Nhân Vật
“Hai ông anh” và Việt Nam: Từ lịch sử đến hiện thực (Phần 3)
Ảnh hưởng của “hai ông anh” vẫn tiếp tục diễn ra ở Việt Nam, có lúc nghiêng về Trung Quốc, tuy Hà Nội luôn cố gắng cân bằng hai mối quan hệ đó. Các nhà lãnh đạo VNDCCH đã bắt đầu nghi ngờ về mục tiêu của Bắc Kinh
Lê Mai/ Blog Lê Mai
Xem:“Hai ông anh” và Việt Nam: Từ lịch sử đến hiện thực kì 1& 2
(còn tiếp)
Theo blog Lê Mai
Lê Mai/ Blog Lê Mai
Hình sưu tầm Internet |
Cuộc đại luận chiến giữa “hai ông anh”
được đẩy tới cao trào khi Trung Quốc tung ra “Những kiến nghị về đường
lối chung của phong trào Cộng sản quốc tế”, trình bày 25 ý kiến của ĐCS
Trung Quốc, thường được gọi tắt là “25 điều”. Nó chính là bức thư của
“ông anh Hai” trả lời bức thư ngày 30.3.1963 của “ông anh Cả”.
Nguyên đây là bài viết có tên “Kiểu
Trương Nhiếp Lâm ” của Trần Bá Đạt – một trong những lý luận gia xuất
sắc nhất của ĐCS Trung Quốc. Trương Nhiếp Lâm là danh thủ bóng bàn Trung
Quốc rất giỏi trong việc phòng thủ, đỡ, gạt, có thể cứu được các kiểu
bóng hiểm, bay lắt léo mà đối phương tung ra, khác Trang Tắc Đống – một
danh thủ bóng bàn Trung Quốc khác, rất giỏi tấn công nhanh. Trần Bá Đạt
đã đọc được ý tứ sâu xa của Mao khi ông ta chỉ thị khởi thảo bức thư trả
lời: “Cái mà ta cần là kiểu Trương Nhiếp Lâm, không cần kiểu của Trang
Tắc Đống”. Bài viết “Kiểu Trương Nhiếp Lâm ” của Trần Bá Đạt rất được
Mao và BCT tán thưởng.
Mao yêu cầu gửi bài viết cho Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành để trưng cầu ý kiến.
“Ông anh Cả” lập tức phản ứng. Báo chí
Liên Xô nhằm thẳng vào “25 điều” của Trung Quốc để phê phán. Đồng thời,
liên tục phát đi các bài xã luận: “ĐCS Liên Xô giương cao ngọn cờ vĩ đại
của chủ nghĩa Lênin”; “Sự nhất trí không gì phá vỡ nổi giữa Đảng và
nhân dân”; “Chúng ta trung thành với chủ nghĩa Lênin”…”Ông anh Hai” đấu
lại bằng cách tung ra liên tiếp 9 bài bình luận nổi tiếng – tức “cửu
bình”.
Trong khi “hai ông anh” đang ra sức chửi
nhau bằng đủ các loại các ngôn từ, cuộc chiến tranh ở Việt Nam xuất hiện
bước ngoặt mới. Ngày 5.8.1964, xẩy ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, Quốc hội
Hoa Kỳ, với số phiếu tuyệt đối, nhất trí thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc
Bộ, cho phép Tổng thống Johnson, với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội,
“thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm đánh lui mọi hành động tấn công
vũ trang chống các lực lượng Hoa Kỳ và ngăn ngừa những hành động xâm
lăng khác”.
Trung Quốc, với âm mưu “đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng” và tạo ra vùng đệm an toàn ở phía Nam, nhanh chóng
ra tuyên bố: “Nước VNDCCH là một thành viên của phe XHCN, không một nước
XHCN nào có thể ngồi nhìn Việt Nam bị xâm lược. Mỹ xâm phạm nước VNDCCH
tức là xâm phạm Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc quyết không thể khoanh
tay ngồi nhìn”.
