Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Bài Post Cuối Ngày: HOÀNG SA NỔI SÓNG - PHẠM VĂN HỒNG
Tuy đã 40 năm nhưng mọi sự kiện vẫn như in, tưởng như đang diễn tiến từng giây từng phút, mặc dầu vài chi tiết nhỏ nhặt về thời gian có thể không chính xác,
Biến cố Hoàng Sa xảy ra cách nay đã tròn 40 năm (1974-2014). Trong biến cố này, người viết đã bị sa cơ vào tay Trung Cộng và bị giữ tại Trại Thu Dung Tù Binh huyện Huyền Hóa, Tỉnh Quảng Đông, Thành phố Quảng Châu đúng 4 tuần lễ( bị bắt ngày thứ bảy và trả về cũng ngày thứ bảy 4 tuần sau) sau khi lênh đênh trên biển trong vùng lãnh hải Hoàng sa chỉ có 4 ngày.
Biến cố Hoàng Sa xảy ra cách nay đã tròn 40 năm (1974-2014). Trong biến cố này, người viết đã bị sa cơ vào tay Trung Cộng và bị giữ tại Trại Thu Dung Tù Binh huyện Huyền Hóa, Tỉnh Quảng Đông, Thành phố Quảng Châu đúng 4 tuần lễ( bị bắt ngày thứ bảy và trả về cũng ngày thứ bảy 4 tuần sau) sau khi lênh đênh trên biển trong vùng lãnh hải Hoàng sa chỉ có 4 ngày.
Tuy đã 40 năm nhưng mọi sự kiện vẫn như in, tưởng như đang diễn tiến
từng giây từng phút, mặc dầu vài chi tiết nhỏ nhặt về thời gian có thể
không chính
xác, vì tuổi tác gặm nhấm trí nhớ khíên đôi lúc cũng hay lang thang đâu
đó.
Viết lại biến cố Hoàng sa với tiêu đề HOÀNG SA NỔi SÓNG là vì sau trận
hải chiến, khi trở về, người viết có ghi lại từng chi tiết trận đánh
trong một cuốn hồi ký hơn 300 trang đặt tựa đề là HOÀNG SA NỔI SÓNG,
nhưng tiếc thay tập hồi ký đã bị hẩm hiu nằm trong xó tủ vì Bộ Thông Tin
Dân Vận Chiêu hồi thời điểm đó không chấp nhận cho xuất bản với văn thư
trả lời là:”Hồi ký HOÀNG SA NỔI SÓNG của Thiếu tá Phạm Văn Hồng chưa
thích hợp trong giai đoạn này”!
Hôm nay, tóm lược lại sự kiện, người viết
không muốn tường thuật lại trận đánh, bởi việc này, theo thiển ý, đó là
nhiệm vụ của bên Hải quân, và thực sự họ cũng đã làm. Những con số tổn
thất đôi bên phải dựa vào nhật ký hành quân thì may ra mới có những con
số tạm chấp nhận được.
Người viết chỉ xin được tự trả lời cho câu hỏi của chính mình là tại
sao lại xảy ra trận hải chiến Hoàng sa dù rằng câu trả lời có thể là chủ
quan và sự hiểu biết quá hạn hẹp.
Trận Hải chiến Hoàng sa, không phải là một trận tao ngộ chiến, tình cờ
Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 có nhiệm vụ chở phái đoàn chúng tôi
có 6 người gồm tôi,Trưởng đoàn, ông Gerald Kosh, nhân viên toà lãnh sự
Hoa Kỳ tại Đà Nẵng,Trung uý công binh Vũ Hà thuộc liên đoàn 8 công binh
kiến tạo,Trung uý Lê văn Đá thuộc liên đoàn 10 công binh chiến đấu và
hai Hạ sĩ Quan công binh đi theo hai trung uý kể trên, gặp phải lực
lượng Trung Cộng rôì dẫn đến trận chiến. Trái lại, tất cả đêù được sắp
xếp kỹ lưỡng từ trước mà phía Việt Nam Cộng Hoà chúng ta không lường
được.
Theo lệnh được thượng cấp trao phó
thì tôi có nhiệm vụ hướng dẫn phái đoàn ra Hoàng Sa để thám sát và
thiết lập một phi trường cho phi cơ cỡ C123, C119 hoặc DC 3,DC 4 đáp
được. Đảo Hoàng Sa là một đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa gồm 10 đảo,
chia làm hai nhóm: Nhóm Tuyên Đức phía Bắc gồm 5 đảo, nhóm Nguyệt Thiềm
phía Nam gồm 5 đảo là Quang Hòa, Duy Mộng, Kim Ngân, Cam Tuyền và Hoàng
Sa. Bốn đảo trên không có người ở, duy chỉ có Hoàng Sa là có nhóm khí
tượng thường là 4 người để ngày ngày ghi những yếu tố thời tiết gởi về
Nha khí tượng, và một trung đội Điạ Phương Quân ở chung với nhóm khí
tượng để bảo vệ đảo.
Sự liên lạc giữa đảo và
đất liền rất nhiêu khê, cứ 3 tháng mới có một lần thay quân và toán khí tượng cũng theo lịch trình này mà thay đổi nhân sự.
Chính vì vậy mà thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa là cần thiết
và hữu lý nhất là, nếu củng cố lực lượng đủ mạnh để kiểm soát được
toàn vùng lãnh hải Hoàng sa là 1 ưu điểm chiến lược, chúng ta có thể
kiểm soát được toàn bộ hải trình quốc tế trong vùng lãnh hải Đông Nam á.
Phái đoàn chúng tôi có nhiệm vụ nghiên cưú để thiết lập phi trường là thế. Nhân vật G. Kosh là
điều rất đáng chú ý.
Nếu ở trong nội địa, một phi trường cỡ nhỏ xử dụng cho C 123 trở xuống
thì công binh của VNCH họ thực hiện dễ dàng như lấy kẹo trong túi.
Nhưng thực hiện ở giữa hải đảo cách đất liền (Đà Nẵng) 230 hải lý là
việc không đơn giản.
Cứ theo nguyên tắc mà nói, thì 2 sĩ quan Công binh sẽ lo về đất đai địa
thế và đo đạc kích thước để thực hiện. Yếu tố thời tiết thì đã có nhóm
khí tượng cung cấp cho đủ chu kỳ 1 năm. Còn G.Kosh thì sẽ nghiên cưú,
giám định để mở hầu bao. Phần tôi,
vì là Sĩ quan lãnh thổ Quân Đòan nên tôi có nhiệm vụ đúc kết tất cả
phúc trình của mỗi thành phần để trình thượng cấp xét duyệt và thực
hiện. Không nói thì ai cũng hiểu là yếu tố hầu bao là yếu tố quyết định,
vì thực hiện 1 phi trường ngoài hải đảo xa xôi thì chi phí không phải
là ít. Từ một giọt nước cho đến một hạt cát cũng phải chở từ đất liền
ra, rồi cơ giới của công binh chuyển vận ra, rồi lại còn phải thiết lập
đầu cầu cho cơ giới công binh có thể từ tầu vận chuyển lên đảo(Tầu thủy
không thể cập vào sát bờ vì vướng san hô, còn cầu tầu để tầu thủy có thể
cập bến xưa kia vận chuyển phân chim nay đã hư hỏng hoàn toàn).
Cả ngàn lẻ một dữ kiện ấy đủ chứng tỏ rằng sự
quyết định mở hầu bao của phía Mỹ là quan trọng, nhất là vào thời điểm
đó, ngân sách quốc gia của VNCH đang ở trong tình trạng cạn kiệt (300
triệu đô la cũng không xong ).Tất cả dữ kiện hữu lý ấy chỉ là bề ngoài.
Sự thực phi trường Hoàng sa chỉ là phi trường ẢO nghĩa là không có thực,
mà đây chỉ là một dàn cảnh tuyệt vời của người bạn “đồng minh” của
chúng ta! Họ đã phối hợp với kẻ xâm lăng bành trướng từ lâu rồi.
Tôi xin được tường trình cùng quý độc giả những dữ kiện mà tôi biết được sau khi biến cố đã xảy ra và
mọi bí ẩn sau 40 năm ngày nay đã được bạch hóa.
Trước hết, thời điểm 1974 là thích hợp nhất cho bọn cướp nước vì những
toan tính rút lui, nhường miền Nam lại cho Cộng Sản Bắc Việt đã gần kề (
1975 ). Nếu để cho miền Bắc xâm chiếm toàn miền Nam rồi, bọn Trung Cộng
mới chiếm đánh thì anh em “ môi hở răng lạnh” của bọn chúng sẽ trở
thành” há miệng mắc quai”.
Ngoài ra, theo lời Trung uý Phạm Hy là trung đội trưởng Địa Phương
Quân có nhiệm vụ giữ đảo đã kể lại với tôi thì khoảng hồi tháng 10 vừa
qua
là tháng thường có mưa bão ở miền Trung, có 1 thương thuyền không rõ
của nước nào đã tấp vào đảo và xin tránh bão(Đơn vị ĐPQ này có gởi công
điện về Tiểu khu Quảng Nam và tôi với trách nhiệm Sĩ quan lãnh thổ Quân
Đoàn I tôi cũng nhận được thông báo này của Tiểu khu Quảng Nam)
Khi lên đảo, những thương nhân này đã tỏ ra rất thân thiện, họ đem lên
đảo tặng các chiến sĩ canh phòng những bộ bài cào “36 kiểu” để làm qùa.
Rồi họ lại giả đò chơi những trò chơi trốn tìm, cút bắt, thì ra đó là
tầu do thám của tụi Trung Cộng chúng giả làm thương lái để lên thám sát
đảo.Từ căn cứ phòng ngự cho đến vũ khí, quân số trên
đaỏ chúng nắm rõ từng chi tiết, nhất là vũ khí thì tất cả đều được khóa
cẩn thận trên giá súng, bởi lẽ, theo Trung uý Phạm Hy, nếu giao súng
cho binh sĩ giữ, có thể họ sẽ bắn nhau mỗi khi có sự xích mích vì lính ở
đây tất cả đều là những quân nhân bị kỷ luật; đơn vị nào của Tiểu khu
Quảng Nam có quân nhân bị kỷ luật sẽ gom lại thành một trung đội để gửi
ra Hoàng Sa. Chính Trung uý Phạm Hy cũng là 1 Sĩ quan bị 15 ngày trọng
cấm!
Phải thành thực mà nhìn nhận, quan niệm gửi quân ra Hoàng Sa giữ đảo
xem ra rất nhẹ vì nào có bao giờ phải chiến đấu để bảo vệ đảo đâu. Chiến
sĩ ra đảo chỉ là để cho có mặt. Công sự phòng
thủ nào có ai dòm ngó tới bao giờ. Nói một cách trung thực là chẳng có
phòng thủ gì hết. Chiến sĩ ở đây hằng ngày giết thời gian bằng cách đi
câu cá, bắt hải sâm hoặc mò ốc tiên( một loài ốc có hoa văn rất đẹp) cho
hết nhiệm kỳ 3 tháng là trở về đất liền vì có toán khác ra thay thế!
