Kinh Khổ
Việt Nam – Cái khổ nạn của một quốc gia nhược tiểu
Quá lo ngại việc Hoa Kỳ và Trung Quốc tranh dành ảnh hưởng, thậm chí là phát động chiến tranh nhằm vào nhau, đe dọa trực tiếp tới Úc Châu, Hungh White đã đề cập giải pháp “xử Hòa” theo đó Hoa Kỳ nên nhượng 3 nước Đông Dương cho Trung Quốc.
Sông Hàn
Quá lo ngại việc Hoa Kỳ và Trung Quốc
tranh dành ảnh hưởng, thậm chí là phát động chiến tranh nhằm vào nhau,
đe dọa trực tiếp tới Úc Châu, Hungh White đã đề cập giải pháp “xử Hòa”
theo đó Hoa Kỳ nên nhượng 3 nước Đông Dương cho Trung Quốc.
Nhượng ở đây là chấp nhận ba nước Đông
Dương trở thành những vệ tinh của Trung Hoa, Hungh White hi vọng với
giải pháp này China sẽ thỏa mãn và quyền lợi của Úc nhờ vậy được bảo
đảm.
Liệt cường trao đổi trên đất Việt Nam
Trong suốt thời cận hiện đại, lịch sử
Việt Nam đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc mua bán, đổi chác của
liệt cường trên chính dải đất chữ S này. Thời Cận đại, khi Trung Quốc
(Thanh triều) và Pháp Quốc đụng nhau trên chiến trường Bắc Kỳ, người ta
đã nghe tới giải pháp: Phân chia vùng đất này thành hai phần, theo đó
Trung Quốc sẽ lấy Bắc Kỳ mỏ còn người Pháp thôn tính Bắc Kỳ gạo.
Rất may mắn cho Việt Nam cả khi đấy và
tương lai trăm năm sau này đó là việc người Pháp đã không nỡ chối bỏ
miếng bánh to. Quân Pháp tấn công quân Thanh trên toàn cõi Bắc Kỳ, hải
chiến nổ ra khắp vùng biển Đông Nam Trung Hoa. Trên chiến trường Bắc Kỳ
quân Thanh đại bại, hạm đội Phúc Kiến cũng bị người Pháp đánh cho tan
nát, lãnh thổ Việt Nam được bảo tồn cho đến ngày nay.
Từ Giơ – ne – vơ (1954) cho chí Thượng
Hải (1972) lần lượt VN DCCH rồi VNCH bị đem ra trao đổi hoặc phó mặc cho
số phận đẩy đưa.
Trong vòng xoáy China
Biển Đông đã nổi sóng gió từ gần bốn
chục năm nay và càng ngày càng xuất hiện nhiều những cuộc đua thể lực,
những cựu thực lực ngày càng quan tâm và thậm chí sẵn sàng can dự vào
khu vực. Còn về phía Việt Nam? Luôn đi sau về mặt nhận thức, Việt Nam
đang phải chịu khuất lấp trước sức mạnh của con Rồng Trung Hoa.
Dư luận nhiều người bày tỏ quan ngại về
việc Chính phủ cộng sản nhượng biển đảo, thậm chí cả đất liền cho Trung
Quốc để đổi lấy quan hệ hữu hảo bốn tốt mười sáu chữ vàng. Thực hư chưa
biết thế nào, nhưng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng nói một cách khách
quan thì vẫn cứ là nỗi nhức nhối khó xử cho Việt Nam.
China hình như không cảm thấy cần có
trách nhiệm với “bạn vàng”, quá thấu hiểu, họ liên tục gia tăng sức ép,
thiết lập nên cái sợi thòng lọng quanh Việt Nam. Càng cố giẫy để cầu
sống thòng lọng đó càng thít chặt lại và có thể nó chỉ lại một lỗ nhỏ
cuống phổi đủ cho Việt Nam sống trong ốm đau, bệnh tật và lệ thuộc.
