Thân Hữu Tiếp Tay...
17/2/1979 - Bài học mà những người Cộng Sản dạy cho nhau.- Mai Tú Ân
( HNPD ) Sau khi thống nhất đất nước 1975 thì Ban Lãnh Đạo của Việt Nam đã như đi trên mây trên gió.
1
( HNPD ) Sau
khi thống nhất đất nước 1975 thì Ban Lãnh Đạo của Việt Nam đã như đi
trên mây trên gió. Được sự khuyến khích hào phóng của các đàn anh thì
mặc dù quốc gia đang đói ăn từng bữa nhưng vũ khí trang thiết bị chiến
tranh thì lại thừa thãi và hiện đại vô cùng.
Cùng
với suy nghĩ rằng hành động bạo lực xâm lược các quốc gia yếu đuối để mở
rộng khối CS như Liên Xô đang làm với Apganistand thì việc Việt Nam cần
lấy điểm, lấy thành tích với anh lớn Liên Xô. Và thế là việc ông bạn
láng giềng Camphuchia Dân Chủ, đàn em của Trung Cộng đang gây rối nơi
biên giới sẽ trở thành một cái thủ cấp cần có để Việt Nam dâng tặng và
báo điểm cho đàn anh Liêm Xô của mình. Thời của nước Camphuchia dân chủ
cộng sản cùng số phận đen đủi của Pôn Pốt đã điểm. Lại là một quốc gia
CS đàn em của CS TQ nên khi có xích mích thì CS Camphuchia phải chết.
Và
chết thảm vì chính là các quốc gia CS với nhau mà họ mới đánh nhau tàn
bạo như những phường thảo khấu lục lâm như vậy. Nếu thực sự là những
quốc gia dân chủ thì sẽ có nhiều sự ngăn cản để không dẫn đến chiến
tranh. Hoặc nếu có chiến tranh thì hẳn nó sẽ nhẹ nhàng hơn bởi dù gì thì
cũng chỉ là dạy bảo nhau. Nhưng đây là sự trừng phạt của những người
Cộng Sản nên sẽ có hết những đòn tận diệt, sẽ có hết mọi sự giết người
tàn bạo, sự trả thù ghê gớm nhất.
Nhưng
đáng lẽ cuộc chiến tàn bạo ngày 17/2/1979 cùng 10 năm chiến tranh sau
đó giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể không xảy ra. Hàng vạn nam thanh
nữ tú của chúng ta, những chàng trai cô gái trong lòng vẫn còn rộn ràng
yêu đương thuở mới lớn có thể đã không phải bỏ mạng oan uổng như họ đã
từng bỏ xuống ở biên giới nếu như chúng ta có được những người lãnh đạo
nhân văn hơn, yêu quí mạng sống của người dân hơn. Nhưng lấy đâu ra
những phẩm chất ấy trong những người lãnh đạo CS VN lúc đó. Những người
lãnh đạo như như TBT Lê Duẩn đã nói :”Chúng ta chiến đấu cho Liên Xô….”
Nhưng chúng ta đã không có những nhà lãnh đạo tốt hơn, thương dân hơn
mà chỉ có những ông lãnh tụ, tướng tá mặt sắt đen sì, coi chiến tranh
như dịp may để hoạn lộ đi lên, coi việc ngã xuống của bao người lính là
những món quà chết chóc của tình hữu nghị đồng chí. Và thế là chiến
cuộc đã xảy ra...
Cùng
với sự giải mã ở nhiều luồng, cùng với thời gian lần trôi, thì sự thật
của những ngày tháng ấy mới dần sáng tỏ. Ở thượng tầng kiến trúc, nơi
các lãnh tụ CS vạch kế hoạch thì toàn những âm mưu đen tối bẩn thỉu,
những kế sách hành binh lạnh lùng trước bao mạng người. Còn nơi chiến
trường ác nghiệt thì mọi biện pháp giết người khủng khiếp nhất đều được
tung ra với những người vốn là đồng chí, là anh em trên tinh thần vô
sản. Giết chóc, hãm hiếp, chôn sống, dùng mìn giật sập giết cả dân
thường…Không biện pháp nào dù tàn bạo tới đâu mà các phe phái không làm.
