Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Báo chí Việt Cộng xác nhận tên trờ cờ nằm vùng Dương Văn Minh đã giết TT Ngô Đình Diệm.
Do đó, các bài viết liên quan lịch sử đều phải đi đúng…lề phải, không có ngoại lệ dành cho ai, nhất là các nhân vật nổi tiếng như Dương Văn Minh từng lập đại công cho CS Hà Nộ
Báo chí Việt Cộng xác nhận tên trờ cờ nằm vùng
Dương Văn Minh đã giết TT Ngô Đình Diệm.
Trong chế độ Cộng Sản Việt
Nam hiện nay, báo chí in hay...điện tử đểu phải có nội dung phù hợp đường lối, chủ trương của Đảng.
Do đó, các bài viết liên quan lịch sử đều phải đi đúng…lề
phải, không có ngoại lệ dành cho ai, nhất là các nhân vật nổi tiếng như Dương Văn Minh từng lập đại
công cho CS Hà Nội trong tiến trình thôn tính phần lãnh thổ còn lại dưới Vĩ
tuyến 17 gọi là Việt Nam Cộng Hòa sau Hiệp định Geneve 1954.
Cách đây 53 năm vào hôm nay 1-11-2016, Dương
Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Đệ I VNCH, và cũng chính y đã
thừa lịnh CS Hà Nội, cố giành lấy quyển Tổng Thống VNCH để ra lịnh đầu hàng,
dưới mỹ từ…”bàn giao” toàn cõi miền Nam Việt Nam cho quân Cộng Sản Bắc Việt vào
trưa ngày 30-4-1975.
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc khá
lâu, CS Hà Nội không e ngại gì khi tung hê (còn gọi là..."bạch hóa") cuộc đời và sự nghiệp trở cờ nẳm
vùng của Dương Văn Minh, tám năm sau khi hắn chết, CS Hà Nội đã cho mở “Hồ sơ
về Tướng Dương Văn Minh”, phổ biến khắp thế giới qua báo điện tử Hồn Việt như
sau:
Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh
nguồn Hồn Việt Quốc Học 5/29/2009
Phạm Văn Hùng/ Hồn Việt
28 tháng 2, 2010 |
L.T.S:
Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn
Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn
một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm
tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ
tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên
cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng
minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu
sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những
người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục
miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính
trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong
phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của
lòng yêu nước Việt Nam…
Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến. (HV)
THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH
-
Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn
Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con),
làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).
Ông
Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái.
Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt
động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.
Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ
trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản
cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị
kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc
cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó
quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị,
là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.
Ông
Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải
giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà
Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt
Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta
và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
-
Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98
đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với
tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông
lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng
chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền
thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý
do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì
phải tập lại cho quen”.
Năm
1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh
và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ
Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông
Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.
Khi
đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông
không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.
QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
Công
tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với
nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục,
Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm
1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương
Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục
Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý
điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền
Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty.
Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng
8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông
Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về
thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty
thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám
là Dương Thu Vân.
Thấy
tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến
của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô
Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia
đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo
phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày
01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân
nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm
Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý
định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận
Trung Ương Cục.
Sau
cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà
Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai),
sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và
trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước
đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này,
nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp
chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+
Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương
Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong
tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời
mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì
lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.
+
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng
Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném
bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân
sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
+
Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh
nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt
kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+
Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn
Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ
trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi
xu hướng trung lập.
-
Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý
đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng
01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng
quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một
cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để
cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.
Mỹ
thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên
chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử
làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian
rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA,
làm con bài dự trữ.
Cuối
năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí
thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí
Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái
thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh
Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương
Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái,
sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA
bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái
Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi
chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể
qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu
Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương
Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau:
“Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ
phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần
khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có
thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương
Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính
trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi,
ở trong này khi cần có lợi hơn…
Sau
đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm
(với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ
chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn
Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết
có khi không làm được…”
Cuối
năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban
binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương
Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan
là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí
Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh
vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn
Hữu Hạnh.
Tháng
3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi
Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp
cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết
thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi
được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần
Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn
gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng,
thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu
trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc
thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn
“án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ
Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng
9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm
điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí
mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là
“nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh,
ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo
Điện Tín, báo Đại dân tộc…).
Đầu
năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4,
chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn
Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thời
gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có
lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia
viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần
Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày
01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các
đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí
Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh
T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn
Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là
chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm
điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền
cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông
qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn.
Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá
Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường
Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính
phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu
Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận
đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông
Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn
Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau
hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương
(tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở
rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo,
lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước
ngoài”.
Năm
1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư
Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên
Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên
cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.
Trên
thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua
tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà
tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng
6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh)
phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó,
lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng
hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư
Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác
định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định
Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành
viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập,
ký giả, tướng lĩnh . Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính
trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn
Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn
Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo
chí trong và ngoài nước.
-
Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương
Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh)
bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần
chấm dứt chiến tranh.
5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn
Với
các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi
thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ,
cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu
hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài
Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần
chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần
hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học
sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi
hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế
VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
*
Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với
Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng
phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng
Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh
cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ
lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía của phòng (không tiếp đại sứ Mỹ
nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ
chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên
Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.
Sau
khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống,
tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị
nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ
chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn
Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh
làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.
*
Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao
Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời
nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và
khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Theo
chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975,
tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là
đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi
Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc
Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi
cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung
Quốc”.
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG
15
giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử
Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng
thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội,
cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc
Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về
Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường
Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông
Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường
Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến
tranh).
17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo
ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn
bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm
28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của
tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom
dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Theo
cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công
lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập,
gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những
người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội.
Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm
Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi
nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn,
không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
Ngày 29/4/1975
Tổng
thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ
Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc
Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ
quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để
giải quyết hòa bình ở Việt Nam.
Đến
16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị
(trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện
đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).
Tổng
thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá
cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu
trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn
vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau
đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh
mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ
Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với
phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn
Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo
cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến
tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu
hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).
Từ
chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương
Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa
sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai,
thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương
Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.