Gần đây, China đã chơi một nhát dao với
Việt Nam và Phi lộc tân khi Cam Bu Chia nắm giữ chức Chủ tịch ASEAN.
Người Tầu cũng đã tràn lấp Thượng Lào, một phần tới Trung Lào. Lệnh cấm
đánh bắt cá được người Trung Quốc đơn phương ban bố, tàu Hải giám, Ngư
chính của nước này vần vũ trên biển Đông, bắt giữ, đánh đập ngư dân Việt
Nam.
Biên giới trên biển thì đang được người Trung Quốc thiết lập bởi các dàn khoan di động và cả hạm đội hộ tống.
Mối họa về phụ thuộc kinh tế treo lơ
lửng trên đầu mỗi người Việt Nam mà người ta có thể kể ra mấy ví dụ về
nông nghiệp và dệt may. Sản phẩm nông nghiệp liên tục trồi trụt theo giá
thu mua của nhà buôn Trung Quốc, Dệt may thì không hiểu vì lý do gì
toàn bộ nguyên phụ liệu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hàng
madein China. Các nguyên phụ liệu xuất xứ Ấn Độ, Băng La Đét, Indonesia
gần như không có cơ hội cạnh tranh với hàng Trung Quốc.
Không gian văn hóa – chính trị Đông Bắc Á
ngày càng trở nên chật chội, bí bách, lạc hậu và kìm hãm sự phát triển
của Việt Nam (thậm chí ngay cả đối với Trung Quốc). Muốn phát triển,
muốn quốc gia phú cường mà bảo tồn hay cố sống trong không gian này là
điều không thể.
Gồng mình chống đỡ
Điều kỳ lạ là Việt Nam vừa phải gồng
mình chống lại áp lực từ phương Bắc nhưng lại không tỏ ra bất cứ một dấu
hiệu nào cho thấy mình muốn thoát khỏi vòng ảnh hưởng của thế lực ngàn
năm này. Người dân gần như bơ ngơ, rợn ngợp và không có lối thoát khi đi
giữa vòng xoáy Trung Hoa còn Nhà nước thì loay hoay vừa cố gắng chống
đỡ vừa như muốn xin China để yên cho mình sống, cho doanh dự của chính
mình.
“Sơn thủy tương liên
Văn hóa tương đồng
Lý tưởng tương thông
Vận mệnh tương quan”
Mấy câu đó vừa nói lên cái cốt cách của
Văn hóa Đông Bắc Á, vừa có dụ ý cảnh báo Việt Nam về thứ vận mệnh – tồn
vong đã gắn kết hai nhà nước Cộng Sản. Tứ tương (hay 16vàng) này kỳ thực
không khác gì thứ mà người ta gọi là “đồng bệnh tương lân”- Bệnh ngàn
năm của Đông Á.
Mặc thế hai con bệnh này vẫn cứ phải đối
kháng nhau bởi chính danh dự và vị thế chính danh của mỗi đảng cầm
quyền. Trong bối cảnh eo hẹp kinh tế, Việt Nam phải gồng mình chống đỡ,
một loạt doanh nghiệp được khuyến khích sang Lào đầu tư, một số cảng
biển ở miền Trung được khai mở, Cảng Việt Lào (Vũng Áng – Hà Tĩnh) hình
thành cận kề ngay ở khu gang thép Formosa (Kỳ Anh – Hà Tĩnh).
Việt Nam quyết giữ lại Trung và Hạ Lào nhằm bảo đảm chiều sâu phòng thủ của mình.
Hiện giờ đã hình thành các tuyến đường
Quốc lộ 1A (đang nâng cấp mở rộng), đường Hồ Chí Minh, Quốc Lộ ven biển
đang được nối liền (gấp rút thi công kể cả khi kinh tế be bét, xiết chặn
đầu tư công), Đường vành đai biên giới cũng đang được hình thành. Miền
Trung đã có bốn tuyến đường, hình thành bốn tuyến phòng thủ, tiếp cứu và
hỗ trợ lẫn nhau khi có chiến sự. Mới đây một loạt các xã vùng núi của
Nghệ An tập trận (Thường niên).
