Đoạn Đường Chiến Binh
Buồn Vui Thời Đi Biển
Bóng dáng thanh lịch và oai hùng của những chiếc khu trục hạm mũi nhọn mình mỏng đang rẽ sóng lướt nhanh trên mặt biển xanh đậm, cắt mặt nước làm đôi với 2 tia bọt nước trắng xoá 2 bên mũi tàu, làm cho tôi say mê
iển
*
Bóng dáng
thanh lịch và oai hùng của những chiếc khu trục hạm mũi nhọn mình mỏng
đang rẽ sóng lướt nhanh trên mặt biển xanh đậm, cắt mặt nước làm đôi
với 2 tia bọt nước trắng xoá 2 bên mũi tàu, làm cho tôi say mê những
chiếc tàu chiến, say mê biển cả, say mê viễn du. Tôi có cảm tưởng như
những con tàu đó có sức mạnh ngự trị trên cả thiên nhiên, coi đại dương
mênh mông là nhỏ bé.
Tôi ao ước
được chỉ huy hững chiến hạm này vì tôi thường được nghe kể rằng Hạm
Trươ?ng là một chức vụ vinh dự nhất trong Hải Quân và khi chiến hạm ra
biển thì Hạm Trươ?ng là người có toàn quyền định đoạt mọi việc, “tiền
trảm hậu tấu”, nhất Trời nhì ta!
Một ông
Trời con giữa đại dương bát ngát mênh mông, ngự trị trên một con kình
ngư oai phong dũng mãnh như thế thì thử hỏi ai mà không mê cho được,
nhất rồi còn gì nữa! Đó là lý do tôi đã gia nhập Hải Quân và có lẽ đó
cũng là lý do mà một số các chàng trai cùng thời đã gặp tôi và trở
thành bạn tôi trong 38 năm nay.
Chúng tôi
thi vào học khoá 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang vào đầu năm 1963. Ngày
xuống Hải Vận Hạm Lam Giang (HQ 402) ở bến Bạch Đằng Saigon để đi Nha
Trang thụ huấn chúng tôi hơi thất vọng vì các sĩ quan tương lai đã
không được đối xử như mong muốn. Chúng tôi tưởng rằng sẽ đươ.c ở 1 khu
riêng dưới tàu với giường ngủ qua đêm trong thời gian gần 2 ngày hải
hành, được nuôi ăn như những thuỷ thủ của chiến hạm, nhưng thực tế là
chúng tôi đã đươ.c thả rong trong sàn tàu, nơi dùng để chuyên chở xe
tăng, tự tìm lấy 1 chỗ trên
boong hay nơi các ổ súng để làm giường ngủ. Việc ăn uống thì phải tự túc. Chúng tôi đều phải mang theo khẩu phần khô. Họ coi chúng tôi là khách quá giang, ngoài quân số của chiến hạm, nên không có phần ăn trên tàu. Còn giường ngủ thì chiến hạm không phải là loại tàu
chở hành khách nên không có cả trăm chiếc giường bỏ không cho chúng tôi dùng.
boong hay nơi các ổ súng để làm giường ngủ. Việc ăn uống thì phải tự túc. Chúng tôi đều phải mang theo khẩu phần khô. Họ coi chúng tôi là khách quá giang, ngoài quân số của chiến hạm, nên không có phần ăn trên tàu. Còn giường ngủ thì chiến hạm không phải là loại tàu
chở hành khách nên không có cả trăm chiếc giường bỏ không cho chúng tôi dùng.
Ngồi buồn
trên khẩu Boford đôi 40 ly phòng không của chiến hạm, tôi ngắm nhìn các
bạn cùng khoá, những thằng con trai sáng sủa bảnh bao mới bước vào
ngưỡng cửa Đại Học. Mọi ngày có vẻ “vào trong phong nhã ra ngoài hào
hoa” lắm, Vespa, Solex lươ.n quanh phố xá Saigon, dẫn đào đi dạo
Catinat, Nguyễn Huệ dáng dấp rất là công tử. Thế mà hôm nay sao thấy bệ
rạc quá, bộ vó phong nhã biến đi đâu mất dành chỗ cho những bộ mặt ngơ
ngáo, quần áo xốc xếch. “Gia tài của mẹ để lại cho con” vỏn vẹn có cái
sắc marin trên vai. Dăm ba thằng rủ nhau đi kiếm chân 1 ổ súng hay 1
góc sàn tàu kín đáo để làm “tổ ấm” trong thời gian hải hành.
Tôi nhớ
lại hai hôm trước, chúng tôi trình diện ở trại Bạch Đằng II để lãnh
quân trang. Khi các anh em mới gặp nhau buổi sáng ở ngoài sân, vì vui
quá nói chuyện hơi ồn ào một chút thì một trung sĩ nhất, có lẽ là quản
nội trươ?ng của trại, bước ra. Trước khi ra lệnh cho chúng tôi, thay vì
ôn tồn nói: “Các anh hãy im lặng nghe tôi nói đây”, thì ông ta đã quát
lớn một cách rất oai hùng: “Chúng mày có câm mồm đi không ?”.
Chúng tôi sợ quá bèn câm mồm hết, im như tờ. Trong đầu óc chúng tôi không ai tránh khỏi thắc mắc là tại sao trong quân đội người ta lại có thể khai thác quyền hành một cách quá trớn tới mức trở nên thô lỗ đến như thế được ? Tôi cho rằng đó là đặc tính của một số người VN, những người không có tư tưởng dân chủ sau thời gian dài bị đô hộ bởi người Pháp. Tư cách của những quan thực dân Tây đối với dân bản xứ đã ăn sâu vào đầu óc họ mất rồi. Khi họ có chút quyền hành thì họ khai thác triệt để quyền của họ và trở thành lạm quyền một cách lố bịch, ngươ.c lại khi họ ở vào vị thế không có quyền hành thì họ trở nên hèn hạ, qụy lụy đến mất cả nhân phẩm.
Chúng tôi sợ quá bèn câm mồm hết, im như tờ. Trong đầu óc chúng tôi không ai tránh khỏi thắc mắc là tại sao trong quân đội người ta lại có thể khai thác quyền hành một cách quá trớn tới mức trở nên thô lỗ đến như thế được ? Tôi cho rằng đó là đặc tính của một số người VN, những người không có tư tưởng dân chủ sau thời gian dài bị đô hộ bởi người Pháp. Tư cách của những quan thực dân Tây đối với dân bản xứ đã ăn sâu vào đầu óc họ mất rồi. Khi họ có chút quyền hành thì họ khai thác triệt để quyền của họ và trở thành lạm quyền một cách lố bịch, ngươ.c lại khi họ ở vào vị thế không có quyền hành thì họ trở nên hèn hạ, qụy lụy đến mất cả nhân phẩm.
Không biết
có phải vì mới ngày đầu đã gặp “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
như thế nên hôm nay nét mặt anh em trở nên u buồn chán nản hay không.
Có bạn nóng tính đã hứa với anh em là khi ra trường sẽ xin về phục vụ
cùng đơn vị với trung sĩ này để dậy dỗ
cho anh ta nên người. Thế nhưng sau đó chúng tôi đều quên hết. Đó là đức tính của tuổi trẻ, dễ quên và dễ tha thứ, ai nấy đều muốn đi phục vụ các đơn vị tác chiến hoặc hải hành để học hỏi đươ.c nhiều điều hay, chứ không muốn làm việc có tính cách phục vụ hậu cứ như đơn vị của trung sĩ này. Người ta thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nhỡ chẳng may “lây” tính nết của ông này thì bỏ mẹ !
cho anh ta nên người. Thế nhưng sau đó chúng tôi đều quên hết. Đó là đức tính của tuổi trẻ, dễ quên và dễ tha thứ, ai nấy đều muốn đi phục vụ các đơn vị tác chiến hoặc hải hành để học hỏi đươ.c nhiều điều hay, chứ không muốn làm việc có tính cách phục vụ hậu cứ như đơn vị của trung sĩ này. Người ta thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nhỡ chẳng may “lây” tính nết của ông này thì bỏ mẹ !
Tàu chạy
vòng vo tam quốc trong sông Lòng Tào, vì là giờ nước lớn, vả lại bờ
sông không cao, đứng trên boong tàu tôi có thể nhìn thấy ruộng đồng bát
ngát đến tận các làng mạc nơi xa. Con sông ngoằn nghoèo như một con
rắn lớn, có nhiều khúc cong quá đến độ tôi thấy
những nhà cao tầng của Saigon lại hiện ra trước mũi tàu khi tàu đã đi xa khỏi Saigon khá lâu rồi. Thành phố Saigon thân yêu cứ xa dần, xa dần, mãi cho đến khi khuất hẳn. Chúng tôi đã thực sự “lìa xa thành đô yêu dấu” để tạm gọi là “xếp bút nghiên theo việc đao cung”
mặc dù vẫn còn phải dùng đến bút nghiên ít nhất là 2 năm nữa và đao thì chẳng biết dùng, cung cũng chẳng biết bắn !
những nhà cao tầng của Saigon lại hiện ra trước mũi tàu khi tàu đã đi xa khỏi Saigon khá lâu rồi. Thành phố Saigon thân yêu cứ xa dần, xa dần, mãi cho đến khi khuất hẳn. Chúng tôi đã thực sự “lìa xa thành đô yêu dấu” để tạm gọi là “xếp bút nghiên theo việc đao cung”
mặc dù vẫn còn phải dùng đến bút nghiên ít nhất là 2 năm nữa và đao thì chẳng biết dùng, cung cũng chẳng biết bắn !
Đứng trên
thành tàu nhìn cảnh trời mây, sông nước, với nền trời xanh mây trắng
kéo vần vũ, suy nghĩ mông lung, tôi chợt nhớ tới câu nói bất hủ của
Tổng Thống Hoa Kỳ đương thời, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên
báo chí: “Đừng hỏi quê hương có thể
làm được những gì cho mình, hãy tự hỏi mình có thể làm được gì cho quê hương”. Tôi thầm nghĩ ông này thực sự là người có tài khích động lòng người. Đúng là người đươ.c huấn luyện để trở thành nhà lãnh đạo! Câu nói của ông cũng đã ảnh hưởng rất mạnh
đến việc đông viên tinh thần giới trẻ như tôi.
làm được những gì cho mình, hãy tự hỏi mình có thể làm được gì cho quê hương”. Tôi thầm nghĩ ông này thực sự là người có tài khích động lòng người. Đúng là người đươ.c huấn luyện để trở thành nhà lãnh đạo! Câu nói của ông cũng đã ảnh hưởng rất mạnh
đến việc đông viên tinh thần giới trẻ như tôi.
Tôi liên
tươ?ng đến thực tế, hiện thời chúng tôi sắp nhập Trường Sĩ Quan Hải
Quân, một trường nổi tiếng lịch sự, hào hoa và trí thức nhất trong quân
đội, thế mà đêm nay chúng tôi sẽ phải gối sắc marin nằm sàn tàu sắt,
bị bỏ đói. Thật là tương phản, ai đâu ngờ rằng trước khi trở thành sĩ
quan của một quân chủng hào hoa và lịch sự, chúng tôi lại phải qua
chặng đường này. Nghĩ đến câu nói bất hủ của ông Kennedy thì tôi lại tự
nhủ quả thực mình chưa làm đươ.c gì cho quê hương, vậy cũng không nên
đòi hỏi gì và tôi bắt đầu vui với cuộc đời phong sương mới này. Có lẽ
dần dà rồi cũng quen đi, quen với đời sống phong sương vất vả, quen với
sự hy sinh không đòi hỏi trả công, quen với thái độ của những người
như ông trung sĩ kia đối với người dưới quyền. Tôi thương hại ông ta
hơn là ghét và tôi tự nhủ hãy lấy gương ông ta mà tu thân cho nên
người.
Chiến hạm
ra khỏi cửa Cần Giờ, tên của cửa sông Lòng Tào, chừng mươi phút thì tàu
bắt đầu lắc ngang làm chúng tôi lao đao, tuy nhiên vì chưa có trách
nhiệm gì trên tàu nên những ai không say sóng thì vẫn đi lại và lên
boong tàu ngắm cảnh trời mây sóng nước, còn những
ai say sóng hay mệt thì cứ tự do nằm nghỉ nơi “tổ ấm” mà mình đã chọn. May mắn thay chuyến đi này không gặp sóng gió nhiều, một ngày rưỡi rồi cũng trôi qua một cách êm ả. Chúng tôi nhập quân trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1963 với sự đón rước “nồng hậu” của các
sinh viên khoá đàn anh vì khi đó khoá đàn anh của họ đã mãn khoá và được tung ra khắp 4 vùng chiến thuật rồi. Họ đang buồn vì không có ai để quay chơi cho vui.
ai say sóng hay mệt thì cứ tự do nằm nghỉ nơi “tổ ấm” mà mình đã chọn. May mắn thay chuyến đi này không gặp sóng gió nhiều, một ngày rưỡi rồi cũng trôi qua một cách êm ả. Chúng tôi nhập quân trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1963 với sự đón rước “nồng hậu” của các
sinh viên khoá đàn anh vì khi đó khoá đàn anh của họ đã mãn khoá và được tung ra khắp 4 vùng chiến thuật rồi. Họ đang buồn vì không có ai để quay chơi cho vui.