Các cuộc mít tinh khổng lồ, có từ hàng
vạn đến gần một triệu người liên tiếp được tổ chức tại Bắc Kinh, ủng hộ
Việt Nam, lên án Mỹ. Mao, Lưu, Chu, Chu, Đặng đều lên thành lầu Thiên An
Môn, cùng với quần chúng nhân dân “hét vang các khẩu hiệu chống Mỹ”.
Gặp gỡ Hồ Chí Minh, Mao nói:
- Hồ Chủ tịch, đồng chí đến từ Việt Nam,
tôi ở Hồ Nam, chúng ta người một nhà cả ! Có khó khăn gì ? Cần người có
người, cần vật có vật, đồng chí đừng khách sáo.
Một đoàn đại biểu cấp cao khác, do Lê
Duẩn và Võ Nguyên Giáp dẫn đầu, đã đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Quốc gia
tăng viện trợ, cử sang Việt Nam lính công binh, lính đường sắt, bộ đội
pháo cao xạ. Võ Nguyên Giáp hai lần hội đàm với La Thụy Khanh, Tổng tham
mưu trưởng và Dương Thành Vũ, Phó Tổng tham mưu trưởng, bàn việc giải
quyết các vấn đề cụ thể.
Thi hành chính sách “đứng giữa” của mình,
Việt Nam đã hết sức khôn khéo và linh hoạt để “hai ông anh” không phật ý
và đều sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến với người Mỹ.
Về phía “ông anh Cả” Liên Xô, viện trợ
kinh tế và quân sự cho Việt Nam được tăng đều đặn từ năm 1965 đến 1968.
Liên Xô gửi tới Bắc Việt Nam các thiết bị công nghiệp, viễn thông, xe
tải, trang thiết bị y tế, máy móc công cụ…Thời gian đầu, viện trợ của
Liên Xô cho Việt Nam ít hơn của Trung Quốc. Đến năm 1967, toàn bộ viện
trợ các nước XHCN cho Việt Nam đạt khoảng 1,5 tỷ đô la.
Liên Xô cố gắng đáp ứng yêu của của Việt
Nam bằng cách cung cấp nhiều loại vũ khí và đạn dược nhằm bảo vệ VNDCCH
trước các đợt không kích của Mỹ và tăng cường khả năng phòng không của
Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất có thể kể tới là tên lửa “đất đối không”,
máy bay phản lực chiến đấu, súng phòng không và các trang thiết bị phòng
không khác. Tháng 7.1965, tên lửa “đất đối không” đã hạ một chiếc F4C
trên bầu trời gần Hà Nội. Các vũ khí phòng không của Liên Xô đã trở
thành những nỗi ám ảnh thường trực đối với chỉ huy và binh sỹ Hoa Kỳ
trong các chiến dịch không kích trên bầu trời Bắc Việt Nam.
Liên Xô còn đào tạo cho Việt Nam hàng
ngàn sỹ quan để phục vụ cho ngành không quân và phòng không. Con trai
các ông Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn là Võ Điện Biên và Lê Kiên Thành đã
từng học ngành kỹ thuật hàng không ở Liên Xô.
Giúp Việt Nam chống lại người Mỹ, các nhà
lãnh đạo Liên Xô không chỉ nhìn ở các lợi ích chính trị, tư tưởng mà
còn lưu tâm tới các cơ hội thử nghiệm vũ khí trên chiến trường, thu thập
thông tin vũ khí mới nhất của Mỹ qua chiến lợi phẩm. Một hiệp định với
Hà Nội đã được ký kết, Mátxcơva yêu cầu Hà Nội thu thập, đánh giá những
mẫu vũ khí, trang bị quân sự Mỹ và một nhóm chuyên gia quân sự được gửi
tới Việt Nam. Họ có nhiệm vụ thu thập các bộ phận máy bay Mỹ bị bắn rơi,
các vũ khí khác thu được, kiểm tra những trường hợp vũ khí Liên Xô
không hoạt động tốt và gửi những đánh giá, kết luận về Liên Xô. Từ tháng
5.1965 đến đầu năm 1967, các chuyên gia đặc biệt của Liên Xô đã chuyển
về Mátxcơva hơn 700 mẫu các trang thiết bị quân sự Mỹ, gồm những bộ phận
của máy bay phản lực, tên lửa, ra đa và trang thiết bị thám ảnh.
