Cà Kê Dê Ngỗng
Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh
Trong phần một mang tựa đề« Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?», chuyên gia Ross Babbage (*) đã phân tích những lý do vì sao Bắc Kinh có thể tự tung tự tác trên Biển Đông cho đến nay.
Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh
Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Scott Swift cảnh báo tình hình căng thẳng ở Biển Đông, 06/10/2015. |
Trong phần một mang tựa đề« Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?», chuyên
gia Ross Babbage (*) đã phân tích những lý do vì sao Bắc Kinh có thể tự
tung tự tác trên Biển Đông cho đến nay. Ở phần hai, tác giả đề nghị
những biện pháp cụ thể cho chính quyền Donald Trump sắp tới.
(Xem lại phần 1) : Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?
Theo
ông, một trong những vấn đề cốt lõi trong cách xử sự của chính phủ Mỹ,
Nhật và Úc là trần thuật sai hẳn những lợi ích từ liên minh. Các liên
minh này chắc chắn là mang lại lợi ích lớn lao, qua tự do hàng hải và
hàng không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp chủ quyền
trong khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích to lớn
nhất của đồng minh thực sự vượt xa khỏi những mục tiêu giới hạn, chủ yếu
mang tính chiến thuật này.
Trên thực tế, lợi ích chủ chốt trước tiên
của đồng minh là đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ không thống trị Biển Đông
đến mức có thể đơn phương quyết định trật tự khu vực, và hạn định mức độ
chủ quyền cho từng quốc gia ven biển.
Lợi ích cốt lõi thứ hai
là hạn chế khả năng lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông, tạo tiền
lệ cho những hành vi bất hợp pháp, hung hăng hơn của Bắc Kinh, trước mắt
và về lâu về dài.
Điều cốt yếu thứ ba : giám sát chặt để
Trung Quốc không lặp lại các vi phạm trầm trọng Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển (UNCLOS), làm ngơ trước phán quyết của Tòa án Trọng tài
Thường trực La Haye, trực tiếp thách thức luật pháp quốc tế.
Khi
theo đuổi các lợi ích thực tiễn này, các lãnh đạo đồng minh cần có
chiến lược rõ ràng để chỉ đạo một chiến dịch đối phó. Các khả năng hiển
nhiên nhất là chọn lựa một chiến lược cự tuyệt, chiến lược buộc phải trả
giá. Một chiến lược tấn công vào chiến lược của Trung Quốc, làm cho Bắc
Kinh không thể tiếp tục làm bá chủ Biển Đông. Dù chọn chiến lược nào đi
nữa, cái nền chủ yếu phải là một liên minh quân sự mạnh mẽ hơn, thuyết
phục hơn tại Tây Thái Bình Dương.
Tàu tuần duyên Trung Quốc trên Biển Đông |
Chuyên gia Ross Babbage cho rằng
trước các hành động của Bắc Kinh trong năm năm qua, cần phải tiến xa
hơn chủ trương được gọi là « xoay trục », « tái cân bằng », để
chuyển sang một cam kết toàn diện với các nước trong vùng, có thể được
mệnh danh là Chương trình Đối tác An ninh Khu vực. Các mục đích chính
của chương trình là chứng tỏ ưu thế vượt trội về quân sự, răn đe các
hành động phiêu lưu của Trung Quốc, củng cố lòng tin nơi các đồng minh
và đối tác châu Á về sự khả tín của phương Tây, để họ cảm thấy có thể
chống chọi lại bất kỳ ý đồ áp đặt nào từ Trung Quốc.
Chiến
lược đồng minh hiệu quả nhất cần mang tính sáng tạo và bất đối xứng.
Trong những năm gần đây Bắc Kinh tập trung các hành động hiếu chiến nhất
tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, sử dụng các loại hình đa dạng từ quân
đội, tuần duyên, dân quân biển, chiến tranh chính trị ; nhưng không có
nghĩa là đồng minh cũng phải tập trung mọi nỗ lực bằng cách thức tương
tự. Ngược lại, để chống lại Bắc Kinh, phương thức hiệu quả nhất là tập
trung áp lực đủ loại vào những điểm yếu kém nhất của Trung Quốc trên mọi
lãnh vực.
Những chiến dịch như thế đòi hỏi phải thận trọng phối
hợp nhiều biện pháp, để có thể duy trì được dài lâu. Các biện pháp này
vượt xa khỏi các lãnh vực ngoại giao và quân sự khuôn mẫu, bao gồm cả
địa chính trị, thông tin, kinh tế, tài chính, nhập cư, luật pháp, chống
bá quyền, và những sáng kiến khác. Có thể gồm cả việc ra tuyên bố để răn
đe các hành vi của Trung Quốc, gây lòng tin nơi đồng minh và thân hữu,
tạo môi trường hoạt động rộng rãi hơn. Các biện pháp khác cần được phân
loại và thiết kế để làm chao đảo Trung Quốc, đồng thời khuyến khích nên
thận trọng hơn với Bắc Kinh.