Học được 6
tháng thì chúng tôi có chương trình thực tập đi biển lần đầu, thật là
háo hức. Chúng tôi phải chuẩn bị mua sắm để tự túc thực phẩm khô dùng
cho 2 ngày đi biển. Vì trường không có huấn luyện hạm riêng, phải mượn
chiến hạm của Bộ Chỉ Huy Hạm Đội vài ngày để huấn luyện sinh viên nên
đối với chiến hạm chúng tôi là khách quá giang, không ai nấu ăn cho
chúng tôi cả. Chúng tôi lo chuẩn bị các thứ như cá mòi đóng hộp, bánh mì
khô, kẹo, bánh ngọt, bánh bisquit, trái cây v. v. . Chúng tôi không
đứa nào quên mang theo giấy vệ sinh và giâý lau tay để lau chùi khi ói
mửa.
Chiến hạm
dùng để thực tập lần này là loại hộ tống hạm, một loại chiến hạm chuyên
dùng để hộ tống các đoàn “convoi” ngoài biển nên rất chịu sóng, có thể
hải hành trong những điều kiện biển 3, biển 4 là thường. Chỉ có vấn đề
nhân sự trên tàu có chịu nổi sóng hay không mà thôi. Mới bước chân lên
chiến hạm tôi đã thấy khó chịu vì mùi dầu gasoil dùng chạy máy cộng
thêm với mùi khói do máy diesel phun ra hai bên thành tàu và mùi tanh
tanh của nước biển còn đọng trên boong tàu chưa rửa sạch. Sau 2 tháng
bị hành hạ thể xác với chương trình huấn nhục, ăn uống thiếu dinh
dưỡng, tập tành khắt khe, anh em chúng tôi ai nấy đều hốc hác, riêng
tôi đã sụt mất khoảng 4, 5 kí trong 2 tháng này. Bốn tháng kế tiếp chưa
đủ thời giờ để hồi lực nên chuyến hải hành đầu tiên đối với chúng tôi
có vẻ vất vả lắm.
Trên tàu,
theo lệnh sĩ quan toán trưởng, chúng tôi chia thành ba chi đôi. để đi
phiên song song với nhân viên chiến hạm. Ngày đầu tiên phiên của chi
đội tôi bắt đầu lúc ba giờ chiều, chấm dứt lúc sáu giờ chiều và là
phiên trên đài chỉ huy. Chúng tôi lớ quớ như những đứa trẻ con, chẳng
biết làm gì, chỉ nghe theo lời giảng giải của sĩ quan toán trươ?ng về
cách dùng các dụng cụ hải hành và lý thuyết đi biển. Lúc đầu tuy mệt
nhưng chưa đến nỗi say, ai nấy lo ghi ghi chép chép để khi về có tài
liệu viết phúc trình. Chừng năm, sáu giờ chiều sóng gió bắt đầu nổi
lên. Mặt mũi chúng tôi ai nấy xanh lè, buồn thiu, bút sách cứ thấy biến
dần, chỉ còn vài tên thuộc loại chì sóng vẫn tiếp tục ghi chép đươ.c
mà thôi.
Đối với
tôi tàu chỉ lắc vài cái là tôi đã bắt đầu thấy nôn nao khó chịu, tim
tôi bắt đầu đập loạn xạ, không chịu theo nhịp bình thường nữa, thế mà
tàu cứ lắc liên miên, đôi khi còn trồi lên thụp xuống rất mạnh làm cho
ruột gan tôi như muốn lộn ra ngoài. Tôi thấy bải hoải tay chân, mắt hoa
đầu váng, người như mất hết năng lực, không còn sức đứng vững nữa, chỉ
muốn nằm đại xuống sàn tàu. Đâu đó nghe có tiếng oe., một sinh viên đã
nôn vào một cái sô gần đó. Tôi cố cầm cự nhưng chỉ được vài phút sau
thìtôi cũng phải noi gương anh bạn. Vì tôi không đứng gần cái sô nào cả
vả lại khi đó tàu đang nghiêng chừng 30 độ về bên tôi đứng, tôi không
còn sức chạy ngươ.c dốc để đến cái sô phía bên kia tàu, bèn chạy xuống
dốc cho nhanh, ra bám vào thành tàu cúi xuống để làm cái việc “cho cá
ăn chè”.
Gió lớn
quá, “chè” chua loét của tôi đâu có đến với cá đươ.c, nó đã bị thổi
ngươ.c lại và rơi ngay trên đỉnh đầu một thằng bạn đang đứng ở sàn tàu
dưới học về hải pháo. May thay trên đầu nó có đội mũ casquette, đỉnh mũ
của nó nhận gần hết “bát chè nhầy nhụa” của tôi thân tặng. “Chè” còn
tung toé trên người và trên hai vai của nó, bê bết trên hai gù vai mang
alpha vàng choé. Nó giật mình hét lớn lớn:
- Mẹ thằng nào đó ?.
Khi ngẩng
đầu nhìn lên nó nhận ra thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” thì nó bớt
giận, dịu giọng: ” Trời ơi! Sao không cho vào sô mày ? Ghê quá, chết
tao rồi!”. Thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” chính là tôi, tên này do
anh em đã “rửa tội” cho tôi kể từ chuyến thực tập vận chuyển lần đầu
bằng tàu nhỏ, quân vận đĩnh (LCM) trước đó ít lâu, vì tôi là một trong
vài người yếu chịu sóng nhất khoá. Có lẽ nhờ mang tên này mà tôi lấy
đươ.c “lòng thương” của những thằng bạn chì sóng trong khoá. Vì thứ
nhất là khi tôi say sóng thì người tôi như cái bị rách, trông rất tội
nghiệp, còn hơn người bị bịnh thương hàn cả tháng trời, ai trông thấy
cũng thương hại; thứ nhì là dù tôi mang đi bao nhiêu thực phẩm dự trữ
cho hai ngày hải hành tôi cũng biếu lại cho những thằng bạn chì sóng
hết, nuốt gì nổi mà nuốt. Tụi nó đươ.c ăn nhiều đồ ăn của mình thì dĩ
nhiên thương mình rồi!
Thằng bạn
mà tôi đã tặng nó “bát chè” đầu tiên là một thằng chì sóng bực nhất của
khoá, nó gầy tom, dáng dấp thư sinh trắng trẻo và hiền như . . . “ma
sơ” vì thế nó đươ.c rửa tội với tên Gà Mái. “Gà Mái” bây giờ lạc bước
giang hồ xuống tận nam bán cầu, ở xứ đầy Kangouru. May mà “trời sinh”
ra cái “long distance call free” với internet chứ không thì tôi phải
tốn bộn tiền điện thoại viễn liên với nó vì nó rất chậm tiến, không
thích dùng máy điện toán để liên lạc bằng i meo!
Tôi nhận
thấy một điều rất lạ là những thằng càng gầy thì lại càng chì sóng.
Trong khoá tôi còn có một tên gầy teo chỉ có da bọc xương, đen xì và ăn
rất khoe?, anh em đã phải gọi nó là “Tử Thần”. Tôi chắc nếu nó xin gia
nhập Không Quân để trở thành phi công thì sẽ không đựơc tuyển vì người
ta e rằng khi nó muốn hạ cánh, máy bay nhẹ quá không đáp xuống được,
sẽ bay hoài cho đến khi hết nhiên liệu mới chịu rơi xuống. Vào Hải Quân
lại là đất dụng võ của nó. Trong khi anh em đều say khướt nằm la liệt
thì nó đi vòng vòng hỏi : ” Thằng nào không ăn đươ.c đâu, đưa hết đây
tao ăn cho.” Hình như khi nào có sóng to gió lớn thì nó lại ăn khoẻ hơn
thì phải. Không biết say sóng như nó kể cũng sung sướng thiệt !
Người ta
thường nói cuộc vui nào rồi cũng qua đi. Trong khi thực tập hải hành
thì tôi thấy đau khổ nào rồi cũng qua đi, nhất là đau khổ vì say sóng!
Những chuyến thực tập hải hành như vậy rất cực nhọc đối với tôi nhưng
may thay nhờ Trường Sĩ Quan Hải Quân chưa có huấn luyện hạm riêng nên
chúng tôi chỉ phải đi thực tập vài chuyến trong suốt hai năm học mà
thôi. Các huấn luyện viên thì nói rằng mai mốt mãn khoá ra trường, xuống
chiến hạm có trách nhiệm rồi thì sẽ bớt say sóng và sẽ quen, vì thế
chúng tôi, những thằng “mới nhìn thấy tàu đã say” cũng yên lòng phần
nào để tiếp tục học hành mà không . . . đào ngũ.
Khi ra
trường tôi đươ.c bổ nhiệm xuống hộ tống hạm Kỳ Hoà HQ 09, một loại
chiếm hạm tác chiến dùng để hộ tống và tuần tiễu nên khi nào đi công
tác là đi cả tháng chứ không đi vài ngày như những chiến hạm chuyển
vận. Tôi lo lắng lắm vì thấy một tương lai rất là vất vả đang chờ mình.
Tôi không biết mình sẽ phải làm sao để chịu đựng được những lần biển
nổi cơn thịnh nộ như những lần tôi đi thực tập khi còn trong quân
trường. Thêm vào đó người ta còn nói hạm trưởng chiến hạm này rất khó
tính và khắt khe nên các sĩ quan đươ.c thuyên chuyển xuống tàu đều
tránh né, trì hoãn để tìm cơ hội xin đi đơn vị khác. Thuỷ thủ đoàn đã
đặt tên cho chiến hạm là “Kỳ Hoà Tự”, một ngôi chùa để những kẻ chán
đời đến tu !
Chuyến hải
hành đầu tiên của tôi là chuyến công tác tham dự chiến dịch Vũng Rộ
Theo tin tình báo Mỹ, một tàu địch chở đầy vũ khí khởi hành từ Hải
Phòng, giả dạng tàu buôn ra khơi về phía đông, tận ngoài hải phận quốc
tế. Từ đây nó đổi hướng, đi về phía nam để đánh lạc hướng các nơi theo
dõi. Đến ngang Nha Trang nó lại đổi sang hướng tây vào ban đêm, trực
chỉ vào bờ , thẳng vào Vũng Rô để đổ súng đạn vào mật khu của chúng.
Không tuần
của Hải Quân Mỹ đã theo dõi tàu VC, khi tầu địch vào đến hải phận VN
Cộng Hoà mới báo cho các đơn vị chiến hạm Hải Quân VN chận bắt. Tàu
địch đã bị chận bắt trong hải phận của ta, vì cùng đường, biết không
chạy thoát được nên chúng đã đâm thẳng vào bờ ngay tại Vũng Rộ Tất cả
thuỷ thủ đoàn chạy trốn lên đất liền để thoát vào mật khu. Nơi này được
địch phòng thủ rất kiên cố, các ổ súng lớn của chúng đều ở trên núi và
dấu trong các hang trên cao, miệng hang nhìn ra biển, vì thế những cuộc
oanh tạc của Không Quân không có hiệu quả, chỉ có trọng pháo của Hải
Quân từ biển nhắm thẳng vào các miệng hang của những ổ súng địch mà
khạc đạn thì mới làm chúng câm họng đươ.c.
Tin từ
chiến trường cho biết là HQ 405 đã bị thiệt hại rất nhiều mà không thể
nào ủi bãi để tịch thu súng đạn địch trên tàu xâm nhập vì hoả lực địch
quá mạnh. Ngoài ra trên bờ ngay nơi chân núi sát biển còn có mật khu
của địch với các hầm chứa đầy vũ khí mà chúng đã xâm nhập từ trước.
Những khẩu Boford đôi 40ly của HQ 405 không đủ sức công phá các hang
kiên cố này, nay chỉ trông chờ vào 76.2 ly của hộ tống hạm mà thôi.
Đươ.c lệnh
khởi hành khẩn cấp để tăng viện cho chiến dịch, HQ 09 khởi hành ngay
vào buổi chiều, đúng hai ngày sau khi tôi trình diện chiến hạm. Hạm
Trươ?ng là thiếu tá Trang, khoá 4. Chiến hạm không có hạm phó vì hạm
phó cũ đã thuyên chuyển, hạm phó mới chưa trình
diện. Xử lý thường vụ hạm phó là thiếu uý Từ, khoá 12, sau đó là hai thiếu uý trong đó có tôi, như vậy theo cấp số thì chiến hạm thiếu ít nhất là ba sĩ quan, nhưng vẫn phải đi công tác như thường.
diện. Xử lý thường vụ hạm phó là thiếu uý Từ, khoá 12, sau đó là hai thiếu uý trong đó có tôi, như vậy theo cấp số thì chiến hạm thiếu ít nhất là ba sĩ quan, nhưng vẫn phải đi công tác như thường.
Thường
thường khi có sĩ quan mới ra trường xuống chiến hạm thì hạm phó cắt đặt
cho đi phiên chung với một sĩ quan thâm niên hơn trong một thời gian.
Sau khi xét thấy sĩ quan mới này đã đủ điều kiện làm trưởng phiên thì
mới trao phiên chính thức. Vì HQ 09 ở trong tình trạng thiếu sĩ quan
như thế nên ba thiếu uý bị bắt buộc phải làm trươ?ng phiên ba “ca”, vì
không lẽ bắt hạm trươ?ng đi một “ca” sao ? Vì thế tôi không có thời
gian để thực tập .
Chiến hạm
đến cửa Cần Giò đã là 8 giờ tối và là phiên của tôi trên đài chỉ huy
cho đến 12 giờ đêm. Tháng 2 là tháng của mùa gió bấc, gió thổi từ hướng
đông bắc rất mạnh. Ra khỏi Vũng Tầu, khi bắt đầu đi hướng đông bắc thì
tàu vừa lắc vừa nhồi. Sau khi đã thấy chiến hạm vào đúng đường rồi và
không còn gì nguy hiểm về đá ngầm nữa, hạm trưởng nhắc tôi cẩn thận rồi
rời đài chỉ huy. Nguy quá, ông trao trách nhiệm cho tôi, đương nhiên
coi tôi như đủ khả năng làm sĩ quan trươ?ng phiên. Phiên hải hành đầu
tiên mà tôi đã phải làm sĩ quan trưởng phiên, có trách nhiệm lo hướng
dẫn con tàu theo đúng hải trình. Nhờ có trách nhiệm, tôi cũng có bớt
say sóng một chút nhưng tôi hơi lo vì một mình tôi sẽ phải gánh hết
trách nhiệm, nếu có chuyện gì thì mạng của cả trăm người đặt trong tay
tôi. Tôi cố gắng gồng mình chịu đựng mặc dù đã thấy rất đừ.
Nhưng sức
của thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” chỉ có hạn, lúc đầu tôi còn lo làm
point bằng radar xem chiến hạm có đi sai đường không. Sau hơn 1 giờ
gồng mình với sóng 3, sóng 4, đầu tôi nhức, mắt tôi hoa, bụng tôi thắt
lại từng hồi dồn nước chua trong dạ dày lên cổ, tôi cố nuốt nó xuống nó
lại lên, lại nuốt xuống, nó lại lên! Nuốt hai ba lần rồi đến một lúc,
sau một cái thắt ruột mạnh, áp suất bên trong cao quá, cổ không đủ sức
để kìm lại và nuốt xuống nữa, nó phun ra thành vòi. Tôi bắt đầu ói, cú
ói đầu tiên tôi biết trước và còn sức nên còn cố chạy
đến cái sô và ói vào sô, tiếp theo sau đó vì nó ra nhiều quá đâu có kịp chạy đến sô mà cũng chẳng còn biết sô ở đâu nữa, nên bạ đâu ói đó, bao nhiêu thức ăn nuốt vào hồi chiều dần dần cho ra hết. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cho ra nhiều hơn những gì tôi đã ăn vào rồi mà sao vẫn ói. Người ta thường nói ói ra cả mật xanh, mật vàng nhưng vì trời nhá nhem tối, vả lại tôi thường chạy ra thành tàu để “cho cá ăn chè” nên tôi không biết có ói ra mật hay không. Tôi thấy rất đắng trong miệng, chắc có ói ra mật thật chứ chẳng chơi! Con tàu vẫn khi thì lắc lư, khi thì nhồi lên hụp xuống, sóng đánh vào mạn tàu nghe ầm ầm như bom nổ gần đâu đây, thân tàu oằn oại nghe răng rắc như muốn bị vặn xéo đi. Thỉnh thoảng một cơn sóng lớn đánh vào mũi tàu nghe một tiếng ầm, mũi tàu chúi xuống và một cột nước lớn đổ ào lên đài chỉ huy, lọt qua những khe hở của kính chắn trước mặt làm mọi người ướt mèm. Tôi cố đứng vững nhưng rất khó, hai tay tôi ôm chặt lấy cột của chiếc la bàn điện để giữ cho thân người không sụm xuống vì hai chân tôi gần như tê bại rồi. Toàn thân tôi lạnh ngắt mặc dù đã có áo ấm đi biển .
đến cái sô và ói vào sô, tiếp theo sau đó vì nó ra nhiều quá đâu có kịp chạy đến sô mà cũng chẳng còn biết sô ở đâu nữa, nên bạ đâu ói đó, bao nhiêu thức ăn nuốt vào hồi chiều dần dần cho ra hết. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cho ra nhiều hơn những gì tôi đã ăn vào rồi mà sao vẫn ói. Người ta thường nói ói ra cả mật xanh, mật vàng nhưng vì trời nhá nhem tối, vả lại tôi thường chạy ra thành tàu để “cho cá ăn chè” nên tôi không biết có ói ra mật hay không. Tôi thấy rất đắng trong miệng, chắc có ói ra mật thật chứ chẳng chơi! Con tàu vẫn khi thì lắc lư, khi thì nhồi lên hụp xuống, sóng đánh vào mạn tàu nghe ầm ầm như bom nổ gần đâu đây, thân tàu oằn oại nghe răng rắc như muốn bị vặn xéo đi. Thỉnh thoảng một cơn sóng lớn đánh vào mũi tàu nghe một tiếng ầm, mũi tàu chúi xuống và một cột nước lớn đổ ào lên đài chỉ huy, lọt qua những khe hở của kính chắn trước mặt làm mọi người ướt mèm. Tôi cố đứng vững nhưng rất khó, hai tay tôi ôm chặt lấy cột của chiếc la bàn điện để giữ cho thân người không sụm xuống vì hai chân tôi gần như tê bại rồi. Toàn thân tôi lạnh ngắt mặc dù đã có áo ấm đi biển .
Mười một
giờ đêm, tôi vẫn tiếp tục ói, và con tàu vẫn tiếp tục hì hục chống chọi
với thiên nhiên, có lúc cả con tàu bị đưa lên thật cao rất nhanh làm
tôi cảm thấy thân xác tôi nặng chịch hàng tấn thịt, hai chân run run
nhún xuống dưới sức nặng “ngàn cân” của thân mình. Tôi nghĩ chắc khi đó
cơ thể tôi ít nhất cũng phải chịu một sức kéo xuống tương đương với 3G
(3 lần trọng lượng người tôi) chứ chẳng chơi. Tội nghiệp cho hai cái
chân của tôi, chúng đã tê rồi không còn cảm giác gì cả mà vẫn phải gánh
chịu cái thân hình nặng nề này! Liền sau đó con tàu rơi thỏm xuống một
hố sâu, tôi sợ quá tỉnh hẳn không còn thấy u mê nữa nên đã chuẩn bị để
khỏi đụng đầu vào trần, hai tay nắm lấy cột sắt của la bàn điện ghìm
thật chặt, chúi người xuống và đẩy cột la bàn lên, thế mà hai chân vẫn
bị nhấc bổng toòng teng trên không, ầm một
tiếng lớn, cả con tầu rung lên rần rần như thằng động kinh! Các vật dụng trên tàu tuy đã được ràng buộc chặt từ hồi chiều nhưng khi bị rung lắc mạnh vẫn tạo thành những tiếng động ngân vang trong không gian, hoà thêm với tiếng gió thổi qua các giây “cáp” ù ù nghe như tiếng gầm gừ của hai con sư tử đực đang tranh hùng. Tôi có cảm tỨưởng chiến hạm là một con vật khổng lồ đang chống chọi với cơn cuồng nộ của biển cả để cố gắng đi tới. Người ta thường ví chiến hạm với con kình ngư quả cũng không sai.
tiếng lớn, cả con tầu rung lên rần rần như thằng động kinh! Các vật dụng trên tàu tuy đã được ràng buộc chặt từ hồi chiều nhưng khi bị rung lắc mạnh vẫn tạo thành những tiếng động ngân vang trong không gian, hoà thêm với tiếng gió thổi qua các giây “cáp” ù ù nghe như tiếng gầm gừ của hai con sư tử đực đang tranh hùng. Tôi có cảm tỨưởng chiến hạm là một con vật khổng lồ đang chống chọi với cơn cuồng nộ của biển cả để cố gắng đi tới. Người ta thường ví chiến hạm với con kình ngư quả cũng không sai.
Sau khi
tàu rơi xuống hố như thế, mũi tầu chúi xuống và húc vào một làn sóng
lớn tiếp theo đang cuồn cuộn đi tới. Nguyên cả một lớp nước dày hơn một
thước tràn lên boong tàu làm cho chiếc tàu giống như tàu ngầm chỉ thò
đài chỉ huy lên trên mặt nước mà thôi. Vì tàu chúi đầu xuống, cả thân
người tôi nằm dài trên cột la bàn lúc nào tôi cũng không hay, trông
giống như đứa trẻ con đang nằm trên thân cây đu đưa chơi vậy.
Ôi cha mẹ ơi, sao biển đẹp và yêu quý của tôi lại có thể hành hạ tôi đến mức này ?
Ôi cha mẹ ơi, sao biển đẹp và yêu quý của tôi lại có thể hành hạ tôi đến mức này ?
Tôi đã ói
hết cả mật ra rồi, bây giờ không còn gì để ói nữa nên tôi ói khan. Bắt
đầu bằng ruột và bao tử thắt lại, cơn nôn từ bụng dưới đưa lên và khi
ra đến mồm thì chỉ là một tiếng oe. nhưng không có gì đi ra khỏi miệng
cả. Những cơn nôn oe. như thế làm co thắt ruột và bao tử tôi nhiều lần,
rồi tôi cảm thấy tê tê nơi bụng như có một luồng điện giựt từ cổ tới
rốn. Cứ như thế, điện cứ giựt trong bụng tôi từng hồi làm thân thể tôi
tê dại đi, hai tay thì như bị cả ngàn con kiến cắn hay cả ngàn cái kim
châm, tê ran khắp gan bàn tay và các đầu ngón tay. Hình như điện truyền
xuống cả chân tôi thì phải. Tuy thân thể tê dại nhưng đầu óc thì vẫn
tỉnh táo, tôi thầm nghĩ chắc là thần kinh nội tạng của mình bị kích
thích quá mức nên nó tạo ra những luồng điện như vậy, đúng là những
luồng điện khá mạnh đang giựt giựt trong bụng tôi.
Tôi lo
lắng tự hỏi hay là mình đã chọn lầm nghề. Say sóng dữ như thế này thì
làm sao sau này quen sóng và làm sao mà chỉ huy chiến hạm ? Cỡ này nếu
cứ tiếp tục đi biển thì chắc có ngày mình sẽ hui nhị tỳ mất thôi chứ
sao thành hạm trưởng được! Nhưng thực tế là tôi
phải tính sao với hiện tai đây ? Tôi không thể bỏ phiên được. Trong Hải Quân, sĩ quan mà bỏ phiên đi “ca” là một tội không thể tha thứ. Tôi đã tự nhủ ngay là mình phải tự khắc phục, quyết đứng đây cho đến hết phiên, muốn ra sao thì ra, vì danh dự và vì trách nhiệm, không thể nào rời đài chỉ huy đươ.c.
phải tính sao với hiện tai đây ? Tôi không thể bỏ phiên được. Trong Hải Quân, sĩ quan mà bỏ phiên đi “ca” là một tội không thể tha thứ. Tôi đã tự nhủ ngay là mình phải tự khắc phục, quyết đứng đây cho đến hết phiên, muốn ra sao thì ra, vì danh dự và vì trách nhiệm, không thể nào rời đài chỉ huy đươ.c.
Tôi thấy
ông trung sĩ giám lộ cùng phiên với tôi đi biển đã lâu nên có vẻ chì
sóng, tôi nói với ông ta là để ý tàu giùm vì tôi mệt lắm, không còn
tỉnh táo để coi tàu được nữa. Ông ta biết tôi là sĩ quan mới toanh vừa
ra lò và cũng là chuyến hải hành đầu tiên nên rất thông cảm, đã nhận
lời một cách rất vui vẻ và còn khuyên tôi “Thiếu Uý cứ ngồi nghỉ đi,
không có gì cần lo đâu vì tàu đang ở ngoài khơi mà”. Tôi yên trí, đứng
đó làm trươ?ng phiên mà như cái xác không hồn cho đến hết phiên. Mười
hai giờ đêm hết phiên tôi mừng quá, và thật là hú vía, phiên đầu tiên
trong đời hải nghiệp của tôi đã qua đi một cách êm thấm. Mặc dù rất “khổ đau” nhưng không có tai nạn gì xảy ra cả. Chỉ có sĩ quan trưởng phiên mơ mơ màng màng như người lên cung trăng trong suốt phiên của mình. Khi sĩ quan trươ?ng phiên kế tiếp lên nhận phiên, tôi thấy tỉnh táo hơn được một chút, cố lết ra bàn hải đồ để bàn giao phiên lại cho Thiếu Uý Từ rồi chạy thật lẹ xuống phòng riêng.
trong đời hải nghiệp của tôi đã qua đi một cách êm thấm. Mặc dù rất “khổ đau” nhưng không có tai nạn gì xảy ra cả. Chỉ có sĩ quan trưởng phiên mơ mơ màng màng như người lên cung trăng trong suốt phiên của mình. Khi sĩ quan trươ?ng phiên kế tiếp lên nhận phiên, tôi thấy tỉnh táo hơn được một chút, cố lết ra bàn hải đồ để bàn giao phiên lại cho Thiếu Uý Từ rồi chạy thật lẹ xuống phòng riêng.
Vào phòng,
tôi để nguyên quần áo lăn đùng ra giường rồi thiếp đi đưỨơ.c một lúc
nhưng vì tàu vẫn lắc và nhồi quá, thỉnh thoảng người tôi lại được nâng
lên khỏi giường rồi ném xuống nệm bình bịch. Thỉnh thoảng tôi bị lăn
vào phía trong đập mình vào tường, tôi phải lấy 1 cái gối chắn bên
trong tường cho khỏi bị u đầu, sau đó lại lăn ra phía ngoài, nếu tôi
không dùng tay ghìm chặt thành giường thì chắc chắn thế nào cũng rớt
xuống sàn tàu. Thêm vào đó là những tiếng ầm ầm do sóng đập vào thành
tàu cộng thêm tiếng gió rít bên ngoài nên không thể nào ngủ đươ.c.
Tôi suy
nghĩ miên man và tự hỏi rằng trên thế giới này hiện có biết bao nhiêu
là tàu biển đang chạy ngang chạy dọc khắp đại dương, biết bao nhiêu là
thuỷ thủ đoàn đang lo cho tàu chạy, họ có sao đâu. Tại sao mà mình cực
khổ nhưỨ thế này? Không lẽ trời sinh ra 2 loại
người, một loại để chuyên môn đi biển còn một loại chỉ ở bờ không bao giờ đi biển đươ.c hay sao. Hỏi rồi tôi tự trả lời: có bao giờ mình nghe nói đến chuyện đó đâu !
người, một loại để chuyên môn đi biển còn một loại chỉ ở bờ không bao giờ đi biển đươ.c hay sao. Hỏi rồi tôi tự trả lời: có bao giờ mình nghe nói đến chuyện đó đâu !
Chuyến
công tác tham dự hành quân Vũng Rô này chấm dứt sau 5 ngày, HQ 09 đỨược
trở về Saigon nghỉ bến vì chưa đến phiên đi tuần. Ngay khi về đến bến,
vì lý do nhu cầu liên lạc và thông dịch gia tăng mạnh nên tôi được
Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gọi về để đi
làm sĩ quan liên lạc trên các chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và trong gần 2 năm sau đó tôi làm việc với Hải Quân Hoa Kỳ. Có điều đặc biệt là khi tôi đi trên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tôi lại ít say sóng hơn, theo tôi nghĩ thì có lẽ một phần là do chiến hạm lớn hơn ít bị sóng lắc hay nhồi, một phần nữa có thể là do sự ăn uống những thức ăn dễ tiêu hơn, bao tử mình chứa ít thức ăn khi gặp sóng gió lớn thì không khơi mào cho sự nôn oe., sau cùng và quan trọng hơn cả là việc quen với sóng.
làm sĩ quan liên lạc trên các chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và trong gần 2 năm sau đó tôi làm việc với Hải Quân Hoa Kỳ. Có điều đặc biệt là khi tôi đi trên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tôi lại ít say sóng hơn, theo tôi nghĩ thì có lẽ một phần là do chiến hạm lớn hơn ít bị sóng lắc hay nhồi, một phần nữa có thể là do sự ăn uống những thức ăn dễ tiêu hơn, bao tử mình chứa ít thức ăn khi gặp sóng gió lớn thì không khơi mào cho sự nôn oe., sau cùng và quan trọng hơn cả là việc quen với sóng.
Về ăn uống
thì tôi biết trong Hải Quân Pháp mỗi sĩ quan khi xuống chiến hạm đều
đươ.c lãnh tiền ăn mà họ gọi là “traitement de table” gấp 3 hay 4 lần
lương căn bản của họ khi ở trên bờ. Khi chiến hạm hải hành công tác thì
tiền này còn tăng lên bằng 5 hay 6 lần tiền lương. Tôi nghĩ chắc họ
không dư tiền mà cấp phát bừa bãi đâu, mục đích có lẽ là để cho người
thuy? thủ có đủ phương tiện ăn những đồ ăn nhẹ mà vẫn đầy đủ chất bổ
trong nhiều ngày lênh đênh ngoài biển và không ảnh hưởng đến tình trạng
chiến đấu của chiến hạm.
Còn về vấn
đề quen với sóng gió thì khi ở chiến hạm VN chúng ta thường đi tuần
hay công tác dăm ba hôm lại ghé bến để đi chợ, để tiếp tế nhiên liệu,
lấy nước ngọt hay để nghỉ, cơ thể vừa mới bắt đầu làm quen với sóng thì
lại làm quen với đất liền. Cứ như thế những người có cơ thể cần phải
quen với sóng như tôi không thể nào quen đươ.c. Khi tôi lên chiến hạm
của Hải Quân Mỹ thì tàu chạy luôn một lèo từ 30 đến 40 ngày không vào
bến. Vì thế cùng lắm là chỉ có 2, 3 ngày đầu là say sóng thôi, nếu
những ngày này là những ngày đẹp trời hay ít sóng gió thì sau đó quen
đi và sẽ không say sóng nữa !
Tôi còn
nhớ có 1 lần tôi là sĩ quan liên lạc trên một chiếc khu trục hạm của
Hải Quân Hoa Kỳ liên tục trong 35 ngày rồi. Khi chiến hạm này bị gọi
trở về căn cứ Subic gấp họ không có thì giờ trả tôi vào bờ nên họ dùng
cách chuyền người ngoài biển, gọi là highline, để chuyển tôi sang chiến
hạm mới đến thay thế tại chỗ. Vì tôi đã ở ngoài biển hơn 1 tháng rồi
nên tôi đã quen sóng. Khi chiến hạm thay thế tới, mấy hôm đầu trời nổi
cơn lôi đình như có bão. Chiến hạm này là loại tàu rà mìn (MSO), chỉ
lớn hơn hộ tống hạm một chút nhưng đóng bằng gỗ nhẹ hơn, nên bị quật
lên nhồi xuống tôi bời. Một số nhân viên chiến hạm mới đến chưa quen
sóng nên say ngất ngư, họ thấy tôi phây phây đi lại, ăn uống như thường
thì phục lăn. Họ khen tôi là “Good sailor !”.
Đến giờ ăn
chiều bồi Phi dọn cơm lên, sĩ quan biến mất hết, chỉ còn lại hạm
trươ?ng và tôi vào phòng ăn, hạm phó đang đi phiên. Hôm đó vì sóng gió
lớn quá, khi đứng trong phòng ăn hai chân chúng tôi luôn luôn phải co
lại và duỗi ra tùy theo phía bên chân đó thành tầu nghiêng lên hay
nghiêng xuống để giữ cho người đươ.c cân bằng và thân mình được thẳng
đường giây dọi. Hai chân lúc đó được xử dụng như 2 cái lò xo, co vào
duỗi ra tự động theo nhịp lắc của con tàu.
Riết rồi hai chân thành thói quen như tập thể dục, đứng đâu cũng hơi co co, duỗi duỗi, nhiều khi tàu lắc ít, vì thói quen chân vẫn co nhiều !
Riết rồi hai chân thành thói quen như tập thể dục, đứng đâu cũng hơi co co, duỗi duỗi, nhiều khi tàu lắc ít, vì thói quen chân vẫn co nhiều !
Khi chúng
tôi ngồi xuống bàn ăn rồi, đĩa xúp vừa đươ.c mang ra là phải cầm tay mà
ăn, một tay cầm đĩa, một tay cầm muỗng mà múc để có thể nghiêng đĩa
ngược chiều lắc của con tàu, tránh cho nước xúp khỏi đổ ra ngoài. Khi
đĩa thức ăn chính đã đươ.c bồi dọn ra bàn rồi một tay cũng phải cầm đĩa
để giữ cho đĩa khỏi chạy đi theo chiều nghiêng của tàu.
Trong
những ngày sóng gió như thế, thường chỉ có tôi và hạm trươ?ng ăn với
nhau trong phòng ăn mà thôi, hoa. hoằn mới thấy mặt hạm phó, có lẽ ông
này “anti” với hạm trưởng thì phải. Sau chừng 1 tuần như vậy, hạm
trưởng tàu này phục tôi quá, muốn tôn tôi làm sư phụ
vì ông ta chịu muốn hết nổi, mặt mũi xanh lè. Còn tôi thì bất cứ khi nào ông lò dò lên đài chỉ huy đều thấy tôi, vào phòng ăn cũng thấy tôi, nhìn ra boong tàu cũng thấy tôi vì tôi luôn luôn muốn đi ra ngoài cho nó thoáng chứ ở trong phòng chật chội bức mắt. Mỗi lần gặp tôi ông đều lắc đầu than van “very disappointed, very disappointed to patrol like this!”. Vì biển động quá, không có ghe để xét, đôi khi có 1 vài chiếc chiến hạm cũng không dám hạ “youyou” xuống biển vì sợ bị sóng đánh chìm. Tàu chỉ chạy gần ghe và dùng ống nhòm quan sát kỹ xem có gì khả nghi hay không rồi ghi số ghe để gửi công điện báo cáo mà thôi, xong lại ai đi đường nấy.
vì ông ta chịu muốn hết nổi, mặt mũi xanh lè. Còn tôi thì bất cứ khi nào ông lò dò lên đài chỉ huy đều thấy tôi, vào phòng ăn cũng thấy tôi, nhìn ra boong tàu cũng thấy tôi vì tôi luôn luôn muốn đi ra ngoài cho nó thoáng chứ ở trong phòng chật chội bức mắt. Mỗi lần gặp tôi ông đều lắc đầu than van “very disappointed, very disappointed to patrol like this!”. Vì biển động quá, không có ghe để xét, đôi khi có 1 vài chiếc chiến hạm cũng không dám hạ “youyou” xuống biển vì sợ bị sóng đánh chìm. Tàu chỉ chạy gần ghe và dùng ống nhòm quan sát kỹ xem có gì khả nghi hay không rồi ghi số ghe để gửi công điện báo cáo mà thôi, xong lại ai đi đường nấy.
Riêng tôi
vì không có việc gì làm, giống như thằng đi “cruise” trên du thuyền,
suốt ngày đọc báo, ăn, đi rong quanh tàu , xong lại ăn, đọc báo, đi
quanh tàu ! Hạm trươ?ng thì có lẽ vì thấy tôi là một trong một số ít
người hoạt động trên tàu những khi biển động vả lại trong những bữa ăn
tôi hay ăn cùng và nói chuyện với ông nên ông không muốn tôi đi. Khi tôi
đi rồi, chắc ông buồn lắm nên ông khuyên tôi ở lại tàu thêm một thời
gian nữa mặc dù tôi đã đến thời hạn về bờ từ lâu rồi. Ông hỏi tôi là
nếu tôi bằng lòng ông sẽ đánh công điện xin giữ tôi lại. Còn tôi thì vì
trước khi đi chuyến công tác đó đã đánh phé với bọn sĩ quan trực phòng hành quân ở Vũng Tàu và tụi nó đã “rửa” tôi rất sạch sẽ. Nguyên hai tháng lương của tôi đã đươ.c tụi nó ” ký lệnh thuyên chuyển” sang túi của chúng nó hết rồi. Bây giờ về bến tôi cũng không có tiền để mà vung vít nên tôi ra cái điều tử tế, ngần ngừ một chút rồi làm như chiều lòng hạm trưởng, tôi trả lời ông là tôi OK.
trước khi đi chuyến công tác đó đã đánh phé với bọn sĩ quan trực phòng hành quân ở Vũng Tàu và tụi nó đã “rửa” tôi rất sạch sẽ. Nguyên hai tháng lương của tôi đã đươ.c tụi nó ” ký lệnh thuyên chuyển” sang túi của chúng nó hết rồi. Bây giờ về bến tôi cũng không có tiền để mà vung vít nên tôi ra cái điều tử tế, ngần ngừ một chút rồi làm như chiều lòng hạm trưởng, tôi trả lời ông là tôi OK.
Thực ra
tôi cũng muốn ở lại tàu với mục đích “thâm sâu” là để dành tiền vì tiền
ăn của tôi trên chiến hạm là do Hải Quân Hoa Kỳ đài thọ, tôi không
phải trả và cũng không phải tiêu gì hết. Khi về bến lương của tôi còn
nguyên, lại tha hồ mà xì phé vung vít! Hạm trươ?ng đâu hiểu nổi thâm ý
đó nên rất hài lòng vội đánh công điện xin giữ tôi ở lại thêm ba tuần,
còn thằng cha hạm phó thì nói thẳng với tôi: “Hạm trưởng thích mày hơn
tao, ông ấy muốn giữ mày chứ đâu muốn giữ tao!”.
Chuyến này
tôi đã đi công tác luôn một lèo 55 ngày liên tục trên biển động của
mùa gió bấc. Khi bị bắt buộc phải trả tôi vào bờ theo lệnh của phòng
hành quân Vùng 3 Duyên Hải, mặt hạm trỨưởng buồn thiu. Tôi từ giã ông
ta như từ giã một người bạn chí thân phải xa nhau và biết là sẽ không
bao giờ gặp lại nhau nữa. Chiến hạm neo ngoài khơi, ghe hải thuyền đưa
tôi vào bờ. Khi bưỨớc chân từ ghe lên đất liền, mới đi được hai bước thì
tôi lao đao như thằng say rượu muốn té. Trời đất quỷ thần ơi, mặt đất
gì mà kỳ cục quá, nó đứng yên chứ không dập dình lên xuống như sàn tàu
của tôi, báo hại tôi phải đứng lại làm “một phút mặc niệm” để điều
chỉnh tình trạng cân bằng nếu không muốn té. Thực sự tôi đã say, tôi
say . . . . đất đấy quý vị ạ!
Từ đó tôi
mới tìm ra câu trả lời cho chính tôi là thế giới này không có hai loại
người đi biển, mà chỉ có một mà thôi. Đi biển đươ.c hay không là do vấn
đề quen sóng, khi đã quen rồi thì ai cũng chì sóng cả. Một thằng “mới
nhìn thấy tàu đã say” như tôi mà cũng có thể trở nên anh hùng chì sóng
thì ai cũng chì sóng được hết! Đồng thời tôi cũng hiểu được tại sao có
những ông thuyền trươ?ng già suốt đời đi tàu một cách vui thú, không hề
buồn phiền chán nản, không muốn đổi nghề và nhiều khi tàu neo, ông vẫn
thích ở lại với tàu của ông hơn là đi ra ngoài phố.
Bùi Tiến Hoàn, Canada
Khoá Đệ Nhị Dương Cưu, Trường SQHQ/NT.