Hoạt động này tỏ ra rất có hiệu quả. Các
chuyên gia Liên Xô tìm ra các phương pháp bảo vệ Bắc Việt Nam thoát khỏi
không kích của Mỹ. Chẳng hạn, việc cải tiến hệ thống Dvina đã bắn rơi
máy bay F111A của Mỹ mà tốc độ bay lên tới 3.700 km/giờ.
Bây giờ, ta lại đến với “ông anh Hai”. Hà
Nội đã phản đối những đề nghị của Bắc Kinh đòi gửi thêm quân tới lãnh
thổ Việt Nam, ngoại trừ lính công binh và đường sắt. Nếu chấp nhận điều
đó, có nghĩa là Hà Nội phải phụ thuộc nhiều hơn vào Bắc Kinh – điều mà
các nhà lãnh đạo VNDCCH không mong muốn. Song, các nhà lãnh đạo Bắc Việt
Nam rất thận trọng để giữ quan hệ với người hàng xóm khổng lồ phương
Bắc. Một khối lượng lớn hàng viện trợ từ các nước khác, kể cả Liên Xô
phải đi qua lãnh thổ Trung Quốc, mỗi tháng từ 8 đến 9 ngàn tấn. Làm sao
để không bị cắt đứt kênh phân phối này là vấn đề rất quan trọng, bởi khi
cần, Trung Quốc sẽ dễ dàng giở trò. Hãy đọc một chuyện ông Trần Đĩnh kể
lại trong Đèn cù: “Do tên lửa Liên Xô gửi cho Việt Nam qua đất
Trung Quốc đã bị Trung Quốc giữ lại đòi khám và “áp tống” sang Việt
Nam. Biết Trung Quốc muốn đánh cắp bí mật làm tên lửa, Liên Xô phản đối.
Cuối cùng, 28 Tết âm lịch Đinh Mùi, Cụ Hồ đành cử Lê Thanh Nghị sang
cầu khẩn Mao cho gặp. Nghị nói thưa Chủ tịch, lẽ ra Hồ Chủ tịch chúng
tôi sang gặp Chủ tịch nhưng Hồ Chủ tịch chúng tôi sức yếu không thể đi.
Mao bèn hỏi: “Sao mà yếu?” – “Dạ, Hồ Chủ tịch chúng tôi quá lo lắng vì
máy bay Mỹ đánh phá ác liệt mà chúng tôi thì hết tên lửa do Trung Quốc
và Liên Xô chưa thoả thuận được việc chuyển tên lửa.” Mao nói ngay: “Ồ,
tưởng gì chứ thế thì dễ.” Quay sang Chu Ân Lai: “Tổng lý giải quyết việc
này để cho Hồ Chủ tịch chóng khoẻ lại”.
Ảnh hưởng của “hai ông anh” vẫn tiếp tục
diễn ra ở Việt Nam, có lúc nghiêng về Trung Quốc, tuy Hà Nội luôn cố
gắng cân bằng hai mối quan hệ đó. Các nhà lãnh đạo VNDCCH đã bắt đầu
nghi ngờ về mục tiêu của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Hợp tác với Mátxcơva sẽ
tạo cho Hà Nội một cơ hội thoát khỏi sự bảo trợ quá đáng của Trung Quốc
và có được một vị trí độc lập hơn trong quan hệ với Bắc Kinh.
