Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại

Buồn vui dưới mái trường Sinh ngữ Quân đội

Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956


Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956, lại là ngày thành lập trường Sinh ngữ Quân đội (SNQĐ), nơi tôi phục vụ trong suốt thời gian quân ngũ từ năm 1968 đến ngày miền Nam thất thủ, 30/4/1975.

Như vậy là khi thành lập Trường Anh Ngữ Bộ Tổng Tham Mưu, tiền thân của trường SNQĐ sau này, tôi mới chỉ là một cậu bé 10 tuổi. Không ngờ, chú bé đó sau này khi trưởng thành cũng là một thành viên của trường và gắn bó tuổi thanh niên của mình trong nàu áo lính dưới mái trường quân đội.  

Huy hiệu trường SNQĐ

Năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam được Tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa sau khi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Trong chiều hướng cải tổ đó, quân đội chuyển từ khối Liên hiệp Pháp sang mô hình của Hoa Kỳ nên rất nhiều sĩ quan cần được gửi đi tu nghiệp tại Mỹ. Đó cũng là lý do hình thành trường SNQĐ.

Trụ sở chính của trường SNQĐ trong Bộ Tổng tham mưu

Năm 2000, viết về những ngày đầu thành lập trường SNQĐ, niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, hiện ở Montreal, Canada, và cũng là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của trường, cho biết:

“Vào trung tuần tháng 6/1956 tôi được Bộ Tổng tham mưu chỉ định thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM và tổ chức lớp Anh ngữ đầu tiên tại Bộ TTM cho các quân nhân Quân đội VNCH chuẩn bị đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ… nên đã được thuyên chuyển về đơn vị quản trị địa phương số 1, ngày 3-7-1956, công tác kể từ ngày 18 tháng 6 năm 1956”.

Đó là lý do ngày 18/6/1956 mặc nhiên trở thành ngày thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM, sau này lại đổi thành Trường Anh ngữ Quân sự, rồi Trường Anh ngữ Quân đội (Armed Forces English Language School) và cuối cùng là Trường Sinh ngữ Quân đội (Armed Forces Languages School).

Niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, khi đó là Đại úy Chỉ huy trưởng, kể lại những ngày đầu của trường trong Bộ Tổng tham mưu:

“Trụ sở của trường là hai căn nhà lợp fibro ciment, một căn dành làm văn phòng, lớp học, phòng ghi âm (lab) và một căn dành cho các khóa sinh nội trú. Tổng số nhân viên kể cả giảng viên, hành chánh và tạp dịch không quá 10 người nên trường đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong những buổi đầu vì thiếu phương tiện và kinh nghiệm… Tuy nhiên, tất cả mọi người đều cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và lớp Anh ngữ đầu tiên (Khóa 1 của Trường Anh ngữ Quân đội) đã được khai giảng đúng thời hạn ấn định của Bộ TTM vào thượng tuần tháng 8/1956”.

Trong giai đoạn đầu, thời gian học tập của khóa sinh được dự trù là 4 tuần, chương trình giảng huấn chú trọng vào việc nói và hiểu tiếng Anh. Ngoài việc học về ngữ vựng, văn phạm, các khoá sinh còn được thực tập trên máy ghi âm, nghe và nói theo các giảng viên người Mỹ được ghi âm tại Viện Ngữ học Quốc phòng (Defense Language Institute – DLI) Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi hỗ trợ đắc lực về chuyên môn trong việc đào tạo giảng viên người Việt dạy tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ hai. 

Huy hiệu DLI (Viện Ngữ học Quốc phòng Hoa Kỳ)

Theo hệ thống quân giai, trường ANQÐ trực thuộc Bộ TTM/Phòng Quân huấn, nhưng về mặt chuyên môn lại trực thuộc Trường Ðại học Quân sự. Từ đầu năm 1957, trường mở thêm lớp Anh ngữ dành cho sĩ quan cao cấp chuẩn bị đi tu nghiệp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth. Nhiều vị tướng lãnh trong quân đội đã theo học qua các lớp này như các Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Ngọc Tâm, Thái Quang Hoàng, Vĩnh Lộc, Mai Hữu Xuân, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan, Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Ngọc Lễ, Dương Ngọc Lắm….

Một trong những giảng viên kỳ cựu của trường, anh Nguyễn Hải Bình, hiện sống tại Canada, hồi tưởng lại ngày về trường: “Tôi về trường Anh ngữ Quân đội đầu năm 1957, tròn 22 tuổi với hàm trung úy “lấp lánh ánh vàng lon trên vai”. Phải, “lon trên vai” vì khi tôi rời chức vụ thông dịch viên sau gần hai năm tại quân trường bộ binh Fort Benning thì còn mới đeo cặp lon “hai con đỉa” của thời Liên hiệp Pháp. Về đến Sàigòn đáo nhậm trường mới đổi lấy hai bông mai vàng trên “ve” áo”.

… Nhân số trường lúc đó vẻn vẹn chỉ có đại ca Phạm Hữu Khoát mang ba bông mai làm xếp, ông cố vấn dân sự Brownstein hách xì xằng, trung úy đồng hóa Hà văn Anh dáng điệu play boy rất tếu và coi kỷ luật nhà binh như pha. Cộng thêm vài sỹ quan giảng viên khác, trường thật lèo tèo nên chi bấy giờ ông Khoát mừng lắm khi gần chục thằng chúng tôi trình diện, cái chức “Chỉ huy trưởng” của ông rõ là có phần nặng ký hơn. Người chiều chúng tôi lắm, lũ này trẻ măng, đi Mỹ về lại nói ''ăng lê'' như Tây, cộng với Hà văn Anh nên mọi người có vây cánh không ớn lão Brownstein “hù” văn phạm nữa. Thật ra đại ca Khoát chiều chúng tôi cũng vì bản tính tốt, xuề xòa và chịu chơi.

Giữa hai tiếng kẻng 10 phút giải lao, phòng giảng viên 15 đứa lúc nào cũng ồn ào đấu láo, kể chuyện Gò Vấp ngay bên kia cổng hậu TTM, chuyện mặc “áo mưa”, chuyện vua Bảo Đại của Nguyễn Phước Bảo Đề… Ào ào như vậy nhưng vào lớp thì chúng tôi được nể lắm. Thoạt đầu các khóa sinh là từ ba binh chủng [Hải, Lục, Không quân – chú thích của NNC] bao gồm sỹ quan và hạ sỹ quan, những quân nhân được gởi đi thụ huấn tại Hoa Kỳ lần đầu”.

Đám giảng viên thời đó được các khóa sinh nổi tiếng như “ông tu bíp” Từ Uyên hay cố Trung sỹ Không quân “Dê húc càn” Dương Hùng Cường… coi trọng, có lẽ vì… “nhất tự vi sư, bán tự vi tiên sư”! Vào những năm 1958-1959, anh Nguyễn Hải Bình và vài đồng nghiệp khác được giao phụ trách mấy lớp giành riêng cho các vị tướng lãnh sẽ đi tu nghiệp tham mưu chiến lược tại Hoa Kỳ.

Theo lời anh Bình, “Trong năm vị tướng lãnh cầm đầu đảo chánh 1963 thì hồi đó đã có bốn vị tôi được vinh dự phục vụ tại mấy lớp cấp tốc này. Gay lắm, hồi hộp, lo lắng chỉ sợ có gì sai lầm, vi phạm quân kỷ nên mấy thằng chúng tôi sáng sáng nhìn nhau kiểm soát lại quần áo, giầy nón, biển tên đến đầu tóc mặt mày. Tới giờ, trước cửa lớp nín hơi bước vào, cứng như khúc gỗ, rồi giơ tay chào kính miệng hô “Good morning, Sir!” trước khi bắt đầu “Please, repeat after me”!

Được cái, Chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Khoát rất “chịu chơi”, cho phép giảng viên “nhẩy dù” đi học thêm ngoài giờ giảng dậy và ứng trực. Nhờ vậy, một số giảng viên lấy thêm bằng cấp ngoài đời dân sự như cử nhân luật hoặc thêm các chứng chỉ bên văn khoa…

Niên trưởng Phạm Hữu Khoát
Chỉ huy trưởng đầu tiên của Trường SNQĐ

Có nhiều dư luận về việc thay đổi chức vụ Chỉ huy trưởng trường SNQĐ. Theo anh Bình, có ai đó đã báo cáo rằng niên trưởng Nguyễn Huy Khoát đã để giảng viên quá tự do trong việc đi học, đi chơi, lại còn biết giảng viên “trùm mền” đánh xì dách những đêm cấm trại mà lại làm ngơ ..