Ngày 30/4/1975
-
6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng
Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo
cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó,
ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất,
nay là đường Lê Duẩn).
Tổng
thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng
Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và
quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố
này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý
có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời
tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh
Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát
thanh.
9
giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh:
“Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất
cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng
tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để
thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu
vô ích cho đồng bào”.
Sau
đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội
các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau
khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi
người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi
hay ở thì tùy”.
11
giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng
đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên
bố đầu hàng vô điều kiện.
KẾT LUẬN
1/
Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ
lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ
miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ
và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa
bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.
2/
Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên
làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy
không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến
tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh.
Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của
ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực
lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi
Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm
chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO
của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3/-
Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực
kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần
chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công
tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn
Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong
nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương
Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở
đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30)
ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại
bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo
thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành
phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã
khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ
giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn
kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần
chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói,
hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã
góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh
sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là
nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004
____________
(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.
(2)
Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà,
Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân
cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.
(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.
(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.
Võ Hồng Phi chuyển
Võ Hồng Phi chuyển
Bàn ra tán vào (9)
nhat ca
Dương văn Minh quả là người yêu đất nước VN
----------------------------------------------------------------------------------
Nhất CÔNG AN
Trung cuốc " YÊU ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM " hơn Minh gà tồ gấp vạn lần
----------------------------------------------------------------------------------
Nguyễn Tấn Khang
(Năm 1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.
Khi đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.)
Thử hỏi coi chống Pháp mà Pháp muốn giúp đở?
Dân VN chỉ xin đi trị bệnh ở nước Pháp mà đòi xin (hay không xin) trợ cấp của Pháp?
Đọc tới đó là thấy muốn đéo mẹ thằng viết bài nầy rồi.
Cho nên khỏi đọc tiếp cái láu cá của nó chi cho mệt.
----------------------------------------------------------------------------------
Linhngayxua
Cac tuong lanh va My huu dong vo muu, khong biet DVM la cong san NV nen dua DVM len lam lanh tu. Ngay 28 thang 4 Duong Van Minh len dai phat thanh keu goi dong bao dung bo nuoc ma di va goi CS la nhung nguoi anh em phia ben kia. Dan mien Nam thuong keo nhau di tan khi quan CS den, nhung ho bi DVM luong gat o lai. Den khi thay CS tra thu, ho keo nhau vuot bien chet vo so. Sau khi giao het quan can chanh mien Nam cho CS bat cai tao, DVM xin di Phap vi khong chiu noi cai giai phap hoa giai cua minh o VN. Quan doi VNCH bi DVM luong gat mot vo dau lam, o lai ban giao cho CS roi mot so chet trong tu cai tao.
----------------------------------------------------------------------------------
Linhngayxua
Cac tuong lanh va My huu dong vo muu, khong biet DVM la cong san NV nen dua DVM len lam lanh tu. Ngay 28 thang 4 Duong Van Minh len dai phat thanh keu goi dong bao dung bo nuoc ma di va goi CS la nhung nguoi anh em phia ben kia. Dan mien Nam thuong keo nhau di tan khi quan CS den, nhung ho bi DVM luong gat o lai. Den khi thay CS tra thu, ho keo nhau vuot bien chet vo so. Sau khi giao het quan can chanh mien Nam cho CS bat cai tao, DVM xin di Phap vi khong chiu noi cai giai phap hoa giai cua minh o VN. Quan doi VNCH bi DVM luong gat mot vo dau lam, o lai ban giao cho CS roi mot so chet trong tu cai tao.
----------------------------------------------------------------------------------
ngoc
Tướng cái nỗi gì mà 2 lần xuất hiện tren chính trường VN thì 2 lần dân tộc VN lâm vòng khổ ải.Chỉ có quá ngu mới bị kẻ khác lợi dụng đến như thế.
Tôi cũng từng là SQ và dĩ nhiên theo nguyên tắc thì là thuộc cấp của lão DVM...Nhưng thú thật,tôi thấy mặt của lão ngu quá.
----------------------------------------------------------------------------------
Lynda
Tên Việt gian này tham quá hoá ngu chuyên đem thân " lót đường" cho kẻ khác đạp lên mà đi.Cái tham đầu tiên thi không là lót đường mà là ĂN CẮP : Trong chiến dịch dẹp Bảy Viễn,hắn cướp đước khá bộn.Ông Diệm biết nên hắn sợ và từ sợ thành thù.Đó là thái độ thông thường của kẻ tiểu nhân : LẤY ÂN TRẢ OÁN....Chẳng lạ gi những kẻ được VC khen : nếu không là Lê văn Tám thì cũng là những Lê đình Giót,những Dương Văn Minh..hay những con vật vớ vẩn nào...
----------------------------------------------------------------------------------
Việt
Dương văn Minh đặt tên cho con gái của ông la MAI ...! Kiến thức của ông thế nào mà mfnh họ DƯƠNG , đặt tên con mình là MAI thành ra DƯƠNG MAI....Ngộ thật
----------------------------------------------------------------------------------
Binh Bon
Ngụy sử ! Nếu tên DVM này có công lớn với cắt mạng, sao không đặt tên đường DVM đi ? Đờ mờ cờ sờ !
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Báo chí Việt Cộng xác nhận tên trờ cờ nằm vùng Dương Văn Minh đã giết TT Ngô Đình Diệm.
Do đó, các bài viết liên quan lịch sử đều phải đi đúng…lề phải, không có ngoại lệ dành cho ai, nhất là các nhân vật nổi tiếng như Dương Văn Minh từng lập đại công cho CS Hà Nộ
Báo chí Việt Cộng xác nhận tên trờ cờ nằm vùng
Dương Văn Minh đã giết TT Ngô Đình Diệm.
Trong chế độ Cộng Sản Việt
Nam hiện nay, báo chí in hay...điện tử đểu phải có nội dung phù hợp đường lối, chủ trương của Đảng.