Theo blog Lê Mai
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
“Hai ông anh” và Việt Nam: Từ lịch sử đến hiện thực (Phần 3)
Ảnh hưởng của “hai ông anh” vẫn tiếp tục diễn ra ở Việt Nam, có lúc nghiêng về Trung Quốc, tuy Hà Nội luôn cố gắng cân bằng hai mối quan hệ đó. Các nhà lãnh đạo VNDCCH đã bắt đầu nghi ngờ về mục tiêu của Bắc Kinh
Lê Mai/ Blog Lê Mai
Xem:“Hai ông anh” và Việt Nam: Từ lịch sử đến hiện thực kì 1& 2
(còn tiếp)
Theo blog Lê Mai
Hình sưu tầm Internet |
Cuộc đại luận chiến giữa “hai ông anh”
được đẩy tới cao trào khi Trung Quốc tung ra “Những kiến nghị về đường
lối chung của phong trào Cộng sản quốc tế”, trình bày 25 ý kiến của ĐCS
Trung Quốc, thường được gọi tắt là “25 điều”. Nó chính là bức thư của
“ông anh Hai” trả lời bức thư ngày 30.3.1963 của “ông anh Cả”.
Nguyên đây là bài viết có tên “Kiểu
Trương Nhiếp Lâm ” của Trần Bá Đạt – một trong những lý luận gia xuất
sắc nhất của ĐCS Trung Quốc. Trương Nhiếp Lâm là danh thủ bóng bàn Trung
Quốc rất giỏi trong việc phòng thủ, đỡ, gạt, có thể cứu được các kiểu
bóng hiểm, bay lắt léo mà đối phương tung ra, khác Trang Tắc Đống – một
danh thủ bóng bàn Trung Quốc khác, rất giỏi tấn công nhanh. Trần Bá Đạt
đã đọc được ý tứ sâu xa của Mao khi ông ta chỉ thị khởi thảo bức thư trả
lời: “Cái mà ta cần là kiểu Trương Nhiếp Lâm, không cần kiểu của Trang
Tắc Đống”. Bài viết “Kiểu Trương Nhiếp Lâm ” của Trần Bá Đạt rất được
Mao và BCT tán thưởng.
Mao yêu cầu gửi bài viết cho Hồ Chí Minh và Kim Nhật Thành để trưng cầu ý kiến.
“Ông anh Cả” lập tức phản ứng. Báo chí
Liên Xô nhằm thẳng vào “25 điều” của Trung Quốc để phê phán. Đồng thời,
liên tục phát đi các bài xã luận: “ĐCS Liên Xô giương cao ngọn cờ vĩ đại
của chủ nghĩa Lênin”; “Sự nhất trí không gì phá vỡ nổi giữa Đảng và
nhân dân”; “Chúng ta trung thành với chủ nghĩa Lênin”…”Ông anh Hai” đấu
lại bằng cách tung ra liên tiếp 9 bài bình luận nổi tiếng – tức “cửu
bình”.
Trong khi “hai ông anh” đang ra sức chửi
nhau bằng đủ các loại các ngôn từ, cuộc chiến tranh ở Việt Nam xuất hiện
bước ngoặt mới. Ngày 5.8.1964, xẩy ra “sự kiện Vịnh Bắc Bộ”, Quốc hội
Hoa Kỳ, với số phiếu tuyệt đối, nhất trí thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc
Bộ, cho phép Tổng thống Johnson, với tư cách là Tổng Tư lệnh quân đội,
“thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhằm đánh lui mọi hành động tấn công
vũ trang chống các lực lượng Hoa Kỳ và ngăn ngừa những hành động xâm
lăng khác”.
Trung Quốc, với âm mưu “đánh Mỹ đến người
Việt Nam cuối cùng” và tạo ra vùng đệm an toàn ở phía Nam, nhanh chóng
ra tuyên bố: “Nước VNDCCH là một thành viên của phe XHCN, không một nước
XHCN nào có thể ngồi nhìn Việt Nam bị xâm lược. Mỹ xâm phạm nước VNDCCH
tức là xâm phạm Trung Quốc, nhân dân Trung Quốc quyết không thể khoanh
tay ngồi nhìn”.
