Văn Học & Nghệ Thuật
Vài lời tản mạn về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam
Điện thoại: 0166.467.78.26
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng,
Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn
mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể
chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của
Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến
lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là
chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ
Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá
Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn
tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn
trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác
phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng
nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt,
ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa
khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ,
mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm,
thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật
sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng.... Có
lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ
khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần
nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na
ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ
số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná,
trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99
nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả
hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi
tâm ý hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần
dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái
tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà
cụ vẫn cố dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế.
Thứ hai là cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài
thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm
hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo
vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời
bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn Khôi sẽ rõ: /chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html .) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có
điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác
biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm
kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu
danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự
so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”.
Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ
tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất,
khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò
bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không
đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn,
nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động
lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã
tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người
thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa
bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông
Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thị chuyên gia
Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi,
cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be chắn, thiếu tập trung mất
đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”, không
hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt
còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”.
Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời
danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma
chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ
thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy
không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc
biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát
lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được
trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm,
trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một
thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước
Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta
bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời
bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ,
nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì
cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt
sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi
bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm
cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ
Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế
cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy
xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng
tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ
lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”,
“Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/
hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận
Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi
một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận
Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình
Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu
rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng
xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông
không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non
cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế
nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông
chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi
Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì
“mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả
phù dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính
nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những
chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của
Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không
có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ
ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người
bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần
đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào
chân chính làm nên tác phẩm “Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại
cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh”
đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi,
Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù
túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ
lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể,
dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ
hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được “bóng
chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/
tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là
tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm
thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù
mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản
mạn quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền
ngã… Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số
chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn
khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy
chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng
tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện
thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện
thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”,
vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ
đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy
Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi
ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy
Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất
ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con
trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có
làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì
cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi
suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả
đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác
không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người
lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó
là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ... Tính tình/ Bác
là Hồ Chí Minh/ Tỉnh tình đâu mà dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ
vui vui nhưng đọc thấy thô tục vô độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi
vẳng lên câu ca dao “Em xinh lời nói cũng
xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu vè tếu táo mà
Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở dại dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào
thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi các ám ngữ phóng từ tùy tiện này,
nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì
cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa
Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong
ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản
lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì
ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt
vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ
bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất
bã chè thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Chữ “Giả” không đạt lắm. Thực thì Bùi
Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi
sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc
điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng
lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên
cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm
như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời
thường, kẻ đường chợ chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh
Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện
tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những
nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái
đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả
ghép chân dung hai vợ chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm
thiết, nhưng gây cho người ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến
Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình
minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”.
Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm,
thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ”
hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”. Hay sâu
xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần
thơm/chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt phai đi/dẫu chẳng
còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa
bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột này là chân dung
Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”,
“Tâm sự Thúy Kiều” là tượng
đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn
thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi
tiếng này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Đám
cưới không giá thú”, “Bên kia
bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo
đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và
sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn
buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt
kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh
lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết
trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế
thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt
kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá cứ tởm tởm mất
vệ sinh…- Tôi lại lan man quá rồi! Trên các trang mạng nhan nhản phất phới lời
ca lời bình 99 chân dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các nhà uy danh phong “tuyệt
vời”, “Thượng thừa ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất khẩu thành chương”…
“Nguyễn Khôi sáng ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình bàn rất kỹ rất hồn
nhiên, các khuôn dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất miễn bàn. Lẽ ra tôi
định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các
báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có
thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa
mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng
như bài thơ “Văn Thùy dị nhân”
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy
Bùi Giáng là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người
đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục
bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi
Giáng đâu có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác
bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/
Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng.
Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý
phục Ca bình minh của Lý
Phương Liên. Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc
chinh chiến ở chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu” giọng điệu trăn
trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng trải là người
trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện
cõi âm ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng
nhức cho độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh
ra “Chí Phèo đi dự Fet ti van”.
Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái uy quang
của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó
tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm
thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn
tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng
những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho
văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất
thời đua nhau phấn đấu trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học
nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho
ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể
lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là
hai tập sách, một là Giới tính và giáo
dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành
tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta
đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người, giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải
phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy
anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, được viết theo quan
điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp
cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt thế nhưng cũng bị
nhà chức trách thổi còi “đình bản” nhưng không thu hồi. Sách vẫn được truyền
tay tìm đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một
đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời
đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ,
Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn
Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh
chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý
ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở...
Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà
bác Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không
thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá thô, quá trơn tuột.
“Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân
dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để
đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ
hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con
cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ
anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay,
không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh
đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã
hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật,
sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết
tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân
thật/ Thơ ngọt khế sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng,
còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ
kim... Bác Khôi lại cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi
nhân, đã khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái
cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít
nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e không đắt,
không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn
Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bần lâng vô vi thi vị. Với con người
điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy
chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác phẩm nào là “bát phố”, không khéo
người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên
kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không?
Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì
nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững
chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười,
tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời:
- “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà
là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng, tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu:
Giá như thi bá Nguyễn Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút,
tĩnh tâm tận tình mà viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc
ngấm, đọc thấu, đọc trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác
phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà thơ và cũng rất tiếc thay!
*
Khoan Tế, những ngày đầu tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.
Bàn ra tán vào (0)
Vài lời tản mạn về CHÂN DUNG 99 NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng,
Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn
mặt “danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể
chỉ có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của
Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến
lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là
chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ
Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá
Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn
tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn
trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác
phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng
nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt,
ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa
khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ,
mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo ngắm,
thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng, thật
sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng.... Có
lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản kỳ
khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác phần
nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu na
ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu chữ
số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná,
trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99
nhà văn Việt Nam đương đại đã thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả
hạ bút đặt tên Thoáng nét người văn tôi
tâm ý hoặc chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần
dễ cảm hơn. Dù sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái
tuổi lẽ ra cụ cứ ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà
cụ vẫn cố dồn công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế.
Thứ hai là cụ đã hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài
thần thánh” một thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm
hồn khoáng đạt và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo
vệ nhân văn, nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời
bạn đọc tìm đọc tác phẩm của Nguyễn Khôi sẽ rõ: /chan-dung-99-nha-van-viet-nam-uong-ai.html .) Thứ tư, tác giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có
điều kiện, tác phẩm mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác
biệt đặc biệt… mà viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm
kiếm, điểm danh, lựa chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu
danh tài đức, đã có tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự
so sánh đều khập khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”.
Thôi, có nụ mừng nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ
tròn con vuông, đã thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất,
khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò
bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không
đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn,
nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động
lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã
tuyệt rồi (Tự cho mình là Lành/ mọi người
thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.), cả nghĩa đen và nghĩa
bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn mặt. Sự cố “cây táo ông
Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính khách, hung thị chuyên gia
Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho văn nghệ sĩ. Thế là được rồi,
cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be chắn, thiếu tập trung mất
đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết “giấu đi mặt ma chơi”, không
hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on” của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này: “Anh là tháp bai on bốn mặt / giấu ba mặt
còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm đau ba mặt phía ẩn hình”.
Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn hối lỗi, dằn vặt về cái thời
danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm, phật tính chứ đâu phải là “ma
chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ
thể: Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy
không vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc
biệt góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát
lời tuyên ngôn bất hủ “Không giam được
trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam hãm,
trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại một
thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”: “Đồng hồ Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước
Mỹ”, “Bao giờ ta đủ tầm cao/ để ta
bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo bởi cái thời
bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt, Nguyễn Khôi nộ,
nỡm: “Ta cái gì cũng hồng/ đich cái gì
cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”, chỉ một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt
sám sịt tử khí của cái thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi
bật chân dung vững vàng bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm
cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên ngôi” thì hơi quá. Thơ
Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà “xoàng xĩnh” thì hơi oan. “...Ghế
cao anh ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy
xuôi…. “Điếu văn hót tới đỉnh” chứng
tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ
lực và say ghế thì ghế anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”, “mưa Thuận Thành”,
“Hạt mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/
hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận
Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi
một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận
Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình
Bảng buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu
rượu nhà thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng
xuống, đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông
không đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non
cuối bể/ gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế
nhị tinh vi quá! “Váy Đình Bảng buông
chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông bị 8 tháng ngồi
Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4 năm bóc lịch. Thì
“mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông lại “ngây ngất ả
phù dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính
nói tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những
chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của
Trần Dần: “Tôi khóc những chân trời không
có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”. Câu thơ ẩn dụ
ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là thế đấy. Người
bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần
đau đớn xót xa cho thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào
chân chính làm nên tác phẩm “Nhất định thắng... công toi”. Xin thưa! Công không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại
cho đời tác phẩm giá trị. “Cổng tỉnh”
đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi,
Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù
túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ
lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”, người “phu chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể,
dẫu đã nhiều phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ
hiểu và đồng cảm, nắm vững giải mã được “bóng
chữ” của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/
tỉa bay mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là
tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm
thúy gợi mở của Tàu, cái tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù
mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản
mạn quá. Sao mà đủ tài đủ sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền
ngã… Vậy tự thổi còi thư bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số
chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn
khổ khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy
chân tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng
tính” bị đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện
thơ mình”. Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện
thơ” để ghép thành bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”,
vì đây mới là cái chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ
đâu phải là cái góc cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy
Cận, cái thành công vang dội trường tồn của “Lửa thiêng” và “Mỗi
ngày mỗi sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy
Cận là nhà thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất
ngất... Sau này gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con
trai có quan điểm sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có
làm tắt “Lửa thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì
cũng đừng ngạc nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi
suy diễn, áp đặt, chụp mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả
đời thơ ông nổi bật bài “Đêm nay Bác
không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người
lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó
là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ... Tính tình/ Bác
là Hồ Chí Minh/ Tỉnh tình đâu mà dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ
vui vui nhưng đọc thấy thô tục vô độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi
vẳng lên câu ca dao “Em xinh lời nói cũng
xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu vè tếu táo mà
Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở dại dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào
thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi các ám ngữ phóng từ tùy tiện này,
nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì
cái truyện ngắn Con ngựa giá chúa
Trịnh mà mắc nạn, bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong
ông bị tù đày. Ra tù, nhờ Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời” Hậu thế biết cái bản
lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì
ta thấy cái kiếp bèo bọt của thi nhân “dạt
vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ
bản lĩnh nhân văn nhân bản thi sĩ, chứ đâu “quất
bã chè thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả cuồng điên”. Chữ “Giả” không đạt lắm. Thực thì Bùi
Giáng điên điên, điên tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi
sĩ thiên bẩm thiên tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc
điểm là bất thường vô thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng
lâng ảo ảo, cuồng cuồng say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên
cái “Bùi Giáng”, “Trường phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm
như trường hợp Xuân Diệu nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời
thường, kẻ đường chợ chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh
Sài (Thời xa vắng), một Núi (Sóng ở đáy sông). Còn cái chuyện
tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác họa, ký họa, khắc họa những
nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy hướng tới cái có, cái được, cái
đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả
ghép chân dung hai vợ chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm
thiết, nhưng gây cho người ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến
Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình
minh”, “Tâm sự với Thúy Kiều”.
Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà thơ quá nhạy cảm,
thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử với tuyên ngôn “Thơ là thơ không phải địa vị người làm thơ”
hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư tưởng: “Màu đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”. Hay sâu
xa bất hủ như: “Cháy rồi, cháy hết phần
thơm/chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt phai đi/dẫu chẳng
còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ trí tín quá! Tài hoa
bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột này là chân dung
Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”,
“Tâm sự Thúy Kiều” là tượng
đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã say thơ/mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn
thơ” rạng rỡ”. Chỉ là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi
tiếng này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”, “Đám
cưới không giá thú”, “Bên kia
bờ ảo vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo
đa chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và
sợ sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn
buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt
kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh
lẻ vĩ nhân”…Đã tắt kinh, thì hết
trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù” “Tỉnh lẻ vĩ nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế
thời thời thế…Những câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt
kinh tuy đúng, tuy lạ nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá cứ tởm tởm mất
vệ sinh…- Tôi lại lan man quá rồi! Trên các trang mạng nhan nhản phất phới lời
ca lời bình 99 chân dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các nhà uy danh phong “tuyệt
vời”, “Thượng thừa ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất khẩu thành chương”…
“Nguyễn Khôi sáng ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình bàn rất kỹ rất hồn
nhiên, các khuôn dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất miễn bàn. Lẽ ra tôi
định bàn tới các nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các
báo mạng rồi tôi chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có
thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa
mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng
như bài thơ “Văn Thùy dị nhân”
của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy
Bùi Giáng là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người
đời ngộ nhận thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục
bát nhuần nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi
Giáng đâu có giống cái “bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác
bụi bặm rồi cơ mà. Thôi thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi” cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem “thơ bụi” sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân dung 63: “Thơ “trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/
Trả đời cho Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng.
Cụ thể nghĩa đen, sự thực năm 1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý
phục Ca bình minh của Lý
Phương Liên. Anh chép tay cõng trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc
chinh chiến ở chiến trường Nam Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời yêu” giọng điệu trăn
trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau chiêm nghiệm từng trải là người
trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện
cõi âm ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng
nhức cho độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh
ra “Chí Phèo đi dự Fet ti van”.
Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ cái thần thái uy quang
của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng sai về nhà thơ khó
tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo” oan quá, tầm
thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn
tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng
những năm 1990 - 2000 xã hội mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho
văn nghệ sĩ, các nhà văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất
thời đua nhau phấn đấu trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”, “Như có Bác Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học
nhân văn xã hội đỏ chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho
ra đời hàng loạt đầu sách mới lạ (có thể
lên tới hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là
hai tập sách, một là Giới tính và giáo
dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình dục và giới tính. Anh tiếp thu thành
tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở trong nước, nhất là những cái ở ta
đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người, giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải
phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe, sống hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy
anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến giải, được viết theo quan
điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân, của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp
cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng của người Việt thế nhưng cũng bị
nhà chức trách thổi còi “đình bản” nhưng không thu hồi. Sách vẫn được truyền
tay tìm đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần. Đó là cái riêng, khác lạ của một
đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn có giọng văn dáng dấp đương thời
đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố làng tôi, Chuyện của gã Khờ,
Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích, ngay chính lão thi bá Nguyễn
Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh
chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý
ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ như: Bạn Quan, Quê nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở...
Nhất là thơ tình đầy trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà
bác Khôi nhà ta đã nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không
thích/ Thơ như thời trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá thô, quá trơn tuột.
“Buôn sách”, “gà trống nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân
dung, phải chăng chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để
đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ
hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con
cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ
anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay,
không thiếu chất suy tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh
đăng rất nhiều trên báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã
hội. Cuốn Phía sau con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật,
sống động, có chiều sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết
tên”. Ấy thế mà Nguyễn Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân
thật/ Thơ ngọt khế sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng,
còn có cả chua chát đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ
kim... Bác Khôi lại cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi
nhân, đã khắc họa chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương dương cầm/ Nghe mưa trên mái
cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát phố.”. Ba câu đầu ít
nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ tư “Thơ lang thang bát phố” thì e không đắt,
không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn
Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ bần lâng vô vi thi vị. Với con người
điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy
chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác phẩm nào là “bát phố”, không khéo
người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên
kia là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không?
Có cái bìa 2 lạ lắm. Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì
nhỉ?”. Tôi vội mở điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững
chạc lắm. Áo véc tím hồng, khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười,
tay phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời:
- “Ồ không phải là cưỡi ngựa xem hoa mà
là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng, tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu:
Giá như thi bá Nguyễn Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút,
tĩnh tâm tận tình mà viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc
ngấm, đọc thấu, đọc trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác
phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà thơ và cũng rất tiếc thay!
*
Khoan Tế, những ngày đầu tháng 06.2017
NGUYỄN ĐĂNG HÀNH
Địa chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm, tỉnh Hà Nội.