Do đó, các bài viết liên quan lịch sử đều phải đi đúng…lề
phải, không có ngoại lệ dành cho ai, nhất là các nhân vật nổi tiếng như Dương Văn Minh từng lập đại
công cho CS Hà Nội trong tiến trình thôn tính phần lãnh thổ còn lại dưới Vĩ
tuyến 17 gọi là Việt Nam Cộng Hòa sau Hiệp định Geneve 1954.
Cách đây 53 năm vào hôm nay 1-11-2016, Dương
Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Đệ I VNCH, và cũng chính y đã
thừa lịnh CS Hà Nội, cố giành lấy quyển Tổng Thống VNCH để ra lịnh đầu hàng,
dưới mỹ từ…”bàn giao” toàn cõi miền Nam Việt Nam cho quân Cộng Sản Bắc Việt vào
trưa ngày 30-4-1975.
Cuộc chiến Việt Nam kết thúc khá
lâu, CS Hà Nội không e ngại gì khi tung hê (còn gọi là..."bạch hóa") cuộc đời và sự nghiệp trở cờ nẳm
vùng của Dương Văn Minh, tám năm sau khi hắn chết, CS Hà Nội đã cho mở “Hồ sơ
về Tướng Dương Văn Minh”, phổ biến khắp thế giới qua báo điện tử Hồn Việt như
sau:
Hồ sơ về Tướng Dương Văn Minh
nguồn Hồn Việt Quốc Học 5/29/2009
Phạm Văn Hùng/ Hồn Việt
28 tháng 2, 2010 |
L.T.S:
Hồn Việt số 11 (tháng 5/2008) đã đăng một số ý kiến về Tướng Dương Văn
Minh. Đó là một số ý kiến bước đầu quan trọng, giúp ta tìm hiểu sâu hơn
một sự kiện lịch sử, một con người. Kỳ này, Hồn Việt xin công bố bản tóm
tắt của một công trình nghiên cứu công phu, nhiều tư liệu mới với độ
tin cậy cao của ông Phạm Văn Hùng. Hi vọng rằng, với công trình nghiên
cứu này, sự kiện về Tướng Dương Văn Minh sẽ được sáng tỏ thêm. Nó chứng
minh thêm tầm vóc của ngày 30/4 lịch sử dưới sự lãnh đạo toàn diện, sâu
sát, kiên trì… của Bộ Chỉ huy tối cao đứng đầu là Lê Duẩn và của những
người trực tiếp tham gia ở chiến trường miền Nam, của Trung Ương Cục
miền Nam. Nó cũng chứng tỏ sự phối hợp tuyệt đẹp giữa quân sự - chính
trị - địch vận… trong cuộc chiến tranh giải phóng. Nó nói lên sự phong
phú vô tận của cuộc sống, của cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc của
lòng yêu nước Việt Nam…
Chúng tôi mong nhận được thêm nhiều ý kiến. (HV)
THÂN THẾ VÀ GIA ĐÌNH
-
Ông Dương Văn Minh sinh năm 1916 ở tỉnh Mỹ Tho. Cha là ông Dương Văn
Huề, khi đi học mướn lấy tên là Dương Văn Mau (tên của người bà con),
làm thầy giáo, sau làm tri phủ, rồi đốc phủ sứ (hàm).
Ông
Dương Văn Huề và bà Nguyễn Thị Kỹ có bảy người con: bốn trai, ba gái.
Ông Minh là con cả. Dương Thanh Nhựt là con trai kế, có tham gia hoạt
động cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám (năm 1944) và suốt hai cuộc
kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, là đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam.
Dương Thanh Sơn, em trai thứ năm, là sĩ quan chế độ cũ.
Gia đình ông Minh theo đạo Phật, lễ giáo, nề nếp.
- Năm 1940, Dương Văn Minh học trường đào tạo hạ sĩ quan và sĩ quan dự bị của Pháp. Năm 1942 vào quân đội Pháp.
Sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Dương Văn Minh tham gia lực lượng vũ
trang cách mạng chống Pháp xâm lược. Pháp trở lại, gia đình ông Minh tản
cư về Chợ Đệm (Tân An). Lần đó, ông về thăm nhà, đơn vị rút đi, ông bị
kẹt lại chưa tìm được đơn vị thì bị Tây bắt, buộc ông trở lại làm việc
cho quân đội Pháp. Năm 1946, Dương Văn Minh là thiếu úy, đại đội phó
quân đội Pháp. Lần lượt lên đến cấp tá, rồi qua Pháp học trường võ bị,
là một trong những sĩ quan đầu tiên của quân đội “Việt Nam Cộng Hoà”.
Ông
Minh cũng theo đạo Phật, nhân từ, thương người. Sợ sát sinh, sợ phải
giết người. Thấy ai bị nạn thì ra tay cứu như can thiệp cho em trai bà
Bùi Thị Mè (1) là thiếu tá chế độ cũ bị tình nghi hoạt động cho “Việt
Cộng” được thả ra; giúp ông Nguyễn Minh Triết (Bảy Trung), cán bộ của ta
và là em bạn dì ruột bị địch bắt giam ở nhà lao Phú Lợi, được ra tù…
-
Ông Minh là người rất tự trọng. Sau ngày 30/4/1975, ông được về nhà (98
đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3) sống với
tư cách một “công dân của một nước độc lập” (2). Đời sống khó khăn, ông
lại bị bệnh tiểu đường, bị đau dạ dày. Có lúc lãnh đạo Thành phố (đồng
chí Võ Văn Kiệt) nhờ bà Bùi Thị Mè gợi ý khéo là Đảng và chính quyền
thành phố muốn hỗ trợ ông trong cuộc sống. Nhưng ông Minh từ chối với lý
do: “Các anh các chị sống được thì tôi cũng sống được nếu chưa quen thì
phải tập lại cho quen”.
Năm
1983, ông Minh được Chính phủ ta chấp thuận để ông sang Pháp trị bệnh
và thăm con. Toà Tổng Lãnh sự Pháp ở Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Bộ
Ngoại giao Pháp giúp ông Minh vé máy bay và tiền gửi hành lý nhưng ông
Minh từ chối, nói rằng “đã có Chính phủ Việt Nam lo rồi”.