Các cuộc mít tinh khổng lồ, có từ hàng
vạn đến gần một triệu người liên tiếp được tổ chức tại Bắc Kinh, ủng hộ
Việt Nam, lên án Mỹ. Mao, Lưu, Chu, Chu, Đặng đều lên thành lầu Thiên An
Môn, cùng với quần chúng nhân dân “hét vang các khẩu hiệu chống Mỹ”.
Gặp gỡ Hồ Chí Minh, Mao nói:
- Hồ Chủ tịch, đồng chí đến từ Việt Nam,
tôi ở Hồ Nam, chúng ta người một nhà cả ! Có khó khăn gì ? Cần người có
người, cần vật có vật, đồng chí đừng khách sáo.
Một đoàn đại biểu cấp cao khác, do Lê
Duẩn và Võ Nguyên Giáp dẫn đầu, đã đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Quốc gia
tăng viện trợ, cử sang Việt Nam lính công binh, lính đường sắt, bộ đội
pháo cao xạ. Võ Nguyên Giáp hai lần hội đàm với La Thụy Khanh, Tổng tham
mưu trưởng và Dương Thành Vũ, Phó Tổng tham mưu trưởng, bàn việc giải
quyết các vấn đề cụ thể.
Thi hành chính sách “đứng giữa” của mình,
Việt Nam đã hết sức khôn khéo và linh hoạt để “hai ông anh” không phật ý
và đều sẵn sàng viện trợ cho Việt Nam trong cuộc chiến với người Mỹ.
Về phía “ông anh Cả” Liên Xô, viện trợ
kinh tế và quân sự cho Việt Nam được tăng đều đặn từ năm 1965 đến 1968.
Liên Xô gửi tới Bắc Việt Nam các thiết bị công nghiệp, viễn thông, xe
tải, trang thiết bị y tế, máy móc công cụ…Thời gian đầu, viện trợ của
Liên Xô cho Việt Nam ít hơn của Trung Quốc. Đến năm 1967, toàn bộ viện
trợ các nước XHCN cho Việt Nam đạt khoảng 1,5 tỷ đô la.
Liên Xô cố gắng đáp ứng yêu của của Việt
Nam bằng cách cung cấp nhiều loại vũ khí và đạn dược nhằm bảo vệ VNDCCH
trước các đợt không kích của Mỹ và tăng cường khả năng phòng không của
Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất có thể kể tới là tên lửa “đất đối không”,
máy bay phản lực chiến đấu, súng phòng không và các trang thiết bị phòng
không khác. Tháng 7.1965, tên lửa “đất đối không” đã hạ một chiếc F4C
trên bầu trời gần Hà Nội. Các vũ khí phòng không của Liên Xô đã trở
thành những nỗi ám ảnh thường trực đối với chỉ huy và binh sỹ Hoa Kỳ
trong các chiến dịch không kích trên bầu trời Bắc Việt Nam.
Liên Xô còn đào tạo cho Việt Nam hàng
ngàn sỹ quan để phục vụ cho ngành không quân và phòng không. Con trai
các ông Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn là Võ Điện Biên và Lê Kiên Thành đã
từng học ngành kỹ thuật hàng không ở Liên Xô.
Giúp Việt Nam chống lại người Mỹ, các nhà
lãnh đạo Liên Xô không chỉ nhìn ở các lợi ích chính trị, tư tưởng mà
còn lưu tâm tới các cơ hội thử nghiệm vũ khí trên chiến trường, thu thập
thông tin vũ khí mới nhất của Mỹ qua chiến lợi phẩm. Một hiệp định với
Hà Nội đã được ký kết, Mátxcơva yêu cầu Hà Nội thu thập, đánh giá những
mẫu vũ khí, trang bị quân sự Mỹ và một nhóm chuyên gia quân sự được gửi
tới Việt Nam. Họ có nhiệm vụ thu thập các bộ phận máy bay Mỹ bị bắn rơi,
các vũ khí khác thu được, kiểm tra những trường hợp vũ khí Liên Xô
không hoạt động tốt và gửi những đánh giá, kết luận về Liên Xô. Từ tháng
5.1965 đến đầu năm 1967, các chuyên gia đặc biệt của Liên Xô đã chuyển
về Mátxcơva hơn 700 mẫu các trang thiết bị quân sự Mỹ, gồm những bộ phận
của máy bay phản lực, tên lửa, ra đa và trang thiết bị thám ảnh.