Thế cho nên, tháng 5/1959 chức vụ Chỉ huy trưởng được bàn giao sang Thiếu Tá Phan Thông Tràng. Khác hẳn với Chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu tá Phan Thông Tràng là một sĩ quan theo đúng tác phong nhà binh: quân phục chỉnh tề, giày đánh bóng đến độ có thể soi gương.

Ông là tuýp quân nhân gương mẫu, nhiều giảng viên dưới thời ông thậm chí còn bình luận… “trên cả gương mẫu” hoặc nặng hơn với hai chữ “bệnh hoạn” như anh Ngô Trí Thịnh đã nhận xét! “Bệnh hoạn” cũng có thể vì ông quá vệ sinh. Mỗi lần bắt tay ai là thế nào ông cũng rửa tay bằng alcohol, chai cồn luôn ở trong ngăn kéo bàn làm việc của ông!   

Anh Văn Hùng Đốc kể lại lần hội ngộ anh Tôn Thất Đồng Nai tại San Jose cách nay khoảng 15 năm, anh Đồng Nai đã phải thốt lên: “Gặp Văn Hùng Đốc là moa nhớ đến ông Tràng. Chỉ vì đầu tóc chưa kịp hớt mà ông ta đày moa ra Nha Trang!”.

Dưới thời Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng, chi nhánh trường SNQĐ tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang được coi là “Côn Đảo” dành cho các giảng viên mà ông không ưa. Nhưng đối với anh Văn Hùng Đốc, quê quán vốn ở Nha Trang, nên chỉ vài tháng sau về trường anh đã xin ra Nha Trang và được chấp thuận ngay.
 
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng (góc phải)
tái ngộ các giảng viên trẻ Phạm Gia Đoàn & Nguyễn Ngọc Chính
nhân chuyến về thăm Việt Nam của anh Văn Hùng Đốc (góc trái)

Anh Đốc tâm sự: “13 anh em chúng tôi thuộc khóa 24 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức về trường vào giữa năm 1967. Chỉ vài tháng sau đó tôi được ra Chi nhánh Nha Trang. Đại úy Vũ Đức Giang làm Trưởng chi nhánh. Sau khi Đại úy Giang về trường thì Trung Úy Trịnh Khoa Nghi (đã mất cách nay 3 năm) thay thế. Lần lượt các Trưởng chi nhánh có các sĩ quan Nguyễn Long Giáp, Nguyễn Văn Minh, Văn Hùng Đốc (tạm thay anh Minh đi Lackland)”.

Chi nhánh Nha Trang được anh Đốc mô tả là “một Quốc Gia trong một Quốc Gia” vì sĩ quan giảng viên của trường thuộc Bộ binh, không mặc đồng phục trắng và không trực thuộc Khối Văn hoá vụ (Khối Quân huấn) và Bô Tư Lệnh Hải Quân. Do đó, nẩy sinh vài chuyện không được hòa thuận trong sinh hoạt chung.

Anh Nguyễn Long Giáp kể lại: “Việc lủng củng bắt đầu khi TTHLHQ Nha Trang ra Sự vụ lệnh cho giảng viên Tô Cao Hoan (lúc đó là Thiếu Úy) đi công tác tại TTHLHQ Cam Ranh. Với tư cách Trưởng chi nhánh, tôi đã phản đối, trả lại SVL đồng thời cho TTHLHQ biết là giới chức có thể điều động giảng viên rời khỏi nhiệm sở là trường SNQĐ chứ không phải TTHLHQ. Kể từ đó tình hình gây cấn giữa hai phía ngày càng căng thẳng”.

Theo anh Giáp, tình trạng “cơm không lành, canh không ngọt” biến thành thành thuốc đắng khi TTHLHQ gây qũy xây tượng Thánh tổ Hải quân và mang sổ lạc quyên trao cho Trưởng chi nhánh, “Tôi đổ quạu nên phát ngôn hơi bừa bãi: “Thực phẩm phụ trội, mấy anh chia chác với nhau, nay quyên tiền lại bảo tụi tôi đóng góp! Còn lâu. Đức thánh Trần là thánh tổ của mấy anh chứ đâu phải thánh tổ của bọn tôi! Sorry”.

Sau này, tôi cũng có thời gian dạy tại Chi nhánh trường SNQĐ tại Khách sạn Lục Quốc (Mondial) trên đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, nơi đây chuyên huấn luyện Anh ngữ cho Hải quân. Bầu không khí tại đây khác hẳn với ngoài Nha Trang vì lý do chi nhánh hoàn toàn do trường điều hành, không như ngoài Nha Trang, giảng viên biệt phái ra dạy.

Không phải những hồi ức về Thiếu tá Phan Thông Tràng chỉ toàn những mảng tối. Đối với anh Vũ Anh Tuấn “cổ thư” lúc nào anh cũng “đặc biệt tri ân” Thiếu tá Tràng vì ông nhận anh về làm giảng viên cho dù anh tốt nghiệp Khóa 16 Thủ Đức nhưng chỉ được đeo lon Trung sĩ.

Trong khi 14 người cùng khóa về trường với cặp lon Chuẩn úy, anh Tuấn phải đeo “cánh gà” vì bị kỷ luật nhưng Chỉ huy trưởng vẫn nhận dù Ban huấn luyện phản đối với lý do trường chưa từng có hạ sĩ quan nào làm giảng viên. Theo lời anh Tuấn kể lại, ông Tràng nói “cứ nhận, nếu sau này hắn “ba gai” thật thì đuổi đi vẫn chưa muộn!”.

Đoạn kết câu chuyện của anh Vũ Anh Tuấn trở thành một “happy ending” theo như lời anh kể: “Một cơ may đã xảy đến với tôi khi các lớp Thông dịch viên đồng hóa ào ào đến với trường. Thế là tôi được cho đi dậy, vì “cánh gà bất đắc dĩ” dậy “cánh gà đồng hóa” thì được quá đi chứ còn gì!” 

Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng đến dự tiệc hội ngộ cựu giảng viên
trong vòng tay của hai anh Văn Hùng Đốc (trái) và Nguyễn Văn Xuân (phải)

Sáu anh em chúng tôi thuộc khóa 4/68 Thủ Đức, về trường đầu năm 1969, khi đó chức vụ Chỉ huy trưởng đã bàn giao từ niên trưởng Phan Thông Tràng sang Thiếu tá Huỳnh Vĩnh Lại. Cả hai vị Chỉ huy trưởng nay đã qua đời vì tuổi tác. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng niệm hai người anh cả đã cống hiến một phần cuộc đời mình cho lịch sử của trường SNQĐ.  

Vào thời điểm 1975, niên trưởng Huỳnh Vĩnh Lại đã được thăng chức Trung tá và đang ở Hoa Kỳ học khóa Tham mưu Cao cấp. Thế cho nên, Trung tá Lại là một trường hợp hi hữu của một người Việt “tỵ nạn tại chỗ” chứ không cần vượt đại dương. Bây giờ, ngồi nhớ lại, tôi thấy mình đã không lầm khi hồi xưa nhìn tướng người phương phi của ông tôi đã thầm đoán “số người này thuộc loại đẻ bọc điều”!

Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm “đau thương” với Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại. Tôi không hề oán trách ông vì đó là… “lỗi tại tôi mọi đàng”. Hồi đó mới về trường nên chưa được đứng lớp, tôi được giao trách nhiệm phụ trách sinh viên sĩ quan khóa sinh Không quân tại cơ sở ở số 4 đường Nguyễn Văn Tráng mà sau này có thời gian là Đại học Minh Đức.

Công việc quá nhàn nhã, chỉ quản lý khóa sinh và cắt đặt công tác vệ sinh tầng lầu… Nhưng cũng chính vì “nhàn cư vi bất thiện” nên tôi bị Chỉ huy trưởng phạt 4 ngày trọng cấm, có xe jeep đưa vào tận quân lao trong Tổng tham mưu! Lý do: tầng lầu mà đại đội tôi phụ trách “bốc mùi” khi có phái đoàn đến thăm trường cộng thêm tội bỏ đi xiné trong giờ làm việc.