Khi
đi, ông Minh chỉ xin mang theo một ít đồ cổ trong nhà. Sang Pháp, ông
không nhờ vả gì Chính phủ Pháp, không xin trợ cấp xã hội Pháp.
QUÁ TRÌNH BINH ĐỊCH VẬN ĐỐI VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
Công
tác binh địch vận đối với tướng Dương Văn Minh bắt đầu từ năm 1962, với
nhiều lực lượng, nhiều ban ngành tham gia: Binh vận Trung Ương Cục,
Tình báo, An ninh T4 (Sài Gòn - Gia Định), Trí vận…
1/ Ban binh vận Trung Ương Cục miền Nam
Năm
1960, theo yêu cầu của Ban binh vận Xứ ủy Nam bộ (sau này là Trung Ương
Cục miền Nam), đồng chí Võ Văn Thời, Cục trưởng Cục địch vận Tổng Cục
Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam đề nghị và được cấp trên đồng ý
điều động đồng chí Dương Thanh Nhựt (3) về Cục để giao nhiệm vụ về miền
Nam vận động Dương Văn Minh. Đồng chí Nhựt được đặt bí danh là Mười Ty.
Cuối tháng 12/1960, đồng chí Mười Ty lên đường.
Tháng
8/1962, đồng chí Mười Ty móc được với gia đình, trước hết là với ông
Nguyễn Văn Di, cậu ruột; qua cậu, móc vợ là Sử Thị Hương, nhắn vợ về
thăm mẹ và tìm hiểu thái độ của anh hai Dương Văn Minh. Sau đó Mười Ty
thăm em trai là Dương Thanh Sơn, sĩ quan quân đội Sài Gòn và em thứ tám
là Dương Thu Vân.
Thấy
tình hình thuận lợi, đồng chí Mười Ty hướng dẫn cán bộ mật đem ý kiến
của lãnh đạo trao đổi với Dương Văn Minh về việc đảo chính Chính phủ Ngô
Đình Diệm. Trong lúc Tướng Minh đang bực tức Ngô Đình Diệm độc tài, gia
đình trị, phủ nhận công lao của mình (tảo thanh Bình Xuyên và các giáo
phái Hoà Hảo). Tướng Minh hứa sẽ tìm cách làm.
Ngày
01/11/1963, Trung tướng Dương Văn Minh nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân
nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Chính phủ Ngô Đình Diệm và lên làm
Quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa lần thứ nhất. Đồng chí Mười Ty nắm được ý
định Tướng Minh chuẩn bị đảo chính Diệm và có báo cáo về Ban binh vận
Trung Ương Cục.
Sau
cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm một thời gian, đồng chí Mười Ty có vào nhà
Dương Văn Minh (98 Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai),
sau đó qua nhà em là Dương Thanh Sơn ở mười ngày. Qua nhiều lần gặp và
trao đổi với Dương Văn Minh, đồng chí Mười Ty cho rằng Tướng Minh trước
đây mơ hồ về Mỹ là tên xâm lược, nay thì hết tranh cãi về điều này,
nhưng vẫn còn cho là Mỹ có giúp đỡ miền Nam. Tướng Minh hứa hủy bỏ ấp
chiến lược, cho nhân dân về nhà cũ với ruộng vườn, mồ mả ông bà.
Trong thời gian làm Quốc trưởng lần thứ nhất. Dương Văn Minh có một số hành động tiến bộ có lợi cho cách mạng:
+
Quyết định hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược. Đại sứ Mỹ Cabot Lodge hỏi Dương
Văn Minh vì sao làm thế? Ông trả lời, đại ý: Người Việt Nam có phong
tục tập quán riêng, không người nào muốn xa rời mảnh đất đã gắn bó đời
mình và mồ mả ông cha. Dồn dân vào ấp chiến lược là chủ trương sai, vì
lẽ đó tôi giải tán ấp chiến lược để người dân trở về quê cũ của mình.
+
Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mc Namara và Tướng Harkin yêu cầu Quốc trưởng
Dương Văn Minh để cho Hoa Kỳ ném bom ra miền Bắc, không ném ồ ạt mà ném
bom nổ chậm trên đê sông Hồng. Miền Bắc sẽ bị lũ lụt mất mùa, người dân
sẽ đói… Dương Văn Minh lắc đầu từ chối.
+
Tháng 1/1964, Đại sứ Cabot Lodge yêu cầu Quốc trưởng Dương Văn Minh
nghiên cứu, chuẩn y và thực hiện kế hoạch 34A (hoạt động gián điệp, biệt
kích chống miền Bắc). Dương Văn Minh không trả lời.
+
Theo lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (4) Dương Văn
Minh tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ
trung lập, lập Chính phủ liên hiệp. Nhưng Mỹ cự tuyệt hòa đàm, chống mọi
xu hướng trung lập.
-
Do những chủ trương và hành động của Dương Văn Minh không theo đúng ý
đồ “Bắc tiến” của Mỹ, theo chỉ thị của Tổng thống Mỹ Johnson, cuối tháng
01/1964, chính quyền Mỹ đã đưa Nguyễn Khánh lên làm Chủ tịch Hội đồng
quân nhân cách mạng kiêm Thủ tướng Chính phủ Cộng Hòa Việt Nam bằng một
cuộc đảo chính. Nguyễn Khánh tuyên bố: “Tôi đảo chánh Dương Văn Minh để
cứu đất nước này khỏi rơi vào tay Cộng sản”.
Mỹ
thấy Dương Văn Minh có hậu thuẫn ở miền Nam, nhưng khó điều khiển nên
chỉ thị cho Chính quyền Sài Gòn phong Dương Văn Minh làm đại tướng và cử
làm đại sứ lưu động ở Đài Loan. Mỹ mời ông Minh qua Mỹ một thời gian
rồi cho lưu vong ở Thái Lan (từ đầu năm 1965) có sự giám sát của CIA,
làm con bài dự trữ.
