Cà Kê Dê Ngỗng
Về một bài báo thiên vị Trung Quốc
Trong bài bình luận của RSIS, số 88/2014, “Căng thẳng trên Biển Đông: Ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa?”, Sam Bateman cho rằng Trung Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình khi triển khai giàn khoan Haiyang 981
Huy
Duong – Tuan Pham
Đoan Trang:
Vào ngày 15/5/2014, Sam Bateman, nghiên cứu viên cấp cao của Trường
Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS, thuộc Đại học Công nghệ Nanyang,
Singapore), đã có bài phân tích đăng trên Eurasia Review, nhan đề “Công hàm Phạm Văn Đồng làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam”.
Đại ý tác giả cho rằng: Do Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 thừa nhận Hoàng
Sa là của Trung Quốc và từ đó đến năm 1975, Việt Nam cũng không phản đối
gì; cho nên nếu bây giờ Việt Nam đòi chủ quyền đối với Hoàng Sa thì sẽ
yếu thế.
Vài ngày sau đó, hai học giả Việt Nam là TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm
Quang Tuấn đã có bài viết phản bác tác giả Sam Bateman. Hai ông gửi đăng
bài này ở RSIS. Ngày 26/5, RSIS đăng tải bài viết của Dương Danh Huy và
Phạm Quang Tuấn (số thứ tự 99), cùng ngày, đăng luôn một bài viết mới
của Sam Bateman phản biện hai học giả Việt Nam (số thứ tự 100).
Dưới đây là nội dung bài viết của TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn.
Tóm
tắt
Trong bài bình luận của RSIS, số 88/2014, “Căng thẳng
trên Biển Đông: Ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa?”, Sam Bateman cho rằng Trung
Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình khi triển khai giàn khoan Haiyang 981 ở
tọa độ hiện tại. Bài viết của ông không bảo vệ được quan điểm đó và cho thấy một
cái nhìn không công bằng về những mặt mạnh tương đối trong từng trường hợp – Việt
Nam và Trung Quốc.
Bình
luận
Trong bài bình luận gần đây của RSIS, số 88/2014, Sam
Bateman đã nêu ý kiến về tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc xoay quanh việc
Bắc Kinh đặt giàn khoan dầu của họ tại một địa điểm gần Việt Nam. Ông Bateman
cho rằng “giàn khoan nằm ở vị trí chỉ khoảng 14 hải lý tính từ một hòn đảo nhỏ
thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc có yêu sách chủ quyền, và 80 hải lý tính
từ đảo Phú Lâm (Woody Island, thuộc Hoàng Sa – ND), một cấu trúc địa lý lớn, với
diện tích khoảng 500 hecta, mà Trung Quốc đang chiếm hữu”. Câu này có một số lỗi
và thiếu sót, mà tất cả đều thiên về bênh vực Trung Quốc.
Cấu
trúc địa lý gần giàn khoan nhất là đảo Tri Tôn
(Triton, thuộc Hoàng Sa – ND), cách đó 17 hải lý. Chênh lệch giữa con số
14 và
17 hải lý có vẻ nhỏ, tuy nhiên, con số 14 ngụ ý rằng giàn khoan chỉ nằm
ngoài
lãnh hải (territorial waters – vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ
sở – ND) của đảo Tri Tôn có 2 hải lý, trong khi khoảng cách thực sự là
5 hải lý.
Đảo Phú Lâm nằm cách giàn khoan 103 hải lý chứ không phải
80, và diện tích của đảo nhìn chung được ghi nhận là khoảng 200 hecta, thống nhất
với Google Map (bản đồ của Google).
Còn cái thiếu sót ở đây là tác giả đã không đề cập rằng
quần đảo Hoàng Sa là nơi Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Tọa độ của giàn khoan Haiyang 981. Nguồn: CSIS/CNN
Xem
nhẹ các yêu sách của Việt Nam
Tác giả Bateman viết rằng: “Một đường biên giới hàng hải
đã được đàm phán trong khu vực này thì chắc chắn sẽ xác định rằng giàn khoan dầu
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, ngay cả khi những lập luận của
Trung Quốc khẳng định các đặc tính của đảo có kém sức thuyết phục đi chăng nữa”.