Và thật khủng khiếp khi đó mới chỉ là sự dạy và học giữa các quốc gia
Cộng Sản với nhau.
Trở
lại với cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, nhìn qua bản đồ diễn tiến trận
đánh tròn một tháng 2/1979 ta thấy rõ ràng đây không phải là một cuộc
chiến tranh với mục đích tối hậu là xâm chiếm đất đai, lãnh thổ. Với lực
lượng quân sự hoàn toàn áp đảo cùng với sự cung ứng đầy đủ của phần đất
nhà mà quân Trung Quốc có được thì họ hoàn toàn thảnh thơi cho công
việc chiến sự. Bởi lẽ phần hậu phương với phần tiền tuyến của kẻ thù
chỉ vỏn vẹn hơn 100 km theo đường chim bay. Và thủ đô của Việt Nam cũng
nằm trong mức ấy và với lực lượng quân sự hai bên như thế thì Trung Cộng
có thể kéo chiến sự về tới Hà Nội nếu họ muốn.
Các
lực lượng khác của Trung Cộng như Hải Quân, Không Quân cũng không tham
gia để chứng tỏ vai trò đàn anh của mình, cũng như cho Hà Nội thấy đây
chỉ là đòn trừng phạt không hơn không kém. Nó cũng cho thấy, đàn anh
Trung Cộng ra đòn trừng phạt thằng em mất dạy Việt Nam là có kiểm soát,
tăng giảm hay lên xuống tùy theo mức độ biết điều của đối tượng. Nhẹ
nhàng thì chỉ là những đòn tấn công dọc biên giới, ăn sâu vào vài cây
số. Còn ương bướng nặng nề thì là những cuộc tấn công vào sâu hơn trong
lãnh thổ, nơi có các thị xã quan trọng của Việt Nam. Tóm lại thì Trung
Cộng đã rất rõ ràng khi ra roi, và cái bàn tọa của thằng em Việt Nam sẽ
lãnh đủ nhiều hay ít roi tùy theo thái độ biết điều hay không.
Qua
những lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình khi đi thăm Mỹ cùng thời điểm thì
đây chỉ là một cuộc chiến có mục đích dạy bảo nhau, có giới hạn thời
gian là 1 tháng, có giới hạn không gian là tuyệt đối không đưa chiến
tranh đến Hà Nội cũng như không tàn phá các công trình không ở chiến
trường, ý nói Trung Cộng sẽ không dùng không quân hay tên lửa. Vậy mà
Việt Nam lại choáng váng và bất ngờ hoàn toàn. Ban lãnh đạo Việt Nam lúc
đầu thì ngạo mạn tin tưởng rằng không bao giờ Trung Quốc động binh đánh
Việt Nam. Rồi khi Trung Quốc động binh, tấn công Việt Nam thì lại hoảng
hốt cho rằng Trung Quốc muốn xâm lược chứ không phải chỉ dạy bảo khiến
cho công cuộc phòng thủ trở nên bất nhất tai hại. Sự hoảng hốt bao trùm
với những động thái tuyệt vọng như Tổng Động Viên, tổ chức di vào miền
Nam và miền Trung, cất giấu đi những sư đoàn tốt nhất không đưa ra trận
mà giữ lại làm lực lượng trù bị. Khiến cho chỉ có một điều sáng đẹp duy
nhất trong trận chiến Biên Giới Phía Bắc này là tinh thần anh dũng vô
song, chiến đấu tới chết của các lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa
phương.Không có viện binh, cũng không có lệnh rút, các đơn vị nửa vũ
trang này đã phải chiến đấu tuyệt vọng với các lực lượng áp đảo và bị
tiêu diệt hết trong những cái hang cố thủ cuối cùng.