Cuối
năm 1967, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh, Phó Bí
thư Trung Ương Cục miền Nam) và Ban binh vận Trung Ương Cục, đồng chí
Mười Ty có chuyến qua Pháp, ở nhà em rể là Charlot để móc người em gái
thứ 8 là Dương Thu Vân qua Pháp. Có thời gian Mười Ty ở nhà Dương Minh
Đức (con trai Dương Văn Minh). Được biết, khi người em gái thứ 6 Dương
Thu Hà bị ung thư chết, Dương Văn Minh có qua Pháp dự đám tang em gái,
sau đó ở lại Pháp hơi lâu, có ý chờ tin của Mười Ty. Nhưng vì bọn CIA
bảo trung tá Đẩu (sĩ quan tùy viên của Tướng Minh) kêu ông Minh về Thái
Lan, nên không ở lâu hơn được nữa.
Khi
chị Dương Thu Vân qua Paris gặp Mười Ty cho hay là ông Minh không thể
qua Pháp được nữa, thì Mười Ty mới chuyển kế hoạch qua em (Dương Thu
Vân) và cháu (Dương Minh Đức) truyền đạt ý kiến của cấp trên cho Dương
Văn Minh. Sau đó Đức báo lại ý kiến của cha anh với Mười Ty như sau:
“Lập Chính phủ ba thành phần là khó lắm, cần đánh cho văng Thiệu, Mỹ
phải rút đi là hết chiến tranh. Tôi có ra làm chính phủ ba thành phần
khi bầu cử thì ông Thọ (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ) cũng thắng cử, tôi có
thất cử cũng không nghĩa lý gì, miễn có lợi cho đất nước là hơn”. Dương
Minh Đức nói thêm: Ba cháu không còn lực lượng, không biết làm chính
trị, không giỏi bằng ông Thọ; ra ngoài (ra khu) lúc này là không có lợi,
ở trong này khi cần có lợi hơn…
Sau
đó, đồng chí Mười Ty về Hà Nội, được đồng chí Lê Duẩn gặp và mời cơm
(với đồng chí Võ Văn Thời). Sau khi nghe đồng chí Mười Ty báo cáo đầy đủ
chuyến đi công tác ở Pháp, đồng chí Lê Duẩn khen và nói: “Dương Văn
Minh trả lời như vậy là thành thật, nói như vậy là làm được, chứ hứa hết
có khi không làm được…”
Cuối
năm 1970,… theo chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục miền Nam, Ban
binh vận Trung Ương Cục tìm một người khác, để tiếp cận vận động Dương
Văn Minh. Đó là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, cơ sở của ta trong sĩ quan
là bạn bè và thầy trò có thể tiếp cận được với Dương Văn Minh. Đồng chí
Nguyễn Tấn Thành (tức Tám Vô Tư), bác của Nguyễn Hữu Hạnh, được Ban binh
vận Trung Ương Cục giao nhiệm vụ trực tiếp nắm và bồi dưỡng cho Nguyễn
Hữu Hạnh.
Tháng
3 và 4/1975, đồng chí Tám Vô Tư thường gặp ông Nguyễn Hữu Hạnh. Sau khi
Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đồng chí Tám Vô Tư gợi ý ông Hạnh nên tiếp
cận và vận động Dương Văn Minh nếu lên làm Tổng thống thì tìm cách kết
thúc cuộc chiến có lợi cho nhân dân.
Khi
được tin ông Dương Văn Minh lên làm Tổng thống, ngày 28/4/1975, từ Cần
Thơ, ông Nguyễn Hữu Hạnh bằng mọi cách, vượt mọi khó khăn lên Sài Gòn
gặp Dương Văn Minh và được ông giao làm phụ tá Tổng tham mưu trưởng,
thay Tổng tham mưu trưởng ở bên cạnh ông, sau đó là Quyền Tổng tham mưu
trưởng. Với các cương vị này, ông Hạnh đã góp phần quan trọng vào việc
thực hiện lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh làm cho quân đội Sài Gòn
“án binh bất động”, tan rã tại chỗ, không nổ súng và thúc đẩy Chính phủ
Dương Văn Minh sớm bàn giao chính quyền cho cách mạng.
2/ Thâm nhập vào “nhóm Dương Văn Minh”
Tháng
9/1972, Ban An ninh T4 (Thành phố Sài Gòn - Gia Định) thành lập Cụm
điệp báo mới, bí số là A10, với nhiệm vụ xây dựng lực lượng điệp báo bí
mật trong một số đối tượng, trong đó có lực lượng thứ ba, đặc biệt là
“nhóm Dương Văn Minh”… (các thành viên bộ tham mưu nhóm Dương Văn Minh,
ban biên tập bản tin nội bộ nhóm Dương Văn Minh, thư ký tòa soạn báo
Điện Tín, báo Đại dân tộc…).
Đầu
năm 1975, đồng chí Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trưởng Ban An ninh T4,
chỉ đạo A10 tìm cách thâm nhập vào lực lượng thứ ba và nhóm Dương Văn
Minh để tác động, vận động lực lượng này chống đối, cô lập, chia rẽ
chính quyền Nguyễn Văn Thiệu.
Thời
gian này, Cụm điệp báo A10 tiếp cận, bám sát “nhóm Dương Văn Minh”, có
lúc họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) ở luôn trong nhà Dương Văn Minh; tham gia
viết và in tuyên cáo “chống Chính phủ Thiệu không có Thiệu”, đòi Trần
Văn Hương từ chức (Tổng thống).
Ngày
01/3 và cuối tháng 3/1975, đồng chí Huỳnh Bá Thành (lần sau có thêm các
đồng chí Trần Thiếu Bảo, Huỳnh Huề…) vào căn cứ báo cáo với đồng chí
Mai Chí Thọ (Bí thư thành ủy), Trần Thanh Vân (Phó trưởng Ban An ninh
T4). Đồng chí Mai Chí Thọ chỉ đạo: “…Phải bằng mọi cách để Dương Văn
Minh thay Nguyễn Văn Thiệu, rồi giao chính quyền cho cách mạng. Đó là
chủ trương của Đảng nhằm tránh đổ máu, tránh tổn thất cho nhân dân”.
3/ Tác động vào Chính phủ Dương Văn Minh
Cụm
điệp báo VĐ2 thuộc phòng tình báo chiến lược M22, cục tham mưu Miền
cũng có chỉ đạo vận động tác động nội các Dương Văn Minh đầu hàng thông
qua kỹ sư Tô Văn Cang trong những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn.