Một loạt các hợp đồng vũ khí được Việt
Nam ký kêt với Nga nhằm hiện đại hóa Hải Quân và gia tăng khả năng răn
đe trên biển. Tuy nhiên sức mạnh tác chiến thực sự của hệ thống vũ khí
này đặc biệt là của các hộ vệ hạm tên lửa Gepard (nhân tố trung tâm của
hạm đội Việt Nam) vẫn là một dấu hỏi để ngỏ.
Nhưng chừng đấy chưa là gì với sức ép mạnh mẽ từ Trung Quốc.
Sự vụ Hải Dương Thạch Du 981 cho thấy
Việt Nam vô kế khả thi trước thế lực phương bắc này. Lực lượng cảnh sát
biển, Kiểm ngư không thể làm gì hơn ngoài việc đấu công suất loa và chạy
trở về kêu la về việc bị tàu Trung Quốc húc bẹp. Căng thẳng kéo dài đến
giờ mà nói nhiều người đã chán khi nghe nói về đấu tranh trên biển
chống giàn khoan Trung Quốc hạ đặt trái phép.
Vậy ứng xử của các cường quốc thì thế
nào, họ chờ gì ở Việt Nam hay chờ gì ở những động thái tiếp theo của
Trung Quốc? Những điều đó còn để ngỏ.
Anh có thể còn nghèo nhưng anh hành xử
như những kẻ nhược tiểu thì không xứng đáng để có đồng minh tin cậy và
vì thế không chắc đã có thể tự định đoạt được chủ quyền. Cái ước mơ đứng
một mình (độc lập) trong cảnh nghèo mà hạnh phúc chẳng khác gì một thứ
hàng xa xỉ và viển vông.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Vài Chuyện Buồn 30 Tháng 4" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Sinh Nhật Buồn" - by Khuất Đẩu / Trần Văn Giang (ghi lại).
- Sự thật về “Nước mắm Việt Hương” của Tàu (?) - by Kỳ Đỗ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Mỹ và người Việt khác nhau ở chỗ này !" - by Nguyễn Đắc Phúc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Lịch sử và hoài nghi _ Trần Thế Kỷ
Việt Nam – Cái khổ nạn của một quốc gia nhược tiểu
Quá lo ngại việc Hoa Kỳ và Trung Quốc tranh dành ảnh hưởng, thậm chí là phát động chiến tranh nhằm vào nhau, đe dọa trực tiếp tới Úc Châu, Hungh White đã đề cập giải pháp “xử Hòa” theo đó Hoa Kỳ nên nhượng 3 nước Đông Dương cho Trung Quốc.
Sông Hàn
Quá lo ngại việc Hoa Kỳ và Trung Quốc
tranh dành ảnh hưởng, thậm chí là phát động chiến tranh nhằm vào nhau,
đe dọa trực tiếp tới Úc Châu, Hungh White đã đề cập giải pháp “xử Hòa”
theo đó Hoa Kỳ nên nhượng 3 nước Đông Dương cho Trung Quốc.
Nhượng ở đây là chấp nhận ba nước Đông
Dương trở thành những vệ tinh của Trung Hoa, Hungh White hi vọng với
giải pháp này China sẽ thỏa mãn và quyền lợi của Úc nhờ vậy được bảo
đảm.
Liệt cường trao đổi trên đất Việt Nam
Trong suốt thời cận hiện đại, lịch sử
Việt Nam đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc mua bán, đổi chác của
liệt cường trên chính dải đất chữ S này. Thời Cận đại, khi Trung Quốc
(Thanh triều) và Pháp Quốc đụng nhau trên chiến trường Bắc Kỳ, người ta
đã nghe tới giải pháp: Phân chia vùng đất này thành hai phần, theo đó
Trung Quốc sẽ lấy Bắc Kỳ mỏ còn người Pháp thôn tính Bắc Kỳ gạo.