Một
tháng chiến tranh, ngó lên phía Bắc thì ông anh Liên Xô chỉ giúp đỡ
bằng mồm và hy vọng Liên Xô động binh đánh nhau để cứu mình thì chỉ là
nằm mơ giữa ban ngày. Và khi quân đội Trung Cộng đã bắt đầu tấn công đợt
hai mạnh mẽ hơn và chiếm nhiều vùng quan trọng trong đó có các thị xã
lớn như Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn thì ban lãnh đạo thời đó mới thấy
hoảng hồn. Hà Nội như thất thủ, Ba Đình rúng động chuẩn bị ban hành rời
Kinh. Thi hài lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã được bí mật rời khỏi thủ đô Hà
Nội để "Hành Phương Nam". Các cơ quan trọng yếu cũng ùn ùn sơ tán về
cùng một hướng ngược với chiến trường phía Bắc. Các đơn vị thiện chiến
được điều từ miền Nam và Camphuchia về thì chỉ lập phòng tuyến cố thủ
quanh Hà Nội. Nhiều chiến sĩ của các đơn vị quân chủ lực không bắn được
một phát súng nào về phía kẻ thù. Tất cả đều đẩy lực lượng dân quân và
các đơn vị quân sự tại chỗ, khiến cho họ tử trận gần hết. Cuộc chiến
trong một tháng trời đó là một cuộc chiến lạ đời khi vừa chiến đấu, vừa
làm sao cho kẻ thù biết rằng ta đã không chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ
quốc. Các cuộc chiến với cấp sư đoàn không có. Lực lượng Không quân,
mặc dù vẫn bay đi tham chiến ở Camphuchia nhưng lại không hề bỏ một quả
bom nào xuống đầu quân Trung Quốc.
Thế
rồi cũng hạ màn. Trong ngày ông TBT Lê Duẩn đọc lời hiệu triệu toàn dân
về việc Tổ Quốc Lâm Nguy, ông đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc lời Tổng
Động Viên thì cùng ngày ông Đặng Tiểu Bình tuyên bố đã dạy xong bài học
cho Việt Nam và ra lệnh rút quân. Vậy Việt Nam ta đã làm gì cho cái tình
huống chiến tranh không giống ai đó. Một chiến lược gia quân sự người
Đức đã nói :”Nếu một cuộc chiến tranh không có mục đích gì, không lợi
lộc gì thì không nên có cuộc chiến tranh ấy”.
Rõ
ràng cuộc chiến bắt đầu từ ngày 17/2/1979 và kéo dài 10 năm sau đó của
Việt Nam với Trung Cộng chẳng có lợi ích gì. Nó chẳng chứng tỏ cái gì,
chẳng cho ai cái gì mà thiệt hại thì khó bù đắp nổi. Dù đã bao năm trôi
qua thì những thiệt hại nhìn thấy được lẫn không nhìn thấy được vẫn ám
ảnh chúng ta mãi. Chỉ vì những thói ngông nghênh, phản trắc của một vài
nhà chính trị Việt Nam mà quân đội và nhân dân Việt Nam lại vướng vào
một cuộc chiến mới, “Lưỡng Đầu Thọ Địch” khiến cho người dân Việt Nam,
vốn đã đau khổ vì 20 năm chiến tranh rồi, nay lại đau khổ tiếp vì 10
chiến tranh nữa. Biên giới phía Bắc lại đồng hành với biên giới phía Tây
Nam rơi vào một cuộc chiến tranh đẫm máu, kéo dài cả một thập niên khói
lửa mịt mù. Một cuộc chiến tàn bạo đi trọn một thập niên để rồi lại trở
vị trí cũ, tang thương và đau khổ.
