Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
"Bịnh Viện Bình Dân trước năm 1975" - by Nguyễn Đan Tâm / Trần Văn Giang (ghi lại).
xxx
*
Bịnh Viện hay Nhà thương Bình Dân Sài gòn (*)
là nơi tôi tiếp xúc với bịnh nhân từ những ngày đầu tiên chập chững vào
Trường Y Khoa Sài gòn. Đó là năm 1963. Mỗi buổi sáng, sau giờ học tại
giảng đường tại số 28 đường Trần Qúy Cáp từ 7am đến 9am, chúng tôi phải
có mặt tại bịnh viện trước 10 giờ. Bịnh viện Bình Dân nằm ở đường Phan
Thanh Giản, cạnh cư xá Đô thành. Đó là bịnh viện nhỏ, nhưng có nhiều
chuyên khoa vì trực thuộc trường Đại học Y khoa Sài gòn về phương diện
chuyên môn. Nhân viên bịnh viện đa số là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954
từ bịnh viện Phủ Doãn và trường Đại học Y khoa Hà nội. Vì là bịnh viện
công, nên mọi dịch vụ đều miễn phí. Bịnh nhân đến từ thành thị đến thôn
quê, thuộc mọi thành phần đều được chữa trị như nhau. Sau đây là những
chuyên khoa với các thầy:
1/ Giải phẫu tổng quát, lồng ngực: Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm.
2/ Mắt: Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Ngọc Kính.
3/ Tai, Mũi, Họng: Trương Minh Ký.
4/ Ung thư: Đào Đức Hoành.
5/ Ngoài Da: Nguyễn Văn Út.
6/ Cơ thể bịnh lý: Đào Hữu Anh.
7/ Giải phẫu chỉnh trực, xương: Trần Ngọc Ninh.
8/ Tiết niệu: Ngô Gia Hy.
9/ Gây mê, Hồi sức: Nguyễn Khắc Minh.
Mỗi
chuyên khoa là một khu bịnh lý được gọi bằng tiếng Pháp là “Clinique”
vì thời đó tiếng Pháp là ngôn ngữ chánh của trường Y khoa Sài gòn. Sinh
viên “đi thực tập” không dùng chữ “đi bịnh viện” mà dùng “đi nhà thương” hay là “đi Clinique.”
Không
có Nội khoa. Bịnh nhân rất an tâm khi giao sinh mạng cho bác sĩ giỏi.
Thầy thuốc làm việc theo lương tâm, lãnh lương chánh phủ, luôn luôn theo
phương châm "Vì lợi ích của bịnh nhân, không vì tiền bạc.” Chỉ
mổ để cứu bịnh nhân. Không mổ vì tiền. Đây là điểm son của nền y tế VNCH
trước năm 1975 mà ngay cả nước Mỹ cũng không có. Số sinh viên đến thực
tập mỗi ngày rất đông, không dưới 100 người nên bịnh viện lúc nào cũng
đầy ắp tà áo trắng. Chỉ có một điều là số nữ sinh viên quá ít nên thiếu
bóng hồng tha thướt. Chúng tôi được thầy Nguyễn Hữu hướng dẫn các bước
nhập môn của khoa giải phẫu như rửa tay, mang “mask,” mặc “gown,”
trước khi vào phòng mổ, cách may các vết thương. Các trường hợp bịnh lý
được thầy diễn giảng tỉ mỉ trong giảng đường nhỏ của bịnh viện. Giáo sư
Nguyễn Hữu là vị thầy tận tâm với bịnh nhân và sinh viên y khoa, rất
đáng được ca tụng trong lịch sử trường Y Khoa Sài gòn.
Bắt đầu năm thứ 2 và 3, sinh được chia phiên trực gác sau giờ làm việc để học hỏi cách đối phó với các trường hợp khẩn cấp.
Bịnh viện Bình Dân, ngày, tháng, năm 1968.
Hôm
đó, là phiên trực của tôi, một sinh viên y khoa năm thứ năm. Nhiệm vụ
trực của sinh viên năm thứ 5 và 6 là thay mặt bác sĩ khám, điều trị hay
cho nhập viện chờ đợi trình thầy quyết định những trường hợp khó. Nếu
có gì không giải quyết được thì báo cho nội trú trực cùng ngày.