Rất may mắn cho Việt Nam cả khi đấy và
tương lai trăm năm sau này đó là việc người Pháp đã không nỡ chối bỏ
miếng bánh to. Quân Pháp tấn công quân Thanh trên toàn cõi Bắc Kỳ, hải
chiến nổ ra khắp vùng biển Đông Nam Trung Hoa. Trên chiến trường Bắc Kỳ
quân Thanh đại bại, hạm đội Phúc Kiến cũng bị người Pháp đánh cho tan
nát, lãnh thổ Việt Nam được bảo tồn cho đến ngày nay.
Từ Giơ – ne – vơ (1954) cho chí Thượng
Hải (1972) lần lượt VN DCCH rồi VNCH bị đem ra trao đổi hoặc phó mặc cho
số phận đẩy đưa.
Trong vòng xoáy China
Biển Đông đã nổi sóng gió từ gần bốn
chục năm nay và càng ngày càng xuất hiện nhiều những cuộc đua thể lực,
những cựu thực lực ngày càng quan tâm và thậm chí sẵn sàng can dự vào
khu vực. Còn về phía Việt Nam? Luôn đi sau về mặt nhận thức, Việt Nam
đang phải chịu khuất lấp trước sức mạnh của con Rồng Trung Hoa.
Dư luận nhiều người bày tỏ quan ngại về
việc Chính phủ cộng sản nhượng biển đảo, thậm chí cả đất liền cho Trung
Quốc để đổi lấy quan hệ hữu hảo bốn tốt mười sáu chữ vàng. Thực hư chưa
biết thế nào, nhưng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng nói một cách khách
quan thì vẫn cứ là nỗi nhức nhối khó xử cho Việt Nam.
China hình như không cảm thấy cần có
trách nhiệm với “bạn vàng”, quá thấu hiểu, họ liên tục gia tăng sức ép,
thiết lập nên cái sợi thòng lọng quanh Việt Nam. Càng cố giẫy để cầu
sống thòng lọng đó càng thít chặt lại và có thể nó chỉ lại một lỗ nhỏ
cuống phổi đủ cho Việt Nam sống trong ốm đau, bệnh tật và lệ thuộc.
Gần đây, China đã chơi một nhát dao với
Việt Nam và Phi lộc tân khi Cam Bu Chia nắm giữ chức Chủ tịch ASEAN.
Người Tầu cũng đã tràn lấp Thượng Lào, một phần tới Trung Lào. Lệnh cấm
đánh bắt cá được người Trung Quốc đơn phương ban bố, tàu Hải giám, Ngư
chính của nước này vần vũ trên biển Đông, bắt giữ, đánh đập ngư dân Việt
Nam.
Biên giới trên biển thì đang được người Trung Quốc thiết lập bởi các dàn khoan di động và cả hạm đội hộ tống.
Mối họa về phụ thuộc kinh tế treo lơ
lửng trên đầu mỗi người Việt Nam mà người ta có thể kể ra mấy ví dụ về
nông nghiệp và dệt may. Sản phẩm nông nghiệp liên tục trồi trụt theo giá
thu mua của nhà buôn Trung Quốc, Dệt may thì không hiểu vì lý do gì
toàn bộ nguyên phụ liệu gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn hàng
madein China. Các nguyên phụ liệu xuất xứ Ấn Độ, Băng La Đét, Indonesia
gần như không có cơ hội cạnh tranh với hàng Trung Quốc.
Không gian văn hóa – chính trị Đông Bắc Á
ngày càng trở nên chật chội, bí bách, lạc hậu và kìm hãm sự phát triển
của Việt Nam (thậm chí ngay cả đối với Trung Quốc). Muốn phát triển,
muốn quốc gia phú cường mà bảo tồn hay cố sống trong không gian này là
điều không thể.
Gồng mình chống đỡ
Điều kỳ lạ là Việt Nam vừa phải gồng
mình chống lại áp lực từ phương Bắc nhưng lại không tỏ ra bất cứ một dấu
hiệu nào cho thấy mình muốn thoát khỏi vòng ảnh hưởng của thế lực ngàn
năm này. Người dân gần như bơ ngơ, rợn ngợp và không có lối thoát khi đi
giữa vòng xoáy Trung Hoa còn Nhà nước thì loay hoay vừa cố gắng chống
đỡ vừa như muốn xin China để yên cho mình sống, cho doanh dự của chính
mình.
“Sơn thủy tương liên
Văn hóa tương đồng
Lý tưởng tương thông
Vận mệnh tương quan”
Mấy câu đó vừa nói lên cái cốt cách của
Văn hóa Đông Bắc Á, vừa có dụ ý cảnh báo Việt Nam về thứ vận mệnh – tồn
vong đã gắn kết hai nhà nước Cộng Sản. Tứ tương (hay 16vàng) này kỳ thực
không khác gì thứ mà người ta gọi là “đồng bệnh tương lân”- Bệnh ngàn
năm của Đông Á.
Mặc thế hai con bệnh này vẫn cứ phải đối
kháng nhau bởi chính danh dự và vị thế chính danh của mỗi đảng cầm
quyền. Trong bối cảnh eo hẹp kinh tế, Việt Nam phải gồng mình chống đỡ,
một loạt doanh nghiệp được khuyến khích sang Lào đầu tư, một số cảng
biển ở miền Trung được khai mở, Cảng Việt Lào (Vũng Áng – Hà Tĩnh) hình
thành cận kề ngay ở khu gang thép Formosa (Kỳ Anh – Hà Tĩnh).
Việt Nam quyết giữ lại Trung và Hạ Lào nhằm bảo đảm chiều sâu phòng thủ của mình.
Hiện giờ đã hình thành các tuyến đường
Quốc lộ 1A (đang nâng cấp mở rộng), đường Hồ Chí Minh, Quốc Lộ ven biển
đang được nối liền (gấp rút thi công kể cả khi kinh tế be bét, xiết chặn
đầu tư công), Đường vành đai biên giới cũng đang được hình thành. Miền
Trung đã có bốn tuyến đường, hình thành bốn tuyến phòng thủ, tiếp cứu và
hỗ trợ lẫn nhau khi có chiến sự. Mới đây một loạt các xã vùng núi của
Nghệ An tập trận (Thường niên).
Một loạt các hợp đồng vũ khí được Việt
Nam ký kêt với Nga nhằm hiện đại hóa Hải Quân và gia tăng khả năng răn
đe trên biển. Tuy nhiên sức mạnh tác chiến thực sự của hệ thống vũ khí
này đặc biệt là của các hộ vệ hạm tên lửa Gepard (nhân tố trung tâm của
hạm đội Việt Nam) vẫn là một dấu hỏi để ngỏ.
Nhưng chừng đấy chưa là gì với sức ép mạnh mẽ từ Trung Quốc.
Sự vụ Hải Dương Thạch Du 981 cho thấy
Việt Nam vô kế khả thi trước thế lực phương bắc này. Lực lượng cảnh sát
biển, Kiểm ngư không thể làm gì hơn ngoài việc đấu công suất loa và chạy
trở về kêu la về việc bị tàu Trung Quốc húc bẹp. Căng thẳng kéo dài đến
giờ mà nói nhiều người đã chán khi nghe nói về đấu tranh trên biển
chống giàn khoan Trung Quốc hạ đặt trái phép.
Vậy ứng xử của các cường quốc thì thế
nào, họ chờ gì ở Việt Nam hay chờ gì ở những động thái tiếp theo của
Trung Quốc? Những điều đó còn để ngỏ.
Anh có thể còn nghèo nhưng anh hành xử
như những kẻ nhược tiểu thì không xứng đáng để có đồng minh tin cậy và
vì thế không chắc đã có thể tự định đoạt được chủ quyền. Cái ước mơ đứng
một mình (độc lập) trong cảnh nghèo mà hạnh phúc chẳng khác gì một thứ
hàng xa xỉ và viển vông.