Cà Kê Dê Ngỗng
Về một màn tuồng Tàu độc hại!
Sau những hù dọa sẽ trả đủa nếu phía Mỹ tăng cường hoạt động quân sự trên biển Đông mà không đi đến đâu, thì trong ngày 10 Thảng 3 có tin ngoại trưởng Trung cộng
Phan Nhật Nam
(SBTN)
Sau những hù dọa sẽ trả đủa nếu phía Mỹ tăng cường hoạt động quân sự
trên biển Đông mà không đi đến đâu, thì trong ngày 10 Thảng 3 có tin
ngoại trưởng Trung cộng Vương Nghị đưa ra lời tuyên bố mang tính cách
hòa hoãn là: "Trung Quốc đang “nghiên cứu cơ chế hợp tác tại Biển Ðông
và sẽ sớm giới thiệu chi tiết về cơ chế này".. Sau quá trình "quân sự
hóa Biển Đông" bất chấp mọi cam kết với những quốc gia liên hệ thì nay
Trung cộng lại nói về "cơ chế hợp tác". Mà dẫu cho cơ chế kia nếu được
thành hình thì ông Lý Minh Giang (Li Mingjiang) một giảng viên tại
Trường Nghiên cứu Quốc Tế S. Rajaratnam (RSiS) ở Tân Gia Ba đã có nhận
định: Cơ chế mà Trung Quốc đang “nghiên cứu” và sắp giới thiệu sẽ chỉ
xoay quanh việc hợp tác để bảo vệ môi trường chứ không nhằm hợp tác để
giải quyết vấn đề cốt lõi là chủ quyền tại Biển Ðông.Như thế là thế nào?
Vấn đề chính là ở đâu? Nghĩa là hợp tác giải quyết căng thẳng trên Biển
Đông hay hợp tác để cải thiện môi trường bị suy thoái, hủy hoại? Bình
Luận Đầu Tuần chúng tôi hôm nay tìm hiểu vấn nạn nầy.
Chúng ta đề cập "Cơ chế hợp tác" sẽ có ấy đối với vụ việc trên Biển Đông
trước. Cơ chế nầy được đưa ra sau những vụ các chiến hạm USS Lassen đi
vào vùng Hoàng Sa (10/2015); Curtis Wilbur vào vùng đảo Tri Tôn
(1/31/16), và gần đây là hải đội tác chiến bao gồm Hàng Không Mẫu Hạm
USS Stennis cùng 4 chiến hạm hộ tống đi vào khu vực Trường Sa, bắc của
Phi Luật Tân. Đối ứng lại, tàu chiến Trung cộng chỉ bám sát, theo dõi.
Và những phản kháng từ cơ quan truyền thông nhà nước Bắc Kinh chứ không
có thái độ, hành động nào khác. Đề nghị cơ chế cũng chỉ được giới thiệu
đến sau khi các ngoại trưởng ASEAN bao gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã
Lai, Brunei, Ðài Loan, gần đây có thêm Nam Dương lần đầu tiên đã ra một
tuyên bố chung nhấn mạnh các hoạt động của Trung cộng tại Biển Ðông đang
xói mòn niềm tin, khiến căng thẳng gia tăng, có thể phá hoại hòa bình,
sự ổn định trong khu vực. Tổng hợp hai sự kiện quân sự và chính trị vừa
kể đã cho Bắc Kinh thấy làm cứng không xong, nay là lúc phải tỏ vẻ hòa
hoãn với đề nghị đưa ra một "cơ chế hợp tác".
Trước tiên, có thể đánh giá rằng "Cơ chế hợp tác" nầy không có giá trị
khả thi. Vì báo South China Morning Post đã có nhận định là Trung cộng
sẽ giới thiệu cơ chế “hợp tác tại Biển Ðông” ở buổi lễ kỷ niệm 25 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và ASEAN, để làm ra vẻ có ý
muốn "hợp tác". Nhưng thật ra chỉ "hợp tác" để "hợp pháp hóa" phần đã
lấn chiếm trên Biển Đông từ sự kiện đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH, 1974;
một phần Trường Sa Hoàng Sa, 1988; của Phi Luật Tân (2013). Nói một cách
khác là "hợp thức hóa" 80 % lãnh hải, biển đảo trên Biển Đông, nằm
trong phạm vi của phần lưỡi bò 9 đoạn tự quy định của Bắc Kinh.
