Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
VUA TỰ ĐỨC BẢO VỆ DÂN LÀNH BỊ CƯỜNG HÀO CƯỚP ĐẤT VÀ QUAN BỊ TRÙ DẬP
Thời phong kiến, cách quản lý xã hội của Nhà nước quan liêu không tránh khỏi tình trạng nhiều người dân và cả một số quan lại bị oan ức. Để góp phần “giải oan”
Bùi Xuân Đính
Thời
phong kiến, cách quản lý xã hội của Nhà nước quan liêu không tránh khỏi
tình trạng nhiều người dân và cả một số quan lại bị oan ức. Để góp phần
“giải oan” cho dân, Nhà nước các thời đã có những biện pháp cho dân
được kêu oan.
- Năm
Nhâm Thìn, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo (1052), Vua Lý Nhân Tông cho đặt
một quả chuông lớn ở sân rồng để ai bị oan ức điều gì được đến đánh
chuông. Vua ra nhận đơn và xét xử.
- Năm
Mậu Dần, niên hiệu Đại Định (1158), theo lời tâu của Nguyễn Quốc vừa đi
sứ ở nước Tống về, Vua Lý Anh Tông cho đặt một cái hòm ở sân rồng để ai
muốn bày tỏ việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Chỉ trong một tháng, thư kêu
oan đã đầy hòm. Tuy nhiên, trong số thư ấy có cả thư tố cáo quan đại
thần Đỗ Anh Vũ lộng quyền, nên sau đó, hòm thư bị bỏ.
- Năm Ất Tỵ, niên hiệu Bảo Thái (1725), Chúa Trịnh Cương cho yết bảng ở các lỵ sở, ngã ba đường để dân chúng phản ánh điều hay dở, thiện ác của các quan trong địa hạt và nỗi oan của mình.
- Năm Ất Tỵ, niên hiệu Bảo Thái (1725), Chúa Trịnh Cương cho yết bảng ở các lỵ sở, ngã ba đường để dân chúng phản ánh điều hay dở, thiện ác của các quan trong địa hạt và nỗi oan của mình.
- Năm Nhâm Tý, niên hiệu Vĩnh Khánh (1732), Chúa Trịnh Giang lại cho đặt hòm ở phủ chúa để nhận đơn kêu oan của dân.
- Năm
Đinh Mão, niên hiệu Cảnh Hưng (1747), Chúa Trịnh Doanh cho đặt chuông,
mõ ở cổng phủ đường để người nào thấy mình có tài, muốn tự tiến cử thì
đánh chuông và người bị oan ức thì đánh mõ kêu lên. Các khiếu nại phải
được ghi thành văn bản và phong kín để chuyển lên phủ chúa xem xét.
- Năm
Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng (1751), Chúa Trịnh cho phép nhân dân cả
nước được phép viết thư trình bày nỗi oan ức, dán kín dâng lên.
- Ở
Đàng Trong, vào năm Mậu Thân (1788), Chúa Nguyễn Ánh cũng cho đặt một
hòm ở cửa phủ chúa để ai có oan khuất hay bị người khác hãm hại thì viết
đơn trình bày rõ sự việc, ghi rõ họ tên quê quán bỏ vào hòm để tiện tra
xét, người nào bỏ thư nặc danh, vu tội cho người khác thì bị trị tội
nặng.
- Năm
Quý Hợi (1803), Vua Gia Long cho dân từ các trấn Nghệ An ra Bắc ai có
oan khuất thì đến công đường sở tại tâu bày. Đơn thư kêu oan được chuyển
lên vua và văn thần xét đoán, kẻ nào vu cáo, thêu dệt thì bị tội. Năm
sau (Giáp Tý, 1804), theo lời tâu của các quan trấn Bắc Thành, Vua Gia
Long cho dựng nhà coi việc ở cửa Nam thành Thăng Long, cứ năm ngày một
lần, họp quan lại để bàn vịêc; ai có việc gì bị oan ức đã qua ba nha
trấn, phủ, huyện mà chưa được phục tình thì cho đầu đơn để xét cho rõ
lý.
Từ thời
Vua Minh Mạng (1820 - 1841), tại Ty Tam pháp (cơ quan pháp luật cao
nhất của triều đình - gồm ba cơ quan tương đương Viện Kiểm sát, Tòa án
và Bộ Tư pháp hiện nay) có đặt một trống Đăng văn, vào các ngày 6, 16,
và 26 hàng tháng cho phép ai có oan ức được đến đánh trống kêu oan. Quan
Pháp ty ra nhận đơn và xét xử. Còn các ngày khác, ai tự tiện đánh trống
thì coi như phạm tội, dù có bị oan ức đến mấy.