Giờ
đây thì ngay cả những vị tướng, những người tham chiến trong hai cuộc
chiến đó đều phải thừa nhận sự sai lầm, ngu xuẩn của ban lãnh đạo hồi đó
qua các cuốn hồi ký. Nhưng còn có hàng vạn con người ưu tú hơn đã không
viết hồi ký, là những chàng trai cô gái mà những đôi mắt trong veo chỉ
mơ đến tình yêu đôi lứa đã phải khép lại vĩnh viễn bởi sự ngu xuẩn đó
của ban lãnh đạo. Họ đã phải chết. Chết vì sự ngạo mạn, vì bè lũ phe
phái của những kẻ cầm đầu họ…
Câu
chuyện tang thương lịch sử của cái ngày 17/2 đau buồn đó vẫn còn y
nguyên vẹn chẳng học hay dạy được bài học nào. Mối quan hệ đồng chí anh
em đó đã đi một vòng tử sinh dài dằng dặc, từ cái ngày muốn quên
17/2/1979 đó kéo dài một thập niên chết chóc rồi lại trở về như cũ không
suy chuyển. Kẻ thù ngày ấy vẫn là kẻ thù như cũ, còn lãnh đạo dân tộc
Việt Nam giờ đây vẫn là những con người thoái thai từ những kẻ ngu xuẩn
ngày xưa…
Than ôi ! Hàng
vạn chiến binh của chúng ta đã chết khi đầu vẫn còn xanh trong quên lãng
thì những kẻ gây nên bao cái chết đó lại ra đi khi đã trăm tuổi trên
giường êm nệm ấm với vợ con và được muôn dân than khóc. Khi cái ngày
đáng nguyền rủa 17/2 đến thì chúng ta chỉ còn biết run run thắp những
nén nhang với niềm uất ức câm nín để tưởng nhớ bao chiến sĩ đã ra đi
không về trong mùa Xuân tang thương ấy.
Trong đêm khuya ai gào trong gió,
Tiếng ai hờ nấc nghẹn cả dòng sông
Ai đi về trong đêm đông buốt giá
Để ai buồn với nỗi nhớ mênh mông...
Mai Tú Ân ( HNPĐ )
Mai Tú Ân ( HNPĐ )
17/2/1979 - Bài học mà những người Cộng Sản dạy cho nhau.- Mai Tú Ân
( HNPD ) Sau khi thống nhất đất nước 1975 thì Ban Lãnh Đạo của Việt Nam đã như đi trên mây trên gió.
1
( HNPD ) Sau
khi thống nhất đất nước 1975 thì Ban Lãnh Đạo của Việt Nam đã như đi
trên mây trên gió. Được sự khuyến khích hào phóng của các đàn anh thì
mặc dù quốc gia đang đói ăn từng bữa nhưng vũ khí trang thiết bị chiến
tranh thì lại thừa thãi và hiện đại vô cùng.
Cùng
với suy nghĩ rằng hành động bạo lực xâm lược các quốc gia yếu đuối để mở
rộng khối CS như Liên Xô đang làm với Apganistand thì việc Việt Nam cần
lấy điểm, lấy thành tích với anh lớn Liên Xô. Và thế là việc ông bạn
láng giềng Camphuchia Dân Chủ, đàn em của Trung Cộng đang gây rối nơi
biên giới sẽ trở thành một cái thủ cấp cần có để Việt Nam dâng tặng và
báo điểm cho đàn anh Liêm Xô của mình. Thời của nước Camphuchia dân chủ
cộng sản cùng số phận đen đủi của Pôn Pốt đã điểm. Lại là một quốc gia
CS đàn em của CS TQ nên khi có xích mích thì CS Camphuchia phải chết.
Và
chết thảm vì chính là các quốc gia CS với nhau mà họ mới đánh nhau tàn
bạo như những phường thảo khấu lục lâm như vậy. Nếu thực sự là những
quốc gia dân chủ thì sẽ có nhiều sự ngăn cản để không dẫn đến chiến
tranh. Hoặc nếu có chiến tranh thì hẳn nó sẽ nhẹ nhàng hơn bởi dù gì thì
cũng chỉ là dạy bảo nhau. Nhưng đây là sự trừng phạt của những người
Cộng Sản nên sẽ có hết những đòn tận diệt, sẽ có hết mọi sự giết người
tàn bạo, sự trả thù ghê gớm nhất.
