năm, còn những con cá khổng lồ hàng trăm ký
có lẽ trải qua hàng bao nhiêu năm, mà lại tồn tại rất quí hiếm vô cùng. Con cá
hô nhỏ một hai ký là cá mới sanh và sống chỉ trong một mùa nước lớn.
VÙNG NƯỚC CÓ NHIỀU CÁ HÔ LỚN
Địa
thế của tỉnh Châu Đốc do hàng trăm con sông lớn, nhỏ, kinh, rạch, mương bao
quanh mà những con cá hô lớn thường bắt được lại ở vùng sông nước sâu, giáp với
tỉnh An Giang, có lẽ nơi đây yên tĩnh và hạp với loài cá này. Riêng quận Tân
Châu như là một hải đảo, cù lao. Từ quận lỵ qua xã Phú Lâm, Long Thuận, đến xã
Hòa Hảo, nơi có Thánh Địa của Phật Giáo Hòa Hảo chạy lên xã Bình Thạnh Đông,
Châu Giang, Vĩnh Hậu... cũng là nơi có cá hô nhiều nhứt trong tỉnh. Nhưng, có
cá hô lớn năm bảy chục ký và có khi được những con cá hô bành tổ suýt soát hai
trăm ký lô lại ở vùng từ Cái Dầu và phía cuối xã Bình Thạnh Đông chạy đến Chợ
Mới, Cù Lao Ông Chưởng của tỉnh An Giang.
Năm
1966, trong một chuyến công tác về Châu Đốc, từ Bộ Tư Lệnh Vùng 4 Chiến Thuật ở
Cần Thơ, bốn thầy trò: tài xế, nhiếp ảnh viên, quay phim và Ngọc đi trên một
chiếc xe Jeep, đến Cái Dầu, cách thị xã Châu Đốc hai mươi hai cây số, dừng xe
lại nhà một người bà con mà Ngọc gọi là bà Út. Các con trai, con gái và dâu rể,
cháu nội cháu ngoại của bà Út làm nghề mua bán cá. Mùa nào có cá gì bán cá ấy.
Bà Út cũng có một vựa cá để bán lại cho bạn hàng chuyên chở đi bán ở Sài Gòn.
Nhà của bà Út cũng dùng làm vựa cá nữa. Dừng xe trước cửa nhà, Ngọc vào thăm bà
Út, cả nhà đổ xô ra chào hỏi, mừng rỡ tíu tít, bà Út nói :
-
Thằng Mười, con về đúng lúc, hôm nay bà mua được một con cá hô tổ bà nái trên
một trăm năm mươi ký lô. Con ở lại ăn cơm với gia đình, ăn món cá hô này, cả
chục năm nay mới lại có một con cá hô lớn như vậy.
Ngọc
chưa có phản ứng, bà Út nói tiếp :
-
Vợ thằng Diệp mướn xe lam đi chở về đây. Chừng nửa tiếng trở lại nó về tới, tha
hồ mà con ăn món tả pín lù cá hô, ngon lắm Mười ơi! Đừng đi vội nghe Mười. Bà
dồn dập bảo Ngọc gọi ba nhân viên của mình vào nhà nghỉ ngơi chờ xe chở cá hô
về.
Ngọc
là người sinh trưởng ở Châu Đốc cũng từng thấy nhiều lần cá hô cỡ năm mười ký
và vài lần chứng kiến cá hô ba bốn chục ký ở nhà một người bạn cùng dạy học, ở
xã Bình Mỹ, giáp với xã Bình Long (Cái Dầu). Bây giờ, lại nghe có cá hô to tổ
chản đến trên một trăm năm chục ký lô, thật quá bất ngờ, không thể tin nếu không
thấy tận mắt mình?.
Tính
hiếu kỳ, dù bận công tác, Ngọc cũng nán lại xem và ăn cơm trưa luôn thể.
Bà
Út bảo sắp nhỏ con cháu của bà nướng khô cá nóc, cá lìm kìm để cho bốn thầy trò
Ngọc lai rai chờ con bà Út đem cá hô về.
TẢN MẠN VỀ CÁ NÓC CHO VUI
Cái
vụ cá nóc, Ngọc có hai kỷ niệm nhớ đời. Một anh bạn cũng là dân đá banh với
nhau lúc còn đi học tiểu học. Cả bọn hơn một chục thằng, từ sân vận động đạp xe
về cầu quan, ai cũng lật đật cởi quần áo nhảy "ùm" xuống sông tắm,
bơi lội như rái, nô đùa la giỡn inh ỏi. Bỗng một tiếng la thất thanh kêu cầu
cứu, tất cả mọi người đổ xô lại xem coi chuyện gì, thằng Q. leo vội lên cầu, tay
bụm cái của quí máu chảy lòng ròng, mặt mày tái mét. Mọi người hỏi nó dồn
dập, nó nói :
-
Cá nóc cắn "c" tao, đau quá mạng. Thằng nào chở tao đi nhà thương gấp
?