Song
một ngày, không phải là ngày tiếp dân mà bỗng nhiên tại Ty Tam pháp vang
lên những tiếng trống đánh gấp đến “nẫu lòng”. Viên quan trực của Ty
vội chạy ra, thấy một người phụ nữ nước mắt đầm đìa. Theo luật, người
phụ nữ đó bị trói và xét hỏi. Bà ta khai tên là Nguyễn Thị Tồn - vợ Thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa (1) vừa chèo thuyền từ Nam Bộ ra để xin minh oan cho chồng. Đơn kêu oan của bà được đưa ngay lên Vua Tự Đức.
Vua
đọc đơn, thấy lời kêu oan rất thống thiết, nên phê ngay vào đơn và lệnh
cho Ty Tam pháp điều tra ngay và xét nghị. Điều mà bà Nguyễn Thị Tồn
kêu oan lên triều đình là chồng bà, ông Bùi Hữu Nghĩa là Tri phủ phủ
Phước Long, tỉnh Biên Hòa, vốn là người cương trực, đã thẳng tay trừng
trị bọn hào cường ở địa phương ức hiếp dân lành, nên bị chúng trả thù.
Bọn cường hào đã ỷ thế vào viên Tổng đốc Biên Hòa để hòng cướp của những
người dân nghèo một con lạch đã được Vua Gia Long cho phép khai thác,
không phải nộp thuế từ khi Vua mới lên ngôi.
Bùi
Hữu Nghĩa đã đứng về phía những người dân nghèo. Giữa những người dân
và bọn cường hào đã xảy ra xô xát dẫn đến chết người. Một số người bị
bắt vì quá lo sợ nên sau đó đã khai rằng, sở dĩ có chuyện tranh chấp dẫn
đến chết người đó là do Tri phủ Bùi Hữu Nghĩa. Bọn cường hào đã xúi bẩy
viên Tổng đốc sai lính đóng gông Bùi Hữu Nghĩa và cho giải ra Kinh đô
Huế; đồng thời làm Sớ khép ông vào tội “xui dân làm loạn dẫn đến chết
người”.
Trước
nỗi oan ức của chồng, bà Nguyễn Thị Tồn không quản “thân gái dặm
trường”, chèo thuyền từ Biên Hòa ra Huế xin được minh xét cho chồng. Mặc
dù không phải ngày trực của Ty Tam pháp, bà vẫn can đảm đến Ty để “đánh
trống Đăng Văn”. Sau đó, sự thật vụ việc được làm sáng tỏ, Vua Tự Đức
đã phê “Tha tội cho Bùi Hữu Nghĩa, nhưng phải tiền quân hiệu lực, lập công chuộc tội”.; đồng thời, buộc bọn cường hào địa phương phải để yên cho dân cày cấy trên đất mà Vua Gia Long đã cho.
Lời bàn:
Tiếng trống Đăng Văn thời Nguyễn, tiếng chuông, mõ, treo bảng, đặt hòm
nhận đơn… thời Lê - Trịnh, tiếng chuông sân rồng thời Lý v. v. là những
hình thức thích hợp để thần dân và quan lại bị oan ức “kêu trời”, phải
chăng vẫn là những điều có giá trị tham khảo trong việc giải quyết đơn
thư khiếu tố của nhân dân trong xã hội ta ngày nay.
(1) Bùi Hữu Nghĩa
: người làng Bình Thủy, huyện Vĩnh Định, huyện này giữa thế kỷ XIX
thuộc tỉnh An Giang, nay chưa rõ là huyện nào, thuộc tỉnh nào. Ông đỗ
đầu khoa thi Hương năm Ất Mùi, đời Vua Minh Mạng (1835), tại trường thi
Gia Định.
* Bài đăng trong tập sách Những câu chuyện pháp luật thời phong kiến (sách
riêng của tác giả), Nxb. Tư pháp, 2005. Bài có tiêu đề “Những tiếng
chuông, tiếng trống kêu oan”, nhân vụ Tiên Lãng, tác giả đổi lại tiêu đề
như trên để mọi người cùng suy ngẫm.