Xem thế thì đủ biết địch biết rất rõ ta còn ta thì không biết gì về địch đã quá rõ ràng.
Trở lại với phái đoàn chúng tôi, chúng tôi rời quân cảng Tiên sa-Đà
nẵng khoảng 5-6 giờ chiều ngày 15-1-1974. Sau một cơn vật vã ói mửa mật
xanh mật vàng,
sáng hôm sau tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao, tôi cố gượng dậy ra boong
tầu ngắm trời ngắm biển thì ra tôi đã ở Hoàng sa lúc nào tôi không hay
biết. Toán chúng tôi được Hải Quân Trung tá Lê văn Thự, hạm trưởng cho
lệnh hạ 2 xuồng cao su đưa 6 người chúng tôi vào đảo. Tôi bị một cơn say
đất còn tàn bạo hơn cơn say sóng. Ông trưởng đài khí tượng có nhã ý
nhường chiếc ghế bố của ông cho tôi nằm nghỉ, nhưng sao chiếc ghế bố cứ
chồm lên nhảy xuống chứ không chịu nằm yên.Tôi đang bị say đất là thế.
Đến chiều hôm đó, anh em đã tạm phục hồi sức khỏe, 2 sĩ quan công binh
lo đo đạc và thu thập các yếu tố về điạ chất.Thời
tiết thì khỏi lo.Còn anh G.Kosh thì không động tĩnh gì cả. Đi theo tôi
là chỉ để cho có mặt. Trong lúc trò truyện với nhau, tôi được biết anh
này vốn là Trung uý thuộc lực lượng mũ xanh, nay sang làm tại tòa Lãnh
sự.Về phong tục tập quán của người Việt nam thì anh rất quen thuộc với
nước mắm, mắm tôm và cả … thịt chó. Nói thế là quí độc giả sẽ biết ngay
anh là thành phần nào rồi. Vì đi cạnh tôi nên anh ta cũng ăn cơm gạo sấy
và thịt hộp với tôi.
Bất giác trong một lúc anh ta mở túi xách của anh ra, tình cờ tôi thấy
anh mang tới 2 cây thuốc lá(20 gói) rồi một túi nhỏ đựng rất nhiều đồ
mưu sinh thoát hiểm như lưới, bẫy sập,lưỡi câu
v..v.. Tôi lại tự hỏi: đi công tác vài ngày mà làm chi phải mang tới
vài chục gói thuốc? Dù có hết thuốc thì trên chiến hạm thiếu gì, mua bao
nhiêu mà chẳng có. Mãi sau này tôi mới vỡ lẽ.
Nhiệm vụ đã xong, chúng tôi được anh em Địa Phương Quân tặng cho một ít
vỏ ốc tiên cũng như hải sâm khô mang về làm quà. Tôi nói anh hiệu thính
viên của Công binh gọi C 25 liên lạc với chiến hạm đón chúng tôi về,
nhưng sao ở thêm một ngày nữa mà không thấy tầu cho xuồng cao su vào
đón. Mãi đến ngày 17-01 chúng tôi mới lên lại HQ 16, nhưng mặt biển lúc
này đã nóng bỏng một cách khác thường, bây giờ trên biển có thêm HQ 5
cũng là 1 Tuần Dương Hạm giống hệt như
HQ 16 và 1 khu trục hạm HQ 4, chiếc này nhỏ hơn HQ5 và HQ 16 nhưng hỏa
lực thì mạnh hơn nhiều, xa xa lại còn một chiếc nữa mà sau này tôi mới
được biết đó là HQ 10 vì tầm nhìn quá xa.
Trước mũi tầu HQ 16 của chúng tôi luôn luôn có 1 tầu nhỏ của Trung
Cộng lấy danh nghĩa là tầu đánh cá đậu chặn ngang trước mũi tầu, rõ
rằng là có ý định khiêu khích .Trung tá hạm trưởng chỉ thị cho chiến sĩ
người Việt gốc Hoa lấy máy phóng thanh gọi loa yêu cầu họ đi nơi khác vì
đây là haỉ phận của Việt Nam. Họ cũng dùng máy gọi lại y như vậy mà
nói rằng yêu cầu các anh đi nơi khác vì đây là hải phận của Cộng Hòa
nhân dân Trung Quốc! Mà tầu đánh
cá laị sơn mầu ô- liu và có trang bị thượng liên, không có lưới mà chỉ
có cần câu.Các ngư phủ chỉ dùng cần câu để câu cá. Đi đánh cá xa bờ mà
laị dùng cần câu để câu từng con cá sao? Biển rộng mênh mông thiếu gì
chỗ câu sao lại chỉ đậu trước 1 chiến hạm khoảng cách chỉ vài chục mét?
Rõ ràng là để chọc giận.
Đến chiều ngày 18-01, khoảng 4,5 giờ, tôi đang nằm nghỉ trong phòng thì
nghe tiếng loa gọi ”mời Thiếu tá Hồng lên gặp Hạm trưởng” Tôi lên phòng
chỉ huy thì thấy không khí vô cùng ngột ngạt. Các Sĩ quan người nào
cũng mang vẻ mặt hết sức căng thẳng.
Trung tá Hạm trưởng cho tôi biết là Hải đội trưởng(sau này tôi mới biết
là Hải quân Đại Tá Hà văn Ngạc) bên HQ5 yêu cầu phái đoàn chúng tôi
chuyển qua bên đó cho an toàn. Thế là chúng laị xuống xuồng cao su để
chuyển sang HQ 5,nơi có HQ Đại tá Ngạc đặt bộ chỉ huy ở bên đó.
Mới được có mấy tiếng đồng hồ thì khỏang 10 giờ đêm lại nghe tiếng loa
phóng thanh” Mời Thiếu Tá Hồng lên đài chỉ huy gặp Hải độ trưởng. Đây là
giây phút đầu tiên tôi gặp trực tiếp Hải đội trưởng HQ Đại tá Hà văn
Ngạc, ông đã ôn tồn vỗ vai tôi và nói:” Toa à , anh Kosh
này là bạn của moa, anh ta muốn xuống lại đảo vì anh sợ ở trên này
không được an toàn, thôi toa cùng anh em cảm phiền vui lòng chuẩn bị
xuống đảo”.
Chúng tôi xuống đảo đã nửa đêm 18-01 anh em Điạ Phương Quân và toán khí
tượng tất cả đều ngon giấc. Chúng tôi vào tận chỗ ngủ của anh em mà
không ai hay biết gì hết thì đủ biết rằng việ phòng thủ gác sách như thế
nào.
Tôi choàng tỉnh dậy vì tiếng heo kêu quá lớn...Thì ra anh em Địa Phương
Quân họ mổ heo(đem theo từ khi họ thay phiên ra giữ đảo) cúng ông Táo.
Lúc này khoảng
10 giờ sáng. Đang đánh răng thì Trung uý Hy chạy đến tôi và nói:”Không
xong rồi Thiếu Tá ơi. Tầu chiến đôi bên gờm nhau dầy đặc trên biển rồi”
Tôi vội vàng leo lên sân thượng để quan sát. Quả thật đôi bên đang ở thế cài răng lược. Và rồi súng nổ.
Tôi vào phòng truyền tin cùa đài khí tượng, anh hiệu thính viên của
Công Binh cũng theo tôi vào đây, chỉ ít phút sau thì HQ 16 liên lạc được
với chúng tôi và trên máy HQ 16 đã nhờ chúng tôi liên lạc với Bộ Tư
Lệnh Hải Quân vùng I Duyên hải là HQ 16 đã bị hư mắt thần, tầu nghiêng
30 độ, hệ thống
viễn liên đã bất khiển dụng!
Trời đất! tôi gọi từ Hoàng Sa về Đà Nẵng bằng… C 25.Tôi chỉ còn trông
cậy vào máy Motorola của khí tượng, nhưng khốn nỗi, khí tượng họ chỉ
liên lạc với nhau vào mỗi đầu giờ, mà bây giờ đã khoảng 10 giờ 20 rồi.
nhưng may sao họ mò mẫm lại bắt được liên lạc với Phú Quốc còn trên
máy.
Không nói chuyện trưc tiếp được với khí tượng Đà Nẵng, tôi bắt buôc
phải đi đường vòng. Tôi nhờ khí tượng Phú Quốc gọi khí tượng Sài Gòn.
Nhờ khí tượng Sài gòn điện thọai ra khí tượng Đà nẵng. Quả
nhiên may sao ít phút sau thì khí tượng Đà nẵng lên máy với chúng tôi.
Tôi lại nhờ khí tượng Đà nẵng gọi điện thoại cho phi trường Đà nẵng. Phi
trường Đà Nẵng liên lạc bằng điện thoại với tổng đài Uy Dũng của Quân
Đoàn I và tôi nhắn tin là trung tâm hành quân Quân Đoàn I cử người sang
đài khí tượng Đà Nẵng tọa lạc trong phi trường Đà Nẵng để liên lạc trực
tiếp với tôi! Đọc đoạn này không thôi, chắc quí vị độc gỉa cũng thấy vã
mồ hôi vì trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này mà tôi phải vòng vo tam
quốc nhiêu khê vạn dặm đến thế.
Lúc này thì mặt trận trên biển đã im bặt chỉ sau chừng mươi mười lăm phút súng nổ. Mấy chiến hạm của
ta đã quay lưng lại với phía đảo Hoàng Sa của chúng tôi và hình bóng của họ mỗi lúc một nhỏ dần cho đến khi mất hút.
Ngược lại thì hàng chục con tầu của Trung Cộng lại đang vây kín chúng
tôi, tất cả đều hướng mũi vào đảo và súng bắt đầu nổ.Trung úy Phạm Hy
điều động hơn hai chục chiến sĩ dưới tay như thế nào tôi cũng không
biết. Rồi phòng truyền tin của khí tượng cũng không còn một bóng người
ngoại trừ tôi và anh hiệu thính viên Công binh. Trong máy nghe tiếng
súng nổ nên khí tượng Đà Nẵng đã hỏi tôi là trên đảo đang có tiếng súng
sao? họ nói với tôi là bên Hải Quân vùng I Duyên Hải nhắn với Thiếu tá
Hồng là hãy bình tĩnh sẽ có
Không quân ra yểm trợ cho Thiếu tá.
Trong lúc này thì tiếng súng lớn nhỏ đang chát chúa xung quanh chúng
tôi,một vài mảnh tường của tòa nhà khí tượng đã bị phá từng mảng lớn.