Ngoài ra, nếu như phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế La Haye có lợi
cho yêu cầu của Phi Luật Tân, có nghĩa yêu sách vùng 9 đoạn là vi phạm
Công Ứớc Quốc Tế về luật biển, thì lúc ấy Bắc Kinh có thể rút ra khỏi
Công Ước Quốc Tế Luật Biển năm 1982, để khỏi bị ràng buộc bởi những điều
khoản của công ước nầy. Tóm lại sáng kiến đề nghị của Vương Nghị cũng
chỉ là một đòn thử, nhằm đề phòng cho Bắc Kinh mọi hướng tiến tới hoặc
tháo lui.
Nhưng già sử đề nghị của Vương Nghị được đưa ra trước diễn đàn ASEAN thì
điều gì sẽ xẩy ra? Chúng ta cần trở lại nhận định của giảng viên Lý
Minh Giang (Li Mingjiang). Vị giáo sư nầy đánh giá: Cơ chế mà Trung Quốc
đang “nghiên cứu” và sắp giới thiệu sẽ chỉ xoay quanh việc hợp tác để
bảo vệ môi trường, chứ không nhằm hợp tác để giải quyết vấn đề cốt lõi
là chủ quyền tại Biển Ðông.
Cùng với môi trường Biển Đông, nơi vùng Đông Nam Á lưu vực sông Mê Kông,
cuối giòng Cửu Long lại đang trong tình trạng báo động: Chuỗi đập thủy
điện bậc thềm vùng Vân Nam, Trung Hoa với khoảng 14 con đập khổng lồ,
cốt để thực hiện dã tâm lớn nhất của Trung cộng là KHỐNG CHẾ NGUỒN NƯỚC
VĨ ĐẠI của Châu Á phát xuất từ cao nguyên Tây Tạng (Tibet). Chuỗi đập
tiếp gây tác hại ở phía hạ nguồn chảy qua Miến Địện, Lào,Thái, Campuchia
và cuối cùng với Việt Nam trong tất cả các lãnh vực, chứ không chỉ gây
nguồn nước bị nhiễm mặn mà thôi. Đáng sợ nhất là tác hại về mặt MÔI
SINH, do làm thay đổi - đúng ra phải nói làm đảo lộn- môi trường sống
của vạn vật, từ thảo mộc đất đá, đến các loài động vật trên bờ cho đến
thủy sản dưới nước!
Nhà nước Bắc Kinh không chỉ giới hạn trực tiếp gây nên tai hoạ đối với
60 triệu dân sinh sống hai bên bờ Mê Kông- bao gồm 20 triệu dân Việt nơi
Đồng Bằng Sông Cửu Long- mà còn tài trợ tiếp tay cho Lào xây dựng các
đập khổng lồ Xarabury, Don Sahong ở Trung Lào. Chuyên viên Tom Fawthrop
đã chỉ ra mưu định ác độc của người Hoa là: Các đập nầy xét trong nhiều
lãnh vực không có giá trị kinh tế. Thay vì giúp Lào thịnh vượng, nó chỉ
làm nền kinh tế mong manh của xứ sở nầy rơi vào suy kiệt, mang công mắc
nợ nặng nề vì công tác xây dựng được sự cố vấn tồi tệ (của Trung cộng).
Nhưng không phải Lào mang họa một mình. Campuchia sau ngàn năm lập quốc,
năm vừa qua không có mùa nước nổi, vì Biển Hồ khô cạn. Và Việt Nam, nơi
tai họa dần hiện thực không lường, do hạn hán và nhiễm mặm Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Với người nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long đồng
ruộng phì nhiêu và những con sông hiền hòa đầy tôm cá chính là sức mạnh
kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa từ trăm năm qua. Khi các con sông ngày
càng trở nên khô khốc, tôm cá ngày càng ít đi, tức là người dân miền
Tây mất đi hai nguồn lực chính yếu để tồn tại và phát triển. Đó là hạt
lúa và tôm cá.
Trong tương lai rất gần, Việt Nam chắc chắc sẽ không còn là một nước
xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới nếu như Trung cộng tiếp tục hoành
hành, giày xéo Việt Nam bằng nhiều cách như đã và đang thực hiện.
Nhưng người cộng sản cầm quyền nơi Hà Nội không thể nói một lời phản
kháng, thành phần cán bộ điều hành Ủy Ban Sông Mê Kông nơi đường Hàng
Tre Hà Nội có thể không hề biết Sông Cửu Long như thế nào, đang dần cạn
kiệt ra sao? Trong trường hợp nầy, chỉ càng cay đắng để nhắc lại cuốn
"Cửu Long Cạn Giòng-Biển Đông Dậy Sóng" của Nhà Văn Ngô Thế Vinh đã
khẩn thiết viết ra từ mấy mươi năm trước mà chẳng mấy ai nghe! Uát hận
thay và đau đớn thay.
Phan Nhật Nam
(SBTN)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Về một màn tuồng Tàu độc hại!