Một bài phân tích thận trọng sẽ cho thấy điều ngược lại:
Thứ nhất, cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa; do
đó, sẽ là sai lầm nếu mặc định rằng tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa và phần vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) bao quanh mỗi đảo đều tự nhiên thuộc về Trung Quốc và
đàm phán hay các thủ tục trọng tài đều phải dựa trên cơ sở đó.
Ngay cả trong một trường hợp không có khả năng xảy ra, là
Việt Nam tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa, thì một tòa án trọng tài có
thể cũng sẽ phải ra phán quyết giao khu vực bao quanh giàn khoan cho Việt Nam,
bởi lẽ khoảng cách từ giàn khoan tới đất liền Việt Nam (120 hải lý) chỉ xa hơn
một chút so với khoảng cách từ giàn khoan đến đảo Phú Lâm (103 hải lý). Trong
quá khứ, tại nhiều phiên đàm phán và trọng tài về biên giới trên biển, có những
đảo lớn hơn Hoàng Sa nhiều, nhưng chỉ được tính hệ số nhỏ hơn hoặc bằng 1/3 so
với bờ biển thuộc đất liền. (xem chú
thích)
Trong hiệp định biên giới Vịnh Bắc Bộ (năm 2000), đảo Bạch
Long Vỹ của Việt Nam được hưởng 1/4 hiệu lực. Trong phán quyết năm 2012 của Tòa
án Quốc tế (ICJ) về tranh chấp giữa Nicaragua và Colombia, các đảo của Colombia
được tính cộng thêm 1/4 khoảng cách đến Nicaragua.
Các đảo liên quan trong những trường hợp trên đều có diện
tích từ tương đương cho đến gấp 13 lần diện tích đảo Phú Lâm.
Đảo Tri Tôn nằm gần giàn khoan hơn, nhưng theo Điều 121
UNCLOS, đảo này khó được hưởng quy chế có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), cho nên
việc giàn khoan ở gần nó chẳng có ý nghĩa gì.
Bateman viết rằng “Việt Nam tuyên bố rằng, do giàn khoan ở
gần đất liền của họ hơn gần Trung Quốc và nằm hoàn toàn trong khoảng cách 200 hải
lý tính từ bờ biển Việt Nam, cho nên nó rơi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa Việt Nam… nhưng gần gũi về địa lý không thôi thì không phải là một cơ sở
rõ ràng cho việc ra yêu sách chủ quyền hay quyền chủ quyền”. Đây là một cách mô
tả rối rắm và sai lầm về căn cứ của yêu sách chủ quyền của phía Việt Nam. Sự nhầm
lẫn bắt nguồn từ việc Bateman làm lẫn lộn hai khái niệm “chủ quyền” và “quyền
chủ quyền”.
Thực
sự là có tranh chấp chủ quyền
Quả thật là có tranh chấp chủ quyền, nhưng đó là về quần
đảo Hoàng Sa chứ không phải về khu vực đặt giàn khoan.
Các yêu sách chủ quyền của Việt Nam chưa bao giờ căn cứ
vào chuyện “gần gũi về mặt địa lý”, cho nên lập luận của Bateman về việc các nước có
thể có chủ quyền cả với những cấu trúc địa lý nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của
nước khác, là hoàn toàn chẳng ăn nhập gì.