Tôi đành chào vĩnh biệt khí tượng
Tôi và anh hiệu thính viên lao ra những lùm cây để ẩn thân. Tôi quyết
định trốn kỹ im lìm trong lùm cây để chờ chuyện trống mái một phen chứ
nhất định không ra đầu hàng. Xung quanh tôi những âm thanh của tiếng Tầu
đang như cái chợ. Chúng đã tràn ngập trên đảo. Tôi chờ mong phi cơ
chiến đấu của không lực VNCH ra thả bom tại đảo cho dù chúng tôi có
chết,
thì bọn tầu phù cũng chếtbanh xác pháo...
32 chiến sĩ trận chiến Hoàng Sa bị Trung cộng bắt, đã trở về
Nhưng rồi sự im lặng vẫn mãi mãi im lặng. Phi cơ đâu chẳng thấy. Tôi
nằm im trong bụi rậm suốt 3 tiếng đồng hồ mà chẳng được nghe tiếng gầm
thét của các chiến đấu cơ. Trong khi đó tiếng Tầu
mỗi lúc một ồn ào hơn, gần sát chỗ tôi ẩn núp. Cuối cùng chúng vạch
từng gốc cây và phát hiện ra tôi, chúng chĩa súng vào tôi và hô lên:
Thiếu Tá.
Thì ra suốt 2-3 giờ đồng hồ qua chúng đã tràn ngập trên đảo và sau khi
khai thác tù binh chúng đã điểm danh đầy đủ và biết chắc rằng còn một
Thiếu Tá và 1 anh công binh mang máy truyền tin rồi.
Tôi trở lại hai tòa nhà của khí tượng và anh em Địa Phương Quân thì tất
cả đã bị bắt giữ. Anh Kosh thì bọn Trung Cộng đang nói chuyện với anh
ta bằng anh ngữ.
Rõ ràng đây là điểm mấu chốt. Họ đã biết rõ trên đảo có một người Mỹ,
họ đã cử thông dịch viên ra làm việc.Nếu bình thường; một trận chiến
tình cờ trên biển thì đào đâu ra người Tầu biết nói tiếng Anh? nhất là
vào thời điểm đó bên kia bức màn sắt và thế giới tự do hoàn toàn cách
biệt
Lại nữa, khi tấn công lên đảo, tất cả họ đã tác xạ không có tính cách
sát thương. Đại bác bắn vào những bức tường toàn bắn trên tầm cao.
Càng rõ hơn nữa là cuối ngày 19-01-74 thì kết quả trận đánh đã quá rõ
ràng. Bốn năm giờ sáng 20-01 chúng tôi được đưa lên tầu chở về đảo Hải
Nam. Đêm 20-01 tôi trưởng đoàn, cùng 2 Trung uý Công Binh, Trung Uý
Địa Phương Quân Phạm Hy giữ đảo, 1 Trung Uý Hải Quân bị bắt trên đảo
Cam Tuyền( chỉ mới thả xuống đảo vài ngày để giữ đảo) và anh Kosh được
chở bằng máy bay từ Hải Nam về Quảng Châu rồi tiếp tục chở bằng xe hơi
về trại Thu Dung tù binh huyện Huyền Hóa, tỉnh Quảng Đông thành phố
Quảng Châu. Số Hạ sĩ quan, Binh sĩ và 4 người khí tượng còn lại thì mãi
2 ngày sau họ mới nhập về trại với chúng tôi vì họ được chở về bằng
tầu thủy.
Sáng sớm ngày 21-01 những cán bộ của trại
bắt đầu làm việc với chúng tôi. Chúng tôi được sắp xếp cho ở một dẫy nhà
có 5 phòng.Tôi ở 1 phòng, 4 trung úy kia thì 2 người 1 phòng. Một phòng
ăn và 1 phòng dành cho việc tọa đàm. Người bị phỏng vấn nhiều nhất là
Trung uý HQ Lê văn Dũng để họ lấy ngay những yếu tố kỹ thuật của Hải
Quân hầu họ ứng phó kịp thời nếu cuộc chiến sẽ tái diễn. Còn tôi, khai
thác sơ khởi trên đảo họ đã biết quá rõ phái đoàn đặc biệt của tôi nên
họ không cần khai thác thêm nhiều .
Anh Kosh thì được lưu giữ ở đâu chúng tôi không biết. Anh được đi xe riêng, Khi
xuống phi trường Quảng Châu là anh đã được tách rời chúng tôi rồi.
Ngồi trong phòng tọa đàm, họ nói chuyện dưới hình thức thân mật. Họ cho
chúng tôi biết là: hiện nay tiến sĩ Kisinger đang ngồi ở Bắc Kinh. Tối
nay chúng tôi sẽ mở đài Bắc Kinh cho các anh nghe. Quả vậy, đúng giờ
chương trình tiếng Việt của đài Bắc Kinh, họ đã đến và mở cho chúng tôi
nghe bản tin đúng như lời họ nói. Lân la mọi chuyện họ mở luôn cả các
đài VOA .BBC. Úc Đại Lợi cho chúng tôi theo dõi. Tất cả đều loan tin
giống nhau. Dĩ nhiên là các đài đều lấy tin của các hãng thông tấn nên
loan tin phải giống nhau rồi.
Trở lại về anh Kosh, khi xuống đảo lần thứ nhất, anh còn ăn chung với
tôi, nhưng lần thứ hai thì không. Anh nói là anh bị bệnh. Bệnh đây cũng
là bệnh được sắp đặt trước. Quả vậy, chỉ 1 tuần sau khi bị bắt, anh ta
là người đầu tiên được thả với lý do bị bệnh mãn tính kinh niên, cần
được thả sớm để kịp về điều trị! Ấy thế mà 1 tháng sau, sau khi tôi trở
về Quân Đoàn, anh ta có về Mỹ điều trị đâu vẫn làm việc như thường lệ!
Buổi trưa hôm 19-01 sau khi tàn cuộc chiến trên đảo, chỉ một mình anh
Kosh là được giữ những trang bị cá nhân sau khi bị bắt,
còn chúng tôi thì không. Đến xế trưa, đã quá đói vì từ sáng đến giờ
chúng tôi có được ăn uống gì đâu Kosh bèn lấy trong túi xách ra hộp cá,
nhỏ hơn bao thuốc lá, anh chia cho tôi một lát mỏng cỡ như thanh kẹo cao
su chúng ta thường mua khi đi xem chiếu bóng ở Sài gòn. Tôi nghĩ bụng,
một lát cá như thế này thì thấm béo gì. Như hiểu được ý tôi, anh ta nói
ngay: Thiếu tá cứ ăn đi sẽ đỡ đói đấy .Mà đỡ đói thật.Thì ra họ đã tiên
liệu rôì. Họ trang bị rất kỹ lưỡng từ răng cho đến chân. Còn chúng ta,
chúng ta có biết gì đâu!
Hai chục gói thuốc lá, những dụng cụ thoát hiểm mưu sinh, những hộp đồ ăn đặc biệt, những cơn bệnh
bất thường là những yếu tố làm tôi suy nghĩ tới những sự kiện… bất thường!
Chưa hết, sau này khi được trả về, qua tìm hiểu, phối kiểm cũng như
nghe những chuyện được kể lại, tôi mới được biết, khi trận hải chiến xảy
ra, chiến hạm Mỹ cũng ở sát nách với chúng ta mà nào họ có cứu vớt
những bè thoát hiểm của anh em Hải quân. Cụ thể nhất là có một bè trôi
dạt về tận Qui Nhơn mới được chiếc thương thuyền Kopionella của Hòa Lan
cứu thóat. Không cần nói đến tính liên hệ đồng minh, chỉ cần nói đến
lòng nhân đạo thôi, họ đã cất giấu tình người đi đâu mất rồi?
Thêm một chi tiết sau này khi được Trung tướng Tư Lệnh tiền phương Quân
Đoàn I chỉ thị tôi ra Huế thực hiện 2 cuộc thuyết trình tại Hội trường
Phú Văn Lâu, một vào buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa thiên
Huế và một vào buổi chiều cho các đơn vị quân đội đồn trú quanh Thị xã
Huế, mỗi buổi có đến hơn một ngàn người, đứng chật cả hội trường, tràn
ra cả phía tiền đường để nghe qua loa phóng thanh. Khi về Bộ Tư lệnh
Tiền phương, tôi được gặp Đại Tá Tham mưu trưởng Tiền phương QĐ I, ông
đã nói với tôi:” Moa có nói chuyện về biến cố Hoàng sa với tên cố vấn
Quân Đoàn, ông ta đã thản nhiên hỏi moa rằng” anh ngạc nhiên về chuyện
này sao”. Moa
biết là bị hố nên moa đã chữa ngay rằng tôi không ngạc nhiên nhưng tôi
chỉ thắc mắc là tại sao bọn Trung Cộng lại chọn đánh chiếm Hoàng Sa vào
thời điểm này” Rõ ràng đây là một màn kịch đã được sắp xếp từ trước.
Trở lại chuyện tôi nhận được tin sẽ có phi cơ ra oanh tạc Hoàng sa sao
không thấy thực hiện, tôi đã hỏi Trung tá Lê Lâm, phó trưởng phòng 3
Quân Đoàn I, ông đã giải thích với tôi rằng tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng,
một phi đội phản lực từ Biên Hòa đã ra phi trường Đà Nẵng sẵn sàng
tham chiến, Quân Đoàn dự trù kế hoạch cho chiến hạm ra giữa đường tiếp
đón phi công nhảy dù nếu phi cơ không đủ nhiên liệu trở về, nhưng rồi kế
hoạch phải hủy bỏ vì phía Mỹ họ lý luận rằng nếu thực hiện, đối phương
có thể trả đũa từ nơi xuất phát, như vậy sẽ rất nguy hiểm cho cư dân
thành phố Đà Nẵng.
Trong khi đó, tôi được bên Không quân cho biết là phi công Viêt Nam đã
sẵng sàng thi hành những phi vụ vô cùng ngọan mục và can trường chẳng
khác nào phi công Nhật khi xưa, nhưng tiếc thay người Mỹ họ chơi
trò…(trò gì mà mấy Sĩ quan
Không quân nói với tôi nhưng nay tôi đã quên mất vì đây là từ ngữ kỹ
thuật chuyên môn đại khái được hiểu là máy bay có gắn bom thì những quả
bom này chỉ là những khối sắt vô tri không thể nào kích hỏa được. Tóm
lại là đối sách nào cũng bị kỳ đà cản mủi.