Cả
bọn có dịp cười bò lăn bò càng, nhưng ai cũng ớn không dám xuống tắm nữa. Cũng
may con cá nóc chỉ có đớp được bao da qui đầu của thằng Q. Vào bịnh viện lại
gặp y tá nữ, mặt mày của thằng Q. từ xanh sang đỏ vì mắc cỡ. Cô y tá chỉ xức
thuốc đỏ có pha ten-tua-dốt để sát trùng và cầm máu. Sau này thằng Q. có đến cả
chục đứa con, không biết có phải nhờ cá nóc thiến cái bao qui đầu khỏi phải đi
bác sĩ cắt ?
Một
lần khác, bảy năm sau, khi Ngọc đi dạy học và cũng mê đá banh, chiều chiều cũng
tắm ở cái cầu quan này, lại một người bạn đá banh, anh này là lính cảnh sát. Cả
bọn xuống tắm, hôm ấy anh ta không có mặc quần "xì" chỉ có mặc xà
lỏn, lại sợ ướt xuống bậc thang chót, anh ta cởi quần xà lỏn ra, tuột xuống
nước tắm bơi lội, lặn hụp đã đời. Tắm sắp xong, anh đứng trên gò cát nước ngập
đến ngực, kỳ cọ. Bỗng anh la trời như bọng, hai tay anh bụm hạ bộ ở dưới nước.
Anh
nói lớn :
-
Tao bắt được con cá nóc. Miệng vừa nói, tay mặt cầm con cá nóc đưa lên trời,
tay trái tiếp tục nắm cái của quí đi nhanh đến cầu thang.
Trở
lại món khô cá nóc. Cá nóc chỉ có làm khô là ăn ngon nhứt. Trẻ con hay bắt cá
nóc, chọc nó phình bụng lên rồi lấy đá, hoặc lấy cây đập lên mình nghe nổ một
cái "bốp" chơi cho vui. Khô cá nóc ăn ngon, bùi, nhậu rất bắt. Mật cá
nóc cũng độc gần như mật cóc, ăn phải cũng gây ngộ độc và có thể chết nữa.
Hôm
ấy, bọn Ngọc ăn khô cá nóc và cá lìm kìm với nước mắm me chua sống đâm nhuyễn
có thêm một chút đường, tỏi và ớt chín đỏ, ăn rất bắt, nhậu đã quá trời!.
VẪY CÁ HÔ VỚI
MÔN THỂ THAO ĐÁ CẦU
Chưa
uống hết một ly bia, thiếm Hai Diệp chở về một con cá hô lớn quá. Trong cuộc
đời của Ngọc chưa bao giờ thấy con cá nào lớn như vậy, cả một khu xóm đổ xô đến
xem. Đầu mình con cá hô nằm chật cứng lòng thùng xe lam, còn cái phần đuôi dư
ra gần nửa thước, người chủ xe lam dùng một sợi "dây luộc" to bằng
ngón tay buộc vòng hai nấc cái đuôi kéo lên buộc trên nóc mui xe, nếu không làm
như vậy, cái đuôi con cá hô sẽ có thể bị kéo lê lết trên mặt lộ.
Bốn
người đàn ông đem dây và đòn khiêng con cá hô vào sàn nước, xối nước rửa sạch,
bắt đầu đánh vẩy. Một cái vẩy cá hô to gần bằng miệng cái chén nhỏ, dầy cũng
vài ly.
Hồi
xưa, thập niên 50, 40 trở về trước, kỹ nghệ đồ nhựa còn phôi thai, đồ chơi của
trẻ con bằng nhựa rất ít bắt gặp. Trái cầu dùng để đá chơi, người ta lấy vẩy cá
hô đã được phơi khô làm đế trái cầu, chỉ dùng năm bảy cái vẩy cá hô cũng vừa đủ
nặng. Đá cầu nghe âm thanh "bành bạch" vui tai, người ta còn dùng vài
cái vẩy cá hô và kèm thêm một đồng xu màu đồng hoặc màu xanh xám (bằng chì hoặc
kẽm) để cho đủ nặng.