Theo ông Tô Văn Cang, sáng ngày 28/4/1975, ông Cang đến gặp Đại tá
Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) ở nhà ông Ba Lễ (cơ sở tình báo) hẻm đường
Triệu Đà, Sài Gòn, để báo ý kiến của ông Nguyễn Văn Diệp (trong Chính
phủ Dương Văn Minh) muốn tìm gặp đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam để xin ý kiến xử trí tình hình Sài Gòn. Đồng chí Sáu
Trí phân tích tình hình và “khuyên Chính phủ Dương Văn Minh chấp nhận
đầu hàng vô điều kiện”. Ý kiến này được ông Cang phản ánh lại cho ông
Diệp và sau đó ông Diệp có báo cáo lại cho bộ ba Dương Văn Minh – Nguyễn
Văn Huyền – Vũ Văn Mẫu.
4/ Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị
Sau
hiệp định Paris (1973), Hội nghị lần thứ 21 Ban chấp hành Trung Ương
(tháng 7/1973) đề ra nhiệm vụ: “Xây dựng lực lượng thứ ba ở đô thị”; “mở
rộng hơn nữa Mặt trận dân tộc Giải phóng gồm mọi giai cấp, tôn giáo,
lực lượng hòa bình, độc lập, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước
ngoài”.
Năm
1974, theo chỉ đạo của đồng chí Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), Phó Bí thư
Trung Ương Cục miền Nam, đồng chí Quốc Hương (Mười Hương), Ủy viên
Thường vụ, Trưởng Ban An ninh T4 đã chọn một số thanh niên, sinh viên
cài vào hoạt động trong lực lượng thứ ba.
Trên
thực tế thì lực lượng ta đã hình thành trước khi có hiệp định Paris qua
tổ chức “Lực lượng quốc gia tiến bộ” do luật sư Trần Ngọc Liễng và nhà
tư sản dân tộc (ngành vật liệu xây dựng) Phan Văn Mỹ thành lập tháng
6/1969 với mục tiêu là: đòi các lực lượng ngoại nhập (Mỹ và đồng minh)
phải rút khỏi miền Nam, thành lập chính phủ hòa giải dân tộc. Sau đó,
lợi dụng lúc Thiệu đi nước ngoài, luật sư Trần Ngọc Liễng lập “Lực lượng
hoà giải dân tộc”. Sau hiệp định Paris, tháng 02/1974, nhóm luật sư
Trần Ngọc Liễng lập “Tổ chức nhân dân đòi thi hành hiệp định Paris”, xác
định mình là lực lượng thứ ba, mục tiêu chính là đòi thi hành hiệp định
Paris, Mỹ rút quân, thành lập Chính phủ hoà giải dân tộc.
Thành
viên của “nhóm Dương Văn Minh” gồm một số trí thức, dân biểu đối lập,
ký giả, tướng lĩnh . Hằng tuần, nhóm họp bàn về tình hình thời sự chính
trị (lúc tình hình sôi động mỗi tuần họp hai lần). Cạnh tướng Dương Văn
Minh có Văn phòng báo chí. Lúc báo Điện tín bị đóng cửa, “nhóm Dương Văn
Minh” ra bản tin bán công khai để phát cho các tổ chức, đoàn thể, báo
chí trong và ngoài nước.
-
Theo ông Lý Quý Chung (Hồi ký), tuần lễ đầu tháng 4/1975, tướng Dương
Văn Minh và “nhóm Dương Văn Minh” đã họp tại Dinh Hoa Lan (nhà ông Minh)
bàn và quyết định công bố ý định thay thế Nguyễn Văn Thiệu để góp phần
chấm dứt chiến tranh.
5/ Phối hợp phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân Sài Gòn
Với
các khẩu hiệu “đuổi Mỹ, lật Thiệu”, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi
thi hình hiệp định Paris, hòa bình, chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ,
cải thiện dân sinh… các cuộc xuống đường diễn ra liên tục, mạnh mẽ thu
hút hàng ngàn, hàng vạn người. Như cuộc xuống đường của 200 ký giả Sài
Gòn ngày 10/10/1974, ngày “ký giả đi ăn mày” lôi cuốn gần hai vạn quần
chúng tham gia đã có tiếng vang lớn cả trong và ngoài nước. Cuộc tuần
hành ngày 20/4/1974 của hàng vạn công nhân lao động, sinh viên, học
sinh, trí thức, thương phế binh… đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức, đòi thi
hành hiệp định Paris, đòi hòa bình, cơm áo, chống sa thải, chống thuế
VAT…, là cuộc đấu tranh lớn nhất từ sau hiệp định Paris.
MỸ, PHÁP VỚI TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
*
Mỹ: Năm 1971, Mỹ yêu cầu Dương Văn Minh ra tranh cử Tổng thống với
Nguyễn Văn Thiệu để tỏ ra chế độ Cộng hòa miền Nam có dân chủ, nhưng
phải thất cử để trở thành lãnh tụ của phe đối lập trong nghị viện. Tướng
Dương Văn Minh từ chối. Đại sứ Mỹ Bunker còn trắng trợn hỏi ông Minh
cần bao nhiêu đô-la cho cuộc tranh cử. Ông Minh cố nén giận, nhưng giữ
lịch sự, đưa tay chỉ đại sứ Mỹ về phía của phòng (không tiếp đại sứ Mỹ
nữa). Cuộc bầu cử đó, Tướng Dương Văn Minh có ra ứng cử, nhưng đến giờ
chót quyết định rút lui, chỉ còn Nguyễn Văn Thiệu trở thành ứng cử viên
Tổng thống “độc diễn”, làm bẽ mặt Mỹ – Thiệu.
Sau
khi Thiệu từ chức, Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay tổng thống,
tuyên bố “cương quyết tử thủ dù phải hi sinh đến nắm xương tàn”, đã bị
nhân dân và báo chí Sài Gòn đấu tranh đòi Chính phủ Trần Văn Hương từ
chức ngay lập tức. Trần Văn Hương trì hoãn việc giao quyền cho Dương Văn
Minh, mãi đến ngày 26/4/1975, lưỡng viện Sài Gòn đã bầu Dương Văn Minh
làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa với 147/151 phiếu.