Sau những hù dọa sẽ trả đủa nếu phía Mỹ tăng cường hoạt động quân sự trên biển Đông mà không đi đến đâu, thì trong ngày 10 Thảng 3 có tin ngoại trưởng Trung cộng
Sau những hù dọa sẽ trả đủa nếu phía Mỹ tăng cường hoạt động quân sự
trên biển Đông mà không đi đến đâu, thì trong ngày 10 Thảng 3 có tin
ngoại trưởng Trung cộng Vương Nghị đưa ra lời tuyên bố mang tính cách
hòa hoãn là: "Trung Quốc đang “nghiên cứu cơ chế hợp tác tại Biển Ðông
và sẽ sớm giới thiệu chi tiết về cơ chế này".. Sau quá trình "quân sự
hóa Biển Đông" bất chấp mọi cam kết với những quốc gia liên hệ thì nay
Trung cộng lại nói về "cơ chế hợp tác". Mà dẫu cho cơ chế kia nếu được
thành hình thì ông Lý Minh Giang (Li Mingjiang) một giảng viên tại
Trường Nghiên cứu Quốc Tế S. Rajaratnam (RSiS) ở Tân Gia Ba đã có nhận
định: Cơ chế mà Trung Quốc đang “nghiên cứu” và sắp giới thiệu sẽ chỉ
xoay quanh việc hợp tác để bảo vệ môi trường chứ không nhằm hợp tác để
giải quyết vấn đề cốt lõi là chủ quyền tại Biển Ðông.Như thế là thế nào?
Vấn đề chính là ở đâu? Nghĩa là hợp tác giải quyết căng thẳng trên Biển
Đông hay hợp tác để cải thiện môi trường bị suy thoái, hủy hoại? Bình
Luận Đầu Tuần chúng tôi hôm nay tìm hiểu vấn nạn nầy.
Chúng ta đề cập "Cơ chế hợp tác" sẽ có ấy đối với vụ việc trên Biển Đông
trước. Cơ chế nầy được đưa ra sau những vụ các chiến hạm USS Lassen đi
vào vùng Hoàng Sa (10/2015); Curtis Wilbur vào vùng đảo Tri Tôn
(1/31/16), và gần đây là hải đội tác chiến bao gồm Hàng Không Mẫu Hạm
USS Stennis cùng 4 chiến hạm hộ tống đi vào khu vực Trường Sa, bắc của
Phi Luật Tân. Đối ứng lại, tàu chiến Trung cộng chỉ bám sát, theo dõi.
Và những phản kháng từ cơ quan truyền thông nhà nước Bắc Kinh chứ không
có thái độ, hành động nào khác. Đề nghị cơ chế cũng chỉ được giới thiệu
đến sau khi các ngoại trưởng ASEAN bao gồm Việt Nam, Phi Luật Tân, Mã
Lai, Brunei, Ðài Loan, gần đây có thêm Nam Dương lần đầu tiên đã ra một
tuyên bố chung nhấn mạnh các hoạt động của Trung cộng tại Biển Ðông đang
xói mòn niềm tin, khiến căng thẳng gia tăng, có thể phá hoại hòa bình,
sự ổn định trong khu vực. Tổng hợp hai sự kiện quân sự và chính trị vừa
kể đã cho Bắc Kinh thấy làm cứng không xong, nay là lúc phải tỏ vẻ hòa
hoãn với đề nghị đưa ra một "cơ chế hợp tác".
Trước tiên, có thể đánh giá rằng "Cơ chế hợp tác" nầy không có giá trị
khả thi. Vì báo South China Morning Post đã có nhận định là Trung cộng
sẽ giới thiệu cơ chế “hợp tác tại Biển Ðông” ở buổi lễ kỷ niệm 25 năm
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và ASEAN, để làm ra vẻ có ý
muốn "hợp tác". Nhưng thật ra chỉ "hợp tác" để "hợp pháp hóa" phần đã
lấn chiếm trên Biển Đông từ sự kiện đánh chiếm Hoàng Sa của VNCH, 1974;
một phần Trường Sa Hoàng Sa, 1988; của Phi Luật Tân (2013). Nói một cách
khác là "hợp thức hóa" 80 % lãnh hải, biển đảo trên Biển Đông, nằm
trong phạm vi của phần lưỡi bò 9 đoạn tự quy định của Bắc Kinh.
Ngoài ra, nếu như phán quyết của Tòa Án Trọng Tài Quốc Tế La Haye có lợi
cho yêu cầu của Phi Luật Tân, có nghĩa yêu sách vùng 9 đoạn là vi phạm
Công Ứớc Quốc Tế về luật biển, thì lúc ấy Bắc Kinh có thể rút ra khỏi
Công Ước Quốc Tế Luật Biển năm 1982, để khỏi bị ràng buộc bởi những điều
khoản của công ước nầy. Tóm lại sáng kiến đề nghị của Vương Nghị cũng
chỉ là một đòn thử, nhằm đề phòng cho Bắc Kinh mọi hướng tiến tới hoặc
tháo lui.