Tôi còn nhớ đó là phim Lady Hamilton chiếu tại rạp Vĩnh Lợi rất gần trường. Sau này nghiệm ra có một sự trùng hợp đến bất ngờ: nhảy dù đi xem phim tại rạp Vĩnh Lợi và bị Chỉ huy trưởng Vĩnh Lại quất cho 4 “củ”. Đối với tôi, hai từ ngữ “Lợi” hay “Lại” chỉ mang lại điều bất lợi: 4 ngày tù trọng cấm!    


Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại (trái) và Thiếu tá Ngô Phát Tài (Liên đoàn Khóa sinh)
trong một dịp hội ngộ của trường SNQĐ tại Hoa Kỳ

Điểm đặc biệt của 6 Chuẩn úy mới tốt nghiệp khóa 4/68 chúng tôi là có đến 2 người Việt gốc Hoa: Lương Tô (gốc Chợ Lớn) và Trương Bác Chí (người Hoa gốc Bắc “di cư”). Số mạng của hai người cũng thuộc loại “đặc biệt”. TB Chí tự ý ở lại Hoa Kỳ sau khi học xong khóa đào tạo giảng viên tại DLI năm 1971, anh được coi là một trong những  người “vượt biên” sớm nhất!.

Người thứ hai, Lương Tô, chết trong trại cải tạo Kà Tum. Theo anh Nguyễn Kim Trọng hiện ở Hoa Kỳ: “… Anh Tô ở đội khác đội của tôi. Nghe nói trong thời gian cải tạo anh Tô tập luyện một loại hít thở cổ truyền của người Trung Hoa (an ancient Chinese breathing technique) có tên gọi đặc biệt mà tôi không nhớ tên. Anh Tô chết vì bị “tẩu hỏa nhập ma” trong lúc tập, bị bệnh sau đó và chết chứ không phải chết vì bị “bội thực” như một số anh em đồn đãi”.

Một lần nữa phải tin vào sự trớ trêu của định mạng, những người hiền lành như Lương Tô sao lại vắn số? Phải chăng, hiểu theo Phật giáo, đó là hậu quả của kiếp trước, nhân quả trùng trùng theo vòng quay của bánh xe luân hồi?

Không riêng gì Khóa 4/68 có tới 2 trong 6 tân Chuẩn úy là người Việt gốc Hoa, trước đó, trường SNQĐ cũng đã có những sĩ quan như các anh Phăng Gi On, Lưu Út, Lý Tô Hán… Tôi còn nhớ, ngay trong buổi đầu tiên trình diện CHT, ông Lại đã “nửa đùa nửa thật” hỏi các tân giảng viên: “Các anh về trường tốn hết bao nhiêu?”.

Tôi và 3 người bạn cùng khóa hiện còn sống đến ngày nay xin khẳng định hoàn toàn không có chuyện “lo lót” vì khi thi tuyển về trường chúng tôi phải làm test ECL (English Comprehension Level) của DLI Hoa Kỳ. ECL là một cuốn băng bao gồm 100 câu hỏi để trắc nghiệm trình độ Anh ngữ của thí sinh về văn phạm, ngữ vựng, đàm thoại…

Thí sinh phải nghe băng và đánh dấu câu trả lời “a, b, c, d” trên booklet đi kèm. Điểm tối đa là 100/100 và tiêu chuẩn để được chấm đậu làm giảng viên phải từ 80 điểm trở lên. Phần bài thi của tôi, do hai anh Đinh Trọng Đại và Nguyễn Hữu Phú thuộc ban Khảo thí  xác định, được 89/100. Các khóa về trường sau này còn gặp khó khăn hơn vì phải thêm phần phỏng vấn của ban Khảo thí.         

Khóa tôi về trường có Hồ Hới gốc “tu xuất” nhưng “quậy” không ai bằng. Người ta hay nói “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” và một số người sửa lại là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba… thầy xuất”. Cái nghịch của Hồ Hới không làm hại một ai nhưng đôi khi cũng làm các giảng viên khóa đàn anh phải nhíu mày, khó chịu. Có điều ít ai ngờ, Hồ Hới ngày nay là một “ông già”, tính tình điềm đạm khác hẳn ngày xưa. “Sông có khúc, người có lúc” là vậy!

Hồ Hới (người đeo kính đứng cạnh người thắt cravate)
trong một lần hội ngộ với anh em tại Việt Nam

Nguyễn Công Sang “đẹp trai” nhất trong đám sĩ quan Khóa 4/68 về trường. Sang gốc người Long Xuyên nhưng lại mang phong thái của “Công tử xứ Bạc Liêu” từ cách ăn nói cho đến lối hành sử. Sang là roomate của tôi khi chúng tôi đi học tại DLI (Lackland) năm 1971 và anh cũng là người có “sense of humor”. Tôi còn nhớ mãi những câu pha trò của Sang: “Goodbye lấy cái chai đựng rượu”, “Thank you lấy cái siêu sắc thuốc”…

Nguyễn Công Sang rời Việt Nam từ đầu năm 1980, trong một email từ Canada, Sang viết: “Tôi vẫn nhớ những kỷ-niệm mình ở Lackland. Cái cassette với tiếng đàn guitar Chính đệm cho tôi hát bài "Oui devant Dieu" để tặng vợ tôi nhân kỷ-niệm 2 năm ngày cưới của chúng tôi vào tháng 11-1971, tôi vẫn còn giữ đây. Mỗi lần nghe là tôi nhớ đến người bạn hiền-lành dễ-thương năm nào”.

Nguyễn Công Sang (trái) hội ngộ Nguyễn Lương Năng tại Melbourne

Nhân vật cuối cùng của Khóa 4/68 là người được nhắc đến nhiều nhất, cả trong thời gian trường còn hoạt động lẫn giai đoạn sau năm 1975. Hiện đang ở Mỹ, Nguyễn Cường Nam là người có thể lái xe hàng trăm dặm để đưa các bạn cũ đi chơi thăm thú anh em lâu ngày không gặp. Có một dạo Nam còn giữ “tay hòm chìa khóa” cho quỹ tương trợ, giúp đỡ anh em gặp khó khăn bên nhà.

Hồi còn ở trường, Nguyễn Cường Nam vóc người nhỏ bé thế mà ngoài việc đứng lớp còn được kiêm nhiệm nhiều chức vụ “linh tinh” như lo hàng quân tiếp vụ cho trường nên mới chết tên “Nam Gạo”. Nam còn “chịu trách nhiệm” về bàn ghế của cả 4 cơ sở Trần Hưng Đạo (Bộ Tổng tham mưu), Phan Thanh Giản (Hải quân), Nguyễn Văn Tráng (Lục quân và Không quân), Đồng Khánh (Không quân).

Theo một câu chuyện thuộc loại “tiếu lâm” về những kỷ niệm dưới mái trường SNQĐ, Nam “Gạo” viết về chuyện của mình có liên quan đến Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại:

Hồi mới đáo nhậm Trường SNQD, Chuẩn úy Nguyễn Cường Nam được Đặc Ân (hay bị Đì không biết) của Thiếu Tá Nguyễn Thọ Đan, ngoài giờ đứng lớp, trông coi bàn ghế cho học viên của cả 4 cơ sở: Trần Hưng Đạo, Nguyễn văn Tráng, Phan Thanh Giản và Đồng Khánh. Cái nào sứt tay gãy gọng thì làm báo cáo cho Đại úy Gẫm sửa. Chuẩn úy Nam nhờ vậy mà ghi được chuyện này. Hôm nay hơn 57  năm sau mới Bật Mí ra.

Vào một buổi lể mừng Sinh Nhật Trường SNQD tổ chức tại chi nhánh Đồng Khánh, Trung Tá Huỳnh Vĩnh Lại có mời Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (hình như anh ruột của Đại Úy Giảng viên Phan Trọng Vĩnh thì phải) và một số quan khách. Chuẩn úy Nam được lệnh sắp xếp bàn ghế. Hàng chủ toạ, vì số khách mời, Chuẩn úy Nam đặc biệt sắp 5 ghế. Gần tới giờ, Trung tá CHT vào kiểm tra.

- ĐM thằng nào xếp ghế thế này đây?
- Dạ tôi, Trung Tá.
- ĐM mày chửi tụi tao là Quỷ hay sao mà sắp 5 ghế. Năm thằng ngồi là Ngũ Quỷ hiểu chưa.
- Dạ, tôi xin thêm 1 ghế nữa.
- ĐM mày chửi tụi tao là Trâu Bò hả. Sáu thằng ngồi là Lục Súc. Mày phải sắp 7 ghế cho thành Thất Hiền hoặc 8 ghế để là Bát Tiên, hiểu chưa Sữa (TT Lại gọi tôi là Chuẩn úy Sữa vì mới ra trường có 6 tháng thôi mà).