Hoạt động này tỏ ra rất có hiệu quả. Các
chuyên gia Liên Xô tìm ra các phương pháp bảo vệ Bắc Việt Nam thoát khỏi
không kích của Mỹ. Chẳng hạn, việc cải tiến hệ thống Dvina đã bắn rơi
máy bay F111A của Mỹ mà tốc độ bay lên tới 3.700 km/giờ.
Bây giờ, ta lại đến với “ông anh Hai”. Hà
Nội đã phản đối những đề nghị của Bắc Kinh đòi gửi thêm quân tới lãnh
thổ Việt Nam, ngoại trừ lính công binh và đường sắt. Nếu chấp nhận điều
đó, có nghĩa là Hà Nội phải phụ thuộc nhiều hơn vào Bắc Kinh – điều mà
các nhà lãnh đạo VNDCCH không mong muốn. Song, các nhà lãnh đạo Bắc Việt
Nam rất thận trọng để giữ quan hệ với người hàng xóm khổng lồ phương
Bắc. Một khối lượng lớn hàng viện trợ từ các nước khác, kể cả Liên Xô
phải đi qua lãnh thổ Trung Quốc, mỗi tháng từ 8 đến 9 ngàn tấn. Làm sao
để không bị cắt đứt kênh phân phối này là vấn đề rất quan trọng, bởi khi
cần, Trung Quốc sẽ dễ dàng giở trò. Hãy đọc một chuyện ông Trần Đĩnh kể
lại trong Đèn cù: “Do tên lửa Liên Xô gửi cho Việt Nam qua đất
Trung Quốc đã bị Trung Quốc giữ lại đòi khám và “áp tống” sang Việt
Nam. Biết Trung Quốc muốn đánh cắp bí mật làm tên lửa, Liên Xô phản đối.
Cuối cùng, 28 Tết âm lịch Đinh Mùi, Cụ Hồ đành cử Lê Thanh Nghị sang
cầu khẩn Mao cho gặp. Nghị nói thưa Chủ tịch, lẽ ra Hồ Chủ tịch chúng
tôi sang gặp Chủ tịch nhưng Hồ Chủ tịch chúng tôi sức yếu không thể đi.
Mao bèn hỏi: “Sao mà yếu?” – “Dạ, Hồ Chủ tịch chúng tôi quá lo lắng vì
máy bay Mỹ đánh phá ác liệt mà chúng tôi thì hết tên lửa do Trung Quốc
và Liên Xô chưa thoả thuận được việc chuyển tên lửa.” Mao nói ngay: “Ồ,
tưởng gì chứ thế thì dễ.” Quay sang Chu Ân Lai: “Tổng lý giải quyết việc
này để cho Hồ Chủ tịch chóng khoẻ lại”.
Ảnh hưởng của “hai ông anh” vẫn tiếp tục
diễn ra ở Việt Nam, có lúc nghiêng về Trung Quốc, tuy Hà Nội luôn cố
gắng cân bằng hai mối quan hệ đó. Các nhà lãnh đạo VNDCCH đã bắt đầu
nghi ngờ về mục tiêu của Bắc Kinh ở Đông Nam Á. Hợp tác với Mátxcơva sẽ
tạo cho Hà Nội một cơ hội thoát khỏi sự bảo trợ quá đáng của Trung Quốc
và có được một vị trí độc lập hơn trong quan hệ với Bắc Kinh.
Theo blog Lê Mai