Nhưng
đáng lẽ cuộc chiến tàn bạo ngày 17/2/1979 cùng 10 năm chiến tranh sau
đó giữa Việt Nam và Trung Quốc có thể không xảy ra. Hàng vạn nam thanh
nữ tú của chúng ta, những chàng trai cô gái trong lòng vẫn còn rộn ràng
yêu đương thuở mới lớn có thể đã không phải bỏ mạng oan uổng như họ đã
từng bỏ xuống ở biên giới nếu như chúng ta có được những người lãnh đạo
nhân văn hơn, yêu quí mạng sống của người dân hơn. Nhưng lấy đâu ra
những phẩm chất ấy trong những người lãnh đạo CS VN lúc đó. Những người
lãnh đạo như như TBT Lê Duẩn đã nói :”Chúng ta chiến đấu cho Liên Xô….”
Nhưng chúng ta đã không có những nhà lãnh đạo tốt hơn, thương dân hơn
mà chỉ có những ông lãnh tụ, tướng tá mặt sắt đen sì, coi chiến tranh
như dịp may để hoạn lộ đi lên, coi việc ngã xuống của bao người lính là
những món quà chết chóc của tình hữu nghị đồng chí. Và thế là chiến
cuộc đã xảy ra...
Cùng
với sự giải mã ở nhiều luồng, cùng với thời gian lần trôi, thì sự thật
của những ngày tháng ấy mới dần sáng tỏ. Ở thượng tầng kiến trúc, nơi
các lãnh tụ CS vạch kế hoạch thì toàn những âm mưu đen tối bẩn thỉu,
những kế sách hành binh lạnh lùng trước bao mạng người. Còn nơi chiến
trường ác nghiệt thì mọi biện pháp giết người khủng khiếp nhất đều được
tung ra với những người vốn là đồng chí, là anh em trên tinh thần vô
sản. Giết chóc, hãm hiếp, chôn sống, dùng mìn giật sập giết cả dân
thường…Không biện pháp nào dù tàn bạo tới đâu mà các phe phái không làm.
Và thật khủng khiếp khi đó mới chỉ là sự dạy và học giữa các quốc gia
Cộng Sản với nhau.
Trở
lại với cuộc chiến ở biên giới phía Bắc, nhìn qua bản đồ diễn tiến trận
đánh tròn một tháng 2/1979 ta thấy rõ ràng đây không phải là một cuộc
chiến tranh với mục đích tối hậu là xâm chiếm đất đai, lãnh thổ. Với lực
lượng quân sự hoàn toàn áp đảo cùng với sự cung ứng đầy đủ của phần đất
nhà mà quân Trung Quốc có được thì họ hoàn toàn thảnh thơi cho công
việc chiến sự. Bởi lẽ phần hậu phương với phần tiền tuyến của kẻ thù
chỉ vỏn vẹn hơn 100 km theo đường chim bay. Và thủ đô của Việt Nam cũng
nằm trong mức ấy và với lực lượng quân sự hai bên như thế thì Trung Cộng
có thể kéo chiến sự về tới Hà Nội nếu họ muốn.
Các
lực lượng khác của Trung Cộng như Hải Quân, Không Quân cũng không tham
gia để chứng tỏ vai trò đàn anh của mình, cũng như cho Hà Nội thấy đây
chỉ là đòn trừng phạt không hơn không kém. Nó cũng cho thấy, đàn anh
Trung Cộng ra đòn trừng phạt thằng em mất dạy Việt Nam là có kiểm soát,
tăng giảm hay lên xuống tùy theo mức độ biết điều của đối tượng. Nhẹ
nhàng thì chỉ là những đòn tấn công dọc biên giới, ăn sâu vào vài cây
số. Còn ương bướng nặng nề thì là những cuộc tấn công vào sâu hơn trong
lãnh thổ, nơi có các thị xã quan trọng của Việt Nam. Tóm lại thì Trung
Cộng đã rất rõ ràng khi ra roi, và cái bàn tọa của thằng em Việt Nam sẽ
lãnh đủ nhiều hay ít roi tùy theo thái độ biết điều hay không.