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Buồn Vui Thời Đi Biển
Bóng dáng thanh lịch và oai hùng của những chiếc khu trục hạm mũi nhọn mình mỏng đang rẽ sóng lướt nhanh trên mặt biển xanh đậm, cắt mặt nước làm đôi với 2 tia bọt nước trắng xoá 2 bên mũi tàu, làm cho tôi say mê
iển
*
Bóng dáng
thanh lịch và oai hùng của những chiếc khu trục hạm mũi nhọn mình mỏng
đang rẽ sóng lướt nhanh trên mặt biển xanh đậm, cắt mặt nước làm đôi
với 2 tia bọt nước trắng xoá 2 bên mũi tàu, làm cho tôi say mê những
chiếc tàu chiến, say mê biển cả, say mê viễn du. Tôi có cảm tưởng như
những con tàu đó có sức mạnh ngự trị trên cả thiên nhiên, coi đại dương
mênh mông là nhỏ bé.
Tôi ao ước
được chỉ huy hững chiến hạm này vì tôi thường được nghe kể rằng Hạm
Trươ?ng là một chức vụ vinh dự nhất trong Hải Quân và khi chiến hạm ra
biển thì Hạm Trươ?ng là người có toàn quyền định đoạt mọi việc, “tiền
trảm hậu tấu”, nhất Trời nhì ta!
Một ông
Trời con giữa đại dương bát ngát mênh mông, ngự trị trên một con kình
ngư oai phong dũng mãnh như thế thì thử hỏi ai mà không mê cho được,
nhất rồi còn gì nữa! Đó là lý do tôi đã gia nhập Hải Quân và có lẽ đó
cũng là lý do mà một số các chàng trai cùng thời đã gặp tôi và trở
thành bạn tôi trong 38 năm nay.
Chúng tôi
thi vào học khoá 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang vào đầu năm 1963. Ngày
xuống Hải Vận Hạm Lam Giang (HQ 402) ở bến Bạch Đằng Saigon để đi Nha
Trang thụ huấn chúng tôi hơi thất vọng vì các sĩ quan tương lai đã
không được đối xử như mong muốn. Chúng tôi tưởng rằng sẽ đươ.c ở 1 khu
riêng dưới tàu với giường ngủ qua đêm trong thời gian gần 2 ngày hải
hành, được nuôi ăn như những thuỷ thủ của chiến hạm, nhưng thực tế là
chúng tôi đã đươ.c thả rong trong sàn tàu, nơi dùng để chuyên chở xe
tăng, tự tìm lấy 1 chỗ trên
boong hay nơi các ổ súng để làm giường ngủ. Việc ăn uống thì phải tự túc. Chúng tôi đều phải mang theo khẩu phần khô. Họ coi chúng tôi là khách quá giang, ngoài quân số của chiến hạm, nên không có phần ăn trên tàu. Còn giường ngủ thì chiến hạm không phải là loại tàu
chở hành khách nên không có cả trăm chiếc giường bỏ không cho chúng tôi dùng.
boong hay nơi các ổ súng để làm giường ngủ. Việc ăn uống thì phải tự túc. Chúng tôi đều phải mang theo khẩu phần khô. Họ coi chúng tôi là khách quá giang, ngoài quân số của chiến hạm, nên không có phần ăn trên tàu. Còn giường ngủ thì chiến hạm không phải là loại tàu
chở hành khách nên không có cả trăm chiếc giường bỏ không cho chúng tôi dùng.
Ngồi buồn
trên khẩu Boford đôi 40 ly phòng không của chiến hạm, tôi ngắm nhìn các
bạn cùng khoá, những thằng con trai sáng sủa bảnh bao mới bước vào
ngưỡng cửa Đại Học. Mọi ngày có vẻ “vào trong phong nhã ra ngoài hào
hoa” lắm, Vespa, Solex lươ.n quanh phố xá Saigon, dẫn đào đi dạo
Catinat, Nguyễn Huệ dáng dấp rất là công tử. Thế mà hôm nay sao thấy bệ
rạc quá, bộ vó phong nhã biến đi đâu mất dành chỗ cho những bộ mặt ngơ
ngáo, quần áo xốc xếch. “Gia tài của mẹ để lại cho con” vỏn vẹn có cái
sắc marin trên vai. Dăm ba thằng rủ nhau đi kiếm chân 1 ổ súng hay 1
góc sàn tàu kín đáo để làm “tổ ấm” trong thời gian hải hành.
Tôi nhớ
lại hai hôm trước, chúng tôi trình diện ở trại Bạch Đằng II để lãnh
quân trang. Khi các anh em mới gặp nhau buổi sáng ở ngoài sân, vì vui
quá nói chuyện hơi ồn ào một chút thì một trung sĩ nhất, có lẽ là quản
nội trươ?ng của trại, bước ra. Trước khi ra lệnh cho chúng tôi, thay vì
ôn tồn nói: “Các anh hãy im lặng nghe tôi nói đây”, thì ông ta đã quát
lớn một cách rất oai hùng: “Chúng mày có câm mồm đi không ?”.
Chúng tôi sợ quá bèn câm mồm hết, im như tờ. Trong đầu óc chúng tôi không ai tránh khỏi thắc mắc là tại sao trong quân đội người ta lại có thể khai thác quyền hành một cách quá trớn tới mức trở nên thô lỗ đến như thế được ? Tôi cho rằng đó là đặc tính của một số người VN, những người không có tư tưởng dân chủ sau thời gian dài bị đô hộ bởi người Pháp. Tư cách của những quan thực dân Tây đối với dân bản xứ đã ăn sâu vào đầu óc họ mất rồi. Khi họ có chút quyền hành thì họ khai thác triệt để quyền của họ và trở thành lạm quyền một cách lố bịch, ngươ.c lại khi họ ở vào vị thế không có quyền hành thì họ trở nên hèn hạ, qụy lụy đến mất cả nhân phẩm.
Chúng tôi sợ quá bèn câm mồm hết, im như tờ. Trong đầu óc chúng tôi không ai tránh khỏi thắc mắc là tại sao trong quân đội người ta lại có thể khai thác quyền hành một cách quá trớn tới mức trở nên thô lỗ đến như thế được ? Tôi cho rằng đó là đặc tính của một số người VN, những người không có tư tưởng dân chủ sau thời gian dài bị đô hộ bởi người Pháp. Tư cách của những quan thực dân Tây đối với dân bản xứ đã ăn sâu vào đầu óc họ mất rồi. Khi họ có chút quyền hành thì họ khai thác triệt để quyền của họ và trở thành lạm quyền một cách lố bịch, ngươ.c lại khi họ ở vào vị thế không có quyền hành thì họ trở nên hèn hạ, qụy lụy đến mất cả nhân phẩm.
Không biết
có phải vì mới ngày đầu đã gặp “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”
như thế nên hôm nay nét mặt anh em trở nên u buồn chán nản hay không.
Có bạn nóng tính đã hứa với anh em là khi ra trường sẽ xin về phục vụ
cùng đơn vị với trung sĩ này để dậy dỗ
cho anh ta nên người. Thế nhưng sau đó chúng tôi đều quên hết. Đó là đức tính của tuổi trẻ, dễ quên và dễ tha thứ, ai nấy đều muốn đi phục vụ các đơn vị tác chiến hoặc hải hành để học hỏi đươ.c nhiều điều hay, chứ không muốn làm việc có tính cách phục vụ hậu cứ như đơn vị của trung sĩ này. Người ta thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nhỡ chẳng may “lây” tính nết của ông này thì bỏ mẹ !
cho anh ta nên người. Thế nhưng sau đó chúng tôi đều quên hết. Đó là đức tính của tuổi trẻ, dễ quên và dễ tha thứ, ai nấy đều muốn đi phục vụ các đơn vị tác chiến hoặc hải hành để học hỏi đươ.c nhiều điều hay, chứ không muốn làm việc có tính cách phục vụ hậu cứ như đơn vị của trung sĩ này. Người ta thường nói “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, nhỡ chẳng may “lây” tính nết của ông này thì bỏ mẹ !
Tàu chạy
vòng vo tam quốc trong sông Lòng Tào, vì là giờ nước lớn, vả lại bờ
sông không cao, đứng trên boong tàu tôi có thể nhìn thấy ruộng đồng bát
ngát đến tận các làng mạc nơi xa. Con sông ngoằn nghoèo như một con
rắn lớn, có nhiều khúc cong quá đến độ tôi thấy
những nhà cao tầng của Saigon lại hiện ra trước mũi tàu khi tàu đã đi xa khỏi Saigon khá lâu rồi. Thành phố Saigon thân yêu cứ xa dần, xa dần, mãi cho đến khi khuất hẳn. Chúng tôi đã thực sự “lìa xa thành đô yêu dấu” để tạm gọi là “xếp bút nghiên theo việc đao cung”
mặc dù vẫn còn phải dùng đến bút nghiên ít nhất là 2 năm nữa và đao thì chẳng biết dùng, cung cũng chẳng biết bắn !
những nhà cao tầng của Saigon lại hiện ra trước mũi tàu khi tàu đã đi xa khỏi Saigon khá lâu rồi. Thành phố Saigon thân yêu cứ xa dần, xa dần, mãi cho đến khi khuất hẳn. Chúng tôi đã thực sự “lìa xa thành đô yêu dấu” để tạm gọi là “xếp bút nghiên theo việc đao cung”
mặc dù vẫn còn phải dùng đến bút nghiên ít nhất là 2 năm nữa và đao thì chẳng biết dùng, cung cũng chẳng biết bắn !
Đứng trên
thành tàu nhìn cảnh trời mây, sông nước, với nền trời xanh mây trắng
kéo vần vũ, suy nghĩ mông lung, tôi chợt nhớ tới câu nói bất hủ của
Tổng Thống Hoa Kỳ đương thời, đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trên
báo chí: “Đừng hỏi quê hương có thể
làm được những gì cho mình, hãy tự hỏi mình có thể làm được gì cho quê hương”. Tôi thầm nghĩ ông này thực sự là người có tài khích động lòng người. Đúng là người đươ.c huấn luyện để trở thành nhà lãnh đạo! Câu nói của ông cũng đã ảnh hưởng rất mạnh
đến việc đông viên tinh thần giới trẻ như tôi.
làm được những gì cho mình, hãy tự hỏi mình có thể làm được gì cho quê hương”. Tôi thầm nghĩ ông này thực sự là người có tài khích động lòng người. Đúng là người đươ.c huấn luyện để trở thành nhà lãnh đạo! Câu nói của ông cũng đã ảnh hưởng rất mạnh
đến việc đông viên tinh thần giới trẻ như tôi.
Tôi liên
tươ?ng đến thực tế, hiện thời chúng tôi sắp nhập Trường Sĩ Quan Hải
Quân, một trường nổi tiếng lịch sự, hào hoa và trí thức nhất trong quân
đội, thế mà đêm nay chúng tôi sẽ phải gối sắc marin nằm sàn tàu sắt,
bị bỏ đói. Thật là tương phản, ai đâu ngờ rằng trước khi trở thành sĩ
quan của một quân chủng hào hoa và lịch sự, chúng tôi lại phải qua
chặng đường này. Nghĩ đến câu nói bất hủ của ông Kennedy thì tôi lại tự
nhủ quả thực mình chưa làm đươ.c gì cho quê hương, vậy cũng không nên
đòi hỏi gì và tôi bắt đầu vui với cuộc đời phong sương mới này. Có lẽ
dần dà rồi cũng quen đi, quen với đời sống phong sương vất vả, quen với
sự hy sinh không đòi hỏi trả công, quen với thái độ của những người
như ông trung sĩ kia đối với người dưới quyền. Tôi thương hại ông ta
hơn là ghét và tôi tự nhủ hãy lấy gương ông ta mà tu thân cho nên
người.
Chiến hạm
ra khỏi cửa Cần Giờ, tên của cửa sông Lòng Tào, chừng mươi phút thì tàu
bắt đầu lắc ngang làm chúng tôi lao đao, tuy nhiên vì chưa có trách
nhiệm gì trên tàu nên những ai không say sóng thì vẫn đi lại và lên
boong tàu ngắm cảnh trời mây sóng nước, còn những
ai say sóng hay mệt thì cứ tự do nằm nghỉ nơi “tổ ấm” mà mình đã chọn. May mắn thay chuyến đi này không gặp sóng gió nhiều, một ngày rưỡi rồi cũng trôi qua một cách êm ả. Chúng tôi nhập quân trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1963 với sự đón rước “nồng hậu” của các
sinh viên khoá đàn anh vì khi đó khoá đàn anh của họ đã mãn khoá và được tung ra khắp 4 vùng chiến thuật rồi. Họ đang buồn vì không có ai để quay chơi cho vui.
ai say sóng hay mệt thì cứ tự do nằm nghỉ nơi “tổ ấm” mà mình đã chọn. May mắn thay chuyến đi này không gặp sóng gió nhiều, một ngày rưỡi rồi cũng trôi qua một cách êm ả. Chúng tôi nhập quân trường vào ngày 13 tháng 4 năm 1963 với sự đón rước “nồng hậu” của các
sinh viên khoá đàn anh vì khi đó khoá đàn anh của họ đã mãn khoá và được tung ra khắp 4 vùng chiến thuật rồi. Họ đang buồn vì không có ai để quay chơi cho vui.
Học được 6
tháng thì chúng tôi có chương trình thực tập đi biển lần đầu, thật là
háo hức. Chúng tôi phải chuẩn bị mua sắm để tự túc thực phẩm khô dùng
cho 2 ngày đi biển. Vì trường không có huấn luyện hạm riêng, phải mượn
chiến hạm của Bộ Chỉ Huy Hạm Đội vài ngày để huấn luyện sinh viên nên
đối với chiến hạm chúng tôi là khách quá giang, không ai nấu ăn cho
chúng tôi cả. Chúng tôi lo chuẩn bị các thứ như cá mòi đóng hộp, bánh mì
khô, kẹo, bánh ngọt, bánh bisquit, trái cây v. v. . Chúng tôi không
đứa nào quên mang theo giấy vệ sinh và giâý lau tay để lau chùi khi ói
mửa.
Chiến hạm
dùng để thực tập lần này là loại hộ tống hạm, một loại chiến hạm chuyên
dùng để hộ tống các đoàn “convoi” ngoài biển nên rất chịu sóng, có thể
hải hành trong những điều kiện biển 3, biển 4 là thường. Chỉ có vấn đề
nhân sự trên tàu có chịu nổi sóng hay không mà thôi. Mới bước chân lên
chiến hạm tôi đã thấy khó chịu vì mùi dầu gasoil dùng chạy máy cộng
thêm với mùi khói do máy diesel phun ra hai bên thành tàu và mùi tanh
tanh của nước biển còn đọng trên boong tàu chưa rửa sạch. Sau 2 tháng
bị hành hạ thể xác với chương trình huấn nhục, ăn uống thiếu dinh
dưỡng, tập tành khắt khe, anh em chúng tôi ai nấy đều hốc hác, riêng
tôi đã sụt mất khoảng 4, 5 kí trong 2 tháng này. Bốn tháng kế tiếp chưa
đủ thời giờ để hồi lực nên chuyến hải hành đầu tiên đối với chúng tôi
có vẻ vất vả lắm.
Trên tàu,
theo lệnh sĩ quan toán trưởng, chúng tôi chia thành ba chi đôi. để đi
phiên song song với nhân viên chiến hạm. Ngày đầu tiên phiên của chi
đội tôi bắt đầu lúc ba giờ chiều, chấm dứt lúc sáu giờ chiều và là
phiên trên đài chỉ huy. Chúng tôi lớ quớ như những đứa trẻ con, chẳng
biết làm gì, chỉ nghe theo lời giảng giải của sĩ quan toán trươ?ng về
cách dùng các dụng cụ hải hành và lý thuyết đi biển. Lúc đầu tuy mệt
nhưng chưa đến nỗi say, ai nấy lo ghi ghi chép chép để khi về có tài
liệu viết phúc trình. Chừng năm, sáu giờ chiều sóng gió bắt đầu nổi
lên. Mặt mũi chúng tôi ai nấy xanh lè, buồn thiu, bút sách cứ thấy biến
dần, chỉ còn vài tên thuộc loại chì sóng vẫn tiếp tục ghi chép đươ.c
mà thôi.
Đối với
tôi tàu chỉ lắc vài cái là tôi đã bắt đầu thấy nôn nao khó chịu, tim
tôi bắt đầu đập loạn xạ, không chịu theo nhịp bình thường nữa, thế mà
tàu cứ lắc liên miên, đôi khi còn trồi lên thụp xuống rất mạnh làm cho
ruột gan tôi như muốn lộn ra ngoài. Tôi thấy bải hoải tay chân, mắt hoa
đầu váng, người như mất hết năng lực, không còn sức đứng vững nữa, chỉ
muốn nằm đại xuống sàn tàu. Đâu đó nghe có tiếng oe., một sinh viên đã
nôn vào một cái sô gần đó. Tôi cố cầm cự nhưng chỉ được vài phút sau
thìtôi cũng phải noi gương anh bạn. Vì tôi không đứng gần cái sô nào cả
vả lại khi đó tàu đang nghiêng chừng 30 độ về bên tôi đứng, tôi không
còn sức chạy ngươ.c dốc để đến cái sô phía bên kia tàu, bèn chạy xuống
dốc cho nhanh, ra bám vào thành tàu cúi xuống để làm cái việc “cho cá
ăn chè”.
Gió lớn
quá, “chè” chua loét của tôi đâu có đến với cá đươ.c, nó đã bị thổi
ngươ.c lại và rơi ngay trên đỉnh đầu một thằng bạn đang đứng ở sàn tàu
dưới học về hải pháo. May thay trên đầu nó có đội mũ casquette, đỉnh mũ
của nó nhận gần hết “bát chè nhầy nhụa” của tôi thân tặng. “Chè” còn
tung toé trên người và trên hai vai của nó, bê bết trên hai gù vai mang
alpha vàng choé. Nó giật mình hét lớn lớn:
- Mẹ thằng nào đó ?.
Khi ngẩng
đầu nhìn lên nó nhận ra thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” thì nó bớt
giận, dịu giọng: ” Trời ơi! Sao không cho vào sô mày ? Ghê quá, chết
tao rồi!”. Thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” chính là tôi, tên này do
anh em đã “rửa tội” cho tôi kể từ chuyến thực tập vận chuyển lần đầu
bằng tàu nhỏ, quân vận đĩnh (LCM) trước đó ít lâu, vì tôi là một trong
vài người yếu chịu sóng nhất khoá. Có lẽ nhờ mang tên này mà tôi lấy
đươ.c “lòng thương” của những thằng bạn chì sóng trong khoá. Vì thứ
nhất là khi tôi say sóng thì người tôi như cái bị rách, trông rất tội
nghiệp, còn hơn người bị bịnh thương hàn cả tháng trời, ai trông thấy
cũng thương hại; thứ nhì là dù tôi mang đi bao nhiêu thực phẩm dự trữ
cho hai ngày hải hành tôi cũng biếu lại cho những thằng bạn chì sóng
hết, nuốt gì nổi mà nuốt. Tụi nó đươ.c ăn nhiều đồ ăn của mình thì dĩ
nhiên thương mình rồi!
Thằng bạn
mà tôi đã tặng nó “bát chè” đầu tiên là một thằng chì sóng bực nhất của
khoá, nó gầy tom, dáng dấp thư sinh trắng trẻo và hiền như . . . “ma
sơ” vì thế nó đươ.c rửa tội với tên Gà Mái. “Gà Mái” bây giờ lạc bước
giang hồ xuống tận nam bán cầu, ở xứ đầy Kangouru. May mà “trời sinh”
ra cái “long distance call free” với internet chứ không thì tôi phải
tốn bộn tiền điện thoại viễn liên với nó vì nó rất chậm tiến, không
thích dùng máy điện toán để liên lạc bằng i meo!
Tôi nhận
thấy một điều rất lạ là những thằng càng gầy thì lại càng chì sóng.
Trong khoá tôi còn có một tên gầy teo chỉ có da bọc xương, đen xì và ăn
rất khoe?, anh em đã phải gọi nó là “Tử Thần”. Tôi chắc nếu nó xin gia
nhập Không Quân để trở thành phi công thì sẽ không đựơc tuyển vì người
ta e rằng khi nó muốn hạ cánh, máy bay nhẹ quá không đáp xuống được,
sẽ bay hoài cho đến khi hết nhiên liệu mới chịu rơi xuống. Vào Hải Quân
lại là đất dụng võ của nó. Trong khi anh em đều say khướt nằm la liệt
thì nó đi vòng vòng hỏi : ” Thằng nào không ăn đươ.c đâu, đưa hết đây
tao ăn cho.” Hình như khi nào có sóng to gió lớn thì nó lại ăn khoẻ hơn
thì phải. Không biết say sóng như nó kể cũng sung sướng thiệt !
Người ta
thường nói cuộc vui nào rồi cũng qua đi. Trong khi thực tập hải hành
thì tôi thấy đau khổ nào rồi cũng qua đi, nhất là đau khổ vì say sóng!
Những chuyến thực tập hải hành như vậy rất cực nhọc đối với tôi nhưng
may thay nhờ Trường Sĩ Quan Hải Quân chưa có huấn luyện hạm riêng nên
chúng tôi chỉ phải đi thực tập vài chuyến trong suốt hai năm học mà
thôi. Các huấn luyện viên thì nói rằng mai mốt mãn khoá ra trường, xuống
chiến hạm có trách nhiệm rồi thì sẽ bớt say sóng và sẽ quen, vì thế
chúng tôi, những thằng “mới nhìn thấy tàu đã say” cũng yên lòng phần
nào để tiếp tục học hành mà không . . . đào ngũ.
Khi ra
trường tôi đươ.c bổ nhiệm xuống hộ tống hạm Kỳ Hoà HQ 09, một loại
chiếm hạm tác chiến dùng để hộ tống và tuần tiễu nên khi nào đi công
tác là đi cả tháng chứ không đi vài ngày như những chiến hạm chuyển
vận. Tôi lo lắng lắm vì thấy một tương lai rất là vất vả đang chờ mình.
Tôi không biết mình sẽ phải làm sao để chịu đựng được những lần biển
nổi cơn thịnh nộ như những lần tôi đi thực tập khi còn trong quân
trường. Thêm vào đó người ta còn nói hạm trưởng chiến hạm này rất khó
tính và khắt khe nên các sĩ quan đươ.c thuyên chuyển xuống tàu đều
tránh né, trì hoãn để tìm cơ hội xin đi đơn vị khác. Thuỷ thủ đoàn đã
đặt tên cho chiến hạm là “Kỳ Hoà Tự”, một ngôi chùa để những kẻ chán
đời đến tu !
Chuyến hải
hành đầu tiên của tôi là chuyến công tác tham dự chiến dịch Vũng Rộ
Theo tin tình báo Mỹ, một tàu địch chở đầy vũ khí khởi hành từ Hải
Phòng, giả dạng tàu buôn ra khơi về phía đông, tận ngoài hải phận quốc
tế. Từ đây nó đổi hướng, đi về phía nam để đánh lạc hướng các nơi theo
dõi. Đến ngang Nha Trang nó lại đổi sang hướng tây vào ban đêm, trực
chỉ vào bờ , thẳng vào Vũng Rô để đổ súng đạn vào mật khu của chúng.
Không tuần
của Hải Quân Mỹ đã theo dõi tàu VC, khi tầu địch vào đến hải phận VN
Cộng Hoà mới báo cho các đơn vị chiến hạm Hải Quân VN chận bắt. Tàu
địch đã bị chận bắt trong hải phận của ta, vì cùng đường, biết không
chạy thoát được nên chúng đã đâm thẳng vào bờ ngay tại Vũng Rộ Tất cả
thuỷ thủ đoàn chạy trốn lên đất liền để thoát vào mật khu. Nơi này được
địch phòng thủ rất kiên cố, các ổ súng lớn của chúng đều ở trên núi và
dấu trong các hang trên cao, miệng hang nhìn ra biển, vì thế những cuộc
oanh tạc của Không Quân không có hiệu quả, chỉ có trọng pháo của Hải
Quân từ biển nhắm thẳng vào các miệng hang của những ổ súng địch mà
khạc đạn thì mới làm chúng câm họng đươ.c.
Tin từ
chiến trường cho biết là HQ 405 đã bị thiệt hại rất nhiều mà không thể
nào ủi bãi để tịch thu súng đạn địch trên tàu xâm nhập vì hoả lực địch
quá mạnh. Ngoài ra trên bờ ngay nơi chân núi sát biển còn có mật khu
của địch với các hầm chứa đầy vũ khí mà chúng đã xâm nhập từ trước.
Những khẩu Boford đôi 40ly của HQ 405 không đủ sức công phá các hang
kiên cố này, nay chỉ trông chờ vào 76.2 ly của hộ tống hạm mà thôi.
Đươ.c lệnh
khởi hành khẩn cấp để tăng viện cho chiến dịch, HQ 09 khởi hành ngay
vào buổi chiều, đúng hai ngày sau khi tôi trình diện chiến hạm. Hạm
Trươ?ng là thiếu tá Trang, khoá 4. Chiến hạm không có hạm phó vì hạm
phó cũ đã thuyên chuyển, hạm phó mới chưa trình
diện. Xử lý thường vụ hạm phó là thiếu uý Từ, khoá 12, sau đó là hai thiếu uý trong đó có tôi, như vậy theo cấp số thì chiến hạm thiếu ít nhất là ba sĩ quan, nhưng vẫn phải đi công tác như thường.
diện. Xử lý thường vụ hạm phó là thiếu uý Từ, khoá 12, sau đó là hai thiếu uý trong đó có tôi, như vậy theo cấp số thì chiến hạm thiếu ít nhất là ba sĩ quan, nhưng vẫn phải đi công tác như thường.
Thường
thường khi có sĩ quan mới ra trường xuống chiến hạm thì hạm phó cắt đặt
cho đi phiên chung với một sĩ quan thâm niên hơn trong một thời gian.
Sau khi xét thấy sĩ quan mới này đã đủ điều kiện làm trưởng phiên thì
mới trao phiên chính thức. Vì HQ 09 ở trong tình trạng thiếu sĩ quan
như thế nên ba thiếu uý bị bắt buộc phải làm trươ?ng phiên ba “ca”, vì
không lẽ bắt hạm trươ?ng đi một “ca” sao ? Vì thế tôi không có thời
gian để thực tập .
