Kinh Đời
Ý nghĩa tên của Đức Phật và lời dạy của ngài về cúng dường chân chính
Vào thời Ấn Độ cổ hơn 2500 năm trước đây, ở vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattsu), một vị Hoàng tử đã giáng sinh, được đặt tên là Tất Đạt Đa, họ là Kiều Đạt Ma.
Khi Hoàng tử Tất Đạt Đa lớn lên, ngài cảm động sâu sắc với nỗi khổ đau và sự vô thường của đời người. Vì thế, ngài xuất gia tu hành. Sau này, khi Hoàng tử Tất Đạt Đa khai ngộ, vì muốn chúng sinh được giải thoát khỏi bể khổ, ngài đã đi khắp nơi truyền rộng Phật Pháp.
Người đời tôn ngài là “Phật”. Thế nhân cũng tôn ngài là “Thích Ca Mâu Ni”. Vậy tên của ngài có ý nghĩa là gì và lời chỉ dạy của ngài trước khi nhập niết bàn về cúng dường (cung dưỡng, cung cấp và nuôi dưỡng) chân chính như thế nào?
Nguồn gốc và ý nghĩa của tên “Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) có tên gốc (tên thế tục) là Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa (Gotama Siddhāttha).
Kiều Đạt Ma là họ tộc. Ở Ấn Độ cổ, họ tộc truyền thống là theo họ tộc mẫu hệ. Kiều Đạt Ma là dòng họ thế tục của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong tiếng Phạn, Kiều Đạt Ma có nghĩa là hiền lành, tốt đẹp.
Tất Đạt Đa là tên. Trong tiếng Phạn nó có nghĩa là sự may mắn, cát tường, mang hàm nghĩa là “thành tựu hết thảy”, “hoàn thành trọn vẹn”.
Nguồn gốc và ý nghĩa của tên “Thích Ca Mâu Ni”
Thế nhân tôn ngài là “Thích Ca Mâu Ni”, trong đó “Thích Ca” là bộ tộc của ngài. Trong tiếng Phạn, “Thích Ca” có ý tứ là “văn võ song toàn”. “Mâu Ni” là cách gọi tôn kính của người Ấn Độ cổ đại đối với các bậc Thánh nhân, có hàm ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công”.
Cả tên “Thích Ca Mâu Ni” trong tiếng Phạn có ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công là người tộc Thích Ca”.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo, được các Phật tử xưng là Phật, Thế tôn, Phật Đà có ý chỉ người đã thông qua tu luyện mà giác ngộ.
Khi Phật giáo được truyền nhập vào Trung Quốc, trong triều đại nhà Minh người ta bắt đầu xưng Phật Thích Ca Mâu Ni là “Phật tổ”, tức là người sáng lập Phật giáo.
Thế nào là cúng dường Phật chân chính?
Theo “Trường bộ đệ nhất lục Đại bát niết bàn kinh” và “Trường a hàm đệ nhị Du hành kinh” tiếng Trung ghi chép lại:
Thời điểm, Phật Thích Ca Mâu Ni sắp niết bàn là lúc ngài và chúng tăng đã đi tới thành Câu Thi Na (Kushinagar), nước Mạt La (Malla). Khi ngài đi đến rừng cây Sa La thì không thể đi được nữa, liền lựa chọn chỗ giữa hai cây Sa La trong rừng làm chỗ niết bàn viên tịch.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói đệ tử A Nan chuẩn bị chiếu cho ngài ở giữa hai cây Sa La này. Sau đó, ngài nằm nghiêng thân, đầu hướng về phía bắc, mặt nhìn về phía tây, hai chân đặt chồng nhau. Lúc ấy, tuy rằng không phải mùa nở hoa của cây Sa La nhưng cây Sa la vẫn nở hoa phủ kín cả vùng.
Từ trên cây Sa la, những đóa hoa rơi xuống thân Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngoài hoa Sa La ra, còn có rất nhiều hoa Mạn Đà La và Chiên Đàn Hương từ trong không trung nhẹ nhàng bay tới, dừng ở trên thân ngài. Những cánh hoa ấy cũng phủ đầy mặt đất, bên cạnh thân thể Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích cho đệ tử A Nan về cảnh tượng kỳ lạ này. Ngài nói: “A Nan, đó là một số thiên thần Dạ Xoa hết lòng tín niệm Như Lai sống ở rừng cây Sa La dùng hoa để cung dưỡng ta. Nhưng đây không phải là cung dưỡng Như Lai chân chính.”
Đệ tử A Nan hỏi: “Vậy như thế nào mới được coi là cung dưỡng Như Lai một cách chân chính ạ?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: “Chỉ có giữ gìn chính Pháp, thực hành chính Pháp, tuân theo giới, theo Pháp mà làm mới là cung dưỡng Như Lai chân chính.”