Qua
những lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình khi đi thăm Mỹ cùng thời điểm thì
đây chỉ là một cuộc chiến có mục đích dạy bảo nhau, có giới hạn thời
gian là 1 tháng, có giới hạn không gian là tuyệt đối không đưa chiến
tranh đến Hà Nội cũng như không tàn phá các công trình không ở chiến
trường, ý nói Trung Cộng sẽ không dùng không quân hay tên lửa. Vậy mà
Việt Nam lại choáng váng và bất ngờ hoàn toàn. Ban lãnh đạo Việt Nam lúc
đầu thì ngạo mạn tin tưởng rằng không bao giờ Trung Quốc động binh đánh
Việt Nam. Rồi khi Trung Quốc động binh, tấn công Việt Nam thì lại hoảng
hốt cho rằng Trung Quốc muốn xâm lược chứ không phải chỉ dạy bảo khiến
cho công cuộc phòng thủ trở nên bất nhất tai hại. Sự hoảng hốt bao trùm
với những động thái tuyệt vọng như Tổng Động Viên, tổ chức di vào miền
Nam và miền Trung, cất giấu đi những sư đoàn tốt nhất không đưa ra trận
mà giữ lại làm lực lượng trù bị. Khiến cho chỉ có một điều sáng đẹp duy
nhất trong trận chiến Biên Giới Phía Bắc này là tinh thần anh dũng vô
song, chiến đấu tới chết của các lực lượng dân quân tự vệ và bộ đội địa
phương.Không có viện binh, cũng không có lệnh rút, các đơn vị nửa vũ
trang này đã phải chiến đấu tuyệt vọng với các lực lượng áp đảo và bị
tiêu diệt hết trong những cái hang cố thủ cuối cùng.
Một
tháng chiến tranh, ngó lên phía Bắc thì ông anh Liên Xô chỉ giúp đỡ
bằng mồm và hy vọng Liên Xô động binh đánh nhau để cứu mình thì chỉ là
nằm mơ giữa ban ngày. Và khi quân đội Trung Cộng đã bắt đầu tấn công đợt
hai mạnh mẽ hơn và chiếm nhiều vùng quan trọng trong đó có các thị xã
lớn như Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn thì ban lãnh đạo thời đó mới thấy
hoảng hồn. Hà Nội như thất thủ, Ba Đình rúng động chuẩn bị ban hành rời
Kinh. Thi hài lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng đã được bí mật rời khỏi thủ đô Hà
Nội để "Hành Phương Nam". Các cơ quan trọng yếu cũng ùn ùn sơ tán về
cùng một hướng ngược với chiến trường phía Bắc. Các đơn vị thiện chiến
được điều từ miền Nam và Camphuchia về thì chỉ lập phòng tuyến cố thủ
quanh Hà Nội. Nhiều chiến sĩ của các đơn vị quân chủ lực không bắn được
một phát súng nào về phía kẻ thù. Tất cả đều đẩy lực lượng dân quân và
các đơn vị quân sự tại chỗ, khiến cho họ tử trận gần hết. Cuộc chiến
trong một tháng trời đó là một cuộc chiến lạ đời khi vừa chiến đấu, vừa
làm sao cho kẻ thù biết rằng ta đã không chiến đấu hết mình để bảo vệ tổ
quốc. Các cuộc chiến với cấp sư đoàn không có. Lực lượng Không quân,
mặc dù vẫn bay đi tham chiến ở Camphuchia nhưng lại không hề bỏ một quả
bom nào xuống đầu quân Trung Quốc.