Tác giả nhận định, chắc chắn sẽ có
những người tại các nước đồng minh muốn chính phủ mình nhắm mắt làm ngơ.
Tuy nhiên, những thách thức từ Trung Quốc mang tính chất và tầm cỡ quan
trọng đến nỗi nếu chiến lược đối phó của Hoa Kỳ và đồng minh khu vực
thất bại, sẽ gây hậu quả nặng nề cho an ninh toàn cầu.
Trước tiên
là chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông bị nhường lại cho Trung
Quốc. Nếu trao cho Bắc Kinh quyền kiểm soát thực tế một tuyến đường hàng
hải chính yếu như thế và mở rộng thông tin, sẽ gây những hệ quả địa
chính trị nghiêm trọng và lâu dài. Bối cảnh an ninh tại Tây Thái Bình
Dương sẽ bị đảo lộn, gây phức tạp cho nhiều dạng thức hoạt động của đồng
minh.
Hậu quả nghiêm trọng thứ hai là
việc Bắc Kinh vi phạm nặng nề luật pháp quốc tế coi như được chấp nhận ;
gây thiệt hại lớn cho nỗ lực trong nhiều thập niên qua, nhằm xây dựng
khuôn khổ luật pháp cho quan hệ ngoại giao, thương mại, tranh chấp quốc
tế. Sẽ là dấu hiệu cho cộng đồng thế giới thấy rằng đống minh phương Tây
không chuẩn bị cho việc bảo vệ luật quốc tế.
Hậu quả quan trọng thứ ba
là nguy cơ Trung Quốc thêm mạnh dạn tung ra những hoạt động xâm lăng
nghiêm trọng hơn trong những năm tới. Bắc Kinh có thể coi sự dè dặt, e
ngại, thiếu tổ chức của các nước khác như là lời mời xâm lăng các lãnh
thổ chiến lược, tiếp tục các hành động hiếu chiến hơn. Vì thế, khi duy
trì thái độ dè dặt và cách hành xử vụng về, các lãnh đạo đồng minh sẽ
vấp phải rủi ro nghiêm trọng hơn là vô hình trung khuyến khích xung đột
nặng nề hơn với Trung Quốc trong những năm tới. Theo tác giả, xung đột
này sẽ dữ dội hơn và khó tránh khỏi.
Hậu quả lớn thứ tư
: khi đồng minh không có được sự đáp trả mạnh mẽ, sẽ thiệt hại cho hoạt
động răn đe. Một phương Tây yếu kém trong lúc này sẽ là tín hiệu xấu
gởi đến không chỉ cho Bắc Kinh, mà còn cả cho Matxcơva và Bình Nhưỡng.
Hậu quả thứ năm của
việc Hoa Kỳ bình chân như vại, sẽ khiến hầu như mọi nước đồng minh và
thân hữu Tây Thái Bình Dương và nhiều nước khác xa hơn buộc lòng phải
tái cấu trúc về quốc phòng và an ninh quốc gia.
Một khi các lãnh
đạo đồng minh không đáp trả hiệu quả trước tình trạng vi phạm hiển nhiên
luật pháp quốc tế và chuẩn mực an ninh toàn cầu, thì họ cần phải có
những thay đổi nào để giữ an ninh cho chính mình ? Một số nước đã bắt
đầu tìm kiếm những đối tác an ninh mới đáng tin cậy hơn. Số khác có thể
đưa ra những chương trình phòng vệ mới, hay đành từ bỏ những yếu tố then
chốt về chủ quyền, để được yên thân trước Bắc Kinh hay các chế độ độc
tài khác.
Chuyên gia Ross Babbage kết luận, vấn đề an ninh ở Tây
Thái Bình Dương vẫn là lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ và các đồng minh thân
thiết. Chính quyền ông Trump sắp tới nhất thiết phải dành ưu tiên hàng
đầu cho một chiến lược đối phó hiệu quả với Bắc Kinh.
(*)Tiến
sĩ Ross Babbage là Giám đốc điều hành của Strategic Forum Pty Ltd, nhà
nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Ngân sách (CSBA) ở
Washington DC. Tiến sĩ Babbage từng giữ vị trí trưởng văn phòng Phân
tích chiến lược của ONA, cơ quan tình báo trực thuộc văn phòng thủ tướng
Úc.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh
Trong phần một mang tựa đề« Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?», chuyên gia Ross Babbage (*) đã phân tích những lý do vì sao Bắc Kinh có thể tự tung tự tác trên Biển Đông cho đến nay.