Trên
các dòng sông, ghe chài chở lúa lưu thông, hồi xưa làm gì có máy đuôi tôm để
chiếc ghe chài to nặng di chuyển hàng mấy chục cây số, chỉ có sức người hoặc
sức gió căng buồm đẩy ghe đi mà thôi. Một chiếc ghe chài lớn có sức chứa vài
chục tấn trở lên phải có nhiều thành viên lực lưỡng làm công việc dùng sào
chống ghe đi hoặc lên bờ dùng dây luộc loại lớn dùng sức kéo ghe dọc theo bờ
sông, trên ghe lại có vài người dùng sào chống đẩy tiếp.
Chiều
đến lặng gió, mọi người ăn cơm ngơi nghỉ cũng là lúc các chàng thanh niên lực
lưỡng chơi đá cầu ở trên mui ghe chài. Mui ghe chài tương đối bằng phẳng, độ
dốc ít và rất rộng, có ghe lớn bốn người đứng bốn góc đá cầu giao qua lại rất
ngoạn mục. Họ giao đấu cầu tài tình, những cú đá giò lái, biểu diễn đầy tính
nghệ thuật. Chúng ta đã từng thấy những cuộc vui chơi, lễ lạc hoặc những ngày
thứ bảy, chủ nhật ở Sở Thú Sài Gòn trước năm 1975, các thanh niên nam nữ thường
biểu diễn bộ môn thể thao này. Các hội Tết của người Việt ở hải ngoại, không
biết có nơi nào tổ chức biểu diễn lại trò chơi thể thao hấp dẫn, đẹp mắt đá cầu
? Trái cầu gồm có hai phần, phần trên gồm có ba hoặc bốn cái lông vịt kết dính
lại, phần dưới là đế cầu, hồi xưa dùng vẩy cá hô, ngày nay dùng những miếng cao
su mỏng cắt tròn thay thế. Môn đá cầu vừa là một môn thể thao rèn luyện thân
thể rất tốt, vừa là một trò chơi nghệ thuật tao nhã, đẹp mắt. Con em chúng ta ở hải ngoại nên luyện tập
chơi lại môn đá cầu nầy.
CÁ HÔ VỚI CÁC
MÓN ĂN NGON NỔI TIẾNG "NHỚ HOÀI NGÀN NĂM"
Khi
con cá hô làm xong, rửa sạch, hai người con trai và cô con dâu chặt ra nhiều
khúc: đầu, đuôi và thân cá, chia ra mỗi miếng chừng năm ba ký cân bán cho bạn
hàng đến mua đưa ra chợ Cái Dầu bán lẻ. Vài người bạn hàng có phương tiện và
buôn bán lớn, mua vài chục ký chở lên chợ Châu Đốc, chợ Long Xuyên bán có giá,
lời nhiều hơn. Bà Út bảo chặt để lại vài ký cái phần miệng hô để nấu
"mẵn" và khoảng mười ký thịt cá để gia đình dùng.
Cháu
gái, hai tay thoăn thoắt vừa đun củi nấu nước làm món canh chua xong, dùng dao
xắt lia lịa, thái mỏng cá để làm món tả pín lù. Bà Út phụ giúp làm món nước
mắm, lặt, rửa rau, xắt dưa leo, khế, chuối chát, khóm. Bà Út đem một lò dầu hôi
- "rề-sô" - đặt giữa bàn. Cô cháu ngoại chặt hai trái dừa lửa đổ vào
xoong cho thêm một ít tóp mỡ, nước nổi màn màn, bắt lên lò. Ngọc châm đốt vặn
cao ngọn lửa lên, chừng mười phút, nước bắt đầu lên tim, sôi. Hai dĩa rau dưa,
hai dĩa đầy ắp cá hô thái nhỏ, một dĩa bún, hai tô nước mắm nêm được cô cháu
gái bưng lên để chật trên mặt bàn. Đó mới là món ăn thứ nhứt gọi là ăn
"lai rai" để nhậu "ba sợi" trước đã. Sau còn hai món nữa,
món cá hô xào khóm (thơm) và món thứ ba cũng là món nấu lâu hơn, món canh chua
mà lại canh chua nấu cái phần vành ngoài miệng hô của nó, thay vì nấu mẵn, bà
Út thay đổi món, nấu canh chua, bà biết tính thằng Mười thích ăn canh chua.
Bàn
tiệc có sáu người, bốn thầy trò Ngọc, chú Hai, người con trai trưởng làm thợ
may, một thợ may thuộc hạng giỏi nhứt của thị trấn Cái Dầu, chú may được đồ
"vết" còn gọi đồ lớn rất khéo không thua kém các tay thợ giỏi của
tỉnh, anh Chi Cuộc Trưởng Cảnh Sát, nhà gần bên. Chỉ cái món tả pín lù ăn hết
cũng no cành hông rồi, đàng nầy còn hai món xào khóm và nấu canh chua hấp dẫn
nữa.