Thế
rồi cũng hạ màn. Trong ngày ông TBT Lê Duẩn đọc lời hiệu triệu toàn dân
về việc Tổ Quốc Lâm Nguy, ông đại tướng Võ Nguyên Giáp đọc lời Tổng
Động Viên thì cùng ngày ông Đặng Tiểu Bình tuyên bố đã dạy xong bài học
cho Việt Nam và ra lệnh rút quân. Vậy Việt Nam ta đã làm gì cho cái tình
huống chiến tranh không giống ai đó. Một chiến lược gia quân sự người
Đức đã nói :”Nếu một cuộc chiến tranh không có mục đích gì, không lợi
lộc gì thì không nên có cuộc chiến tranh ấy”.
Rõ
ràng cuộc chiến bắt đầu từ ngày 17/2/1979 và kéo dài 10 năm sau đó của
Việt Nam với Trung Cộng chẳng có lợi ích gì. Nó chẳng chứng tỏ cái gì,
chẳng cho ai cái gì mà thiệt hại thì khó bù đắp nổi. Dù đã bao năm trôi
qua thì những thiệt hại nhìn thấy được lẫn không nhìn thấy được vẫn ám
ảnh chúng ta mãi. Chỉ vì những thói ngông nghênh, phản trắc của một vài
nhà chính trị Việt Nam mà quân đội và nhân dân Việt Nam lại vướng vào
một cuộc chiến mới, “Lưỡng Đầu Thọ Địch” khiến cho người dân Việt Nam,
vốn đã đau khổ vì 20 năm chiến tranh rồi, nay lại đau khổ tiếp vì 10
chiến tranh nữa. Biên giới phía Bắc lại đồng hành với biên giới phía Tây
Nam rơi vào một cuộc chiến tranh đẫm máu, kéo dài cả một thập niên khói
lửa mịt mù. Một cuộc chiến tàn bạo đi trọn một thập niên để rồi lại trở
vị trí cũ, tang thương và đau khổ.
Giờ
đây thì ngay cả những vị tướng, những người tham chiến trong hai cuộc
chiến đó đều phải thừa nhận sự sai lầm, ngu xuẩn của ban lãnh đạo hồi đó
qua các cuốn hồi ký. Nhưng còn có hàng vạn con người ưu tú hơn đã không
viết hồi ký, là những chàng trai cô gái mà những đôi mắt trong veo chỉ
mơ đến tình yêu đôi lứa đã phải khép lại vĩnh viễn bởi sự ngu xuẩn đó
của ban lãnh đạo. Họ đã phải chết. Chết vì sự ngạo mạn, vì bè lũ phe
phái của những kẻ cầm đầu họ…
Câu
chuyện tang thương lịch sử của cái ngày 17/2 đau buồn đó vẫn còn y
nguyên vẹn chẳng học hay dạy được bài học nào. Mối quan hệ đồng chí anh
em đó đã đi một vòng tử sinh dài dằng dặc, từ cái ngày muốn quên
17/2/1979 đó kéo dài một thập niên chết chóc rồi lại trở về như cũ không
suy chuyển. Kẻ thù ngày ấy vẫn là kẻ thù như cũ, còn lãnh đạo dân tộc
Việt Nam giờ đây vẫn là những con người thoái thai từ những kẻ ngu xuẩn
ngày xưa…
Than ôi ! Hàng
vạn chiến binh của chúng ta đã chết khi đầu vẫn còn xanh trong quên lãng
thì những kẻ gây nên bao cái chết đó lại ra đi khi đã trăm tuổi trên
giường êm nệm ấm với vợ con và được muôn dân than khóc. Khi cái ngày
đáng nguyền rủa 17/2 đến thì chúng ta chỉ còn biết run run thắp những
nén nhang với niềm uất ức câm nín để tưởng nhớ bao chiến sĩ đã ra đi
không về trong mùa Xuân tang thương ấy.
Trong đêm khuya ai gào trong gió,
Tiếng ai hờ nấc nghẹn cả dòng sông
Ai đi về trong đêm đông buốt giá
Để ai buồn với nỗi nhớ mênh mông...
Mai Tú Ân ( HNPĐ )
Mai Tú Ân ( HNPĐ )