Buổi lễ diễn ra tốt đẹp và cuối cùng là màn vũ khoả thân của vũ nữ Tuyết Nhung. Khi cô xuất hiện trên sân khấu, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Khi cô vất áo choàng xuống sàn, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Mảnh vải che phiá trên được trút bỏ ra, hàng tràng pháo tay khen thưởng.

Mảnh vải cuối cùng trên mình cô được lột ra. Cả hội trường chỉ còn nghe lẹt đẹt vài tiếng vỗ tay của mấy vị khách. Trung Tá CHT thất sắc gọi Trưởng chi nhánh Đồng Khánh lại hỏi:

- ĐM bộ không hay hay sao mà chẳng thằng nào vỗ tay hết vậy?
- Trình Trung tá, Đại úy Trạch nói, một tay làm sao vỗ nên kêu. Thằng nào cũng một tay đút túi quần hết”.

Nam kết luận câu chuyện trên với một câu khá dí dỏm: “Ai không tin thì đi hỏi ông LẠI coi tui kể có đúng không”. Mà CHT Lại nay đã quá cố thì làm sao “xác minh” cho được. Tuy tôi đã nhiều lần nghe Trung tá Lại chửi thề những khi ông bực tức nhưng câu chuyện của Nam đã để ông xổ ra một lô “những giấy bạc lớn” có lẽ nên được coi là một chuyện tiếu lâm thuần túy, “off the record”.   

Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại và anh Nguyễn Văn Sở, trưởng khoa Anh ngữ

Ngoài các vị Chỉ huy trưởng có những cá tính khác người, trường SNQĐ cũng còn có những sĩ quan làm cho anh em giảng viên được “nở mày nở mặt”, cả về trình độ chuyên môn cũng như cách xử thế. Có những tên tuổi mỗi khi nhắc mọi người đều kính trọng, cả về cấp bậc lẫn kiến thức, như các anh Tô Cao Hoan, Nguyễn Văn Sở, Nguyễn Hữu Phú, Đinh Trọng Đại, Mai Vị Sĩ, Đặng Trần Hải… Danh sách còn dài và việc chọn lựa cũng chỉ là ý kiến cá nhân của người viết.

Anh Tô Cao Hoan (người thứ 2 từ trái qua)
trong một lần hội ngộ năm 2006 tại Sài Gòn

Trên Forum của trường SNQĐ, anh Nguyễn Văn Nghiên, giữ nhiệm vụ “Mõ Làng” kiêm “Sĩ Quan Trực” của trường ngày nay, có nhắc đến một vị niên trưởng một thời đã từng giữ chức vụ Chỉ huy phó, Thiếu tá Bùi Công Minh. Chuyện niên trưởng “Ba” Minh “hiền như Bụt” nay đã ngoại bát tuần thì anh em ai cũng biết nhưng việc anh Ba xuất bản tại Hoa Kỳ cuốn sách về lịch sử Chiến tranh Việt Nam, A Distant Cause – A History and the Vindication of the Viet Nam War (*), chắc nhiều người chưa biết.

Ngoài việc viết sách, niên trưởng Minh còn soạn nhạc, một trong những bản nhạc của anh, bài Đừng vội, đã được giới yêu nhạc chú ý. Một người “tài” và “đức” vẹn toàn như anh “Ba” Minh qủa là hiếm, không những trong nội bộ trường SNQĐ mà còn trong hàng ngũ quân lực VNCH.

Bìa sách của niên trưởng Bùi Công Minh

Quân số trường SNQĐ vào thời “Việt Nam hóa” chiến tranh có lúc vượt quá 200 người và có lẽ trong quân lực VNCH đây là đơn vị có số sĩ quan vượt trội so với hạ sĩ quan và binh sĩ. Trường Bộ binh Thủ Đức là nguồn cung cấp giảng viên chủ lực nhưng sau này vì nhu cầu của cuộc chiến, trường còn tuyển thêm các sĩ quan trong quân đội có khả năng Anh ngữ về trường để giảng dậy nhiều đợt quân nhân trước khi lên đường sang Hoa Kỳ để học về chuyên môn.

Ban đầu, trường còn có Khoa Việt Ngữ để dạy tiếng Việt cho các quân nhân đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Về sau, vì nhu cầu học tiếng Việt không còn, các giảng viên Việt Ngữ được nhà trường tạo điều kiện du học Hoa Kỳ tiếp tục phục vụ tại trường trong vai trò giảng viên tiếng Anh.

Có người nói, giảng viên về trường từ Thủ Đức là “con đẻ” và những người về từ các nguồn khác chịu phận “con nuôi”. Tôi không đồng ý với lý lẽ đó vì trong suốt 7 năm phục vụ tại trường tôi không hề thấy trường hợp “kỳ thị” nào. Trong một môi trường văn hóa như tại trường SNQĐ, trình độ chuyên môn là thước đo chính xác nhất để được bạn bè và đồng nghiệp tôn trọng, kính mến.

Sự tôn trọng và kính mến đó, cho đến ngày nay dù trong tình trạng “tan đàn xẻ nghé”, vẫn còn hiện hữu trong mối liên lạc đời thường giữa các giảng viên. Đó là nguồn khích lệ đối với những người đã một thời tuy khoác áo lính nhưng cầm phấn trắng thay vì súng đạn.      

Thay lời kết:
                                                                                                    
Sau bài viết Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội được post trước bài này tại:  

Tác giả nhận được một số comments, trong đó có hai lời bình luận đáng chú ý.

1. Trường hợp thứ nhất là comment của Đoàn Hồng Nguyên, con trai của anh Đoàn Trọng Thu (khóa 5/68, về trường SNQĐ cùng với Nguyễn Bình Quyền, có biệt danh là Quyền “Lucky Luck”)

“Cháu chào bác Chính,

Cháu đọc Hồi ức một đời người của Bác. Chương Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn đặc biệt gây cho cháu ấn tượng... cháu ấn tượng vì Bố cháu cũng từng là Giảng viên trường này.

Bố cháu tên Đoàn Trọng Thu. Vào Thủ Đức khoảng 68-69. Về Trường SNQĐ khoảng năm 69. Đến năm 1971, thay vì đi Mỹ, bố cháu xin về dạy học, vì Bố cháu gốc giáo chức.

Cháu mạo muội ghi mấy dòng này gửi Bác, mong Bác giúp cháu, nếu Bác có thông tin, để cháu tìm thêm thông tin về một quãng thời gian trong cuộc đời Bố cháu. Bố cháu mất đột ngột năm 2007, nên cháu không kịp lưu giữ các thông tin cần thiết.

Đoàn Hồng Nguyên”

2. Trường hợp thứ hai là comment của Nguyễn Huy Thông, con trai của giảng viên Nguyễn Văn Bé, hồi đó anh em thuờng gọi đùa là “Bé Tây Lai”.

“Con chào bác Chính,

Thật may là bác cũng biết ba con. Năm 1974, ba con bị chuyển ra Phù Cát, Quy Nhơn và đến tháng 04/1975 thì mất liên lạc với gia đình.. Con cũng đã liên lạc được với bác Bùi Trọng Kính để xem có biết thêm gì không. Thật tiếc là bác Kính sau khi trao đổi với bác Hỷ cũng không rõ thêm được là bao. Sau này, con cũng đã liên hệ với bác Tiep ở Hoa Kỳ, nhưng có lẽ là sau khi ba con chuyển đi Phù Cát thì các đồng nghiệp ở đơn vị cũ cũng bặt tin luôn. Đến lúc này, gia đình kết luận có lẽ ba con đã mất trong lúc miền Trung thất thủ hoặc trong trại tù của Cộng sản.

Nguyễn Huy Thông”           

Nếu anh em cựu SNQĐ có thông tin gì về hai trường hợp trên, xin liên hệ với tác giả để chuyển tiếp cho 2 cháu.

***

Chú thích:

(*) A Distant Cause – A History and the Vindication of the Viet Nam War, Bui Cong Minh

Xlibris Corporation
1-888-795-4274
www.Xlibris.com
Orders@Xlibris.com
Price: $15.00

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/06/buon-vui-duoi-mai-truong-sinh-ngu-quan.html
Sinh Tồn chuyển

Bàn ra tán vào (0)

Comment




  • Input symbols

Buồn vui dưới mái trường Sinh ngữ Quân đội

Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956


Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956, lại là ngày thành lập trường Sinh ngữ Quân đội (SNQĐ), nơi tôi phục vụ trong suốt thời gian quân ngũ từ năm 1968 đến ngày miền Nam thất thủ, 30/4/1975.