Biển Đông : Đã đến lúc phải dằn mặt Bắc Kinh
Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương Scott Swift cảnh báo tình hình căng thẳng ở Biển Đông, 06/10/2015. |
Trong phần một mang tựa đề« Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?», chuyên
gia Ross Babbage (*) đã phân tích những lý do vì sao Bắc Kinh có thể tự
tung tự tác trên Biển Đông cho đến nay. Ở phần hai, tác giả đề nghị
những biện pháp cụ thể cho chính quyền Donald Trump sắp tới.
(Xem lại phần 1) : Vì sao phương Tây lại để Bắc Kinh làm mưa làm gió trên Biển Đông ?
Theo
ông, một trong những vấn đề cốt lõi trong cách xử sự của chính phủ Mỹ,
Nhật và Úc là trần thuật sai hẳn những lợi ích từ liên minh. Các liên
minh này chắc chắn là mang lại lợi ích lớn lao, qua tự do hàng hải và
hàng không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp chủ quyền
trong khu vực phù hợp với luật pháp quốc tế. Tuy nhiên, lợi ích to lớn
nhất của đồng minh thực sự vượt xa khỏi những mục tiêu giới hạn, chủ yếu
mang tính chiến thuật này.
Trên thực tế, lợi ích chủ chốt trước tiên
của đồng minh là đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ không thống trị Biển Đông
đến mức có thể đơn phương quyết định trật tự khu vực, và hạn định mức độ
chủ quyền cho từng quốc gia ven biển.
Lợi ích cốt lõi thứ hai
là hạn chế khả năng lấn chiếm của Trung Quốc trên Biển Đông, tạo tiền
lệ cho những hành vi bất hợp pháp, hung hăng hơn của Bắc Kinh, trước mắt
và về lâu về dài.
Điều cốt yếu thứ ba : giám sát chặt để
Trung Quốc không lặp lại các vi phạm trầm trọng Công ước Liên Hiệp Quốc
về Luật Biển (UNCLOS), làm ngơ trước phán quyết của Tòa án Trọng tài
Thường trực La Haye, trực tiếp thách thức luật pháp quốc tế.
Khi
theo đuổi các lợi ích thực tiễn này, các lãnh đạo đồng minh cần có
chiến lược rõ ràng để chỉ đạo một chiến dịch đối phó. Các khả năng hiển
nhiên nhất là chọn lựa một chiến lược cự tuyệt, chiến lược buộc phải trả
giá. Một chiến lược tấn công vào chiến lược của Trung Quốc, làm cho Bắc
Kinh không thể tiếp tục làm bá chủ Biển Đông. Dù chọn chiến lược nào đi
nữa, cái nền chủ yếu phải là một liên minh quân sự mạnh mẽ hơn, thuyết
phục hơn tại Tây Thái Bình Dương.
Tàu tuần duyên Trung Quốc trên Biển Đông |
Chuyên gia Ross Babbage cho rằng
trước các hành động của Bắc Kinh trong năm năm qua, cần phải tiến xa
hơn chủ trương được gọi là « xoay trục », « tái cân bằng », để
chuyển sang một cam kết toàn diện với các nước trong vùng, có thể được
mệnh danh là Chương trình Đối tác An ninh Khu vực. Các mục đích chính
của chương trình là chứng tỏ ưu thế vượt trội về quân sự, răn đe các
hành động phiêu lưu của Trung Quốc, củng cố lòng tin nơi các đồng minh
và đối tác châu Á về sự khả tín của phương Tây, để họ cảm thấy có thể
chống chọi lại bất kỳ ý đồ áp đặt nào từ Trung Quốc.
Chiến
lược đồng minh hiệu quả nhất cần mang tính sáng tạo và bất đối xứng.
Trong những năm gần đây Bắc Kinh tập trung các hành động hiếu chiến nhất
tại Biển Đông và Biển Hoa Đông, sử dụng các loại hình đa dạng từ quân
đội, tuần duyên, dân quân biển, chiến tranh chính trị ; nhưng không có
nghĩa là đồng minh cũng phải tập trung mọi nỗ lực bằng cách thức tương
tự. Ngược lại, để chống lại Bắc Kinh, phương thức hiệu quả nhất là tập
trung áp lực đủ loại vào những điểm yếu kém nhất của Trung Quốc trên mọi
lãnh vực.
Những chiến dịch như thế đòi hỏi phải thận trọng phối
hợp nhiều biện pháp, để có thể duy trì được dài lâu. Các biện pháp này
vượt xa khỏi các lãnh vực ngoại giao và quân sự khuôn mẫu, bao gồm cả
địa chính trị, thông tin, kinh tế, tài chính, nhập cư, luật pháp, chống
bá quyền, và những sáng kiến khác. Có thể gồm cả việc ra tuyên bố để răn
đe các hành vi của Trung Quốc, gây lòng tin nơi đồng minh và thân hữu,
tạo môi trường hoạt động rộng rãi hơn. Các biện pháp khác cần được phân
loại và thiết kế để làm chao đảo Trung Quốc, đồng thời khuyến khích nên
thận trọng hơn với Bắc Kinh.