https://xuandienhannom.blogspot.com/2012/03/vua-tu-uc-bao-ve-dan-lanh-bi-cuong-hao.html
https://xuandienhannom.blogspot.com/2012/03/vua-tu-uc-bao-ve-dan-lanh-bi-cuong-hao.html
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
VUA TỰ ĐỨC BẢO VỆ DÂN LÀNH BỊ CƯỜNG HÀO CƯỚP ĐẤT VÀ QUAN BỊ TRÙ DẬP
Thời phong kiến, cách quản lý xã hội của Nhà nước quan liêu không tránh khỏi tình trạng nhiều người dân và cả một số quan lại bị oan ức. Để góp phần “giải oan”
Bùi Xuân Đính
Thời
phong kiến, cách quản lý xã hội của Nhà nước quan liêu không tránh khỏi
tình trạng nhiều người dân và cả một số quan lại bị oan ức. Để góp phần
“giải oan” cho dân, Nhà nước các thời đã có những biện pháp cho dân
được kêu oan.
- Năm
Nhâm Thìn, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo (1052), Vua Lý Nhân Tông cho đặt
một quả chuông lớn ở sân rồng để ai bị oan ức điều gì được đến đánh
chuông. Vua ra nhận đơn và xét xử.
- Năm
Mậu Dần, niên hiệu Đại Định (1158), theo lời tâu của Nguyễn Quốc vừa đi
sứ ở nước Tống về, Vua Lý Anh Tông cho đặt một cái hòm ở sân rồng để ai
muốn bày tỏ việc gì thì bỏ thư vào hòm ấy. Chỉ trong một tháng, thư kêu
oan đã đầy hòm. Tuy nhiên, trong số thư ấy có cả thư tố cáo quan đại
thần Đỗ Anh Vũ lộng quyền, nên sau đó, hòm thư bị bỏ.
- Năm Ất Tỵ, niên hiệu Bảo Thái (1725), Chúa Trịnh Cương cho yết bảng ở các lỵ sở, ngã ba đường để dân chúng phản ánh điều hay dở, thiện ác của các quan trong địa hạt và nỗi oan của mình.
- Năm Ất Tỵ, niên hiệu Bảo Thái (1725), Chúa Trịnh Cương cho yết bảng ở các lỵ sở, ngã ba đường để dân chúng phản ánh điều hay dở, thiện ác của các quan trong địa hạt và nỗi oan của mình.
- Năm Nhâm Tý, niên hiệu Vĩnh Khánh (1732), Chúa Trịnh Giang lại cho đặt hòm ở phủ chúa để nhận đơn kêu oan của dân.
- Năm
Đinh Mão, niên hiệu Cảnh Hưng (1747), Chúa Trịnh Doanh cho đặt chuông,
mõ ở cổng phủ đường để người nào thấy mình có tài, muốn tự tiến cử thì
đánh chuông và người bị oan ức thì đánh mõ kêu lên. Các khiếu nại phải
được ghi thành văn bản và phong kín để chuyển lên phủ chúa xem xét.
- Năm
Tân Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng (1751), Chúa Trịnh cho phép nhân dân cả
nước được phép viết thư trình bày nỗi oan ức, dán kín dâng lên.
- Ở
Đàng Trong, vào năm Mậu Thân (1788), Chúa Nguyễn Ánh cũng cho đặt một
hòm ở cửa phủ chúa để ai có oan khuất hay bị người khác hãm hại thì viết
đơn trình bày rõ sự việc, ghi rõ họ tên quê quán bỏ vào hòm để tiện tra
xét, người nào bỏ thư nặc danh, vu tội cho người khác thì bị trị tội
nặng.
- Năm
Quý Hợi (1803), Vua Gia Long cho dân từ các trấn Nghệ An ra Bắc ai có
oan khuất thì đến công đường sở tại tâu bày. Đơn thư kêu oan được chuyển
lên vua và văn thần xét đoán, kẻ nào vu cáo, thêu dệt thì bị tội. Năm
sau (Giáp Tý, 1804), theo lời tâu của các quan trấn Bắc Thành, Vua Gia
Long cho dựng nhà coi việc ở cửa Nam thành Thăng Long, cứ năm ngày một
lần, họp quan lại để bàn vịêc; ai có việc gì bị oan ức đã qua ba nha
trấn, phủ, huyện mà chưa được phục tình thì cho đầu đơn để xét cho rõ
lý.
Từ thời
Vua Minh Mạng (1820 - 1841), tại Ty Tam pháp (cơ quan pháp luật cao
nhất của triều đình - gồm ba cơ quan tương đương Viện Kiểm sát, Tòa án
và Bộ Tư pháp hiện nay) có đặt một trống Đăng văn, vào các ngày 6, 16,
và 26 hàng tháng cho phép ai có oan ức được đến đánh trống kêu oan. Quan
Pháp ty ra nhận đơn và xét xử. Còn các ngày khác, ai tự tiện đánh trống
thì coi như phạm tội, dù có bị oan ức đến mấy.