Bịnh nhân là một cô gái trẻ 15 tuổi, đi một mình từ quận Bình Chánh vì lý do: Đau bụng.
Người
bịnh khai đau bụng gần 2 năm, cơn đau lâm râm xuất hiện mỗi 1, 2 tháng,
rồi hết sau 4, 5 ngày. Chưa đi bác sĩ nào cũng như chưa uống thuốc gì.
Vì thấy cơn đau tự nhiên hết nên bịnh nhân bỏ lơ. Lần nầy, đau nhiều hơn
nên nghe lối xóm nói, đi thử đến đây xem sao. Cô ta còn cho biết là từ
nhỏ chưa có bịnh gì quan trọng; và chưa có kinh nguyệt lần nào (!).
Khám
bụng thì thấy một khối u bằng nắm tay, nằm dưới rún. Đụng vào gây cảm
giác đau đớn. Khám bộ phận sinh dục phát hiện màng trinh bị bịt kín
(imperforated hymen), căng phồng, do kinh nguyệt không lối thoát tích tụ
lại. Đây là tật bẩm sinh hiếm có. Tôi vội báo cho người nội trú tất cả
mọi việc. Bịnh nhân được chuyển đến phòng giải phẫu nhỏ (minor surgery).
Tôi giải thích tóm tắt cho bịnh nhân hiểu. Chỉ cần làm thủ thuật nhỏ sẽ
giải quyết vấn đề. Sau khi nằm nghỉ 1 giờ, bịnh nhân xin về vì nhà chỉ
có hai má con, và lúc đi chưa cho má hay. Cô gái rối rít cám ơn khi biết
rằng tật bẩm sinh được chữa lành.
Bịnh viện Bình Dân, ngày, tháng, năm 1969.
Tôi
bị đánh thức lúc 2 giờ sáng. Tiếng người y công gọi tôi: “Ông thầy, có
bịnh nặng.” Tôi khoác vội áo “blouse,” tiến về khu bịnh nhân nằm điều
trị của khu Ngoài Da. Một người đàn ông đón tôi làm tôi sửng sốt. Đó là
chú Tư. Ba của chú Tư là em ruột của ông nội tôi. Bịnh nhân là con của
chú Tư. Người bịnh trong tình trạng hấp hối, miệng than lạnh qúa. Tôi
vội thông báo cho nội trú. Sau khi khám cẩn thận, người nội trú nhìn tôi
lắc đầu. Vậy là vô phương. Bịnh nhân còn trẻ, mắc phải chứng
“Erythrodermia,” do dị ứng thuốc trị bịnh lao phổi. “Erythrodermia” làm
cho da toàn thân bị đỏ và tróc. Từ đó đưa đến các biến chứng chết người.
Nhìn người bịnh đi lần vào cõi thiên thu, tôi nhớ đến câu: “Guérir quelquefois, soulager souvent, consoler toujours,” tạm dịch là “Đôi khi chữa lành, Thường thường làm đỡ, Luôn luôn an ủi”
mà các thầy thường nhắc nhở sinh viên về sự khiêm nhường cần phải có
của thầy thuốc. Cho đến bây giờ, năm 2025, dù y học có nhiều tiến bộ,
vẫn còn nhiều chứng bịnh bất trị. Ôi cái vòng “Sinh, lão, bịnh, tử” cứ
đeo theo mãi con người. Và vì thế mà con người cứ cho đời là bể khổ.
Năm
1969, tôi xin được công việc nội trú ủy nhiệm tại khu Ngoài da với ý
định học chuyên môn. Nội trú ủy nhiệm khác nội trú thực thụ là do giáo
sư trưởng khoa chọn mà không qua kỳ thi tuyển và chỉ làm việc nhưng
không ăn, ở trong bịnh viện. Mỗi tháng được hưởng trợ cấp nhỏ nhưng
không được sử dụng danh xưng “Cựu nội trú” sau khi rời việc.Tôi bị bắt
buộc ngưng việc nầy vào đầu năm 1970 để nhập ngũ theo lịnh của Nha động
viên. Nếu không vào lính thì tôi có thể ở lại tiếp tục học chuyên khoa
bịnh Ngoài Da. Chiến tranh đã làm tiêu tan ước vọng của bao thanh niên
như tôi theo ngày tháng. Rồi 30 tháng Tư năm 1975, tù tội càng làm hao
mòn thể xác và tinh thần của những người trai sinh bất phùng thời.