Tác giả nhận định, chắc chắn sẽ có
những người tại các nước đồng minh muốn chính phủ mình nhắm mắt làm ngơ.
Tuy nhiên, những thách thức từ Trung Quốc mang tính chất và tầm cỡ quan
trọng đến nỗi nếu chiến lược đối phó của Hoa Kỳ và đồng minh khu vực
thất bại, sẽ gây hậu quả nặng nề cho an ninh toàn cầu.
Trước tiên
là chủ quyền trên hầu như toàn bộ Biển Đông bị nhường lại cho Trung
Quốc. Nếu trao cho Bắc Kinh quyền kiểm soát thực tế một tuyến đường hàng
hải chính yếu như thế và mở rộng thông tin, sẽ gây những hệ quả địa
chính trị nghiêm trọng và lâu dài. Bối cảnh an ninh tại Tây Thái Bình
Dương sẽ bị đảo lộn, gây phức tạp cho nhiều dạng thức hoạt động của đồng
minh.
Hậu quả nghiêm trọng thứ hai là
việc Bắc Kinh vi phạm nặng nề luật pháp quốc tế coi như được chấp nhận ;
gây thiệt hại lớn cho nỗ lực trong nhiều thập niên qua, nhằm xây dựng
khuôn khổ luật pháp cho quan hệ ngoại giao, thương mại, tranh chấp quốc
tế. Sẽ là dấu hiệu cho cộng đồng thế giới thấy rằng đống minh phương Tây
không chuẩn bị cho việc bảo vệ luật quốc tế.
Hậu quả quan trọng thứ ba
là nguy cơ Trung Quốc thêm mạnh dạn tung ra những hoạt động xâm lăng
nghiêm trọng hơn trong những năm tới. Bắc Kinh có thể coi sự dè dặt, e
ngại, thiếu tổ chức của các nước khác như là lời mời xâm lăng các lãnh
thổ chiến lược, tiếp tục các hành động hiếu chiến hơn. Vì thế, khi duy
trì thái độ dè dặt và cách hành xử vụng về, các lãnh đạo đồng minh sẽ
vấp phải rủi ro nghiêm trọng hơn là vô hình trung khuyến khích xung đột
nặng nề hơn với Trung Quốc trong những năm tới. Theo tác giả, xung đột
này sẽ dữ dội hơn và khó tránh khỏi.
Hậu quả lớn thứ tư
: khi đồng minh không có được sự đáp trả mạnh mẽ, sẽ thiệt hại cho hoạt
động răn đe. Một phương Tây yếu kém trong lúc này sẽ là tín hiệu xấu
gởi đến không chỉ cho Bắc Kinh, mà còn cả cho Matxcơva và Bình Nhưỡng.
Hậu quả thứ năm của
việc Hoa Kỳ bình chân như vại, sẽ khiến hầu như mọi nước đồng minh và
thân hữu Tây Thái Bình Dương và nhiều nước khác xa hơn buộc lòng phải
tái cấu trúc về quốc phòng và an ninh quốc gia.
Một khi các lãnh
đạo đồng minh không đáp trả hiệu quả trước tình trạng vi phạm hiển nhiên
luật pháp quốc tế và chuẩn mực an ninh toàn cầu, thì họ cần phải có
những thay đổi nào để giữ an ninh cho chính mình ? Một số nước đã bắt
đầu tìm kiếm những đối tác an ninh mới đáng tin cậy hơn. Số khác có thể
đưa ra những chương trình phòng vệ mới, hay đành từ bỏ những yếu tố then
chốt về chủ quyền, để được yên thân trước Bắc Kinh hay các chế độ độc
tài khác.
Chuyên gia Ross Babbage kết luận, vấn đề an ninh ở Tây
Thái Bình Dương vẫn là lợi ích cốt lõi của Hoa Kỳ và các đồng minh thân
thiết. Chính quyền ông Trump sắp tới nhất thiết phải dành ưu tiên hàng
đầu cho một chiến lược đối phó hiệu quả với Bắc Kinh.
(*)Tiến
sĩ Ross Babbage là Giám đốc điều hành của Strategic Forum Pty Ltd, nhà
nghiên cứu của Trung tâm Chiến lược và Đánh giá Ngân sách (CSBA) ở
Washington DC. Tiến sĩ Babbage từng giữ vị trí trưởng văn phòng Phân
tích chiến lược của ONA, cơ quan tình báo trực thuộc văn phòng thủ tướng
Úc.