Như vậy là khi thành lập Trường Anh Ngữ Bộ Tổng Tham Mưu, tiền thân của trường SNQĐ sau này, tôi mới chỉ là một cậu bé 10 tuổi. Không ngờ, chú bé đó sau này khi trưởng thành cũng là một thành viên của trường và gắn bó tuổi thanh niên của mình trong nàu áo lính dưới mái trường quân đội.  

Huy hiệu trường SNQĐ

Năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam được Tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa sau khi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Trong chiều hướng cải tổ đó, quân đội chuyển từ khối Liên hiệp Pháp sang mô hình của Hoa Kỳ nên rất nhiều sĩ quan cần được gửi đi tu nghiệp tại Mỹ. Đó cũng là lý do hình thành trường SNQĐ.

Trụ sở chính của trường SNQĐ trong Bộ Tổng tham mưu

Năm 2000, viết về những ngày đầu thành lập trường SNQĐ, niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, hiện ở Montreal, Canada, và cũng là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của trường, cho biết:

“Vào trung tuần tháng 6/1956 tôi được Bộ Tổng tham mưu chỉ định thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM và tổ chức lớp Anh ngữ đầu tiên tại Bộ TTM cho các quân nhân Quân đội VNCH chuẩn bị đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ… nên đã được thuyên chuyển về đơn vị quản trị địa phương số 1, ngày 3-7-1956, công tác kể từ ngày 18 tháng 6 năm 1956”.

Đó là lý do ngày 18/6/1956 mặc nhiên trở thành ngày thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM, sau này lại đổi thành Trường Anh ngữ Quân sự, rồi Trường Anh ngữ Quân đội (Armed Forces English Language School) và cuối cùng là Trường Sinh ngữ Quân đội (Armed Forces Languages School).

Niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, khi đó là Đại úy Chỉ huy trưởng, kể lại những ngày đầu của trường trong Bộ Tổng tham mưu:

“Trụ sở của trường là hai căn nhà lợp fibro ciment, một căn dành làm văn phòng, lớp học, phòng ghi âm (lab) và một căn dành cho các khóa sinh nội trú. Tổng số nhân viên kể cả giảng viên, hành chánh và tạp dịch không quá 10 người nên trường đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại trong những buổi đầu vì thiếu phương tiện và kinh nghiệm… Tuy nhiên, tất cả mọi người đều cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và lớp Anh ngữ đầu tiên (Khóa 1 của Trường Anh ngữ Quân đội) đã được khai giảng đúng thời hạn ấn định của Bộ TTM vào thượng tuần tháng 8/1956”.

Trong giai đoạn đầu, thời gian học tập của khóa sinh được dự trù là 4 tuần, chương trình giảng huấn chú trọng vào việc nói và hiểu tiếng Anh. Ngoài việc học về ngữ vựng, văn phạm, các khoá sinh còn được thực tập trên máy ghi âm, nghe và nói theo các giảng viên người Mỹ được ghi âm tại Viện Ngữ học Quốc phòng (Defense Language Institute – DLI) Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi hỗ trợ đắc lực về chuyên môn trong việc đào tạo giảng viên người Việt dạy tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ hai. 

Huy hiệu DLI (Viện Ngữ học Quốc phòng Hoa Kỳ)

Theo hệ thống quân giai, trường ANQÐ trực thuộc Bộ TTM/Phòng Quân huấn, nhưng về mặt chuyên môn lại trực thuộc Trường Ðại học Quân sự. Từ đầu năm 1957, trường mở thêm lớp Anh ngữ dành cho sĩ quan cao cấp chuẩn bị đi tu nghiệp tại trường Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth. Nhiều vị tướng lãnh trong quân đội đã theo học qua các lớp này như các Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Ngọc Tâm, Thái Quang Hoàng, Vĩnh Lộc, Mai Hữu Xuân, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan, Nguyễn Vĩnh Nghi, Nguyễn Ngọc Lễ, Dương Ngọc Lắm….

Một trong những giảng viên kỳ cựu của trường, anh Nguyễn Hải Bình, hiện sống tại Canada, hồi tưởng lại ngày về trường: “Tôi về trường Anh ngữ Quân đội đầu năm 1957, tròn 22 tuổi với hàm trung úy “lấp lánh ánh vàng lon trên vai”. Phải, “lon trên vai” vì khi tôi rời chức vụ thông dịch viên sau gần hai năm tại quân trường bộ binh Fort Benning thì còn mới đeo cặp lon “hai con đỉa” của thời Liên hiệp Pháp. Về đến Sàigòn đáo nhậm trường mới đổi lấy hai bông mai vàng trên “ve” áo”.

… Nhân số trường lúc đó vẻn vẹn chỉ có đại ca Phạm Hữu Khoát mang ba bông mai làm xếp, ông cố vấn dân sự Brownstein hách xì xằng, trung úy đồng hóa Hà văn Anh dáng điệu play boy rất tếu và coi kỷ luật nhà binh như pha. Cộng thêm vài sỹ quan giảng viên khác, trường thật lèo tèo nên chi bấy giờ ông Khoát mừng lắm khi gần chục thằng chúng tôi trình diện, cái chức “Chỉ huy trưởng” của ông rõ là có phần nặng ký hơn. Người chiều chúng tôi lắm, lũ này trẻ măng, đi Mỹ về lại nói ''ăng lê'' như Tây, cộng với Hà văn Anh nên mọi người có vây cánh không ớn lão Brownstein “hù” văn phạm nữa. Thật ra đại ca Khoát chiều chúng tôi cũng vì bản tính tốt, xuề xòa và chịu chơi.

Giữa hai tiếng kẻng 10 phút giải lao, phòng giảng viên 15 đứa lúc nào cũng ồn ào đấu láo, kể chuyện Gò Vấp ngay bên kia cổng hậu TTM, chuyện mặc “áo mưa”, chuyện vua Bảo Đại của Nguyễn Phước Bảo Đề… Ào ào như vậy nhưng vào lớp thì chúng tôi được nể lắm. Thoạt đầu các khóa sinh là từ ba binh chủng [Hải, Lục, Không quân – chú thích của NNC] bao gồm sỹ quan và hạ sỹ quan, những quân nhân được gởi đi thụ huấn tại Hoa Kỳ lần đầu”.

Đám giảng viên thời đó được các khóa sinh nổi tiếng như “ông tu bíp” Từ Uyên hay cố Trung sỹ Không quân “Dê húc càn” Dương Hùng Cường… coi trọng, có lẽ vì… “nhất tự vi sư, bán tự vi tiên sư”! Vào những năm 1958-1959, anh Nguyễn Hải Bình và vài đồng nghiệp khác được giao phụ trách mấy lớp giành riêng cho các vị tướng lãnh sẽ đi tu nghiệp tham mưu chiến lược tại Hoa Kỳ.

Theo lời anh Bình, “Trong năm vị tướng lãnh cầm đầu đảo chánh 1963 thì hồi đó đã có bốn vị tôi được vinh dự phục vụ tại mấy lớp cấp tốc này. Gay lắm, hồi hộp, lo lắng chỉ sợ có gì sai lầm, vi phạm quân kỷ nên mấy thằng chúng tôi sáng sáng nhìn nhau kiểm soát lại quần áo, giầy nón, biển tên đến đầu tóc mặt mày. Tới giờ, trước cửa lớp nín hơi bước vào, cứng như khúc gỗ, rồi giơ tay chào kính miệng hô “Good morning, Sir!” trước khi bắt đầu “Please, repeat after me”!

Được cái, Chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Khoát rất “chịu chơi”, cho phép giảng viên “nhẩy dù” đi học thêm ngoài giờ giảng dậy và ứng trực. Nhờ vậy, một số giảng viên lấy thêm bằng cấp ngoài đời dân sự như cử nhân luật hoặc thêm các chứng chỉ bên văn khoa…

Niên trưởng Phạm Hữu Khoát
Chỉ huy trưởng đầu tiên của Trường SNQĐ

Có nhiều dư luận về việc thay đổi chức vụ Chỉ huy trưởng trường SNQĐ. Theo anh Bình, có ai đó đã báo cáo rằng niên trưởng Nguyễn Huy Khoát đã để giảng viên quá tự do trong việc đi học, đi chơi, lại còn biết giảng viên “trùm mền” đánh xì dách những đêm cấm trại mà lại làm ngơ ..