Nếu để tất cả những dữ kiện rời rạc nêu trên đứng riêng lẻ một mình thì
hẳn qúi độc giả sẽ cảm thấy chúng không nói lên được điều gì trong trận
hải chiến Hoàng sa, nhưng nếu ghép chúng lại thành toàn cảnh của một
bức tranh thì ngược lại, chúng ta sẽ thấy một thảm kịch cho việc đã
được người bạn đồng minh dàn cảnh rất tỉ mỉ từng chi
tiết:
Vào thời điểm đó, Tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu kết thân vơí Trung Cộng. Dĩ
nhiên quyền lợi của Hoa Kỳ và tham vọng của Tầu Cộng vẫn là tối thượng,
Tầu cộng đã nghiên cứu kỹ lưỡng sự bố phòng của chúng ta. Lực lượng
tham chiến của họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Vấn đề chỉ là làm sao họ đánh
chiếm chúng ta cho hữu lý và có kết quả. không thể nào tự nhiên họ đem
quân ra đánh chiếm một đơn vị giữ đảo mà trên đó chỉ là một đài khí
tượng đã hiện diện một cách hợp pháp và chính đáng từ bao lâu nay rồi và
lại chưa hề bao giờ có sự hiềm khích với họ. Vậy thì người Mỹ sẽ tạo
cho họ một cái
cớ.
Mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ này. Hoa Kỳ đã gợi ý giúp chúng ta xây
cất một phi trừờng chiến lược để kiểm soát được toàn bộ haỉ trình quốc
tế trong vùng Đông Nam á .Bùi tai quá hữu lý quá. Anh Kosh đi theo để
giám định chi tiền lại càng chứng tỏ người Mỹ muốn giúp thực sự, chúng
ta đã lọt bẫy điệu hổ ly sơn. Chiến hạm của chúng ta chở phái đoàn ra
thám sát để thực hiện kế hoạch, những con mồi nhử đã chờ sẵn. Họ khiêu
khích chúng ta đến độ cơn giận của chúng ta không kìm hãm nổi. Là một
đơn vị quân đội, chúng ta chỉ có một biện pháp duy nhất để phản ứng: NỔ
SÚNG!!!
Họ chỉ chờ có thế. Vài con tầu nhỏ ( sau này tôi mới được biết đó là
Kronstadt) làm vật tế thần có thấm béo gì so với một nước có tới 7_8
trăm triệu dân vào thời điểm đó. Chiến thuật biển người là ngón sở
trường của bọn bành trướng. Lực lượng trên đảo chỉ có hơn hai chục tay
súng(mà chúng đã biết rất chính xác) trong khi chúng tràn lên đảo đến
một tiểu đoàn thì cục diện sẽ thế nào ai cũng có thể khẳng định được.
Nhân đây, tôi cũng xin kể hầu quí độc giả thêm vài sự kiện đau lòng trong thời gian bị lưu
giữ trong trại thu dung tù binh:
_ Ngày ngày, 5 Sĩ quan chúng tôi gồm tôi và 4 Trung uý(1 Hải quân, 2
Công binh và 1 Điạ phương quân) phải ngồi đồng (tọa đàm) suốt 8 tiếng
đồng hồ để goị là học tập chính trị và giải thích về chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa thực sự thuộc về ai. Tất cả những cán bộ Trung Cộng tiếp xúc
với chúng tôi toàn nói bằng tiếng Việt giọng Bắc rất chính xác. Chính
xác đến độ mà Trung Uý Công Binh Vũ Hà người Huế nói chữ SỮA Honda họ
đã sửa lưng rằng không có SỮA Honda mà chỉ có SỮA Ông Thọ! Phải nói là
SỬA Honda mới đúng!
Có một lần, vì cao hứng bất tử, có một tên cán bộ đã nói với Trung Uý
Địa Phương Quân Phạm Hy là đi từ Huyện Đại Lộc đến Hội An nên đi lối tắt
nào gần nhất. Trung uý Hy thổ lộ với tôi rằng tuy là ngừơi địa phương,
từng lội bộ nát nước ở quê hương xứ Quảng của mình nhưng cũng chưa bao
giờ biết đi tắt từ Đại Lộc đến Hội An bằng đường nào. Thôi rồi! người
anh em môi hở răng lạnh,núi liền núi, sông liền sông đã cõng rắn về cắn
gà nhà hay đúng hơn là dẫn voi về dày mả tổ.
Rồi đến ngày chúng tôi được trả
về, khi ăn bữa cơm trưa cuối cùng tại tô giới Thẩm Khuyến- Hồng Kông,
tiễn tôi ra lằn ranh để bước sang phía tự do, một Sĩ quan cao cấp thuộc
Lộ quân bộ đội tỉnh Quảng Đông đã siết chặt tay tôi nói với tôi một câu
chắc nịch rằng:”hẹn gặp các anh trong một ngày rầt gần đây TRÊN ĐƯỜNG
NGOẠI GIAO”.
Thành thật mà nói, khi thoạt nghe câu nói vừa kể, phản xạ tự nhịên của
tôi là tên này quá hão huyền, giữa thế giới tự do của chúng tôi và bên
kia bức màn sắt của các anh làm quái gì có bang giao mà gặp nhau trên
đường ngọai giao. Nhưng đau lòng thay, chỉ một năm sau; Miền Nam Việt
Nam bị tràn ngập làn
sóng đỏ tôi mới bừng tỉnh rằng ở nước ngoài thân phận miền Nam đã được
an bài; mà chỉ cần những cán bộ cấp trung của họ cũng đã biết rồi.
Nói về nỗi lòng của tôi khi Hoàng Sa bị thất thủ mà tôi hiện diện trong
đó, xin được thú nhận rằng, từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, bây giờ
mới là lúc tôi hiểu thế nào là tình yêu quê hương, thế nào là lòng ái
quốc.
Quả vậy,từ thuở còn tung tăng chân sáo, ngày ngày cắp sách đến trường,
những bộ sách Quốc Văn Giáo
Khoa Thư và Tâm hồn cao thượng, tôi đã được thầy cô giảng dậy rất kỹ về
lòng ái quốc, nhưng thực lòng những chữ lòng ái quốc và tình yêu quê
hương là những từ ngữ vô cùng trừu tượng. Tôi chẳng hề có một chút xúc
cảm nào. Ấy thế mà khi một mảnh đất thật xa xôi mù mịt của quê hương tôi
bị bọn xâm lăng chiếm đoạt, tất cả 5 anh em Sĩ quan chúng tôi khi thổ
lộ tâm tình với nhau, ai cũng vô cùng đau xót.
Suốt 4 tuần lễ nằm trong lãnh thổ giặc thù chúng tôi thương nhớ quê
hương da diết. Ngày được trả về, khi vừa bước qua vệt sơn ngăn cách giữa
Hồng Kông và Thẩm Khuyến; Ông Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa
muốn chờm tới, ông bị người cảnh sát Anh chặn lại, ông bèn cất tiếng
hỏi:” Có anh Hồng ở đây không? Có Thiếu Tá Hồng đó không? “Ông không
nhận dạng được tôi vì tôi chưa có quân phục mà tất cả 43 người vừa trở
về đều mặc bộ quần áo mầu xanh đậm giống nhau do bọn Trung Cộng phân
phát . Chỉ mới nghe một giọng nói Việt Nam dầu tiên, tiếng của quê hương
tôi, tôi đã muốn oà khóc. Tôi đã nghẹn họng, cố gắng lắm tôi mới thốt
lên được 2 tiếng” tôi đây” rồi tôi cứ ứ lên cổ không nói thêm được một
tiếng nào nữa.
Thiếu Tá Phạm văn Hồng, người tù binh trong ngày trở về
Đến khi ngồi trên phi cơ từ Hồng Kông trở về Sài Gòn, từ trên cao nhìn
xuống mặt biển, mỗi khi gặp một hòn đảo nào nhô lên mặt nước dù đó không
phải là Hoàng Sa nhưng lòng tôi vẫn thấy đau xót xốn xang. Trong đời
quân ngũ, đã hơn một lần tham dự hành quân, không phải là chúng tôi trăm
trận trăm thắng, trái lại,
lác đác cũng có đôi lần bị đối phương chiếm mất mục tiêu, nhưng lòng
tôi vẫn an nhiên tự tại bởi vì chắc chắn chúng tôi sẽ có những cuộc hành
quân tái chiếm và nắm chắc thế nào chúng tôi cũng sẽ lấy lại được phần
đất đã mất. Hoàng Sa thì không. 43 con người trở về từ đất địch, cả 43
tấm lòng đều cùng có một tâm trạng như nhau: đau lòng đến tột độ!
Phi cơ chạm đất, nhìn vào khu nhà ga hàng không, cờ xí rợp trời , người
người như thác lũ. Cánh cửa phi cơ mở ra, tôi là người đầu tiên bước
xuống cầu thang, biển người trước mặt
quá to lớn đối với
đôi tay nhỏ bé của tôi, song tôi vẫn muốn dang ra cho thật rộng để ôm
hết làn sóng người vào lòng tôi. Tất cả là của riêng tôi. Đây là đồng
bào của tôi. Đây là quê hương của tôi. Đây là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi. Và
đây mới đích thực là lúc tình yêu quê hương. LÒNG ÁI QUỐC của tôi đang
trỗi dậy.
Tôi tiến bước vào khu phòng khách danh dự, rất nhiều phóng viên báo chí
vây kín quanh tôi. Đa phần họ hỏi tôi về bên kia bức màn sắt, nhưng bất
ngờ cũng có một phóng viên hỏi tôi một câu không biết có phải là anh ta
có dụng ý muốn nắn gân,
thử phổi tôi
không:” Thưa Thiếu Tá, nếu bây giờ Thiếu tá được lệnh phải tái chiếm
Hoàng Sa, Thiếu Tá có sẵn sàng trở lại Hoàng Sa hay không?”
Không cần đắn đo suy nghĩ, tôi lập tức trả lời: Tôi là một Sĩ quan hiện
dịch, xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia, đối với tôi LỆNH LÀ THI HÀNH.
Trả lời câu này, tôi thầm nghĩ ,tôi đã khóa họng anh ta, không để anh ta
đánh gía tôi là hèn yếu, nhưng cũng không thể phê phán tôi là ngạo mạn
kiêu căng. Tôi chỉ có một ước muốn khiêm nhường là làm sao nói lên được
lòng yêu nước và cố giữ đúng phong thái của một Sĩ quan xuất thân
trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
PHẠM VĂN HỒNG K 20
( Trích từ ĐS Đa Hiệu 100 do tác giả mến tặng)
VHP chuyển
VHP chuyển
Bàn ra tán vào (3)
butnua
Hello anh Hồng
Hưng đây,ban Hq/P3.BTl/QĐ1.Rất vui được đọc bài cuả anh lên tiếng về vụ Hoàng sa.Hy vọng được l/lạc với anh qua email nhờ HNPĐ chuyển lại.Chúc anh và gia đình an vui hạnh phúc.Đt 61.8.93320285
----------------------------------------------------------------------------------
Đô Quan
Tôi có một thắc mắc, lý do tại sao các Hội Hải Quân tại hải ngoại không hề theo dõi để yểm trợ cuộc sống của phu nhân TT. Ngụy văn Thà tại quê nhà và mới đây tác giả Huy Đức, người bên kia chiến uyến đã quyên góp để phu nhân TT.NVT có được một mái ấm gia đình và cũng là nơi đặt bát nhang thờ anh linh Thiếu Tá, người hùng của trận chiến Hoàng Sa
----------------------------------------------------------------------------------
doan dao
Chung một thắc mắc với bạn Đo^ Quan,có lẽ họ quá bận rộn với chuyện bầu bán chức vụ trong các hội doàn chống Cộng,chứ làm sao họ quên được,bằng chứng là gần đây, bạn không thấy có những bài báo của bạn bè đồng khóa với người chú của người hàng xóm với bạn của anh em kết nghĩa với Ngụy văn Thà,viết về những kỷ niệm với người hùng của chúng ta.Phải chăng chúng ta có thắc mắc "trỏỏc guớơc"
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Bài Post Cuối Ngày: HOÀNG SA NỔI SÓNG - PHẠM VĂN HỒNG
Tuy đã 40 năm nhưng mọi sự kiện vẫn như in, tưởng như đang diễn tiến từng giây từng phút, mặc dầu vài chi tiết nhỏ nhặt về thời gian có thể không chính xác,
Biến cố Hoàng Sa xảy ra cách nay đã tròn 40 năm (1974-2014). Trong biến cố này, người viết đã bị sa cơ vào tay Trung Cộng và bị giữ tại Trại Thu Dung Tù Binh huyện Huyền Hóa, Tỉnh Quảng Đông, Thành phố Quảng Châu đúng 4 tuần lễ( bị bắt ngày thứ bảy và trả về cũng ngày thứ bảy 4 tuần sau) sau khi lênh đênh trên biển trong vùng lãnh hải Hoàng sa chỉ có 4 ngày.
Tuy đã 40 năm nhưng mọi sự kiện vẫn như in, tưởng như đang diễn tiến
từng giây từng phút, mặc dầu vài chi tiết nhỏ nhặt về thời gian có thể
không chính
xác, vì tuổi tác gặm nhấm trí nhớ khíên đôi lúc cũng hay lang thang đâu
đó.
Viết lại biến cố Hoàng sa với tiêu đề HOÀNG SA NỔi SÓNG là vì sau trận
hải chiến, khi trở về, người viết có ghi lại từng chi tiết trận đánh
trong một cuốn hồi ký hơn 300 trang đặt tựa đề là HOÀNG SA NỔI SÓNG,
nhưng tiếc thay tập hồi ký đã bị hẩm hiu nằm trong xó tủ vì Bộ Thông Tin
Dân Vận Chiêu hồi thời điểm đó không chấp nhận cho xuất bản với văn thư
trả lời là:”Hồi ký HOÀNG SA NỔI SÓNG của Thiếu tá Phạm Văn Hồng chưa
thích hợp trong giai đoạn này”!
Hôm nay, tóm lược lại sự kiện, người viết
không muốn tường thuật lại trận đánh, bởi việc này, theo thiển ý, đó là
nhiệm vụ của bên Hải quân, và thực sự họ cũng đã làm. Những con số tổn
thất đôi bên phải dựa vào nhật ký hành quân thì may ra mới có những con
số tạm chấp nhận được.
Người viết chỉ xin được tự trả lời cho câu hỏi của chính mình là tại
sao lại xảy ra trận hải chiến Hoàng sa dù rằng câu trả lời có thể là chủ
quan và sự hiểu biết quá hạn hẹp.
Trận Hải chiến Hoàng sa, không phải là một trận tao ngộ chiến, tình cờ
Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ 16 có nhiệm vụ chở phái đoàn chúng tôi
có 6 người gồm tôi,Trưởng đoàn, ông Gerald Kosh, nhân viên toà lãnh sự
Hoa Kỳ tại Đà Nẵng,Trung uý công binh Vũ Hà thuộc liên đoàn 8 công binh
kiến tạo,Trung uý Lê văn Đá thuộc liên đoàn 10 công binh chiến đấu và
hai Hạ sĩ Quan công binh đi theo hai trung uý kể trên, gặp phải lực
lượng Trung Cộng rôì dẫn đến trận chiến. Trái lại, tất cả đêù được sắp
xếp kỹ lưỡng từ trước mà phía Việt Nam Cộng Hoà chúng ta không lường
được.
Theo lệnh được thượng cấp trao phó
thì tôi có nhiệm vụ hướng dẫn phái đoàn ra Hoàng Sa để thám sát và
thiết lập một phi trường cho phi cơ cỡ C123, C119 hoặc DC 3,DC 4 đáp
được. Đảo Hoàng Sa là một đảo nằm trong quần đảo Hoàng Sa gồm 10 đảo,
chia làm hai nhóm: Nhóm Tuyên Đức phía Bắc gồm 5 đảo, nhóm Nguyệt Thiềm
phía Nam gồm 5 đảo là Quang Hòa, Duy Mộng, Kim Ngân, Cam Tuyền và Hoàng
Sa. Bốn đảo trên không có người ở, duy chỉ có Hoàng Sa là có nhóm khí
tượng thường là 4 người để ngày ngày ghi những yếu tố thời tiết gởi về
Nha khí tượng, và một trung đội Điạ Phương Quân ở chung với nhóm khí
tượng để bảo vệ đảo.
Sự liên lạc giữa đảo và
đất liền rất nhiêu khê, cứ 3 tháng mới có một lần thay quân và toán khí tượng cũng theo lịch trình này mà thay đổi nhân sự.
Chính vì vậy mà thiết lập một phi trường trên đảo Hoàng Sa là cần thiết
và hữu lý nhất là, nếu củng cố lực lượng đủ mạnh để kiểm soát được
toàn vùng lãnh hải Hoàng sa là 1 ưu điểm chiến lược, chúng ta có thể
kiểm soát được toàn bộ hải trình quốc tế trong vùng lãnh hải Đông Nam á.
Phái đoàn chúng tôi có nhiệm vụ nghiên cưú để thiết lập phi trường là thế. Nhân vật G. Kosh là
điều rất đáng chú ý.
Nếu ở trong nội địa, một phi trường cỡ nhỏ xử dụng cho C 123 trở xuống
thì công binh của VNCH họ thực hiện dễ dàng như lấy kẹo trong túi.
Nhưng thực hiện ở giữa hải đảo cách đất liền (Đà Nẵng) 230 hải lý là
việc không đơn giản.
Cứ theo nguyên tắc mà nói, thì 2 sĩ quan Công binh sẽ lo về đất đai địa
thế và đo đạc kích thước để thực hiện. Yếu tố thời tiết thì đã có nhóm
khí tượng cung cấp cho đủ chu kỳ 1 năm. Còn G.Kosh thì sẽ nghiên cưú,
giám định để mở hầu bao. Phần tôi,
vì là Sĩ quan lãnh thổ Quân Đòan nên tôi có nhiệm vụ đúc kết tất cả
phúc trình của mỗi thành phần để trình thượng cấp xét duyệt và thực
hiện. Không nói thì ai cũng hiểu là yếu tố hầu bao là yếu tố quyết định,
vì thực hiện 1 phi trường ngoài hải đảo xa xôi thì chi phí không phải
là ít. Từ một giọt nước cho đến một hạt cát cũng phải chở từ đất liền
ra, rồi cơ giới của công binh chuyển vận ra, rồi lại còn phải thiết lập
đầu cầu cho cơ giới công binh có thể từ tầu vận chuyển lên đảo(Tầu thủy
không thể cập vào sát bờ vì vướng san hô, còn cầu tầu để tầu thủy có thể
cập bến xưa kia vận chuyển phân chim nay đã hư hỏng hoàn toàn).
Cả ngàn lẻ một dữ kiện ấy đủ chứng tỏ rằng sự
quyết định mở hầu bao của phía Mỹ là quan trọng, nhất là vào thời điểm
đó, ngân sách quốc gia của VNCH đang ở trong tình trạng cạn kiệt (300
triệu đô la cũng không xong ).Tất cả dữ kiện hữu lý ấy chỉ là bề ngoài.
Sự thực phi trường Hoàng sa chỉ là phi trường ẢO nghĩa là không có thực,
mà đây chỉ là một dàn cảnh tuyệt vời của người bạn “đồng minh” của
chúng ta! Họ đã phối hợp với kẻ xâm lăng bành trướng từ lâu rồi.
Tôi xin được tường trình cùng quý độc giả những dữ kiện mà tôi biết được sau khi biến cố đã xảy ra và
mọi bí ẩn sau 40 năm ngày nay đã được bạch hóa.
Trước hết, thời điểm 1974 là thích hợp nhất cho bọn cướp nước vì những
toan tính rút lui, nhường miền Nam lại cho Cộng Sản Bắc Việt đã gần kề (
1975 ). Nếu để cho miền Bắc xâm chiếm toàn miền Nam rồi, bọn Trung Cộng
mới chiếm đánh thì anh em “ môi hở răng lạnh” của bọn chúng sẽ trở
thành” há miệng mắc quai”.
Ngoài ra, theo lời Trung uý Phạm Hy là trung đội trưởng Địa Phương
Quân có nhiệm vụ giữ đảo đã kể lại với tôi thì khoảng hồi tháng 10 vừa
qua
là tháng thường có mưa bão ở miền Trung, có 1 thương thuyền không rõ
của nước nào đã tấp vào đảo và xin tránh bão(Đơn vị ĐPQ này có gởi công
điện về Tiểu khu Quảng Nam và tôi với trách nhiệm Sĩ quan lãnh thổ Quân
Đoàn I tôi cũng nhận được thông báo này của Tiểu khu Quảng Nam)
Khi lên đảo, những thương nhân này đã tỏ ra rất thân thiện, họ đem lên
đảo tặng các chiến sĩ canh phòng những bộ bài cào “36 kiểu” để làm qùa.
Rồi họ lại giả đò chơi những trò chơi trốn tìm, cút bắt, thì ra đó là
tầu do thám của tụi Trung Cộng chúng giả làm thương lái để lên thám sát
đảo.Từ căn cứ phòng ngự cho đến vũ khí, quân số trên
đaỏ chúng nắm rõ từng chi tiết, nhất là vũ khí thì tất cả đều được khóa
cẩn thận trên giá súng, bởi lẽ, theo Trung uý Phạm Hy, nếu giao súng
cho binh sĩ giữ, có thể họ sẽ bắn nhau mỗi khi có sự xích mích vì lính ở
đây tất cả đều là những quân nhân bị kỷ luật; đơn vị nào của Tiểu khu
Quảng Nam có quân nhân bị kỷ luật sẽ gom lại thành một trung đội để gửi
ra Hoàng Sa. Chính Trung uý Phạm Hy cũng là 1 Sĩ quan bị 15 ngày trọng
cấm!