*
Pháp: Theo đồng chí Phan Nhẫn, ngày 27 (hoặc 28/4/1975), Bộ Ngoại giao
Pháp gặp đồng chí Phạm Văn Ba (Giám đốc Trung tâm thông tin Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam) gợi ý Chính phủ Cách mạng lâm thời
nên đi vào đàm phán. Lúc đó, Pháp hi vọng “giải pháp Dương Văn Minh” và
khả năng thương lượng với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
Theo
chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, sáng ngày 30/4/1975,
tướng tình báo Pháp Vanuxem đến Phủ thủ tướng (số 7 Thống Nhất, nay là
đường Lê Duẩn) gặp Tổng thống Dương Văn Minh, gợi ý ông Minh nên kêu gọi
Trung Quốc can thiệp để cứu miền Nam không rơi vào tay Cộng sản Bắc
Việt. Ông Minh từ chối, nói rằng: “Tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi
cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai cho Trung
Quốc”.
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH VỚI 3 NGÀY LÀM TỔNG THỐNG
15
giờ chiều ngày 28/4/1975, Tướng Minh làm lễ nhậm chức Tổng thống, cử
Nguyễn Văn Huyền làm Phó tổng thống, Vũ Văn Mẫu làm Thủ tướng.
Tổng
thống Dương Văn Minh cử một số Bộ trưởng và người phụ trách quân đội,
cảnh sát, trong đó có đảng viên và cơ sở của ta là: Luật sư Triệu Quốc
Mạnh, Giám đốc Nha cảnh sát đô thành, và chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh,
phụ tá Tổng tham mưu trưởng sau là quyền Tổng tham mưu trưởng.
Về
Bộ quốc phòng, Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định Giáo sư Bùi Tường
Huân, Giáo sư Đại học Huế (không phải tướng tá) làm Bộ Trưởng. (Theo ông
Lý Quý Chung, việc Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định ông Bùi Tường
Huân làm Bộ trưởng quốc phòng để chứng tỏ chính phủ này không muốn chiến
tranh).
17 giờ ngày 28/4/1975, phi đội 5 chiếc A37 của Nguyễn Thành Trung ném bom sân bay Tân Sơn Nhất.
Theo
ông Hồ Ngọc Nhuận (Hồi ký), tối hôm đó, Tướng Minh giao cho ông chuẩn
bị chiếm đài phát thanh (đề phòng Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính).
Đêm
28/4, Tướng Dương Văn Minh và gia đình dời đến ở nhà một người bạn của
tướng Mai Hữu Xuân ở đường Phùng Khắc Khoan do sợ Nguyễn Cao Kỳ ném bom
dinh Hoa Lan (nhà ông Minh).
Theo
cựu dân biểu Dương Văn Ba (Hồi ký), đêm 28/4/1975, hai đại tá phi công
lái hai máy bay trực thăng phục vụ tổng thống đậu trên nóc dinh Độc Lập,
gặp Tổng thống Dương Văn Minh đề nghị đưa Tổng thống và tất cả những
người trong bộ tham mưu tổng thống và gia đình bay ra Đệ Thất Hạm Đội.
Ông Minh trả lời: “Hai em có thể yên lòng lái máy bay ra Đệ Thất Hạm
Đội, bất cứ ai có mặt ở đây muốn đi theo thì có thể ra đi. Phần tôi, tôi
nhất quyết không đào ngũ bỏ chạy; không thể nào bỏ dân chúng Sài Gòn,
không thể nào bỏ miền Nam như con rắn mất đầu”.
Ngày 29/4/1975
Tổng
thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền và Thủ tướng Vũ
Văn Mẫu bàn và ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc
Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho cơ
quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ để
giải quyết hòa bình ở Việt Nam.
Đến
16 giờ chiều ngày 29/4, đã thực hiện xong việc trả tù binh chính trị
(trong đó có Huỳnh Tấn Mẫm). Chỉ huy các ban và cảnh sát 18 quận, huyện
đã tan rã (trừ bộ phận biệt phái).
Tổng
thống Dương Văn Minh chỉ thị không được di chuyển quân, không được phá
cầu. Dựa vào chỉ thị trên, chiều ngày 29/4/1975, phụ tá Tổng tham mưu
trưởng Nguyễn Hữu Hạnh đã ra lệnh cho các đơn vị không được phá cầu. Đơn
vị nào muốn phá cầu phải có lệnh của Bộ Tổng tham mưu.
Sau
đó, khoảng 15 giờ, phái đoàn do Luật sư Trần Ngọc Liễng cầm đầu có Linh
mục Chân Tín, Giáo sư Châu Tâm Luân vào Trại David, được đồng chí Võ
Đông Giang, Phó trưởng phái đoàn ta tiếp. Ông Liễng đã thông báo với
phái đoàn ta về chủ trương “không chống cự” của Tổng thống Dương Văn
Minh, mà ông coi là niềm vui sướng nhất trong đời ông, vì đã thông báo
cho bên trong biết “Sài Gòn không chống cự” vào giờ chót của cuộc chiến
tranh. Theo Luật sư Liễng, Tổng thống Dương Văn Minh đã chấp nhận đầu
hàng từ buổi trưa hôm đó (ngày 29/4/1975).
Từ
chiều và tối ngày 29/4, cũng có một số người tác động Tổng thống Dương
Văn Minh hướng “Thành phố để ngõ”, đầu hàng. Như ông Lý Quý Chung, họa
sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Thông qua ông Phan Xuân Huy và ông Đoàn Mai,
thượng tọa Thích Trí Quang nói điện thoại trực tiếp với Tổng thống Dương
Văn Minh: “còn chờ gì nữa mà không đầu hàng”.
Ngày 30/4/1975
-
6 giờ, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyền Tổng tham mưu trưởng (tướng
Vĩnh Lộc, Tổng tham mưu trưởng đã chuồn) và tướng Nguyễn Hữu Có đến báo
cáo với Tổng thống Dương Văn Minh về toàn bộ tình hình quân sự. Sau đó,
ông Minh (cùng các ông Hạnh và Có) đến Phủ Thủ tướng (số 7 Thống nhất,
nay là đường Lê Duẩn).