An Hòa (biên dịch và t/h)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Ý nghĩa tên của Đức Phật và lời dạy của ngài về cúng dường chân chính
Vào thời Ấn Độ cổ hơn 2500 năm trước đây, ở vương quốc Ca Tỳ La Vệ (Kapilavattsu), một vị Hoàng tử đã giáng sinh, được đặt tên là Tất Đạt Đa, họ là Kiều Đạt Ma.
Khi Hoàng tử Tất Đạt Đa lớn lên, ngài cảm động sâu sắc với nỗi khổ đau và sự vô thường của đời người. Vì thế, ngài xuất gia tu hành. Sau này, khi Hoàng tử Tất Đạt Đa khai ngộ, vì muốn chúng sinh được giải thoát khỏi bể khổ, ngài đã đi khắp nơi truyền rộng Phật Pháp.
Người đời tôn ngài là “Phật”. Thế nhân cũng tôn ngài là “Thích Ca Mâu Ni”. Vậy tên của ngài có ý nghĩa là gì và lời chỉ dạy của ngài trước khi nhập niết bàn về cúng dường (cung dưỡng, cung cấp và nuôi dưỡng) chân chính như thế nào?
Nguồn gốc và ý nghĩa của tên “Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni) có tên gốc (tên thế tục) là Kiều Đạt Ma. Tất Đạt Đa (Gotama Siddhāttha).
Kiều Đạt Ma là họ tộc. Ở Ấn Độ cổ, họ tộc truyền thống là theo họ tộc mẫu hệ. Kiều Đạt Ma là dòng họ thế tục của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Trong tiếng Phạn, Kiều Đạt Ma có nghĩa là hiền lành, tốt đẹp.
Tất Đạt Đa là tên. Trong tiếng Phạn nó có nghĩa là sự may mắn, cát tường, mang hàm nghĩa là “thành tựu hết thảy”, “hoàn thành trọn vẹn”.
Nguồn gốc và ý nghĩa của tên “Thích Ca Mâu Ni”
Thế nhân tôn ngài là “Thích Ca Mâu Ni”, trong đó “Thích Ca” là bộ tộc của ngài. Trong tiếng Phạn, “Thích Ca” có ý tứ là “văn võ song toàn”. “Mâu Ni” là cách gọi tôn kính của người Ấn Độ cổ đại đối với các bậc Thánh nhân, có hàm ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công”.
Cả tên “Thích Ca Mâu Ni” trong tiếng Phạn có ý chỉ “người cạo đầu xuất gia đã tu hành thành công là người tộc Thích Ca”.
Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni đắc đạo, được các Phật tử xưng là Phật, Thế tôn, Phật Đà có ý chỉ người đã thông qua tu luyện mà giác ngộ.
Khi Phật giáo được truyền nhập vào Trung Quốc, trong triều đại nhà Minh người ta bắt đầu xưng Phật Thích Ca Mâu Ni là “Phật tổ”, tức là người sáng lập Phật giáo.
Thế nào là cúng dường Phật chân chính?
Theo “Trường bộ đệ nhất lục Đại bát niết bàn kinh” và “Trường a hàm đệ nhị Du hành kinh” tiếng Trung ghi chép lại:
Thời điểm, Phật Thích Ca Mâu Ni sắp niết bàn là lúc ngài và chúng tăng đã đi tới thành Câu Thi Na (Kushinagar), nước Mạt La (Malla). Khi ngài đi đến rừng cây Sa La thì không thể đi được nữa, liền lựa chọn chỗ giữa hai cây Sa La trong rừng làm chỗ niết bàn viên tịch.
Phật Thích Ca Mâu Ni nói đệ tử A Nan chuẩn bị chiếu cho ngài ở giữa hai cây Sa La này. Sau đó, ngài nằm nghiêng thân, đầu hướng về phía bắc, mặt nhìn về phía tây, hai chân đặt chồng nhau. Lúc ấy, tuy rằng không phải mùa nở hoa của cây Sa La nhưng cây Sa la vẫn nở hoa phủ kín cả vùng.
Từ trên cây Sa la, những đóa hoa rơi xuống thân Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngoài hoa Sa La ra, còn có rất nhiều hoa Mạn Đà La và Chiên Đàn Hương từ trong không trung nhẹ nhàng bay tới, dừng ở trên thân ngài. Những cánh hoa ấy cũng phủ đầy mặt đất, bên cạnh thân thể Đức Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích cho đệ tử A Nan về cảnh tượng kỳ lạ này. Ngài nói: “A Nan, đó là một số thiên thần Dạ Xoa hết lòng tín niệm Như Lai sống ở rừng cây Sa La dùng hoa để cung dưỡng ta. Nhưng đây không phải là cung dưỡng Như Lai chân chính.”
Đệ tử A Nan hỏi: “Vậy như thế nào mới được coi là cung dưỡng Như Lai một cách chân chính ạ?”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trả lời rằng: “Chỉ có giữ gìn chính Pháp, thực hành chính Pháp, tuân theo giới, theo Pháp mà làm mới là cung dưỡng Như Lai chân chính.”
An Hòa (biên dịch và t/h)