Hơn
nửa thế kỷ trôi qua. Tất cả đều thay đổi. Bịnh viện Bình Dân bây giờ
không còn là bình dân nữa, mà là bịnh viện thâu tiền. Không có tiền thì
chịu chết. Bác sĩ, y tá lấy bao thơ. Ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày
cách mạng thay đổi chế độ tốt đẹp bằng chế độ “Cướp Sạch” (CS). Bịnh viện Bình Dân chỉ còn là dĩ vãng, một thời để nhớ.
Ôi! Cái thời giao tiếp giữa bịnh nhân và bác sĩ không qua tiền bạc đã mất rồi.
________
Chú thích
(*)“Bình
Dân” là tên do bác sĩ Phạm Biểu Tâm, cựu giám đốc bệnh viện Phủ Doãn,
đặt cho bệnh viện mới này. Bác sĩ, Giáo sư Y Khoa Phạm Biểu Tâm cũng là
một thành viên lập ra bệnh viện Bình Dân.
Bệnh
viện Bình Dân được xây cất giữa Quận Ba, số 371 trên đường Phan Thanh
Giản, gần chợ Vườn Chuối và khu Bàn Cờ, đó là một khu đông dân nhất của
Sài Gòn thuở ấy. Năm 1955, Bệnh viện Bình Dân được lập để làm nơi thực
nghiệm giải phẫu, bổ túc thêm cho Bệnh viện Chợ Rẫy.
Nguyễn Đan Tâm
(YK Sài gòn 62-69)
Trần Văn Giang (ghi lại)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Ngày 30 Tháng 4 thứ 50" - by Bùi Xuân Cảnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Lịch Sử Tên Nước Việt Nam" - by Từ Thiện / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Lối Xưa Xe Ngựa Hồn Thu Thảo" - by Nguyễn Thị Chân Quỳnh / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
"Bịnh Viện Bình Dân trước năm 1975" - by Nguyễn Đan Tâm / Trần Văn Giang (ghi lại).
xxx
*
Bịnh Viện hay Nhà thương Bình Dân Sài gòn (*)
là nơi tôi tiếp xúc với bịnh nhân từ những ngày đầu tiên chập chững vào
Trường Y Khoa Sài gòn. Đó là năm 1963. Mỗi buổi sáng, sau giờ học tại
giảng đường tại số 28 đường Trần Qúy Cáp từ 7am đến 9am, chúng tôi phải
có mặt tại bịnh viện trước 10 giờ. Bịnh viện Bình Dân nằm ở đường Phan
Thanh Giản, cạnh cư xá Đô thành. Đó là bịnh viện nhỏ, nhưng có nhiều
chuyên khoa vì trực thuộc trường Đại học Y khoa Sài gòn về phương diện
chuyên môn. Nhân viên bịnh viện đa số là dân Bắc di cư vào Nam năm 1954
từ bịnh viện Phủ Doãn và trường Đại học Y khoa Hà nội. Vì là bịnh viện
công, nên mọi dịch vụ đều miễn phí. Bịnh nhân đến từ thành thị đến thôn
quê, thuộc mọi thành phần đều được chữa trị như nhau. Sau đây là những
chuyên khoa với các thầy:
1/ Giải phẫu tổng quát, lồng ngực: Nguyễn Hữu, Phạm Biểu Tâm.
2/ Mắt: Nguyễn Đình Cát, Nguyễn Ngọc Kính.
3/ Tai, Mũi, Họng: Trương Minh Ký.
4/ Ung thư: Đào Đức Hoành.
5/ Ngoài Da: Nguyễn Văn Út.
6/ Cơ thể bịnh lý: Đào Hữu Anh.
7/ Giải phẫu chỉnh trực, xương: Trần Ngọc Ninh.
8/ Tiết niệu: Ngô Gia Hy.
9/ Gây mê, Hồi sức: Nguyễn Khắc Minh.