Tổng
thống Dương Văn Minh họp với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền, Thủ tướng
Vũ Văn Mẫu và một số người trong nội các “nhóm Dương Văn Minh”, bàn và
quyết định không nổ súng và giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng Hòa miền Nam. Thủ tướng Vũ Văn Mẫu soạn bản thảo tuyên bố
này.
- 9 giờ, Tổng thống Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm.
Chuẩn
tướng Nguyễn Hữu Hạnh đề nghị và được Tổng thống Dương Văn Minh đồng ý
có nhật lệnh cho quân đội. Ông Hạnh soạn thảo nhật lệnh này. Đồng thời
tướng Nguyễn Hữu Hạnh gọi điện thoại cho tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh
Quân khu 4 yêu cầu cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống trên đài phát
thanh.
9
giờ 30: Đài phát thanh phát tuyên bố của Tổng thống Dương Văn Minh:
“Đường lối của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc”; “yêu cầu tất
cả anh em chiến sĩ Cộng Hòa ngưng nổ súng, và ở đâu thì ở đó”; “Chúng
tôi chờ gặp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam để
thảo luận về lễ bàn giao chính quyền trong vòng trật tự, tránh sự đổ máu
vô ích cho đồng bào”.
Sau
đó, cả các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu cùng nội
các đến Dinh Độc Lập để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng.
Sau
khi đọc tuyên bố “đầu hàng” xong, Tướng Dương Văn Minh nói với mọi
người (trong Chính phủ): “Mọi việc coi như đã xong. Bây giờ ai muốn đi
hay ở thì tùy”.
11
giờ 30, xe tăng quân giải phóng vào Đinh Độc Lập. Xe quân giải phóng
đưa ông Dương Văn Minh và ông Vũ Văn Mẫu đến đài phát thanh để đọc tuyên
bố đầu hàng vô điều kiện.
KẾT LUẬN
1/
Tướng Dương Văn Minh là người có tinh thần dân tộc, yêu nước. Từ chỗ
lúc đầu còn mơ hồ về việc Mỹ xâm lược miền Nam, cho rằng Mỹ có giúp đỡ
miền Nam, dần dần tỏ thái độ chống Mỹ: chống Mỹ đưa quân viễn chinh Mỹ
và đồng minh vào miền Nam, kéo dài và mở rộng chiến tranh, muốn có hòa
bình, độc lập và hòa hợp dân tộc.
2/
Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh và ông Lý Quý Chung, Tướng Dương Văn Minh lên
làm Tổng thống không có ý để thương thuyết với cách mạng vì đã thấy
không còn khả năng thương thuyết; cũng không có ý để tiếp tục chiến
tranh vì lâu nay ông Minh chủ trương hoà bình, chấm dứt chiến tranh.
Điều này thể hiện rõ ở Tổng thống Dương Văn Minh chỉ định hai cơ sở của
ta (chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh và luật sư Triệu Quốc Mạnh) nắm hai lực
lượng vũ trang: quân đội và cảnh sát; cử một người dân sự (giáo sư Bùi
Tường Huân) làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; chưa đầy một ngày sau khi nhậm
chức thì ngày 29/4/1975, đã ra lệnh thả tù chính trị, đuổi phái đoàn DAO
của Mỹ; không di chuyển quân, không phá cầu v.v..
3/-
Trong điều kiện cuộc tổng tiến công quân sự của các binh đoàn chủ lực
kết hợp với cuộc tiến công và nổi dậy của các lực lượng vũ trang và quần
chúng ở thành phố Sài Gòn – Gia Định đã tạo sức ép quân sự lớn; công
tác vận động, binh địch vận của nhiều lực lượng ta với Tướng Dương Văn
Minh; được sự đồng tình, tác động tích cực của những người chủ yếu trong
nội các, lực lượng thứ ba và “nhóm Dương Văn Minh”; Tổng thống Dương
Văn Minh đã quyết định “không chống cự”, tuyên bố “ngưng nổ súng và ở
đâu ở đó vào 9g30 (sau đó tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” vào 11g30)
ngày 30/4/1975 là hành động thức thời, làm giảm ý chí đề kháng của đại
bộ phận quân đội Sài Gòn vào những giờ chót của cuộc chiến tranh, tạo
thuận lợi cho quân giải phóng tiến nhanh vào giải phóng hoàn toàn thành
phố Sài Gòn còn nguyên vẹn và không đổ máu. Nhiều thành phố và thị xã
khác cũng được giải phóng nguyên vẹn, ít tổn thất. Chúng ta biết rõ
giành được thắng lợi to lớn này, cuộc tổng tiến công của các quân đoàn
kết hợp với các cuộc tiến công và nổi dậy của lực lượng vũ trang và quần
chúng địa phương đóng vai trò quyết định. Tuy nhiên, công bằng mà nói,
hành động thức thời của Tổng thống Dương Văn Minh và nội các của ông đã
góp phần làm cuộc chiến kết thúc sớm, tránh đổ nhiều xương máu của binh
sĩ và nhân dân, thành phố Sài Gòn và nhiều đô thị còn nguyên vẹn. Đó là
nghĩa cử yêu nước, thương dân của ông Dương Văn Minh.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30/10/2004
____________
(1) Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế – xã hội – thương binh Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam.
(2)
Phát biểu của ông Dương Văn Minh trong cuộc Thượng tướng Trần Văn Trà,
Chủ tịch Ủy ban quân quản TP. Hồ Chí Minh tuyên bố trả quyền công dân
cho toàn bộ viên chức Chính phủ “Việt Nam Cộng Hoà”.
(3) Bộ đội Nam bộ tập kết ra Bắc, ở Sư đoàn 330. Sau đó chuyển ra nông trường quân đội.
(4) Sách “Gởi người đang sống” (tr 334-335) của Thượng tướng Trần Văn Trà.
Võ Hồng Phi chuyển
Võ Hồng Phi chuyển