Chiến hạm
đến cửa Cần Giò đã là 8 giờ tối và là phiên của tôi trên đài chỉ huy
cho đến 12 giờ đêm. Tháng 2 là tháng của mùa gió bấc, gió thổi từ hướng
đông bắc rất mạnh. Ra khỏi Vũng Tầu, khi bắt đầu đi hướng đông bắc thì
tàu vừa lắc vừa nhồi. Sau khi đã thấy chiến hạm vào đúng đường rồi và
không còn gì nguy hiểm về đá ngầm nữa, hạm trưởng nhắc tôi cẩn thận rồi
rời đài chỉ huy. Nguy quá, ông trao trách nhiệm cho tôi, đương nhiên
coi tôi như đủ khả năng làm sĩ quan trươ?ng phiên. Phiên hải hành đầu
tiên mà tôi đã phải làm sĩ quan trưởng phiên, có trách nhiệm lo hướng
dẫn con tàu theo đúng hải trình. Nhờ có trách nhiệm, tôi cũng có bớt
say sóng một chút nhưng tôi hơi lo vì một mình tôi sẽ phải gánh hết
trách nhiệm, nếu có chuyện gì thì mạng của cả trăm người đặt trong tay
tôi. Tôi cố gắng gồng mình chịu đựng mặc dù đã thấy rất đừ.
Nhưng sức
của thằng “Mới nhìn thấy tàu đã say” chỉ có hạn, lúc đầu tôi còn lo làm
point bằng radar xem chiến hạm có đi sai đường không. Sau hơn 1 giờ
gồng mình với sóng 3, sóng 4, đầu tôi nhức, mắt tôi hoa, bụng tôi thắt
lại từng hồi dồn nước chua trong dạ dày lên cổ, tôi cố nuốt nó xuống nó
lại lên, lại nuốt xuống, nó lại lên! Nuốt hai ba lần rồi đến một lúc,
sau một cái thắt ruột mạnh, áp suất bên trong cao quá, cổ không đủ sức
để kìm lại và nuốt xuống nữa, nó phun ra thành vòi. Tôi bắt đầu ói, cú
ói đầu tiên tôi biết trước và còn sức nên còn cố chạy
đến cái sô và ói vào sô, tiếp theo sau đó vì nó ra nhiều quá đâu có kịp chạy đến sô mà cũng chẳng còn biết sô ở đâu nữa, nên bạ đâu ói đó, bao nhiêu thức ăn nuốt vào hồi chiều dần dần cho ra hết. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cho ra nhiều hơn những gì tôi đã ăn vào rồi mà sao vẫn ói. Người ta thường nói ói ra cả mật xanh, mật vàng nhưng vì trời nhá nhem tối, vả lại tôi thường chạy ra thành tàu để “cho cá ăn chè” nên tôi không biết có ói ra mật hay không. Tôi thấy rất đắng trong miệng, chắc có ói ra mật thật chứ chẳng chơi! Con tàu vẫn khi thì lắc lư, khi thì nhồi lên hụp xuống, sóng đánh vào mạn tàu nghe ầm ầm như bom nổ gần đâu đây, thân tàu oằn oại nghe răng rắc như muốn bị vặn xéo đi. Thỉnh thoảng một cơn sóng lớn đánh vào mũi tàu nghe một tiếng ầm, mũi tàu chúi xuống và một cột nước lớn đổ ào lên đài chỉ huy, lọt qua những khe hở của kính chắn trước mặt làm mọi người ướt mèm. Tôi cố đứng vững nhưng rất khó, hai tay tôi ôm chặt lấy cột của chiếc la bàn điện để giữ cho thân người không sụm xuống vì hai chân tôi gần như tê bại rồi. Toàn thân tôi lạnh ngắt mặc dù đã có áo ấm đi biển .
đến cái sô và ói vào sô, tiếp theo sau đó vì nó ra nhiều quá đâu có kịp chạy đến sô mà cũng chẳng còn biết sô ở đâu nữa, nên bạ đâu ói đó, bao nhiêu thức ăn nuốt vào hồi chiều dần dần cho ra hết. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cho ra nhiều hơn những gì tôi đã ăn vào rồi mà sao vẫn ói. Người ta thường nói ói ra cả mật xanh, mật vàng nhưng vì trời nhá nhem tối, vả lại tôi thường chạy ra thành tàu để “cho cá ăn chè” nên tôi không biết có ói ra mật hay không. Tôi thấy rất đắng trong miệng, chắc có ói ra mật thật chứ chẳng chơi! Con tàu vẫn khi thì lắc lư, khi thì nhồi lên hụp xuống, sóng đánh vào mạn tàu nghe ầm ầm như bom nổ gần đâu đây, thân tàu oằn oại nghe răng rắc như muốn bị vặn xéo đi. Thỉnh thoảng một cơn sóng lớn đánh vào mũi tàu nghe một tiếng ầm, mũi tàu chúi xuống và một cột nước lớn đổ ào lên đài chỉ huy, lọt qua những khe hở của kính chắn trước mặt làm mọi người ướt mèm. Tôi cố đứng vững nhưng rất khó, hai tay tôi ôm chặt lấy cột của chiếc la bàn điện để giữ cho thân người không sụm xuống vì hai chân tôi gần như tê bại rồi. Toàn thân tôi lạnh ngắt mặc dù đã có áo ấm đi biển .
Mười một
giờ đêm, tôi vẫn tiếp tục ói, và con tàu vẫn tiếp tục hì hục chống chọi
với thiên nhiên, có lúc cả con tàu bị đưa lên thật cao rất nhanh làm
tôi cảm thấy thân xác tôi nặng chịch hàng tấn thịt, hai chân run run
nhún xuống dưới sức nặng “ngàn cân” của thân mình. Tôi nghĩ chắc khi đó
cơ thể tôi ít nhất cũng phải chịu một sức kéo xuống tương đương với 3G
(3 lần trọng lượng người tôi) chứ chẳng chơi. Tội nghiệp cho hai cái
chân của tôi, chúng đã tê rồi không còn cảm giác gì cả mà vẫn phải gánh
chịu cái thân hình nặng nề này! Liền sau đó con tàu rơi thỏm xuống một
hố sâu, tôi sợ quá tỉnh hẳn không còn thấy u mê nữa nên đã chuẩn bị để
khỏi đụng đầu vào trần, hai tay nắm lấy cột sắt của la bàn điện ghìm
thật chặt, chúi người xuống và đẩy cột la bàn lên, thế mà hai chân vẫn
bị nhấc bổng toòng teng trên không, ầm một
tiếng lớn, cả con tầu rung lên rần rần như thằng động kinh! Các vật dụng trên tàu tuy đã được ràng buộc chặt từ hồi chiều nhưng khi bị rung lắc mạnh vẫn tạo thành những tiếng động ngân vang trong không gian, hoà thêm với tiếng gió thổi qua các giây “cáp” ù ù nghe như tiếng gầm gừ của hai con sư tử đực đang tranh hùng. Tôi có cảm tỨưởng chiến hạm là một con vật khổng lồ đang chống chọi với cơn cuồng nộ của biển cả để cố gắng đi tới. Người ta thường ví chiến hạm với con kình ngư quả cũng không sai.
tiếng lớn, cả con tầu rung lên rần rần như thằng động kinh! Các vật dụng trên tàu tuy đã được ràng buộc chặt từ hồi chiều nhưng khi bị rung lắc mạnh vẫn tạo thành những tiếng động ngân vang trong không gian, hoà thêm với tiếng gió thổi qua các giây “cáp” ù ù nghe như tiếng gầm gừ của hai con sư tử đực đang tranh hùng. Tôi có cảm tỨưởng chiến hạm là một con vật khổng lồ đang chống chọi với cơn cuồng nộ của biển cả để cố gắng đi tới. Người ta thường ví chiến hạm với con kình ngư quả cũng không sai.
Sau khi
tàu rơi xuống hố như thế, mũi tầu chúi xuống và húc vào một làn sóng
lớn tiếp theo đang cuồn cuộn đi tới. Nguyên cả một lớp nước dày hơn một
thước tràn lên boong tàu làm cho chiếc tàu giống như tàu ngầm chỉ thò
đài chỉ huy lên trên mặt nước mà thôi. Vì tàu chúi đầu xuống, cả thân
người tôi nằm dài trên cột la bàn lúc nào tôi cũng không hay, trông
giống như đứa trẻ con đang nằm trên thân cây đu đưa chơi vậy.
Ôi cha mẹ ơi, sao biển đẹp và yêu quý của tôi lại có thể hành hạ tôi đến mức này ?
Ôi cha mẹ ơi, sao biển đẹp và yêu quý của tôi lại có thể hành hạ tôi đến mức này ?
Tôi đã ói
hết cả mật ra rồi, bây giờ không còn gì để ói nữa nên tôi ói khan. Bắt
đầu bằng ruột và bao tử thắt lại, cơn nôn từ bụng dưới đưa lên và khi
ra đến mồm thì chỉ là một tiếng oe. nhưng không có gì đi ra khỏi miệng
cả. Những cơn nôn oe. như thế làm co thắt ruột và bao tử tôi nhiều lần,
rồi tôi cảm thấy tê tê nơi bụng như có một luồng điện giựt từ cổ tới
rốn. Cứ như thế, điện cứ giựt trong bụng tôi từng hồi làm thân thể tôi
tê dại đi, hai tay thì như bị cả ngàn con kiến cắn hay cả ngàn cái kim
châm, tê ran khắp gan bàn tay và các đầu ngón tay. Hình như điện truyền
xuống cả chân tôi thì phải. Tuy thân thể tê dại nhưng đầu óc thì vẫn
tỉnh táo, tôi thầm nghĩ chắc là thần kinh nội tạng của mình bị kích
thích quá mức nên nó tạo ra những luồng điện như vậy, đúng là những
luồng điện khá mạnh đang giựt giựt trong bụng tôi.
Tôi lo
lắng tự hỏi hay là mình đã chọn lầm nghề. Say sóng dữ như thế này thì
làm sao sau này quen sóng và làm sao mà chỉ huy chiến hạm ? Cỡ này nếu
cứ tiếp tục đi biển thì chắc có ngày mình sẽ hui nhị tỳ mất thôi chứ
sao thành hạm trưởng được! Nhưng thực tế là tôi
phải tính sao với hiện tai đây ? Tôi không thể bỏ phiên được. Trong Hải Quân, sĩ quan mà bỏ phiên đi “ca” là một tội không thể tha thứ. Tôi đã tự nhủ ngay là mình phải tự khắc phục, quyết đứng đây cho đến hết phiên, muốn ra sao thì ra, vì danh dự và vì trách nhiệm, không thể nào rời đài chỉ huy đươ.c.
phải tính sao với hiện tai đây ? Tôi không thể bỏ phiên được. Trong Hải Quân, sĩ quan mà bỏ phiên đi “ca” là một tội không thể tha thứ. Tôi đã tự nhủ ngay là mình phải tự khắc phục, quyết đứng đây cho đến hết phiên, muốn ra sao thì ra, vì danh dự và vì trách nhiệm, không thể nào rời đài chỉ huy đươ.c.
Tôi thấy
ông trung sĩ giám lộ cùng phiên với tôi đi biển đã lâu nên có vẻ chì
sóng, tôi nói với ông ta là để ý tàu giùm vì tôi mệt lắm, không còn
tỉnh táo để coi tàu được nữa. Ông ta biết tôi là sĩ quan mới toanh vừa
ra lò và cũng là chuyến hải hành đầu tiên nên rất thông cảm, đã nhận
lời một cách rất vui vẻ và còn khuyên tôi “Thiếu Uý cứ ngồi nghỉ đi,
không có gì cần lo đâu vì tàu đang ở ngoài khơi mà”. Tôi yên trí, đứng
đó làm trươ?ng phiên mà như cái xác không hồn cho đến hết phiên. Mười
hai giờ đêm hết phiên tôi mừng quá, và thật là hú vía, phiên đầu tiên
trong đời hải nghiệp của tôi đã qua đi một cách êm thấm. Mặc dù rất “khổ đau” nhưng không có tai nạn gì xảy ra cả. Chỉ có sĩ quan trưởng phiên mơ mơ màng màng như người lên cung trăng trong suốt phiên của mình. Khi sĩ quan trươ?ng phiên kế tiếp lên nhận phiên, tôi thấy tỉnh táo hơn được một chút, cố lết ra bàn hải đồ để bàn giao phiên lại cho Thiếu Uý Từ rồi chạy thật lẹ xuống phòng riêng.
trong đời hải nghiệp của tôi đã qua đi một cách êm thấm. Mặc dù rất “khổ đau” nhưng không có tai nạn gì xảy ra cả. Chỉ có sĩ quan trưởng phiên mơ mơ màng màng như người lên cung trăng trong suốt phiên của mình. Khi sĩ quan trươ?ng phiên kế tiếp lên nhận phiên, tôi thấy tỉnh táo hơn được một chút, cố lết ra bàn hải đồ để bàn giao phiên lại cho Thiếu Uý Từ rồi chạy thật lẹ xuống phòng riêng.
Vào phòng,
tôi để nguyên quần áo lăn đùng ra giường rồi thiếp đi đưỨơ.c một lúc
nhưng vì tàu vẫn lắc và nhồi quá, thỉnh thoảng người tôi lại được nâng
lên khỏi giường rồi ném xuống nệm bình bịch. Thỉnh thoảng tôi bị lăn
vào phía trong đập mình vào tường, tôi phải lấy 1 cái gối chắn bên
trong tường cho khỏi bị u đầu, sau đó lại lăn ra phía ngoài, nếu tôi
không dùng tay ghìm chặt thành giường thì chắc chắn thế nào cũng rớt
xuống sàn tàu. Thêm vào đó là những tiếng ầm ầm do sóng đập vào thành
tàu cộng thêm tiếng gió rít bên ngoài nên không thể nào ngủ đươ.c.
Tôi suy
nghĩ miên man và tự hỏi rằng trên thế giới này hiện có biết bao nhiêu
là tàu biển đang chạy ngang chạy dọc khắp đại dương, biết bao nhiêu là
thuỷ thủ đoàn đang lo cho tàu chạy, họ có sao đâu. Tại sao mà mình cực
khổ nhưỨ thế này? Không lẽ trời sinh ra 2 loại
người, một loại để chuyên môn đi biển còn một loại chỉ ở bờ không bao giờ đi biển đươ.c hay sao. Hỏi rồi tôi tự trả lời: có bao giờ mình nghe nói đến chuyện đó đâu !
người, một loại để chuyên môn đi biển còn một loại chỉ ở bờ không bao giờ đi biển đươ.c hay sao. Hỏi rồi tôi tự trả lời: có bao giờ mình nghe nói đến chuyện đó đâu !
Chuyến
công tác tham dự hành quân Vũng Rô này chấm dứt sau 5 ngày, HQ 09 đỨược
trở về Saigon nghỉ bến vì chưa đến phiên đi tuần. Ngay khi về đến bến,
vì lý do nhu cầu liên lạc và thông dịch gia tăng mạnh nên tôi được
Phòng 3 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gọi về để đi
làm sĩ quan liên lạc trên các chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và trong gần 2 năm sau đó tôi làm việc với Hải Quân Hoa Kỳ. Có điều đặc biệt là khi tôi đi trên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tôi lại ít say sóng hơn, theo tôi nghĩ thì có lẽ một phần là do chiến hạm lớn hơn ít bị sóng lắc hay nhồi, một phần nữa có thể là do sự ăn uống những thức ăn dễ tiêu hơn, bao tử mình chứa ít thức ăn khi gặp sóng gió lớn thì không khơi mào cho sự nôn oe., sau cùng và quan trọng hơn cả là việc quen với sóng.
làm sĩ quan liên lạc trên các chiến hạm của đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và trong gần 2 năm sau đó tôi làm việc với Hải Quân Hoa Kỳ. Có điều đặc biệt là khi tôi đi trên chiến hạm của Hải Quân Mỹ thì tôi lại ít say sóng hơn, theo tôi nghĩ thì có lẽ một phần là do chiến hạm lớn hơn ít bị sóng lắc hay nhồi, một phần nữa có thể là do sự ăn uống những thức ăn dễ tiêu hơn, bao tử mình chứa ít thức ăn khi gặp sóng gió lớn thì không khơi mào cho sự nôn oe., sau cùng và quan trọng hơn cả là việc quen với sóng.
Về ăn uống
thì tôi biết trong Hải Quân Pháp mỗi sĩ quan khi xuống chiến hạm đều
đươ.c lãnh tiền ăn mà họ gọi là “traitement de table” gấp 3 hay 4 lần
lương căn bản của họ khi ở trên bờ. Khi chiến hạm hải hành công tác thì
tiền này còn tăng lên bằng 5 hay 6 lần tiền lương. Tôi nghĩ chắc họ
không dư tiền mà cấp phát bừa bãi đâu, mục đích có lẽ là để cho người
thuy? thủ có đủ phương tiện ăn những đồ ăn nhẹ mà vẫn đầy đủ chất bổ
trong nhiều ngày lênh đênh ngoài biển và không ảnh hưởng đến tình trạng
chiến đấu của chiến hạm.
Còn về vấn
đề quen với sóng gió thì khi ở chiến hạm VN chúng ta thường đi tuần
hay công tác dăm ba hôm lại ghé bến để đi chợ, để tiếp tế nhiên liệu,
lấy nước ngọt hay để nghỉ, cơ thể vừa mới bắt đầu làm quen với sóng thì
lại làm quen với đất liền. Cứ như thế những người có cơ thể cần phải
quen với sóng như tôi không thể nào quen đươ.c. Khi tôi lên chiến hạm
của Hải Quân Mỹ thì tàu chạy luôn một lèo từ 30 đến 40 ngày không vào
bến. Vì thế cùng lắm là chỉ có 2, 3 ngày đầu là say sóng thôi, nếu
những ngày này là những ngày đẹp trời hay ít sóng gió thì sau đó quen
đi và sẽ không say sóng nữa !
Tôi còn
nhớ có 1 lần tôi là sĩ quan liên lạc trên một chiếc khu trục hạm của
Hải Quân Hoa Kỳ liên tục trong 35 ngày rồi. Khi chiến hạm này bị gọi
trở về căn cứ Subic gấp họ không có thì giờ trả tôi vào bờ nên họ dùng
cách chuyền người ngoài biển, gọi là highline, để chuyển tôi sang chiến
hạm mới đến thay thế tại chỗ. Vì tôi đã ở ngoài biển hơn 1 tháng rồi
nên tôi đã quen sóng. Khi chiến hạm thay thế tới, mấy hôm đầu trời nổi
cơn lôi đình như có bão. Chiến hạm này là loại tàu rà mìn (MSO), chỉ
lớn hơn hộ tống hạm một chút nhưng đóng bằng gỗ nhẹ hơn, nên bị quật
lên nhồi xuống tôi bời. Một số nhân viên chiến hạm mới đến chưa quen
sóng nên say ngất ngư, họ thấy tôi phây phây đi lại, ăn uống như thường
thì phục lăn. Họ khen tôi là “Good sailor !”.
Đến giờ ăn
chiều bồi Phi dọn cơm lên, sĩ quan biến mất hết, chỉ còn lại hạm
trươ?ng và tôi vào phòng ăn, hạm phó đang đi phiên. Hôm đó vì sóng gió
lớn quá, khi đứng trong phòng ăn hai chân chúng tôi luôn luôn phải co
lại và duỗi ra tùy theo phía bên chân đó thành tầu nghiêng lên hay
nghiêng xuống để giữ cho người đươ.c cân bằng và thân mình được thẳng
đường giây dọi. Hai chân lúc đó được xử dụng như 2 cái lò xo, co vào
duỗi ra tự động theo nhịp lắc của con tàu.
Riết rồi hai chân thành thói quen như tập thể dục, đứng đâu cũng hơi co co, duỗi duỗi, nhiều khi tàu lắc ít, vì thói quen chân vẫn co nhiều !
Riết rồi hai chân thành thói quen như tập thể dục, đứng đâu cũng hơi co co, duỗi duỗi, nhiều khi tàu lắc ít, vì thói quen chân vẫn co nhiều !
Khi chúng
tôi ngồi xuống bàn ăn rồi, đĩa xúp vừa đươ.c mang ra là phải cầm tay mà
ăn, một tay cầm đĩa, một tay cầm muỗng mà múc để có thể nghiêng đĩa
ngược chiều lắc của con tàu, tránh cho nước xúp khỏi đổ ra ngoài. Khi
đĩa thức ăn chính đã đươ.c bồi dọn ra bàn rồi một tay cũng phải cầm đĩa
để giữ cho đĩa khỏi chạy đi theo chiều nghiêng của tàu.
Trong
những ngày sóng gió như thế, thường chỉ có tôi và hạm trươ?ng ăn với
nhau trong phòng ăn mà thôi, hoa. hoằn mới thấy mặt hạm phó, có lẽ ông
này “anti” với hạm trưởng thì phải. Sau chừng 1 tuần như vậy, hạm
trưởng tàu này phục tôi quá, muốn tôn tôi làm sư phụ
vì ông ta chịu muốn hết nổi, mặt mũi xanh lè. Còn tôi thì bất cứ khi nào ông lò dò lên đài chỉ huy đều thấy tôi, vào phòng ăn cũng thấy tôi, nhìn ra boong tàu cũng thấy tôi vì tôi luôn luôn muốn đi ra ngoài cho nó thoáng chứ ở trong phòng chật chội bức mắt. Mỗi lần gặp tôi ông đều lắc đầu than van “very disappointed, very disappointed to patrol like this!”. Vì biển động quá, không có ghe để xét, đôi khi có 1 vài chiếc chiến hạm cũng không dám hạ “youyou” xuống biển vì sợ bị sóng đánh chìm. Tàu chỉ chạy gần ghe và dùng ống nhòm quan sát kỹ xem có gì khả nghi hay không rồi ghi số ghe để gửi công điện báo cáo mà thôi, xong lại ai đi đường nấy.
vì ông ta chịu muốn hết nổi, mặt mũi xanh lè. Còn tôi thì bất cứ khi nào ông lò dò lên đài chỉ huy đều thấy tôi, vào phòng ăn cũng thấy tôi, nhìn ra boong tàu cũng thấy tôi vì tôi luôn luôn muốn đi ra ngoài cho nó thoáng chứ ở trong phòng chật chội bức mắt. Mỗi lần gặp tôi ông đều lắc đầu than van “very disappointed, very disappointed to patrol like this!”. Vì biển động quá, không có ghe để xét, đôi khi có 1 vài chiếc chiến hạm cũng không dám hạ “youyou” xuống biển vì sợ bị sóng đánh chìm. Tàu chỉ chạy gần ghe và dùng ống nhòm quan sát kỹ xem có gì khả nghi hay không rồi ghi số ghe để gửi công điện báo cáo mà thôi, xong lại ai đi đường nấy.
Riêng tôi
vì không có việc gì làm, giống như thằng đi “cruise” trên du thuyền,
suốt ngày đọc báo, ăn, đi rong quanh tàu , xong lại ăn, đọc báo, đi
quanh tàu ! Hạm trươ?ng thì có lẽ vì thấy tôi là một trong một số ít
người hoạt động trên tàu những khi biển động vả lại trong những bữa ăn
tôi hay ăn cùng và nói chuyện với ông nên ông không muốn tôi đi. Khi tôi
đi rồi, chắc ông buồn lắm nên ông khuyên tôi ở lại tàu thêm một thời
gian nữa mặc dù tôi đã đến thời hạn về bờ từ lâu rồi. Ông hỏi tôi là
nếu tôi bằng lòng ông sẽ đánh công điện xin giữ tôi lại. Còn tôi thì vì
trước khi đi chuyến công tác đó đã đánh phé với bọn sĩ quan trực phòng hành quân ở Vũng Tàu và tụi nó đã “rửa” tôi rất sạch sẽ. Nguyên hai tháng lương của tôi đã đươ.c tụi nó ” ký lệnh thuyên chuyển” sang túi của chúng nó hết rồi. Bây giờ về bến tôi cũng không có tiền để mà vung vít nên tôi ra cái điều tử tế, ngần ngừ một chút rồi làm như chiều lòng hạm trưởng, tôi trả lời ông là tôi OK.
trước khi đi chuyến công tác đó đã đánh phé với bọn sĩ quan trực phòng hành quân ở Vũng Tàu và tụi nó đã “rửa” tôi rất sạch sẽ. Nguyên hai tháng lương của tôi đã đươ.c tụi nó ” ký lệnh thuyên chuyển” sang túi của chúng nó hết rồi. Bây giờ về bến tôi cũng không có tiền để mà vung vít nên tôi ra cái điều tử tế, ngần ngừ một chút rồi làm như chiều lòng hạm trưởng, tôi trả lời ông là tôi OK.
Thực ra
tôi cũng muốn ở lại tàu với mục đích “thâm sâu” là để dành tiền vì tiền
ăn của tôi trên chiến hạm là do Hải Quân Hoa Kỳ đài thọ, tôi không
phải trả và cũng không phải tiêu gì hết. Khi về bến lương của tôi còn
nguyên, lại tha hồ mà xì phé vung vít! Hạm trươ?ng đâu hiểu nổi thâm ý
đó nên rất hài lòng vội đánh công điện xin giữ tôi ở lại thêm ba tuần,
còn thằng cha hạm phó thì nói thẳng với tôi: “Hạm trưởng thích mày hơn
tao, ông ấy muốn giữ mày chứ đâu muốn giữ tao!”.
Chuyến này
tôi đã đi công tác luôn một lèo 55 ngày liên tục trên biển động của
mùa gió bấc. Khi bị bắt buộc phải trả tôi vào bờ theo lệnh của phòng
hành quân Vùng 3 Duyên Hải, mặt hạm trỨưởng buồn thiu. Tôi từ giã ông
ta như từ giã một người bạn chí thân phải xa nhau và biết là sẽ không
bao giờ gặp lại nhau nữa. Chiến hạm neo ngoài khơi, ghe hải thuyền đưa
tôi vào bờ. Khi bưỨớc chân từ ghe lên đất liền, mới đi được hai bước thì
tôi lao đao như thằng say rượu muốn té. Trời đất quỷ thần ơi, mặt đất
gì mà kỳ cục quá, nó đứng yên chứ không dập dình lên xuống như sàn tàu
của tôi, báo hại tôi phải đứng lại làm “một phút mặc niệm” để điều
chỉnh tình trạng cân bằng nếu không muốn té. Thực sự tôi đã say, tôi
say . . . . đất đấy quý vị ạ!
Từ đó tôi
mới tìm ra câu trả lời cho chính tôi là thế giới này không có hai loại
người đi biển, mà chỉ có một mà thôi. Đi biển đươ.c hay không là do vấn
đề quen sóng, khi đã quen rồi thì ai cũng chì sóng cả. Một thằng “mới
nhìn thấy tàu đã say” như tôi mà cũng có thể trở nên anh hùng chì sóng
thì ai cũng chì sóng được hết! Đồng thời tôi cũng hiểu được tại sao có
những ông thuyền trươ?ng già suốt đời đi tàu một cách vui thú, không hề
buồn phiền chán nản, không muốn đổi nghề và nhiều khi tàu neo, ông vẫn
thích ở lại với tàu của ông hơn là đi ra ngoài phố.
Bùi Tiến Hoàn, Canada
Khoá Đệ Nhị Dương Cưu, Trường SQHQ/NT.
Sinh Tồn chuyển