Phải thành thực mà nhìn nhận, quan niệm gửi quân ra Hoàng Sa giữ đảo
xem ra rất nhẹ vì nào có bao giờ phải chiến đấu để bảo vệ đảo đâu. Chiến
sĩ ra đảo chỉ là để cho có mặt. Công sự phòng
thủ nào có ai dòm ngó tới bao giờ. Nói một cách trung thực là chẳng có
phòng thủ gì hết. Chiến sĩ ở đây hằng ngày giết thời gian bằng cách đi
câu cá, bắt hải sâm hoặc mò ốc tiên( một loài ốc có hoa văn rất đẹp) cho
hết nhiệm kỳ 3 tháng là trở về đất liền vì có toán khác ra thay thế!
Xem thế thì đủ biết địch biết rất rõ ta còn ta thì không biết gì về địch đã quá rõ ràng.
Trở lại với phái đoàn chúng tôi, chúng tôi rời quân cảng Tiên sa-Đà
nẵng khoảng 5-6 giờ chiều ngày 15-1-1974. Sau một cơn vật vã ói mửa mật
xanh mật vàng,
sáng hôm sau tỉnh dậy, mặt trời đã lên cao, tôi cố gượng dậy ra boong
tầu ngắm trời ngắm biển thì ra tôi đã ở Hoàng sa lúc nào tôi không hay
biết. Toán chúng tôi được Hải Quân Trung tá Lê văn Thự, hạm trưởng cho
lệnh hạ 2 xuồng cao su đưa 6 người chúng tôi vào đảo. Tôi bị một cơn say
đất còn tàn bạo hơn cơn say sóng. Ông trưởng đài khí tượng có nhã ý
nhường chiếc ghế bố của ông cho tôi nằm nghỉ, nhưng sao chiếc ghế bố cứ
chồm lên nhảy xuống chứ không chịu nằm yên.Tôi đang bị say đất là thế.
Đến chiều hôm đó, anh em đã tạm phục hồi sức khỏe, 2 sĩ quan công binh
lo đo đạc và thu thập các yếu tố về điạ chất.Thời
tiết thì khỏi lo.Còn anh G.Kosh thì không động tĩnh gì cả. Đi theo tôi
là chỉ để cho có mặt. Trong lúc trò truyện với nhau, tôi được biết anh
này vốn là Trung uý thuộc lực lượng mũ xanh, nay sang làm tại tòa Lãnh
sự.Về phong tục tập quán của người Việt nam thì anh rất quen thuộc với
nước mắm, mắm tôm và cả … thịt chó. Nói thế là quí độc giả sẽ biết ngay
anh là thành phần nào rồi. Vì đi cạnh tôi nên anh ta cũng ăn cơm gạo sấy
và thịt hộp với tôi.
Bất giác trong một lúc anh ta mở túi xách của anh ra, tình cờ tôi thấy
anh mang tới 2 cây thuốc lá(20 gói) rồi một túi nhỏ đựng rất nhiều đồ
mưu sinh thoát hiểm như lưới, bẫy sập,lưỡi câu
v..v.. Tôi lại tự hỏi: đi công tác vài ngày mà làm chi phải mang tới
vài chục gói thuốc? Dù có hết thuốc thì trên chiến hạm thiếu gì, mua bao
nhiêu mà chẳng có. Mãi sau này tôi mới vỡ lẽ.
Nhiệm vụ đã xong, chúng tôi được anh em Địa Phương Quân tặng cho một ít
vỏ ốc tiên cũng như hải sâm khô mang về làm quà. Tôi nói anh hiệu thính
viên của Công binh gọi C 25 liên lạc với chiến hạm đón chúng tôi về,
nhưng sao ở thêm một ngày nữa mà không thấy tầu cho xuồng cao su vào
đón. Mãi đến ngày 17-01 chúng tôi mới lên lại HQ 16, nhưng mặt biển lúc
này đã nóng bỏng một cách khác thường, bây giờ trên biển có thêm HQ 5
cũng là 1 Tuần Dương Hạm giống hệt như
HQ 16 và 1 khu trục hạm HQ 4, chiếc này nhỏ hơn HQ5 và HQ 16 nhưng hỏa
lực thì mạnh hơn nhiều, xa xa lại còn một chiếc nữa mà sau này tôi mới
được biết đó là HQ 10 vì tầm nhìn quá xa.
Trước mũi tầu HQ 16 của chúng tôi luôn luôn có 1 tầu nhỏ của Trung
Cộng lấy danh nghĩa là tầu đánh cá đậu chặn ngang trước mũi tầu, rõ
rằng là có ý định khiêu khích .Trung tá hạm trưởng chỉ thị cho chiến sĩ
người Việt gốc Hoa lấy máy phóng thanh gọi loa yêu cầu họ đi nơi khác vì
đây là haỉ phận của Việt Nam. Họ cũng dùng máy gọi lại y như vậy mà
nói rằng yêu cầu các anh đi nơi khác vì đây là hải phận của Cộng Hòa
nhân dân Trung Quốc! Mà tầu đánh
cá laị sơn mầu ô- liu và có trang bị thượng liên, không có lưới mà chỉ
có cần câu.Các ngư phủ chỉ dùng cần câu để câu cá. Đi đánh cá xa bờ mà
laị dùng cần câu để câu từng con cá sao? Biển rộng mênh mông thiếu gì
chỗ câu sao lại chỉ đậu trước 1 chiến hạm khoảng cách chỉ vài chục mét?
Rõ ràng là để chọc giận.
Đến chiều ngày 18-01, khoảng 4,5 giờ, tôi đang nằm nghỉ trong phòng thì
nghe tiếng loa gọi ”mời Thiếu tá Hồng lên gặp Hạm trưởng” Tôi lên phòng
chỉ huy thì thấy không khí vô cùng ngột ngạt. Các Sĩ quan người nào
cũng mang vẻ mặt hết sức căng thẳng.
Trung tá Hạm trưởng cho tôi biết là Hải đội trưởng(sau này tôi mới biết
là Hải quân Đại Tá Hà văn Ngạc) bên HQ5 yêu cầu phái đoàn chúng tôi
chuyển qua bên đó cho an toàn. Thế là chúng laị xuống xuồng cao su để
chuyển sang HQ 5,nơi có HQ Đại tá Ngạc đặt bộ chỉ huy ở bên đó.
Mới được có mấy tiếng đồng hồ thì khỏang 10 giờ đêm lại nghe tiếng loa
phóng thanh” Mời Thiếu Tá Hồng lên đài chỉ huy gặp Hải độ trưởng. Đây là
giây phút đầu tiên tôi gặp trực tiếp Hải đội trưởng HQ Đại tá Hà văn
Ngạc, ông đã ôn tồn vỗ vai tôi và nói:” Toa à , anh Kosh
này là bạn của moa, anh ta muốn xuống lại đảo vì anh sợ ở trên này
không được an toàn, thôi toa cùng anh em cảm phiền vui lòng chuẩn bị
xuống đảo”.
Chúng tôi xuống đảo đã nửa đêm 18-01 anh em Điạ Phương Quân và toán khí
tượng tất cả đều ngon giấc. Chúng tôi vào tận chỗ ngủ của anh em mà
không ai hay biết gì hết thì đủ biết rằng việ phòng thủ gác sách như thế
nào.
Tôi choàng tỉnh dậy vì tiếng heo kêu quá lớn...Thì ra anh em Địa Phương
Quân họ mổ heo(đem theo từ khi họ thay phiên ra giữ đảo) cúng ông Táo.
Lúc này khoảng
10 giờ sáng. Đang đánh răng thì Trung uý Hy chạy đến tôi và nói:”Không
xong rồi Thiếu Tá ơi. Tầu chiến đôi bên gờm nhau dầy đặc trên biển rồi”
Tôi vội vàng leo lên sân thượng để quan sát. Quả thật đôi bên đang ở thế cài răng lược. Và rồi súng nổ.
Tôi vào phòng truyền tin cùa đài khí tượng, anh hiệu thính viên của
Công Binh cũng theo tôi vào đây, chỉ ít phút sau thì HQ 16 liên lạc được
với chúng tôi và trên máy HQ 16 đã nhờ chúng tôi liên lạc với Bộ Tư
Lệnh Hải Quân vùng I Duyên hải là HQ 16 đã bị hư mắt thần, tầu nghiêng
30 độ, hệ thống
viễn liên đã bất khiển dụng!
Trời đất! tôi gọi từ Hoàng Sa về Đà Nẵng bằng… C 25.Tôi chỉ còn trông
cậy vào máy Motorola của khí tượng, nhưng khốn nỗi, khí tượng họ chỉ
liên lạc với nhau vào mỗi đầu giờ, mà bây giờ đã khoảng 10 giờ 20 rồi.
nhưng may sao họ mò mẫm lại bắt được liên lạc với Phú Quốc còn trên
máy.
Không nói chuyện trưc tiếp được với khí tượng Đà Nẵng, tôi bắt buôc
phải đi đường vòng. Tôi nhờ khí tượng Phú Quốc gọi khí tượng Sài Gòn.
Nhờ khí tượng Sài gòn điện thọai ra khí tượng Đà nẵng. Quả
nhiên may sao ít phút sau thì khí tượng Đà nẵng lên máy với chúng tôi.
Tôi lại nhờ khí tượng Đà nẵng gọi điện thoại cho phi trường Đà nẵng. Phi
trường Đà Nẵng liên lạc bằng điện thoại với tổng đài Uy Dũng của Quân
Đoàn I và tôi nhắn tin là trung tâm hành quân Quân Đoàn I cử người sang
đài khí tượng Đà Nẵng tọa lạc trong phi trường Đà Nẵng để liên lạc trực
tiếp với tôi! Đọc đoạn này không thôi, chắc quí vị độc gỉa cũng thấy vã
mồ hôi vì trong lúc dầu sôi lửa bỏng thế này mà tôi phải vòng vo tam
quốc nhiêu khê vạn dặm đến thế.
Lúc này thì mặt trận trên biển đã im bặt chỉ sau chừng mươi mười lăm phút súng nổ. Mấy chiến hạm của
ta đã quay lưng lại với phía đảo Hoàng Sa của chúng tôi và hình bóng của họ mỗi lúc một nhỏ dần cho đến khi mất hút.
Ngược lại thì hàng chục con tầu của Trung Cộng lại đang vây kín chúng
tôi, tất cả đều hướng mũi vào đảo và súng bắt đầu nổ.Trung úy Phạm Hy
điều động hơn hai chục chiến sĩ dưới tay như thế nào tôi cũng không
biết. Rồi phòng truyền tin của khí tượng cũng không còn một bóng người
ngoại trừ tôi và anh hiệu thính viên Công binh. Trong máy nghe tiếng
súng nổ nên khí tượng Đà Nẵng đã hỏi tôi là trên đảo đang có tiếng súng
sao? họ nói với tôi là bên Hải Quân vùng I Duyên Hải nhắn với Thiếu tá
Hồng là hãy bình tĩnh sẽ có
Không quân ra yểm trợ cho Thiếu tá.
Trong lúc này thì tiếng súng lớn nhỏ đang chát chúa xung quanh chúng
tôi,một vài mảnh tường của tòa nhà khí tượng đã bị phá từng mảng lớn.
Tôi đành chào vĩnh biệt khí tượng
Tôi và anh hiệu thính viên lao ra những lùm cây để ẩn thân. Tôi quyết
định trốn kỹ im lìm trong lùm cây để chờ chuyện trống mái một phen chứ
nhất định không ra đầu hàng. Xung quanh tôi những âm thanh của tiếng Tầu
đang như cái chợ. Chúng đã tràn ngập trên đảo. Tôi chờ mong phi cơ
chiến đấu của không lực VNCH ra thả bom tại đảo cho dù chúng tôi có
chết,
thì bọn tầu phù cũng chếtbanh xác pháo...
32 chiến sĩ trận chiến Hoàng Sa bị Trung cộng bắt, đã trở về
Nhưng rồi sự im lặng vẫn mãi mãi im lặng. Phi cơ đâu chẳng thấy. Tôi
nằm im trong bụi rậm suốt 3 tiếng đồng hồ mà chẳng được nghe tiếng gầm
thét của các chiến đấu cơ. Trong khi đó tiếng Tầu
mỗi lúc một ồn ào hơn, gần sát chỗ tôi ẩn núp. Cuối cùng chúng vạch
từng gốc cây và phát hiện ra tôi, chúng chĩa súng vào tôi và hô lên:
Thiếu Tá.
Thì ra suốt 2-3 giờ đồng hồ qua chúng đã tràn ngập trên đảo và sau khi
khai thác tù binh chúng đã điểm danh đầy đủ và biết chắc rằng còn một
Thiếu Tá và 1 anh công binh mang máy truyền tin rồi.
Tôi trở lại hai tòa nhà của khí tượng và anh em Địa Phương Quân thì tất
cả đã bị bắt giữ. Anh Kosh thì bọn Trung Cộng đang nói chuyện với anh
ta bằng anh ngữ.
Rõ ràng đây là điểm mấu chốt. Họ đã biết rõ trên đảo có một người Mỹ,
họ đã cử thông dịch viên ra làm việc.Nếu bình thường; một trận chiến
tình cờ trên biển thì đào đâu ra người Tầu biết nói tiếng Anh? nhất là
vào thời điểm đó bên kia bức màn sắt và thế giới tự do hoàn toàn cách
biệt
Lại nữa, khi tấn công lên đảo, tất cả họ đã tác xạ không có tính cách
sát thương. Đại bác bắn vào những bức tường toàn bắn trên tầm cao.
Càng rõ hơn nữa là cuối ngày 19-01-74 thì kết quả trận đánh đã quá rõ
ràng. Bốn năm giờ sáng 20-01 chúng tôi được đưa lên tầu chở về đảo Hải
Nam. Đêm 20-01 tôi trưởng đoàn, cùng 2 Trung uý Công Binh, Trung Uý
Địa Phương Quân Phạm Hy giữ đảo, 1 Trung Uý Hải Quân bị bắt trên đảo
Cam Tuyền( chỉ mới thả xuống đảo vài ngày để giữ đảo) và anh Kosh được
chở bằng máy bay từ Hải Nam về Quảng Châu rồi tiếp tục chở bằng xe hơi
về trại Thu Dung tù binh huyện Huyền Hóa, tỉnh Quảng Đông thành phố
Quảng Châu. Số Hạ sĩ quan, Binh sĩ và 4 người khí tượng còn lại thì mãi
2 ngày sau họ mới nhập về trại với chúng tôi vì họ được chở về bằng
tầu thủy.
Sáng sớm ngày 21-01 những cán bộ của trại
bắt đầu làm việc với chúng tôi. Chúng tôi được sắp xếp cho ở một dẫy nhà
có 5 phòng.Tôi ở 1 phòng, 4 trung úy kia thì 2 người 1 phòng. Một phòng
ăn và 1 phòng dành cho việc tọa đàm. Người bị phỏng vấn nhiều nhất là
Trung uý HQ Lê văn Dũng để họ lấy ngay những yếu tố kỹ thuật của Hải
Quân hầu họ ứng phó kịp thời nếu cuộc chiến sẽ tái diễn. Còn tôi, khai
thác sơ khởi trên đảo họ đã biết quá rõ phái đoàn đặc biệt của tôi nên
họ không cần khai thác thêm nhiều .
Anh Kosh thì được lưu giữ ở đâu chúng tôi không biết. Anh được đi xe riêng, Khi
xuống phi trường Quảng Châu là anh đã được tách rời chúng tôi rồi.
Ngồi trong phòng tọa đàm, họ nói chuyện dưới hình thức thân mật. Họ cho
chúng tôi biết là: hiện nay tiến sĩ Kisinger đang ngồi ở Bắc Kinh. Tối
nay chúng tôi sẽ mở đài Bắc Kinh cho các anh nghe. Quả vậy, đúng giờ
chương trình tiếng Việt của đài Bắc Kinh, họ đã đến và mở cho chúng tôi
nghe bản tin đúng như lời họ nói. Lân la mọi chuyện họ mở luôn cả các
đài VOA .BBC. Úc Đại Lợi cho chúng tôi theo dõi. Tất cả đều loan tin
giống nhau. Dĩ nhiên là các đài đều lấy tin của các hãng thông tấn nên
loan tin phải giống nhau rồi.
Trở lại về anh Kosh, khi xuống đảo lần thứ nhất, anh còn ăn chung với
tôi, nhưng lần thứ hai thì không. Anh nói là anh bị bệnh. Bệnh đây cũng
là bệnh được sắp đặt trước. Quả vậy, chỉ 1 tuần sau khi bị bắt, anh ta
là người đầu tiên được thả với lý do bị bệnh mãn tính kinh niên, cần
được thả sớm để kịp về điều trị! Ấy thế mà 1 tháng sau, sau khi tôi trở
về Quân Đoàn, anh ta có về Mỹ điều trị đâu vẫn làm việc như thường lệ!
Buổi trưa hôm 19-01 sau khi tàn cuộc chiến trên đảo, chỉ một mình anh
Kosh là được giữ những trang bị cá nhân sau khi bị bắt,
còn chúng tôi thì không. Đến xế trưa, đã quá đói vì từ sáng đến giờ
chúng tôi có được ăn uống gì đâu Kosh bèn lấy trong túi xách ra hộp cá,
nhỏ hơn bao thuốc lá, anh chia cho tôi một lát mỏng cỡ như thanh kẹo cao
su chúng ta thường mua khi đi xem chiếu bóng ở Sài gòn. Tôi nghĩ bụng,
một lát cá như thế này thì thấm béo gì. Như hiểu được ý tôi, anh ta nói
ngay: Thiếu tá cứ ăn đi sẽ đỡ đói đấy .Mà đỡ đói thật.Thì ra họ đã tiên
liệu rôì. Họ trang bị rất kỹ lưỡng từ răng cho đến chân. Còn chúng ta,
chúng ta có biết gì đâu!
Hai chục gói thuốc lá, những dụng cụ thoát hiểm mưu sinh, những hộp đồ ăn đặc biệt, những cơn bệnh
bất thường là những yếu tố làm tôi suy nghĩ tới những sự kiện… bất thường!
Chưa hết, sau này khi được trả về, qua tìm hiểu, phối kiểm cũng như
nghe những chuyện được kể lại, tôi mới được biết, khi trận hải chiến xảy
ra, chiến hạm Mỹ cũng ở sát nách với chúng ta mà nào họ có cứu vớt
những bè thoát hiểm của anh em Hải quân. Cụ thể nhất là có một bè trôi
dạt về tận Qui Nhơn mới được chiếc thương thuyền Kopionella của Hòa Lan
cứu thóat. Không cần nói đến tính liên hệ đồng minh, chỉ cần nói đến
lòng nhân đạo thôi, họ đã cất giấu tình người đi đâu mất rồi?
Thêm một chi tiết sau này khi được Trung tướng Tư Lệnh tiền phương Quân
Đoàn I chỉ thị tôi ra Huế thực hiện 2 cuộc thuyết trình tại Hội trường
Phú Văn Lâu, một vào buổi sáng cho các cơ quan hành chánh Thừa thiên
Huế và một vào buổi chiều cho các đơn vị quân đội đồn trú quanh Thị xã
Huế, mỗi buổi có đến hơn một ngàn người, đứng chật cả hội trường, tràn
ra cả phía tiền đường để nghe qua loa phóng thanh. Khi về Bộ Tư lệnh
Tiền phương, tôi được gặp Đại Tá Tham mưu trưởng Tiền phương QĐ I, ông
đã nói với tôi:” Moa có nói chuyện về biến cố Hoàng sa với tên cố vấn
Quân Đoàn, ông ta đã thản nhiên hỏi moa rằng” anh ngạc nhiên về chuyện
này sao”. Moa
biết là bị hố nên moa đã chữa ngay rằng tôi không ngạc nhiên nhưng tôi
chỉ thắc mắc là tại sao bọn Trung Cộng lại chọn đánh chiếm Hoàng Sa vào
thời điểm này” Rõ ràng đây là một màn kịch đã được sắp xếp từ trước.
Trở lại chuyện tôi nhận được tin sẽ có phi cơ ra oanh tạc Hoàng sa sao
không thấy thực hiện, tôi đã hỏi Trung tá Lê Lâm, phó trưởng phòng 3
Quân Đoàn I, ông đã giải thích với tôi rằng tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng,
một phi đội phản lực từ Biên Hòa đã ra phi trường Đà Nẵng sẵn sàng
tham chiến, Quân Đoàn dự trù kế hoạch cho chiến hạm ra giữa đường tiếp
đón phi công nhảy dù nếu phi cơ không đủ nhiên liệu trở về, nhưng rồi kế
hoạch phải hủy bỏ vì phía Mỹ họ lý luận rằng nếu thực hiện, đối phương
có thể trả đũa từ nơi xuất phát, như vậy sẽ rất nguy hiểm cho cư dân
thành phố Đà Nẵng.
Trong khi đó, tôi được bên Không quân cho biết là phi công Viêt Nam đã
sẵng sàng thi hành những phi vụ vô cùng ngọan mục và can trường chẳng
khác nào phi công Nhật khi xưa, nhưng tiếc thay người Mỹ họ chơi
trò…(trò gì mà mấy Sĩ quan
Không quân nói với tôi nhưng nay tôi đã quên mất vì đây là từ ngữ kỹ
thuật chuyên môn đại khái được hiểu là máy bay có gắn bom thì những quả
bom này chỉ là những khối sắt vô tri không thể nào kích hỏa được. Tóm
lại là đối sách nào cũng bị kỳ đà cản mủi.
Nếu để tất cả những dữ kiện rời rạc nêu trên đứng riêng lẻ một mình thì
hẳn qúi độc giả sẽ cảm thấy chúng không nói lên được điều gì trong trận
hải chiến Hoàng sa, nhưng nếu ghép chúng lại thành toàn cảnh của một
bức tranh thì ngược lại, chúng ta sẽ thấy một thảm kịch cho việc đã
được người bạn đồng minh dàn cảnh rất tỉ mỉ từng chi
tiết:
Vào thời điểm đó, Tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu kết thân vơí Trung Cộng. Dĩ
nhiên quyền lợi của Hoa Kỳ và tham vọng của Tầu Cộng vẫn là tối thượng,
Tầu cộng đã nghiên cứu kỹ lưỡng sự bố phòng của chúng ta. Lực lượng
tham chiến của họ đã chuẩn bị sẵn sàng. Vấn đề chỉ là làm sao họ đánh
chiếm chúng ta cho hữu lý và có kết quả. không thể nào tự nhiên họ đem
quân ra đánh chiếm một đơn vị giữ đảo mà trên đó chỉ là một đài khí
tượng đã hiện diện một cách hợp pháp và chính đáng từ bao lâu nay rồi và
lại chưa hề bao giờ có sự hiềm khích với họ. Vậy thì người Mỹ sẽ tạo
cho họ một cái
cớ.
Mấu chốt của vấn đề nằm ở chỗ này. Hoa Kỳ đã gợi ý giúp chúng ta xây
cất một phi trừờng chiến lược để kiểm soát được toàn bộ haỉ trình quốc
tế trong vùng Đông Nam á .Bùi tai quá hữu lý quá. Anh Kosh đi theo để
giám định chi tiền lại càng chứng tỏ người Mỹ muốn giúp thực sự, chúng
ta đã lọt bẫy điệu hổ ly sơn. Chiến hạm của chúng ta chở phái đoàn ra
thám sát để thực hiện kế hoạch, những con mồi nhử đã chờ sẵn. Họ khiêu
khích chúng ta đến độ cơn giận của chúng ta không kìm hãm nổi. Là một
đơn vị quân đội, chúng ta chỉ có một biện pháp duy nhất để phản ứng: NỔ
SÚNG!!!
Họ chỉ chờ có thế. Vài con tầu nhỏ ( sau này tôi mới được biết đó là
Kronstadt) làm vật tế thần có thấm béo gì so với một nước có tới 7_8
trăm triệu dân vào thời điểm đó. Chiến thuật biển người là ngón sở
trường của bọn bành trướng. Lực lượng trên đảo chỉ có hơn hai chục tay
súng(mà chúng đã biết rất chính xác) trong khi chúng tràn lên đảo đến
một tiểu đoàn thì cục diện sẽ thế nào ai cũng có thể khẳng định được.
Nhân đây, tôi cũng xin kể hầu quí độc giả thêm vài sự kiện đau lòng trong thời gian bị lưu
giữ trong trại thu dung tù binh:
_ Ngày ngày, 5 Sĩ quan chúng tôi gồm tôi và 4 Trung uý(1 Hải quân, 2
Công binh và 1 Điạ phương quân) phải ngồi đồng (tọa đàm) suốt 8 tiếng
đồng hồ để goị là học tập chính trị và giải thích về chủ quyền quần đảo
Hoàng Sa thực sự thuộc về ai. Tất cả những cán bộ Trung Cộng tiếp xúc
với chúng tôi toàn nói bằng tiếng Việt giọng Bắc rất chính xác. Chính
xác đến độ mà Trung Uý Công Binh Vũ Hà người Huế nói chữ SỮA Honda họ
đã sửa lưng rằng không có SỮA Honda mà chỉ có SỮA Ông Thọ! Phải nói là
SỬA Honda mới đúng!
Có một lần, vì cao hứng bất tử, có một tên cán bộ đã nói với Trung Uý
Địa Phương Quân Phạm Hy là đi từ Huyện Đại Lộc đến Hội An nên đi lối tắt
nào gần nhất. Trung uý Hy thổ lộ với tôi rằng tuy là ngừơi địa phương,
từng lội bộ nát nước ở quê hương xứ Quảng của mình nhưng cũng chưa bao
giờ biết đi tắt từ Đại Lộc đến Hội An bằng đường nào. Thôi rồi! người
anh em môi hở răng lạnh,núi liền núi, sông liền sông đã cõng rắn về cắn
gà nhà hay đúng hơn là dẫn voi về dày mả tổ.
Rồi đến ngày chúng tôi được trả
về, khi ăn bữa cơm trưa cuối cùng tại tô giới Thẩm Khuyến- Hồng Kông,
tiễn tôi ra lằn ranh để bước sang phía tự do, một Sĩ quan cao cấp thuộc
Lộ quân bộ đội tỉnh Quảng Đông đã siết chặt tay tôi nói với tôi một câu
chắc nịch rằng:”hẹn gặp các anh trong một ngày rầt gần đây TRÊN ĐƯỜNG
NGOẠI GIAO”.
Thành thật mà nói, khi thoạt nghe câu nói vừa kể, phản xạ tự nhịên của
tôi là tên này quá hão huyền, giữa thế giới tự do của chúng tôi và bên
kia bức màn sắt của các anh làm quái gì có bang giao mà gặp nhau trên
đường ngọai giao. Nhưng đau lòng thay, chỉ một năm sau; Miền Nam Việt
Nam bị tràn ngập làn
sóng đỏ tôi mới bừng tỉnh rằng ở nước ngoài thân phận miền Nam đã được
an bài; mà chỉ cần những cán bộ cấp trung của họ cũng đã biết rồi.
Nói về nỗi lòng của tôi khi Hoàng Sa bị thất thủ mà tôi hiện diện trong
đó, xin được thú nhận rằng, từ tấm bé cho đến khi trưởng thành, bây giờ
mới là lúc tôi hiểu thế nào là tình yêu quê hương, thế nào là lòng ái
quốc.
Quả vậy,từ thuở còn tung tăng chân sáo, ngày ngày cắp sách đến trường,
những bộ sách Quốc Văn Giáo
Khoa Thư và Tâm hồn cao thượng, tôi đã được thầy cô giảng dậy rất kỹ về
lòng ái quốc, nhưng thực lòng những chữ lòng ái quốc và tình yêu quê
hương là những từ ngữ vô cùng trừu tượng. Tôi chẳng hề có một chút xúc
cảm nào. Ấy thế mà khi một mảnh đất thật xa xôi mù mịt của quê hương tôi
bị bọn xâm lăng chiếm đoạt, tất cả 5 anh em Sĩ quan chúng tôi khi thổ
lộ tâm tình với nhau, ai cũng vô cùng đau xót.
Suốt 4 tuần lễ nằm trong lãnh thổ giặc thù chúng tôi thương nhớ quê
hương da diết. Ngày được trả về, khi vừa bước qua vệt sơn ngăn cách giữa
Hồng Kông và Thẩm Khuyến; Ông Tổng Lãnh Sự Việt Nam Cộng Hòa
muốn chờm tới, ông bị người cảnh sát Anh chặn lại, ông bèn cất tiếng
hỏi:” Có anh Hồng ở đây không? Có Thiếu Tá Hồng đó không? “Ông không
nhận dạng được tôi vì tôi chưa có quân phục mà tất cả 43 người vừa trở
về đều mặc bộ quần áo mầu xanh đậm giống nhau do bọn Trung Cộng phân
phát . Chỉ mới nghe một giọng nói Việt Nam dầu tiên, tiếng của quê hương
tôi, tôi đã muốn oà khóc. Tôi đã nghẹn họng, cố gắng lắm tôi mới thốt
lên được 2 tiếng” tôi đây” rồi tôi cứ ứ lên cổ không nói thêm được một
tiếng nào nữa.
Thiếu Tá Phạm văn Hồng, người tù binh trong ngày trở về
Đến khi ngồi trên phi cơ từ Hồng Kông trở về Sài Gòn, từ trên cao nhìn
xuống mặt biển, mỗi khi gặp một hòn đảo nào nhô lên mặt nước dù đó không
phải là Hoàng Sa nhưng lòng tôi vẫn thấy đau xót xốn xang. Trong đời
quân ngũ, đã hơn một lần tham dự hành quân, không phải là chúng tôi trăm
trận trăm thắng, trái lại,
lác đác cũng có đôi lần bị đối phương chiếm mất mục tiêu, nhưng lòng
tôi vẫn an nhiên tự tại bởi vì chắc chắn chúng tôi sẽ có những cuộc hành
quân tái chiếm và nắm chắc thế nào chúng tôi cũng sẽ lấy lại được phần
đất đã mất. Hoàng Sa thì không. 43 con người trở về từ đất địch, cả 43
tấm lòng đều cùng có một tâm trạng như nhau: đau lòng đến tột độ!
Phi cơ chạm đất, nhìn vào khu nhà ga hàng không, cờ xí rợp trời , người
người như thác lũ. Cánh cửa phi cơ mở ra, tôi là người đầu tiên bước
xuống cầu thang, biển người trước mặt
quá to lớn đối với
đôi tay nhỏ bé của tôi, song tôi vẫn muốn dang ra cho thật rộng để ôm
hết làn sóng người vào lòng tôi. Tất cả là của riêng tôi. Đây là đồng
bào của tôi. Đây là quê hương của tôi. Đây là ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi. Và
đây mới đích thực là lúc tình yêu quê hương. LÒNG ÁI QUỐC của tôi đang
trỗi dậy.
Tôi tiến bước vào khu phòng khách danh dự, rất nhiều phóng viên báo chí
vây kín quanh tôi. Đa phần họ hỏi tôi về bên kia bức màn sắt, nhưng bất
ngờ cũng có một phóng viên hỏi tôi một câu không biết có phải là anh ta
có dụng ý muốn nắn gân,
thử phổi tôi
không:” Thưa Thiếu Tá, nếu bây giờ Thiếu tá được lệnh phải tái chiếm
Hoàng Sa, Thiếu Tá có sẵn sàng trở lại Hoàng Sa hay không?”
Không cần đắn đo suy nghĩ, tôi lập tức trả lời: Tôi là một Sĩ quan hiện
dịch, xuất thân trường Võ Bị Quốc Gia, đối với tôi LỆNH LÀ THI HÀNH.
Trả lời câu này, tôi thầm nghĩ ,tôi đã khóa họng anh ta, không để anh ta
đánh gía tôi là hèn yếu, nhưng cũng không thể phê phán tôi là ngạo mạn
kiêu căng. Tôi chỉ có một ước muốn khiêm nhường là làm sao nói lên được
lòng yêu nước và cố giữ đúng phong thái của một Sĩ quan xuất thân
trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam.
PHẠM VĂN HỒNG K 20
( Trích từ ĐS Đa Hiệu 100 do tác giả mến tặng)
VHP chuyển
VHP chuyển