Thịt
cá hô ngon nhứt, hơn bất cứ loại cá nào ở nước ngọt hay nước mặn mà Ngọc đã ăn
qua. Không biết có chủ quan hay không? Theo nhận xét của Ngọc, thịt cá hô làm
món gì ăn cũng ngon mà món "tả pín lù" và món xào khóm không có món
thịt, cá nào sánh bằng.
Ở
vùng quận Nhà Bè của tỉnh Gia Định, sát nách trung tâm Thủ Đô Sài Gòn, có cá
chìa vôi (sống trong nước lợ), hình dạng cũng gần giống cá hô. Thịt cá chìa vôi
là một loại cá ngon cao cấp quí hiếm nhứt của dân nhậu, của người sành điệu thưởng
thức các món ăn cá.
Thật
tình mà nói, người ta thường cho cái gì của quê hương mình cũng đều hơn các nơi
khác. Ngọc đã từng trải và lăn lóc thưởng thức nhiều món ăn mà lại nhậu ít nên
có nhận xét không phải rượu nói mà chính kinh nghiệm nói: Cá chìa vôi ngon nhất
đối với dân sống ở miền Đông, Sài Gòn, nhưng Ngọc là người ở Châu Đốc, miền
Tây, cho rằng cá hô mới là ngon số một, cá chìa vôi đứng hàng thứ ba sau cá
bông lớn trong món tả pín lù hay còn gọi món nhúng dấm của quê hương tôi - Châu
Đốc.
Thịt
cá hô không dai như thịt heo, thịt bò mà nó dai và có nhiều sụn hơn bất cứ loại
cá nước ngọt nào (có thể sụn của cá hô thua xa cá turgeon của Delta Valley
California - Stockton & Sacramento vì toàn thân cá có rất nhiều sụn).
Da
cá hô dày như là một lớp sụn mỏng, thịt vừa ngọt vừa dai, không bở như các thứ
cá khác.
Da
cá hô lớn, nhai gần như da heo sữa, hơi sần sật một chút thật ngon miệng. Món
tả pín lù, có người còn gọi là "tả bí lù", có nghĩa là "bí
lù" không biết gì hết. Món ăn này ngon quá không biết đặt tên gì vì nó rất
đa dạng. Thịt cá gì, tôm mực tươi cũng làm được cả. Ngày nay ở Mỹ có món Hot
Pot na ná như món tả pín lù ở quê nhà. Nước trong lẩu nếu dùng nước dừa tươi
thay nước pha giấm đường để ăn món tả pín lù có lẽ ngon hơn. Nếu có dừa lửa sẽ
còn ngon gấp bội. Nước dừa lửa ngọt đậm đà hơn nước dừa thường.
Cá
hô xào khóm thật ngon. Một món xào khóm khác được xếp vào danh sách các món ăn
ngon của dân nhậu là món khóm xào với ruột già (heo), lại có xắt thêm dưa leo
mà phải xắt dầy, xéo, để cả vỏ xào chung với khóm và ruột già. Còn nữa, thêm
hành củ xắt từng khúc cùng xào chung và sau cùng rắc tiêu lên... Mùi thơm bốc
nghi ngút làm thực khách thèm quá cỡ thợ mộc, nuớc miếng muốn tuôn trào ra!
Cái
phần vành miệng của cá hô là sụn, nấu canh chua hay nấu mẳn - một cách nấu cũng
có chất chua nhưng dùng giấm không dùng me và nêm mặn hơn nấu canh chua. Thịt
cá hô nấu món gì cũng ngon, thơm phức. Sụn của miệng hô nấu ninh kỹ ăn nghe sần
sật thật đúng là câu mà người miền Bắc thường mô tả "miệng nhai tai
nghe", vừa sướng răng sướng miệng mà còn sướng cả tai!
Ba
món ăn thiệt đã, không phải ăn chơi mà là ăn thiệt. Ba món ăn cá hô độc đáo ghi
dấu ấn kỷ niệm nhớ đời của những người từng thưởng thức những món ăn ngon của đất
nước, là triết lý của cuộc sống trên cõi đời này.@
(1) - Nhớ hoài
ngàn năm - tác giả mượn ý của 2 bản nhạc: Thương hoài ngàn năm & Yêu hoài
ngàn năm, để nói về các món ăn ngon tuyệt vời trên cả tuyệt của loài Cá Hô ở vùng
sồng bằng sông Cửu Long.
(Sacramento
23.5.2017)
Trần Văn (HNPD)