Còn về những ví dụ mà Bateman đưa ra, về việc có những đường
phân định vùng đặc quyền kinh tế được thiết lập gần một quốc gia nào đó hơn hẳn
quốc gia khác, thì thật ra lập luận này lại là có lợi cho Việt Nam chứ không phải
cho Trung Quốc. Đó là bởi vì, nếu Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc, thì các tiền lệ
đàm phán và trọng tài về phân định vùng đặc quyền kinh tế đều ngả theo hướng ưu
tiên đất liền (trong trường hợp này là Việt Nam) hơn là đảo, như đã trình bày ở
trên. (Xem chú thích)
Bateman coi thường yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, thế nhưng các lập luận của ông lại rất yếu. Đúng là Bắc Việt đã im lặng,
không phát biểu gì về vấn đề chủ quyền, nhưng theo luật pháp quốc tế, đó không
phải là hành vi công nhận. Trong công hàm ngoại giao năm 1958 mà Bateman nhắc đến,
Thủ tướng Bắc Việt lúc đó là ông Phạm Văn Đồng đã không đề cập gì tới Hoàng Sa
hay Trường Sa. Thêm vào đó, miền Nam Việt Nam đã luôn luôn khẳng định và bảo vệ
yêu sách chủ quyền của mình.
Bateman viết, Hoa Kỳ đã công khai hoặc ngấm ngầm công nhận
chủ quyền của Trung Quốc đối với một số hoặc tất cả các hòn đảo thuộc Hoàng Sa,
nhưng ông không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào về việc này. Trên thực tế,
Hoa Kỳ thậm chí còn không công nhận chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đối với lục địa Trung Hoa, cho mãi đến năm 1979. “Bằng chứng” duy nhất (mà
Bateman đưa ra) là các hoạt động của quân Mỹ trong chiến tranh có thể đã bị ảnh
hưởng nếu Bắc Việt chiếm được đảo Phú Lâm, nhưng Bateman cũng không giải thích
được tại sao lại như vậy và cụ thể như thế nào, và ông ta bị nhầm lẫn giữa “chiếm
đóng” và “có chủ quyền”.
Trung
Quốc nên tuân thủ UNCLOS
Bên cạnh lập luận mấu chốt nêu trên, một quan điểm khác của
Bateman, tuy không phải là chính, nhưng cũng có ý bênh vực Trung Quốc, là khi
ông cho rằng Trung Quốc chỉ đang đòi quyền đánh bắt cá truyền thống cho các ngư
dân của họ, trên gần như toàn bộ Biển Đông. Quan điểm này không đả động gì tới
một thực tế gây tranh cãi, là Trung Quốc sử dụng lập luận “các quyền đánh bắt
cá truyền thống” để đòi cả quyền khai thác dầu, mặc dù hai thứ quyền này đã được
Tòa án Quốc tế (ICJ) phán quyết là chẳng liên quan gì, như trong vụ
Lybia-Tunisia.
Kết luận là, có quá nhiều sai lầm, thiếu sót, lập luận yếu
và quan điểm không công bằng trong bài báo của Bateman nhằm bảo vệ luận điểm
gây tranh cãi của ông ta, rằng Trung Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình
khi triển khai giàn khoan Haiyang 981 ở tọa độ hiện tại, hoặc Việt Nam nên đơn
phương từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Vụ giàn khoan Haiyang 981 là một trường hợp các yêu sách
về vùng đặc quyền kinh tế bị chồng lấn. Điều 74 UNCLOS đã quy định về việc các
bên tranh chấp phải giải quyết các vụ việc kiểu này như thế nào, và Điều 74
cũng đã được diễn giải, áp dụng trong phán quyết năm 2007 của Tòa Trọng tài Thường
trực, trong tranh chấp Guyana-Suriname.
TS. Bateman có thể có đóng góp tích cực hơn cho hòa bình
và hợp tác bằng cách khuyến khích Trung Quốc chịu khó tuân theo các thủ tục giải
quyết tranh chấp đã được cụ thể hóa trong UNCLOS.