Song
một ngày, không phải là ngày tiếp dân mà bỗng nhiên tại Ty Tam pháp vang
lên những tiếng trống đánh gấp đến “nẫu lòng”. Viên quan trực của Ty
vội chạy ra, thấy một người phụ nữ nước mắt đầm đìa. Theo luật, người
phụ nữ đó bị trói và xét hỏi. Bà ta khai tên là Nguyễn Thị Tồn - vợ Thủ
khoa Bùi Hữu Nghĩa (1) vừa chèo thuyền từ Nam Bộ ra để xin minh oan cho chồng. Đơn kêu oan của bà được đưa ngay lên Vua Tự Đức.
Vua
đọc đơn, thấy lời kêu oan rất thống thiết, nên phê ngay vào đơn và lệnh
cho Ty Tam pháp điều tra ngay và xét nghị. Điều mà bà Nguyễn Thị Tồn
kêu oan lên triều đình là chồng bà, ông Bùi Hữu Nghĩa là Tri phủ phủ
Phước Long, tỉnh Biên Hòa, vốn là người cương trực, đã thẳng tay trừng
trị bọn hào cường ở địa phương ức hiếp dân lành, nên bị chúng trả thù.
Bọn cường hào đã ỷ thế vào viên Tổng đốc Biên Hòa để hòng cướp của những
người dân nghèo một con lạch đã được Vua Gia Long cho phép khai thác,
không phải nộp thuế từ khi Vua mới lên ngôi.
Bùi
Hữu Nghĩa đã đứng về phía những người dân nghèo. Giữa những người dân
và bọn cường hào đã xảy ra xô xát dẫn đến chết người. Một số người bị
bắt vì quá lo sợ nên sau đó đã khai rằng, sở dĩ có chuyện tranh chấp dẫn
đến chết người đó là do Tri phủ Bùi Hữu Nghĩa. Bọn cường hào đã xúi bẩy
viên Tổng đốc sai lính đóng gông Bùi Hữu Nghĩa và cho giải ra Kinh đô
Huế; đồng thời làm Sớ khép ông vào tội “xui dân làm loạn dẫn đến chết
người”.
Trước
nỗi oan ức của chồng, bà Nguyễn Thị Tồn không quản “thân gái dặm
trường”, chèo thuyền từ Biên Hòa ra Huế xin được minh xét cho chồng. Mặc
dù không phải ngày trực của Ty Tam pháp, bà vẫn can đảm đến Ty để “đánh
trống Đăng Văn”. Sau đó, sự thật vụ việc được làm sáng tỏ, Vua Tự Đức
đã phê “Tha tội cho Bùi Hữu Nghĩa, nhưng phải tiền quân hiệu lực, lập công chuộc tội”.; đồng thời, buộc bọn cường hào địa phương phải để yên cho dân cày cấy trên đất mà Vua Gia Long đã cho.
Lời bàn:
Tiếng trống Đăng Văn thời Nguyễn, tiếng chuông, mõ, treo bảng, đặt hòm
nhận đơn… thời Lê - Trịnh, tiếng chuông sân rồng thời Lý v. v. là những
hình thức thích hợp để thần dân và quan lại bị oan ức “kêu trời”, phải
chăng vẫn là những điều có giá trị tham khảo trong việc giải quyết đơn
thư khiếu tố của nhân dân trong xã hội ta ngày nay.
(1) Bùi Hữu Nghĩa
: người làng Bình Thủy, huyện Vĩnh Định, huyện này giữa thế kỷ XIX
thuộc tỉnh An Giang, nay chưa rõ là huyện nào, thuộc tỉnh nào. Ông đỗ
đầu khoa thi Hương năm Ất Mùi, đời Vua Minh Mạng (1835), tại trường thi
Gia Định.
* Bài đăng trong tập sách Những câu chuyện pháp luật thời phong kiến (sách
riêng của tác giả), Nxb. Tư pháp, 2005. Bài có tiêu đề “Những tiếng
chuông, tiếng trống kêu oan”, nhân vụ Tiên Lãng, tác giả đổi lại tiêu đề
như trên để mọi người cùng suy ngẫm.
https://xuandienhannom.blogspot.com/2012/03/vua-tu-uc-bao-ve-dan-lanh-bi-cuong-hao.html
https://xuandienhannom.blogspot.com/2012/03/vua-tu-uc-bao-ve-dan-lanh-bi-cuong-hao.html