Thế cho nên, tháng 5/1959 chức vụ Chỉ huy trưởng được bàn giao sang Thiếu Tá Phan Thông Tràng. Khác hẳn với Chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu tá Phan Thông Tràng là một sĩ quan theo đúng tác phong nhà binh: quân phục chỉnh tề, giày đánh bóng đến độ có thể soi gương.

Ông là tuýp quân nhân gương mẫu, nhiều giảng viên dưới thời ông thậm chí còn bình luận… “trên cả gương mẫu” hoặc nặng hơn với hai chữ “bệnh hoạn” như anh Ngô Trí Thịnh đã nhận xét! “Bệnh hoạn” cũng có thể vì ông quá vệ sinh. Mỗi lần bắt tay ai là thế nào ông cũng rửa tay bằng alcohol, chai cồn luôn ở trong ngăn kéo bàn làm việc của ông!   

Anh Văn Hùng Đốc kể lại lần hội ngộ anh Tôn Thất Đồng Nai tại San Jose cách nay khoảng 15 năm, anh Đồng Nai đã phải thốt lên: “Gặp Văn Hùng Đốc là moa nhớ đến ông Tràng. Chỉ vì đầu tóc chưa kịp hớt mà ông ta đày moa ra Nha Trang!”.

Dưới thời Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng, chi nhánh trường SNQĐ tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang được coi là “Côn Đảo” dành cho các giảng viên mà ông không ưa. Nhưng đối với anh Văn Hùng Đốc, quê quán vốn ở Nha Trang, nên chỉ vài tháng sau về trường anh đã xin ra Nha Trang và được chấp thuận ngay.
 
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng (góc phải)
tái ngộ các giảng viên trẻ Phạm Gia Đoàn & Nguyễn Ngọc Chính
nhân chuyến về thăm Việt Nam của anh Văn Hùng Đốc (góc trái)

Anh Đốc tâm sự: “13 anh em chúng tôi thuộc khóa 24 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức về trường vào giữa năm 1967. Chỉ vài tháng sau đó tôi được ra Chi nhánh Nha Trang. Đại úy Vũ Đức Giang làm Trưởng chi nhánh. Sau khi Đại úy Giang về trường thì Trung Úy Trịnh Khoa Nghi (đã mất cách nay 3 năm) thay thế. Lần lượt các Trưởng chi nhánh có các sĩ quan Nguyễn Long Giáp, Nguyễn Văn Minh, Văn Hùng Đốc (tạm thay anh Minh đi Lackland)”.

Chi nhánh Nha Trang được anh Đốc mô tả là “một Quốc Gia trong một Quốc Gia” vì sĩ quan giảng viên của trường thuộc Bộ binh, không mặc đồng phục trắng và không trực thuộc Khối Văn hoá vụ (Khối Quân huấn) và Bô Tư Lệnh Hải Quân. Do đó, nẩy sinh vài chuyện không được hòa thuận trong sinh hoạt chung.

Anh Nguyễn Long Giáp kể lại: “Việc lủng củng bắt đầu khi TTHLHQ Nha Trang ra Sự vụ lệnh cho giảng viên Tô Cao Hoan (lúc đó là Thiếu Úy) đi công tác tại TTHLHQ Cam Ranh. Với tư cách Trưởng chi nhánh, tôi đã phản đối, trả lại SVL đồng thời cho TTHLHQ biết là giới chức có thể điều động giảng viên rời khỏi nhiệm sở là trường SNQĐ chứ không phải TTHLHQ. Kể từ đó tình hình gây cấn giữa hai phía ngày càng căng thẳng”.

Theo anh Giáp, tình trạng “cơm không lành, canh không ngọt” biến thành thành thuốc đắng khi TTHLHQ gây qũy xây tượng Thánh tổ Hải quân và mang sổ lạc quyên trao cho Trưởng chi nhánh, “Tôi đổ quạu nên phát ngôn hơi bừa bãi: “Thực phẩm phụ trội, mấy anh chia chác với nhau, nay quyên tiền lại bảo tụi tôi đóng góp! Còn lâu. Đức thánh Trần là thánh tổ của mấy anh chứ đâu phải thánh tổ của bọn tôi! Sorry”.

Sau này, tôi cũng có thời gian dạy tại Chi nhánh trường SNQĐ tại Khách sạn Lục Quốc (Mondial) trên đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, nơi đây chuyên huấn luyện Anh ngữ cho Hải quân. Bầu không khí tại đây khác hẳn với ngoài Nha Trang vì lý do chi nhánh hoàn toàn do trường điều hành, không như ngoài Nha Trang, giảng viên biệt phái ra dạy.

Không phải những hồi ức về Thiếu tá Phan Thông Tràng chỉ toàn những mảng tối. Đối với anh Vũ Anh Tuấn “cổ thư” lúc nào anh cũng “đặc biệt tri ân” Thiếu tá Tràng vì ông nhận anh về làm giảng viên cho dù anh tốt nghiệp Khóa 16 Thủ Đức nhưng chỉ được đeo lon Trung sĩ.

Trong khi 14 người cùng khóa về trường với cặp lon Chuẩn úy, anh Tuấn phải đeo “cánh gà” vì bị kỷ luật nhưng Chỉ huy trưởng vẫn nhận dù Ban huấn luyện phản đối với lý do trường chưa từng có hạ sĩ quan nào làm giảng viên. Theo lời anh Tuấn kể lại, ông Tràng nói “cứ nhận, nếu sau này hắn “ba gai” thật thì đuổi đi vẫn chưa muộn!”.

Đoạn kết câu chuyện của anh Vũ Anh Tuấn trở thành một “happy ending” theo như lời anh kể: “Một cơ may đã xảy đến với tôi khi các lớp Thông dịch viên đồng hóa ào ào đến với trường. Thế là tôi được cho đi dậy, vì “cánh gà bất đắc dĩ” dậy “cánh gà đồng hóa” thì được quá đi chứ còn gì!” 

Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng đến dự tiệc hội ngộ cựu giảng viên
trong vòng tay của hai anh Văn Hùng Đốc (trái) và Nguyễn Văn Xuân (phải)

Sáu anh em chúng tôi thuộc khóa 4/68 Thủ Đức, về trường đầu năm 1969, khi đó chức vụ Chỉ huy trưởng đã bàn giao từ niên trưởng Phan Thông Tràng sang Thiếu tá Huỳnh Vĩnh Lại. Cả hai vị Chỉ huy trưởng nay đã qua đời vì tuổi tác. Xin thắp một nén hương lòng để tưởng niệm hai người anh cả đã cống hiến một phần cuộc đời mình cho lịch sử của trường SNQĐ.  

Vào thời điểm 1975, niên trưởng Huỳnh Vĩnh Lại đã được thăng chức Trung tá và đang ở Hoa Kỳ học khóa Tham mưu Cao cấp. Thế cho nên, Trung tá Lại là một trường hợp hi hữu của một người Việt “tỵ nạn tại chỗ” chứ không cần vượt đại dương. Bây giờ, ngồi nhớ lại, tôi thấy mình đã không lầm khi hồi xưa nhìn tướng người phương phi của ông tôi đã thầm đoán “số người này thuộc loại đẻ bọc điều”!

Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm “đau thương” với Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại. Tôi không hề oán trách ông vì đó là… “lỗi tại tôi mọi đàng”. Hồi đó mới về trường nên chưa được đứng lớp, tôi được giao trách nhiệm phụ trách sinh viên sĩ quan khóa sinh Không quân tại cơ sở ở số 4 đường Nguyễn Văn Tráng mà sau này có thời gian là Đại học Minh Đức.

Công việc quá nhàn nhã, chỉ quản lý khóa sinh và cắt đặt công tác vệ sinh tầng lầu… Nhưng cũng chính vì “nhàn cư vi bất thiện” nên tôi bị Chỉ huy trưởng phạt 4 ngày trọng cấm, có xe jeep đưa vào tận quân lao trong Tổng tham mưu! Lý do: tầng lầu mà đại đội tôi phụ trách “bốc mùi” khi có phái đoàn đến thăm trường cộng thêm tội bỏ đi xiné trong giờ làm việc.