Mỗi
chuyên khoa là một khu bịnh lý được gọi bằng tiếng Pháp là “Clinique”
vì thời đó tiếng Pháp là ngôn ngữ chánh của trường Y khoa Sài gòn. Sinh
viên “đi thực tập” không dùng chữ “đi bịnh viện” mà dùng “đi nhà thương” hay là “đi Clinique.”
Không
có Nội khoa. Bịnh nhân rất an tâm khi giao sinh mạng cho bác sĩ giỏi.
Thầy thuốc làm việc theo lương tâm, lãnh lương chánh phủ, luôn luôn theo
phương châm "Vì lợi ích của bịnh nhân, không vì tiền bạc.” Chỉ
mổ để cứu bịnh nhân. Không mổ vì tiền. Đây là điểm son của nền y tế VNCH
trước năm 1975 mà ngay cả nước Mỹ cũng không có. Số sinh viên đến thực
tập mỗi ngày rất đông, không dưới 100 người nên bịnh viện lúc nào cũng
đầy ắp tà áo trắng. Chỉ có một điều là số nữ sinh viên quá ít nên thiếu
bóng hồng tha thướt. Chúng tôi được thầy Nguyễn Hữu hướng dẫn các bước
nhập môn của khoa giải phẫu như rửa tay, mang “mask,” mặc “gown,”
trước khi vào phòng mổ, cách may các vết thương. Các trường hợp bịnh lý
được thầy diễn giảng tỉ mỉ trong giảng đường nhỏ của bịnh viện. Giáo sư
Nguyễn Hữu là vị thầy tận tâm với bịnh nhân và sinh viên y khoa, rất
đáng được ca tụng trong lịch sử trường Y Khoa Sài gòn.
Bắt đầu năm thứ 2 và 3, sinh được chia phiên trực gác sau giờ làm việc để học hỏi cách đối phó với các trường hợp khẩn cấp.
Bịnh viện Bình Dân, ngày, tháng, năm 1968.
Hôm
đó, là phiên trực của tôi, một sinh viên y khoa năm thứ năm. Nhiệm vụ
trực của sinh viên năm thứ 5 và 6 là thay mặt bác sĩ khám, điều trị hay
cho nhập viện chờ đợi trình thầy quyết định những trường hợp khó. Nếu
có gì không giải quyết được thì báo cho nội trú trực cùng ngày.
Bịnh nhân là một cô gái trẻ 15 tuổi, đi một mình từ quận Bình Chánh vì lý do: Đau bụng.
Người
bịnh khai đau bụng gần 2 năm, cơn đau lâm râm xuất hiện mỗi 1, 2 tháng,
rồi hết sau 4, 5 ngày. Chưa đi bác sĩ nào cũng như chưa uống thuốc gì.
Vì thấy cơn đau tự nhiên hết nên bịnh nhân bỏ lơ. Lần nầy, đau nhiều hơn
nên nghe lối xóm nói, đi thử đến đây xem sao. Cô ta còn cho biết là từ
nhỏ chưa có bịnh gì quan trọng; và chưa có kinh nguyệt lần nào (!).
Khám
bụng thì thấy một khối u bằng nắm tay, nằm dưới rún. Đụng vào gây cảm
giác đau đớn. Khám bộ phận sinh dục phát hiện màng trinh bị bịt kín
(imperforated hymen), căng phồng, do kinh nguyệt không lối thoát tích tụ
lại. Đây là tật bẩm sinh hiếm có. Tôi vội báo cho người nội trú tất cả
mọi việc. Bịnh nhân được chuyển đến phòng giải phẫu nhỏ (minor surgery).
Tôi giải thích tóm tắt cho bịnh nhân hiểu. Chỉ cần làm thủ thuật nhỏ sẽ
giải quyết vấn đề. Sau khi nằm nghỉ 1 giờ, bịnh nhân xin về vì nhà chỉ
có hai má con, và lúc đi chưa cho má hay. Cô gái rối rít cám ơn khi biết
rằng tật bẩm sinh được chữa lành.
Bịnh viện Bình Dân, ngày, tháng, năm 1969.