Nhưng già sử đề nghị của Vương Nghị được đưa ra trước diễn đàn ASEAN thì
điều gì sẽ xẩy ra? Chúng ta cần trở lại nhận định của giảng viên Lý
Minh Giang (Li Mingjiang). Vị giáo sư nầy đánh giá: Cơ chế mà Trung Quốc
đang “nghiên cứu” và sắp giới thiệu sẽ chỉ xoay quanh việc hợp tác để
bảo vệ môi trường, chứ không nhằm hợp tác để giải quyết vấn đề cốt lõi
là chủ quyền tại Biển Ðông.
Cùng với môi trường Biển Đông, nơi vùng Đông Nam Á lưu vực sông Mê Kông,
cuối giòng Cửu Long lại đang trong tình trạng báo động: Chuỗi đập thủy
điện bậc thềm vùng Vân Nam, Trung Hoa với khoảng 14 con đập khổng lồ,
cốt để thực hiện dã tâm lớn nhất của Trung cộng là KHỐNG CHẾ NGUỒN NƯỚC
VĨ ĐẠI của Châu Á phát xuất từ cao nguyên Tây Tạng (Tibet). Chuỗi đập
tiếp gây tác hại ở phía hạ nguồn chảy qua Miến Địện, Lào,Thái, Campuchia
và cuối cùng với Việt Nam trong tất cả các lãnh vực, chứ không chỉ gây
nguồn nước bị nhiễm mặn mà thôi. Đáng sợ nhất là tác hại về mặt MÔI
SINH, do làm thay đổi - đúng ra phải nói làm đảo lộn- môi trường sống
của vạn vật, từ thảo mộc đất đá, đến các loài động vật trên bờ cho đến
thủy sản dưới nước!
Nhà nước Bắc Kinh không chỉ giới hạn trực tiếp gây nên tai hoạ đối với
60 triệu dân sinh sống hai bên bờ Mê Kông- bao gồm 20 triệu dân Việt nơi
Đồng Bằng Sông Cửu Long- mà còn tài trợ tiếp tay cho Lào xây dựng các
đập khổng lồ Xarabury, Don Sahong ở Trung Lào. Chuyên viên Tom Fawthrop
đã chỉ ra mưu định ác độc của người Hoa là: Các đập nầy xét trong nhiều
lãnh vực không có giá trị kinh tế. Thay vì giúp Lào thịnh vượng, nó chỉ
làm nền kinh tế mong manh của xứ sở nầy rơi vào suy kiệt, mang công mắc
nợ nặng nề vì công tác xây dựng được sự cố vấn tồi tệ (của Trung cộng).
Nhưng không phải Lào mang họa một mình. Campuchia sau ngàn năm lập quốc,
năm vừa qua không có mùa nước nổi, vì Biển Hồ khô cạn. Và Việt Nam, nơi
tai họa dần hiện thực không lường, do hạn hán và nhiễm mặm Đồng Bằng
Sông Cửu Long. Với người nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long đồng
ruộng phì nhiêu và những con sông hiền hòa đầy tôm cá chính là sức mạnh
kinh tế, đời sống xã hội, văn hóa từ trăm năm qua. Khi các con sông ngày
càng trở nên khô khốc, tôm cá ngày càng ít đi, tức là người dân miền
Tây mất đi hai nguồn lực chính yếu để tồn tại và phát triển. Đó là hạt
lúa và tôm cá.
Trong tương lai rất gần, Việt Nam chắc chắc sẽ không còn là một nước
xuất khẩu gạo đứng nhất, nhì thế giới nếu như Trung cộng tiếp tục hoành
hành, giày xéo Việt Nam bằng nhiều cách như đã và đang thực hiện.
Nhưng người cộng sản cầm quyền nơi Hà Nội không thể nói một lời phản
kháng, thành phần cán bộ điều hành Ủy Ban Sông Mê Kông nơi đường Hàng
Tre Hà Nội có thể không hề biết Sông Cửu Long như thế nào, đang dần cạn
kiệt ra sao? Trong trường hợp nầy, chỉ càng cay đắng để nhắc lại cuốn
"Cửu Long Cạn Giòng-Biển Đông Dậy Sóng" của Nhà Văn Ngô Thế Vinh đã
khẩn thiết viết ra từ mấy mươi năm trước mà chẳng mấy ai nghe! Uát hận
thay và đau đớn thay.
Phan Nhật Nam
(SBTN)