Tôi còn nhớ đó là phim Lady Hamilton chiếu tại rạp Vĩnh Lợi rất gần trường. Sau này nghiệm ra có một sự trùng hợp đến bất ngờ: nhảy dù đi xem phim tại rạp Vĩnh Lợi và bị Chỉ huy trưởng Vĩnh Lại quất cho 4 “củ”. Đối với tôi, hai từ ngữ “Lợi” hay “Lại” chỉ mang lại điều bất lợi: 4 ngày tù trọng cấm!    


Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại (trái) và Thiếu tá Ngô Phát Tài (Liên đoàn Khóa sinh)
trong một dịp hội ngộ của trường SNQĐ tại Hoa Kỳ

Điểm đặc biệt của 6 Chuẩn úy mới tốt nghiệp khóa 4/68 chúng tôi là có đến 2 người Việt gốc Hoa: Lương Tô (gốc Chợ Lớn) và Trương Bác Chí (người Hoa gốc Bắc “di cư”). Số mạng của hai người cũng thuộc loại “đặc biệt”. TB Chí tự ý ở lại Hoa Kỳ sau khi học xong khóa đào tạo giảng viên tại DLI năm 1971, anh được coi là một trong những  người “vượt biên” sớm nhất!.

Người thứ hai, Lương Tô, chết trong trại cải tạo Kà Tum. Theo anh Nguyễn Kim Trọng hiện ở Hoa Kỳ: “… Anh Tô ở đội khác đội của tôi. Nghe nói trong thời gian cải tạo anh Tô tập luyện một loại hít thở cổ truyền của người Trung Hoa (an ancient Chinese breathing technique) có tên gọi đặc biệt mà tôi không nhớ tên. Anh Tô chết vì bị “tẩu hỏa nhập ma” trong lúc tập, bị bệnh sau đó và chết chứ không phải chết vì bị “bội thực” như một số anh em đồn đãi”.

Một lần nữa phải tin vào sự trớ trêu của định mạng, những người hiền lành như Lương Tô sao lại vắn số? Phải chăng, hiểu theo Phật giáo, đó là hậu quả của kiếp trước, nhân quả trùng trùng theo vòng quay của bánh xe luân hồi?

Không riêng gì Khóa 4/68 có tới 2 trong 6 tân Chuẩn úy là người Việt gốc Hoa, trước đó, trường SNQĐ cũng đã có những sĩ quan như các anh Phăng Gi On, Lưu Út, Lý Tô Hán… Tôi còn nhớ, ngay trong buổi đầu tiên trình diện CHT, ông Lại đã “nửa đùa nửa thật” hỏi các tân giảng viên: “Các anh về trường tốn hết bao nhiêu?”.

Tôi và 3 người bạn cùng khóa hiện còn sống đến ngày nay xin khẳng định hoàn toàn không có chuyện “lo lót” vì khi thi tuyển về trường chúng tôi phải làm test ECL (English Comprehension Level) của DLI Hoa Kỳ. ECL là một cuốn băng bao gồm 100 câu hỏi để trắc nghiệm trình độ Anh ngữ của thí sinh về văn phạm, ngữ vựng, đàm thoại…

Thí sinh phải nghe băng và đánh dấu câu trả lời “a, b, c, d” trên booklet đi kèm. Điểm tối đa là 100/100 và tiêu chuẩn để được chấm đậu làm giảng viên phải từ 80 điểm trở lên. Phần bài thi của tôi, do hai anh Đinh Trọng Đại và Nguyễn Hữu Phú thuộc ban Khảo thí  xác định, được 89/100. Các khóa về trường sau này còn gặp khó khăn hơn vì phải thêm phần phỏng vấn của ban Khảo thí.         

Khóa tôi về trường có Hồ Hới gốc “tu xuất” nhưng “quậy” không ai bằng. Người ta hay nói “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” và một số người sửa lại là “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba… thầy xuất”. Cái nghịch của Hồ Hới không làm hại một ai nhưng đôi khi cũng làm các giảng viên khóa đàn anh phải nhíu mày, khó chịu. Có điều ít ai ngờ, Hồ Hới ngày nay là một “ông già”, tính tình điềm đạm khác hẳn ngày xưa. “Sông có khúc, người có lúc” là vậy!

Hồ Hới (người đeo kính đứng cạnh người thắt cravate)
trong một lần hội ngộ với anh em tại Việt Nam

Nguyễn Công Sang “đẹp trai” nhất trong đám sĩ quan Khóa 4/68 về trường. Sang gốc người Long Xuyên nhưng lại mang phong thái của “Công tử xứ Bạc Liêu” từ cách ăn nói cho đến lối hành sử. Sang là roomate của tôi khi chúng tôi đi học tại DLI (Lackland) năm 1971 và anh cũng là người có “sense of humor”. Tôi còn nhớ mãi những câu pha trò của Sang: “Goodbye lấy cái chai đựng rượu”, “Thank you lấy cái siêu sắc thuốc”…

Nguyễn Công Sang rời Việt Nam từ đầu năm 1980, trong một email từ Canada, Sang viết: “Tôi vẫn nhớ những kỷ-niệm mình ở Lackland. Cái cassette với tiếng đàn guitar Chính đệm cho tôi hát bài "Oui devant Dieu" để tặng vợ tôi nhân kỷ-niệm 2 năm ngày cưới của chúng tôi vào tháng 11-1971, tôi vẫn còn giữ đây. Mỗi lần nghe là tôi nhớ đến người bạn hiền-lành dễ-thương năm nào”.

Nguyễn Công Sang (trái) hội ngộ Nguyễn Lương Năng tại Melbourne

Nhân vật cuối cùng của Khóa 4/68 là người được nhắc đến nhiều nhất, cả trong thời gian trường còn hoạt động lẫn giai đoạn sau năm 1975. Hiện đang ở Mỹ, Nguyễn Cường Nam là người có thể lái xe hàng trăm dặm để đưa các bạn cũ đi chơi thăm thú anh em lâu ngày không gặp. Có một dạo Nam còn giữ “tay hòm chìa khóa” cho quỹ tương trợ, giúp đỡ anh em gặp khó khăn bên nhà.

Hồi còn ở trường, Nguyễn Cường Nam vóc người nhỏ bé thế mà ngoài việc đứng lớp còn được kiêm nhiệm nhiều chức vụ “linh tinh” như lo hàng quân tiếp vụ cho trường nên mới chết tên “Nam Gạo”. Nam còn “chịu trách nhiệm” về bàn ghế của cả 4 cơ sở Trần Hưng Đạo (Bộ Tổng tham mưu), Phan Thanh Giản (Hải quân), Nguyễn Văn Tráng (Lục quân và Không quân), Đồng Khánh (Không quân).

Theo một câu chuyện thuộc loại “tiếu lâm” về những kỷ niệm dưới mái trường SNQĐ, Nam “Gạo” viết về chuyện của mình có liên quan đến Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại:

Hồi mới đáo nhậm Trường SNQD, Chuẩn úy Nguyễn Cường Nam được Đặc Ân (hay bị Đì không biết) của Thiếu Tá Nguyễn Thọ Đan, ngoài giờ đứng lớp, trông coi bàn ghế cho học viên của cả 4 cơ sở: Trần Hưng Đạo, Nguyễn văn Tráng, Phan Thanh Giản và Đồng Khánh. Cái nào sứt tay gãy gọng thì làm báo cáo cho Đại úy Gẫm sửa. Chuẩn úy Nam nhờ vậy mà ghi được chuyện này. Hôm nay hơn 57  năm sau mới Bật Mí ra.

Vào một buổi lể mừng Sinh Nhật Trường SNQD tổ chức tại chi nhánh Đồng Khánh, Trung Tá Huỳnh Vĩnh Lại có mời Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (hình như anh ruột của Đại Úy Giảng viên Phan Trọng Vĩnh thì phải) và một số quan khách. Chuẩn úy Nam được lệnh sắp xếp bàn ghế. Hàng chủ toạ, vì số khách mời, Chuẩn úy Nam đặc biệt sắp 5 ghế. Gần tới giờ, Trung tá CHT vào kiểm tra.

- ĐM thằng nào xếp ghế thế này đây?
- Dạ tôi, Trung Tá.
- ĐM mày chửi tụi tao là Quỷ hay sao mà sắp 5 ghế. Năm thằng ngồi là Ngũ Quỷ hiểu chưa.
- Dạ, tôi xin thêm 1 ghế nữa.
- ĐM mày chửi tụi tao là Trâu Bò hả. Sáu thằng ngồi là Lục Súc. Mày phải sắp 7 ghế cho thành Thất Hiền hoặc 8 ghế để là Bát Tiên, hiểu chưa Sữa (TT Lại gọi tôi là Chuẩn úy Sữa vì mới ra trường có 6 tháng thôi mà).