Tôi
bị đánh thức lúc 2 giờ sáng. Tiếng người y công gọi tôi: “Ông thầy, có
bịnh nặng.” Tôi khoác vội áo “blouse,” tiến về khu bịnh nhân nằm điều
trị của khu Ngoài Da. Một người đàn ông đón tôi làm tôi sửng sốt. Đó là
chú Tư. Ba của chú Tư là em ruột của ông nội tôi. Bịnh nhân là con của
chú Tư. Người bịnh trong tình trạng hấp hối, miệng than lạnh qúa. Tôi
vội thông báo cho nội trú. Sau khi khám cẩn thận, người nội trú nhìn tôi
lắc đầu. Vậy là vô phương. Bịnh nhân còn trẻ, mắc phải chứng
“Erythrodermia,” do dị ứng thuốc trị bịnh lao phổi. “Erythrodermia” làm
cho da toàn thân bị đỏ và tróc. Từ đó đưa đến các biến chứng chết người.
Nhìn người bịnh đi lần vào cõi thiên thu, tôi nhớ đến câu: “Guérir quelquefois, soulager souvent, consoler toujours,” tạm dịch là “Đôi khi chữa lành, Thường thường làm đỡ, Luôn luôn an ủi”
mà các thầy thường nhắc nhở sinh viên về sự khiêm nhường cần phải có
của thầy thuốc. Cho đến bây giờ, năm 2025, dù y học có nhiều tiến bộ,
vẫn còn nhiều chứng bịnh bất trị. Ôi cái vòng “Sinh, lão, bịnh, tử” cứ
đeo theo mãi con người. Và vì thế mà con người cứ cho đời là bể khổ.
Năm
1969, tôi xin được công việc nội trú ủy nhiệm tại khu Ngoài da với ý
định học chuyên môn. Nội trú ủy nhiệm khác nội trú thực thụ là do giáo
sư trưởng khoa chọn mà không qua kỳ thi tuyển và chỉ làm việc nhưng
không ăn, ở trong bịnh viện. Mỗi tháng được hưởng trợ cấp nhỏ nhưng
không được sử dụng danh xưng “Cựu nội trú” sau khi rời việc.Tôi bị bắt
buộc ngưng việc nầy vào đầu năm 1970 để nhập ngũ theo lịnh của Nha động
viên. Nếu không vào lính thì tôi có thể ở lại tiếp tục học chuyên khoa
bịnh Ngoài Da. Chiến tranh đã làm tiêu tan ước vọng của bao thanh niên
như tôi theo ngày tháng. Rồi 30 tháng Tư năm 1975, tù tội càng làm hao
mòn thể xác và tinh thần của những người trai sinh bất phùng thời.
Hơn
nửa thế kỷ trôi qua. Tất cả đều thay đổi. Bịnh viện Bình Dân bây giờ
không còn là bình dân nữa, mà là bịnh viện thâu tiền. Không có tiền thì
chịu chết. Bác sĩ, y tá lấy bao thơ. Ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày
cách mạng thay đổi chế độ tốt đẹp bằng chế độ “Cướp Sạch” (CS). Bịnh viện Bình Dân chỉ còn là dĩ vãng, một thời để nhớ.
Ôi! Cái thời giao tiếp giữa bịnh nhân và bác sĩ không qua tiền bạc đã mất rồi.
________
Chú thích
(*)“Bình
Dân” là tên do bác sĩ Phạm Biểu Tâm, cựu giám đốc bệnh viện Phủ Doãn,
đặt cho bệnh viện mới này. Bác sĩ, Giáo sư Y Khoa Phạm Biểu Tâm cũng là
một thành viên lập ra bệnh viện Bình Dân.
Bệnh
viện Bình Dân được xây cất giữa Quận Ba, số 371 trên đường Phan Thanh
Giản, gần chợ Vườn Chuối và khu Bàn Cờ, đó là một khu đông dân nhất của
Sài Gòn thuở ấy. Năm 1955, Bệnh viện Bình Dân được lập để làm nơi thực
nghiệm giải phẫu, bổ túc thêm cho Bệnh viện Chợ Rẫy.
Nguyễn Đan Tâm
(YK Sài gòn 62-69)
Trần Văn Giang (ghi lại)

.639018135959336865.jpg)





.639018135959336865.jpg)