Chú
thích:
Để hiểu cặn kẽ bài viết này và bút chiến “Dương Danh Huy
và Phạm Quang Tuấn vs. Sam Bateman”, bạn đọc cần có một số kiến thức căn bản về
luật pháp quốc tế liên quan đến biển đảo, như sau:
Theo truyền thống, các đảo đều có nội thủy và lãnh hải
bao quanh. (Như thế nào là đảo, thì dựa vào Điều 121 UNCLOS). Chiều rộng của
lãnh hải, theo Điều 3 UNCLOS, không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Nói cách
khác, đường cơ sở là ranh giới bên trong của lãnh hải, từ đây tính thêm 12 hải
lý thì ra đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải. (Xem ảnh trên)
Bên ngoài lãnh hải của một đảo, là tới vùng tiếp giáp, rồi
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và rộng nhất là thềm lục địa của đảo đó. (Một cấu
trúc địa lý nếu không phải là đảo thì chỉ được có nội thủy và lãnh hải).
Trong công pháp quốc tế liên quan đến xác định biên giới
trên biển, từng có những án lệ theo đó, nếu so giữa bờ biển đất liền và đảo thì
bờ biển đất liền có giá trị hơn là đảo trong việc phân định nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Lý do có thể là bởi các
đảo đó quá nhỏ, không thích hợp cho con người ở…
Áp
dụng vào trong trường hợp Việt Nam hiện nay, theo TS.
Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn: Giàn khoan nằm gần đảo Phú Lâm
(103 hải
lý) hơn là gần đất liền Việt Nam (120 hải lý). Tuy nhiên, xét về hiệu
lực, đảo
Phú Lâm chỉ có hệ số bằng 1/3 hoặc ít hơn nữa, so với (hiệu lực của) bờ
biển đất
liền Việt Nam. Do đó, nếu sử dụng làm cơ sở để phân định vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa... đất liền Việt Nam có giá trị hơn đảo Phú Lâm,
và giàn khoan, ở vị trí hiện tại, phải bị coi là nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (chứ không phải của Hoàng Sa,
cho dù Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc hay Việt Nam thì cũng vậy).
Đoan Trang dịch và chú thích
Đoan Trang dịch và chú thích
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Về một bài báo thiên vị Trung Quốc
Trong bài bình luận của RSIS, số 88/2014, “Căng thẳng trên Biển Đông: Ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa?”, Sam Bateman cho rằng Trung Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình khi triển khai giàn khoan Haiyang 981
Huy
Duong – Tuan Pham
Đoan Trang:
Vào ngày 15/5/2014, Sam Bateman, nghiên cứu viên cấp cao của Trường
Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS, thuộc Đại học Công nghệ Nanyang,
Singapore), đã có bài phân tích đăng trên Eurasia Review, nhan đề “Công hàm Phạm Văn Đồng làm lung lay yêu sách chủ quyền của Việt Nam”.
Đại ý tác giả cho rằng: Do Công hàm Phạm Văn Đồng 1958 thừa nhận Hoàng
Sa là của Trung Quốc và từ đó đến năm 1975, Việt Nam cũng không phản đối
gì; cho nên nếu bây giờ Việt Nam đòi chủ quyền đối với Hoàng Sa thì sẽ
yếu thế.
Vài ngày sau đó, hai học giả Việt Nam là TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm
Quang Tuấn đã có bài viết phản bác tác giả Sam Bateman. Hai ông gửi đăng
bài này ở RSIS. Ngày 26/5, RSIS đăng tải bài viết của Dương Danh Huy và
Phạm Quang Tuấn (số thứ tự 99), cùng ngày, đăng luôn một bài viết mới
của Sam Bateman phản biện hai học giả Việt Nam (số thứ tự 100).
Dưới đây là nội dung bài viết của TS. Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn.
Tóm
tắt
Trong bài bình luận của RSIS, số 88/2014, “Căng thẳng
trên Biển Đông: Ai có chủ quyền đối với Hoàng Sa?”, Sam Bateman cho rằng Trung
Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình khi triển khai giàn khoan Haiyang 981 ở
tọa độ hiện tại. Bài viết của ông không bảo vệ được quan điểm đó và cho thấy một
cái nhìn không công bằng về những mặt mạnh tương đối trong từng trường hợp – Việt
Nam và Trung Quốc.
Bình
luận
Trong bài bình luận gần đây của RSIS, số 88/2014, Sam
Bateman đã nêu ý kiến về tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc xoay quanh việc
Bắc Kinh đặt giàn khoan dầu của họ tại một địa điểm gần Việt Nam. Ông Bateman
cho rằng “giàn khoan nằm ở vị trí chỉ khoảng 14 hải lý tính từ một hòn đảo nhỏ
thuộc quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc có yêu sách chủ quyền, và 80 hải lý tính
từ đảo Phú Lâm (Woody Island, thuộc Hoàng Sa – ND), một cấu trúc địa lý lớn, với
diện tích khoảng 500 hecta, mà Trung Quốc đang chiếm hữu”. Câu này có một số lỗi
và thiếu sót, mà tất cả đều thiên về bênh vực Trung Quốc.
Cấu
trúc địa lý gần giàn khoan nhất là đảo Tri Tôn
(Triton, thuộc Hoàng Sa – ND), cách đó 17 hải lý. Chênh lệch giữa con số
14 và
17 hải lý có vẻ nhỏ, tuy nhiên, con số 14 ngụ ý rằng giàn khoan chỉ nằm
ngoài
lãnh hải (territorial waters – vùng biển rộng 12 hải lý tính từ đường cơ
sở – ND) của đảo Tri Tôn có 2 hải lý, trong khi khoảng cách thực sự là
5 hải lý.
Đảo Phú Lâm nằm cách giàn khoan 103 hải lý chứ không phải
80, và diện tích của đảo nhìn chung được ghi nhận là khoảng 200 hecta, thống nhất
với Google Map (bản đồ của Google).
Còn cái thiếu sót ở đây là tác giả đã không đề cập rằng
quần đảo Hoàng Sa là nơi Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền.
Tọa độ của giàn khoan Haiyang 981. Nguồn: CSIS/CNN
Xem
nhẹ các yêu sách của Việt Nam
Tác giả Bateman viết rằng: “Một đường biên giới hàng hải
đã được đàm phán trong khu vực này thì chắc chắn sẽ xác định rằng giàn khoan dầu
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc, ngay cả khi những lập luận của
Trung Quốc khẳng định các đặc tính của đảo có kém sức thuyết phục đi chăng nữa”.
Một bài phân tích thận trọng sẽ cho thấy điều ngược lại:
Thứ nhất, cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa; do
đó, sẽ là sai lầm nếu mặc định rằng tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa và phần vùng
đặc quyền kinh tế (EEZ) bao quanh mỗi đảo đều tự nhiên thuộc về Trung Quốc và
đàm phán hay các thủ tục trọng tài đều phải dựa trên cơ sở đó.
Ngay cả trong một trường hợp không có khả năng xảy ra, là
Việt Nam tuyên bố từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa, thì một tòa án trọng tài có
thể cũng sẽ phải ra phán quyết giao khu vực bao quanh giàn khoan cho Việt Nam,
bởi lẽ khoảng cách từ giàn khoan tới đất liền Việt Nam (120 hải lý) chỉ xa hơn
một chút so với khoảng cách từ giàn khoan đến đảo Phú Lâm (103 hải lý). Trong
quá khứ, tại nhiều phiên đàm phán và trọng tài về biên giới trên biển, có những
đảo lớn hơn Hoàng Sa nhiều, nhưng chỉ được tính hệ số nhỏ hơn hoặc bằng 1/3 so
với bờ biển thuộc đất liền. (xem chú
thích)
Trong hiệp định biên giới Vịnh Bắc Bộ (năm 2000), đảo Bạch
Long Vỹ của Việt Nam được hưởng 1/4 hiệu lực. Trong phán quyết năm 2012 của Tòa
án Quốc tế (ICJ) về tranh chấp giữa Nicaragua và Colombia, các đảo của Colombia
được tính cộng thêm 1/4 khoảng cách đến Nicaragua.
Các đảo liên quan trong những trường hợp trên đều có diện
tích từ tương đương cho đến gấp 13 lần diện tích đảo Phú Lâm.
Đảo Tri Tôn nằm gần giàn khoan hơn, nhưng theo Điều 121
UNCLOS, đảo này khó được hưởng quy chế có vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), cho nên
việc giàn khoan ở gần nó chẳng có ý nghĩa gì.
Bateman viết rằng “Việt Nam tuyên bố rằng, do giàn khoan ở
gần đất liền của họ hơn gần Trung Quốc và nằm hoàn toàn trong khoảng cách 200 hải
lý tính từ bờ biển Việt Nam, cho nên nó rơi vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa Việt Nam… nhưng gần gũi về địa lý không thôi thì không phải là một cơ sở
rõ ràng cho việc ra yêu sách chủ quyền hay quyền chủ quyền”. Đây là một cách mô
tả rối rắm và sai lầm về căn cứ của yêu sách chủ quyền của phía Việt Nam. Sự nhầm
lẫn bắt nguồn từ việc Bateman làm lẫn lộn hai khái niệm “chủ quyền” và “quyền
chủ quyền”.
Thực
sự là có tranh chấp chủ quyền
Quả thật là có tranh chấp chủ quyền, nhưng đó là về quần
đảo Hoàng Sa chứ không phải về khu vực đặt giàn khoan.
Các yêu sách chủ quyền của Việt Nam chưa bao giờ căn cứ
vào chuyện “gần gũi về mặt địa lý”, cho nên lập luận của Bateman về việc các nước có
thể có chủ quyền cả với những cấu trúc địa lý nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của
nước khác, là hoàn toàn chẳng ăn nhập gì.
Còn về những ví dụ mà Bateman đưa ra, về việc có những đường
phân định vùng đặc quyền kinh tế được thiết lập gần một quốc gia nào đó hơn hẳn
quốc gia khác, thì thật ra lập luận này lại là có lợi cho Việt Nam chứ không phải
cho Trung Quốc. Đó là bởi vì, nếu Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc, thì các tiền lệ
đàm phán và trọng tài về phân định vùng đặc quyền kinh tế đều ngả theo hướng ưu
tiên đất liền (trong trường hợp này là Việt Nam) hơn là đảo, như đã trình bày ở
trên. (Xem chú thích)
Bateman coi thường yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với
Hoàng Sa, thế nhưng các lập luận của ông lại rất yếu. Đúng là Bắc Việt đã im lặng,
không phát biểu gì về vấn đề chủ quyền, nhưng theo luật pháp quốc tế, đó không
phải là hành vi công nhận. Trong công hàm ngoại giao năm 1958 mà Bateman nhắc đến,
Thủ tướng Bắc Việt lúc đó là ông Phạm Văn Đồng đã không đề cập gì tới Hoàng Sa
hay Trường Sa. Thêm vào đó, miền Nam Việt Nam đã luôn luôn khẳng định và bảo vệ
yêu sách chủ quyền của mình.
Bateman viết, Hoa Kỳ đã công khai hoặc ngấm ngầm công nhận
chủ quyền của Trung Quốc đối với một số hoặc tất cả các hòn đảo thuộc Hoàng Sa,
nhưng ông không đưa ra được bằng chứng thuyết phục nào về việc này. Trên thực tế,
Hoa Kỳ thậm chí còn không công nhận chủ quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa đối với lục địa Trung Hoa, cho mãi đến năm 1979. “Bằng chứng” duy nhất (mà
Bateman đưa ra) là các hoạt động của quân Mỹ trong chiến tranh có thể đã bị ảnh
hưởng nếu Bắc Việt chiếm được đảo Phú Lâm, nhưng Bateman cũng không giải thích
được tại sao lại như vậy và cụ thể như thế nào, và ông ta bị nhầm lẫn giữa “chiếm
đóng” và “có chủ quyền”.
Trung
Quốc nên tuân thủ UNCLOS
Bên cạnh lập luận mấu chốt nêu trên, một quan điểm khác của
Bateman, tuy không phải là chính, nhưng cũng có ý bênh vực Trung Quốc, là khi
ông cho rằng Trung Quốc chỉ đang đòi quyền đánh bắt cá truyền thống cho các ngư
dân của họ, trên gần như toàn bộ Biển Đông. Quan điểm này không đả động gì tới
một thực tế gây tranh cãi, là Trung Quốc sử dụng lập luận “các quyền đánh bắt
cá truyền thống” để đòi cả quyền khai thác dầu, mặc dù hai thứ quyền này đã được
Tòa án Quốc tế (ICJ) phán quyết là chẳng liên quan gì, như trong vụ
Lybia-Tunisia.
Kết luận là, có quá nhiều sai lầm, thiếu sót, lập luận yếu
và quan điểm không công bằng trong bài báo của Bateman nhằm bảo vệ luận điểm
gây tranh cãi của ông ta, rằng Trung Quốc đang thực hiện đúng quyền của mình
khi triển khai giàn khoan Haiyang 981 ở tọa độ hiện tại, hoặc Việt Nam nên đơn
phương từ bỏ yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Vụ giàn khoan Haiyang 981 là một trường hợp các yêu sách
về vùng đặc quyền kinh tế bị chồng lấn. Điều 74 UNCLOS đã quy định về việc các
bên tranh chấp phải giải quyết các vụ việc kiểu này như thế nào, và Điều 74
cũng đã được diễn giải, áp dụng trong phán quyết năm 2007 của Tòa Trọng tài Thường
trực, trong tranh chấp Guyana-Suriname.
TS. Bateman có thể có đóng góp tích cực hơn cho hòa bình
và hợp tác bằng cách khuyến khích Trung Quốc chịu khó tuân theo các thủ tục giải
quyết tranh chấp đã được cụ thể hóa trong UNCLOS.
Chú
thích:
Để hiểu cặn kẽ bài viết này và bút chiến “Dương Danh Huy
và Phạm Quang Tuấn vs. Sam Bateman”, bạn đọc cần có một số kiến thức căn bản về
luật pháp quốc tế liên quan đến biển đảo, như sau:
Theo truyền thống, các đảo đều có nội thủy và lãnh hải
bao quanh. (Như thế nào là đảo, thì dựa vào Điều 121 UNCLOS). Chiều rộng của
lãnh hải, theo Điều 3 UNCLOS, không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Nói cách
khác, đường cơ sở là ranh giới bên trong của lãnh hải, từ đây tính thêm 12 hải
lý thì ra đường ranh giới bên ngoài của lãnh hải. (Xem ảnh trên)
Bên ngoài lãnh hải của một đảo, là tới vùng tiếp giáp, rồi
vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), và rộng nhất là thềm lục địa của đảo đó. (Một cấu
trúc địa lý nếu không phải là đảo thì chỉ được có nội thủy và lãnh hải).
Trong công pháp quốc tế liên quan đến xác định biên giới
trên biển, từng có những án lệ theo đó, nếu so giữa bờ biển đất liền và đảo thì
bờ biển đất liền có giá trị hơn là đảo trong việc phân định nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Lý do có thể là bởi các
đảo đó quá nhỏ, không thích hợp cho con người ở…
Áp
dụng vào trong trường hợp Việt Nam hiện nay, theo TS.
Dương Danh Huy và TS. Phạm Quang Tuấn: Giàn khoan nằm gần đảo Phú Lâm
(103 hải
lý) hơn là gần đất liền Việt Nam (120 hải lý). Tuy nhiên, xét về hiệu
lực, đảo
Phú Lâm chỉ có hệ số bằng 1/3 hoặc ít hơn nữa, so với (hiệu lực của) bờ
biển đất
liền Việt Nam. Do đó, nếu sử dụng làm cơ sở để phân định vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa... đất liền Việt Nam có giá trị hơn đảo Phú Lâm,
và giàn khoan, ở vị trí hiện tại, phải bị coi là nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (chứ không phải của Hoàng Sa,
cho dù Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc hay Việt Nam thì cũng vậy).
Đoan Trang dịch và chú thích
Đoan Trang dịch và chú thích