Buổi lễ diễn ra tốt đẹp và cuối cùng là màn vũ khoả thân của vũ nữ Tuyết Nhung. Khi cô xuất hiện trên sân khấu, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Khi cô vất áo choàng xuống sàn, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Mảnh vải che phiá trên được trút bỏ ra, hàng tràng pháo tay khen thưởng.

Mảnh vải cuối cùng trên mình cô được lột ra. Cả hội trường chỉ còn nghe lẹt đẹt vài tiếng vỗ tay của mấy vị khách. Trung Tá CHT thất sắc gọi Trưởng chi nhánh Đồng Khánh lại hỏi:

- ĐM bộ không hay hay sao mà chẳng thằng nào vỗ tay hết vậy?
- Trình Trung tá, Đại úy Trạch nói, một tay làm sao vỗ nên kêu. Thằng nào cũng một tay đút túi quần hết”.

Nam kết luận câu chuyện trên với một câu khá dí dỏm: “Ai không tin thì đi hỏi ông LẠI coi tui kể có đúng không”. Mà CHT Lại nay đã quá cố thì làm sao “xác minh” cho được. Tuy tôi đã nhiều lần nghe Trung tá Lại chửi thề những khi ông bực tức nhưng câu chuyện của Nam đã để ông xổ ra một lô “những giấy bạc lớn” có lẽ nên được coi là một chuyện tiếu lâm thuần túy, “off the record”.   

Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại và anh Nguyễn Văn Sở, trưởng khoa Anh ngữ

Ngoài các vị Chỉ huy trưởng có những cá tính khác người, trường SNQĐ cũng còn có những sĩ quan làm cho anh em giảng viên được “nở mày nở mặt”, cả về trình độ chuyên môn cũng như cách xử thế. Có những tên tuổi mỗi khi nhắc mọi người đều kính trọng, cả về cấp bậc lẫn kiến thức, như các anh Tô Cao Hoan, Nguyễn Văn Sở, Nguyễn Hữu Phú, Đinh Trọng Đại, Mai Vị Sĩ, Đặng Trần Hải… Danh sách còn dài và việc chọn lựa cũng chỉ là ý kiến cá nhân của người viết.

Anh Tô Cao Hoan (người thứ 2 từ trái qua)
trong một lần hội ngộ năm 2006 tại Sài Gòn

Trên Forum của trường SNQĐ, anh Nguyễn Văn Nghiên, giữ nhiệm vụ “Mõ Làng” kiêm “Sĩ Quan Trực” của trường ngày nay, có nhắc đến một vị niên trưởng một thời đã từng giữ chức vụ Chỉ huy phó, Thiếu tá Bùi Công Minh. Chuyện niên trưởng “Ba” Minh “hiền như Bụt” nay đã ngoại bát tuần thì anh em ai cũng biết nhưng việc anh Ba xuất bản tại Hoa Kỳ cuốn sách về lịch sử Chiến tranh Việt Nam, A Distant Cause – A History and the Vindication of the Viet Nam War (*), chắc nhiều người chưa biết.

Ngoài việc viết sách, niên trưởng Minh còn soạn nhạc, một trong những bản nhạc của anh, bài Đừng vội, đã được giới yêu nhạc chú ý. Một người “tài” và “đức” vẹn toàn như anh “Ba” Minh qủa là hiếm, không những trong nội bộ trường SNQĐ mà còn trong hàng ngũ quân lực VNCH.

Bìa sách của niên trưởng Bùi Công Minh

Quân số trường SNQĐ vào thời “Việt Nam hóa” chiến tranh có lúc vượt quá 200 người và có lẽ trong quân lực VNCH đây là đơn vị có số sĩ quan vượt trội so với hạ sĩ quan và binh sĩ. Trường Bộ binh Thủ Đức là nguồn cung cấp giảng viên chủ lực nhưng sau này vì nhu cầu của cuộc chiến, trường còn tuyển thêm các sĩ quan trong quân đội có khả năng Anh ngữ về trường để giảng dậy nhiều đợt quân nhân trước khi lên đường sang Hoa Kỳ để học về chuyên môn.

Ban đầu, trường còn có Khoa Việt Ngữ để dạy tiếng Việt cho các quân nhân đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Về sau, vì nhu cầu học tiếng Việt không còn, các giảng viên Việt Ngữ được nhà trường tạo điều kiện du học Hoa Kỳ tiếp tục phục vụ tại trường trong vai trò giảng viên tiếng Anh.

Có người nói, giảng viên về trường từ Thủ Đức là “con đẻ” và những người về từ các nguồn khác chịu phận “con nuôi”. Tôi không đồng ý với lý lẽ đó vì trong suốt 7 năm phục vụ tại trường tôi không hề thấy trường hợp “kỳ thị” nào. Trong một môi trường văn hóa như tại trường SNQĐ, trình độ chuyên môn là thước đo chính xác nhất để được bạn bè và đồng nghiệp tôn trọng, kính mến.

Sự tôn trọng và kính mến đó, cho đến ngày nay dù trong tình trạng “tan đàn xẻ nghé”, vẫn còn hiện hữu trong mối liên lạc đời thường giữa các giảng viên. Đó là nguồn khích lệ đối với những người đã một thời tuy khoác áo lính nhưng cầm phấn trắng thay vì súng đạn.      

Thay lời kết:
                                                                                                    
Sau bài viết Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội được post trước bài này tại:  

Tác giả nhận được một số comments, trong đó có hai lời bình luận đáng chú ý.

1. Trường hợp thứ nhất là comment của Đoàn Hồng Nguyên, con trai của anh Đoàn Trọng Thu (khóa 5/68, về trường SNQĐ cùng với Nguyễn Bình Quyền, có biệt danh là Quyền “Lucky Luck”)

“Cháu chào bác Chính,

Cháu đọc Hồi ức một đời người của Bác. Chương Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn đặc biệt gây cho cháu ấn tượng... cháu ấn tượng vì Bố cháu cũng từng là Giảng viên trường này.

Bố cháu tên Đoàn Trọng Thu. Vào Thủ Đức khoảng 68-69. Về Trường SNQĐ khoảng năm 69. Đến năm 1971, thay vì đi Mỹ, bố cháu xin về dạy học, vì Bố cháu gốc giáo chức.

Cháu mạo muội ghi mấy dòng này gửi Bác, mong Bác giúp cháu, nếu Bác có thông tin, để cháu tìm thêm thông tin về một quãng thời gian trong cuộc đời Bố cháu. Bố cháu mất đột ngột năm 2007, nên cháu không kịp lưu giữ các thông tin cần thiết.

Đoàn Hồng Nguyên”

2. Trường hợp thứ hai là comment của Nguyễn Huy Thông, con trai của giảng viên Nguyễn Văn Bé, hồi đó anh em thuờng gọi đùa là “Bé Tây Lai”.

“Con chào bác Chính,

Thật may là bác cũng biết ba con. Năm 1974, ba con bị chuyển ra Phù Cát, Quy Nhơn và đến tháng 04/1975 thì mất liên lạc với gia đình.. Con cũng đã liên lạc được với bác Bùi Trọng Kính để xem có biết thêm gì không. Thật tiếc là bác Kính sau khi trao đổi với bác Hỷ cũng không rõ thêm được là bao. Sau này, con cũng đã liên hệ với bác Tiep ở Hoa Kỳ, nhưng có lẽ là sau khi ba con chuyển đi Phù Cát thì các đồng nghiệp ở đơn vị cũ cũng bặt tin luôn. Đến lúc này, gia đình kết luận có lẽ ba con đã mất trong lúc miền Trung thất thủ hoặc trong trại tù của Cộng sản.

Nguyễn Huy Thông”           

Nếu anh em cựu SNQĐ có thông tin gì về hai trường hợp trên, xin liên hệ với tác giả để chuyển tiếp cho 2 cháu.

***

Chú thích:

(*) A Distant Cause – A History and the Vindication of the Viet Nam War, Bui Cong Minh

Xlibris Corporation
1-888-795-4274
www.Xlibris.com
Orders@Xlibris.com
Price: $15.00

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/06/buon-vui-duoi-mai-truong-sinh-ngu-quan.html
Sinh Tồn chuyển

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm