Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Buồn vui dưới mái trường Sinh ngữ Quân đội
Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956
Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau
này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp
hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956, lại là ngày thành lập trường
Sinh ngữ Quân đội (SNQĐ), nơi tôi phục vụ trong suốt thời gian quân ngũ từ năm
1968 đến ngày miền Nam thất thủ, 30/4/1975.
Sinh Tồn chuyển
Như vậy là khi thành lập Trường
Anh Ngữ Bộ Tổng Tham Mưu, tiền thân của trường SNQĐ sau này, tôi mới chỉ là
một cậu bé 10 tuổi. Không ngờ, chú bé đó sau này khi trưởng thành cũng là một
thành viên của trường và gắn bó tuổi thanh niên của mình trong nàu áo lính dưới
mái trường quân đội.
Huy hiệu trường SNQĐ
Năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam được Tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ
thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa sau khi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Trong
chiều hướng cải tổ đó, quân đội chuyển từ khối Liên hiệp Pháp sang mô hình của
Hoa Kỳ nên rất nhiều sĩ quan cần được gửi đi tu nghiệp tại Mỹ. Đó cũng là lý do
hình thành trường SNQĐ.
Trụ sở chính của trường SNQĐ trong Bộ Tổng tham mưu
Năm 2000, viết về những ngày đầu thành lập trường SNQĐ, niên trưởng Nguyễn
Hữu Khoát, hiện ở Montreal, Canada, và cũng là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của
trường, cho biết:
“Vào trung tuần
tháng 6/1956 tôi được Bộ Tổng tham mưu chỉ định thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM
và tổ chức lớp Anh ngữ đầu tiên tại Bộ TTM cho các quân nhân Quân đội VNCH chuẩn
bị đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ… nên đã được thuyên chuyển về đơn vị quản trị địa
phương số 1, ngày 3-7-1956, công tác kể từ ngày 18 tháng 6 năm 1956”.
Đó là lý do ngày 18/6/1956 mặc nhiên trở thành ngày thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM, sau này lại đổi
thành Trường Anh ngữ Quân sự, rồi Trường Anh ngữ Quân đội (Armed Forces
English Language School) và cuối cùng là Trường
Sinh ngữ Quân đội (Armed Forces Languages School).
Niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, khi đó là Đại úy Chỉ huy trưởng, kể lại những
ngày đầu của trường trong Bộ Tổng tham mưu:
“Trụ sở của trường
là hai căn nhà lợp fibro ciment, một căn dành làm văn phòng, lớp học, phòng ghi
âm (lab) và một căn dành cho các khóa sinh nội trú. Tổng số nhân viên kể cả giảng
viên, hành chánh và tạp dịch không quá 10 người nên trường đã gặp rất nhiều khó
khăn trở ngại trong những buổi đầu vì thiếu phương tiện và kinh nghiệm… Tuy
nhiên, tất cả mọi người đều cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và lớp Anh ngữ đầu
tiên (Khóa 1 của Trường Anh ngữ Quân đội) đã được khai giảng đúng thời hạn ấn định
của Bộ TTM vào thượng tuần tháng 8/1956”.
Trong giai đoạn đầu, thời gian học tập của khóa sinh được dự trù là 4 tuần,
chương trình giảng huấn chú trọng vào việc nói và hiểu tiếng Anh. Ngoài việc học
về ngữ vựng, văn phạm, các khoá sinh còn được thực tập trên máy ghi âm, nghe và
nói theo các giảng viên người Mỹ được ghi âm tại Viện Ngữ học Quốc phòng (Defense
Language Institute – DLI) Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi hỗ trợ đắc lực về chuyên môn
trong việc đào tạo giảng viên người Việt dạy tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ
hai.
Huy hiệu DLI (Viện Ngữ học Quốc phòng Hoa Kỳ)
Theo hệ thống quân giai, trường ANQÐ trực thuộc Bộ TTM/Phòng Quân huấn, nhưng
về mặt chuyên môn lại trực thuộc Trường Ðại học Quân sự. Từ đầu năm 1957, trường
mở thêm lớp Anh ngữ dành cho sĩ quan cao cấp chuẩn bị đi tu nghiệp tại trường
Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth. Nhiều vị tướng lãnh trong quân đội đã
theo học qua các lớp này như các Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện
Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Ngọc
Tâm, Thái Quang Hoàng, Vĩnh Lộc, Mai Hữu Xuân, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan, Nguyễn
Vĩnh Nghi, Nguyễn Ngọc Lễ, Dương Ngọc Lắm….
Một trong những giảng viên kỳ cựu của trường, anh Nguyễn Hải Bình, hiện
sống tại Canada, hồi tưởng lại ngày về trường: “Tôi về trường Anh ngữ Quân đội đầu năm 1957, tròn 22 tuổi với hàm
trung úy “lấp lánh ánh vàng lon trên vai”. Phải, “lon trên vai” vì khi tôi rời
chức vụ thông dịch viên sau gần hai năm tại quân trường bộ binh Fort Benning
thì còn mới đeo cặp lon “hai con đỉa” của thời Liên hiệp Pháp. Về đến Sàigòn
đáo nhậm trường mới đổi lấy hai bông mai vàng trên “ve” áo”.
… Nhân số trường
lúc đó vẻn vẹn chỉ có đại ca Phạm Hữu Khoát mang ba bông mai làm xếp, ông cố vấn
dân sự Brownstein hách xì xằng, trung úy đồng hóa Hà văn Anh dáng điệu play boy
rất tếu và coi kỷ luật nhà binh như pha. Cộng thêm vài sỹ quan giảng viên khác,
trường thật lèo tèo nên chi bấy giờ ông Khoát mừng lắm khi gần chục thằng chúng
tôi trình diện, cái chức “Chỉ huy trưởng” của ông rõ là có phần nặng ký hơn.
Người chiều chúng tôi lắm, lũ này trẻ măng, đi Mỹ về lại nói ''ăng lê'' như Tây,
cộng với Hà văn Anh nên mọi người có vây cánh không ớn lão Brownstein “hù” văn
phạm nữa. Thật ra đại ca Khoát chiều chúng tôi cũng vì bản tính tốt, xuề xòa và
chịu chơi.
Giữa hai tiếng kẻng
10 phút giải lao, phòng giảng viên 15 đứa lúc nào cũng ồn ào đấu láo, kể chuyện
Gò Vấp ngay bên kia cổng hậu TTM, chuyện mặc “áo mưa”, chuyện vua Bảo Đại của
Nguyễn Phước Bảo Đề… Ào ào như vậy nhưng vào lớp thì chúng tôi được nể lắm. Thoạt
đầu các khóa sinh là từ ba binh chủng [Hải, Lục, Không quân – chú thích của NNC] bao gồm sỹ quan và hạ sỹ quan, những quân
nhân được gởi đi thụ huấn tại Hoa Kỳ lần đầu”.
Đám giảng viên thời đó được các khóa sinh nổi tiếng như “ông tu bíp” Từ
Uyên hay cố Trung sỹ Không quân “Dê húc càn” Dương Hùng Cường… coi trọng, có lẽ
vì… “nhất tự vi sư, bán tự vi tiên sư”!
Vào những năm 1958-1959, anh Nguyễn Hải Bình và vài đồng nghiệp khác được giao
phụ trách mấy lớp giành riêng cho các vị tướng lãnh sẽ đi tu nghiệp tham mưu
chiến lược tại Hoa Kỳ.
Theo lời anh Bình, “Trong năm vị
tướng lãnh cầm đầu đảo chánh 1963 thì hồi đó đã có bốn vị tôi được vinh dự phục
vụ tại mấy lớp cấp tốc này. Gay lắm, hồi hộp, lo lắng chỉ sợ có gì sai lầm, vi
phạm quân kỷ nên mấy thằng chúng tôi sáng sáng nhìn nhau kiểm soát lại quần áo,
giầy nón, biển tên đến đầu tóc mặt mày. Tới giờ, trước cửa lớp nín hơi bước vào,
cứng như khúc gỗ, rồi giơ tay chào kính miệng hô “Good morning, Sir!” trước khi
bắt đầu “Please, repeat after me”!
Được cái, Chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Khoát rất “chịu chơi”, cho phép giảng
viên “nhẩy dù” đi học thêm ngoài giờ giảng dậy và ứng trực. Nhờ vậy, một số giảng
viên lấy thêm bằng cấp ngoài đời dân sự như cử nhân luật hoặc thêm các chứng chỉ
bên văn khoa…
Niên trưởng Phạm Hữu Khoát
Chỉ huy trưởng đầu tiên của Trường SNQĐ
Có nhiều dư luận về việc thay đổi chức vụ Chỉ huy trưởng trường SNQĐ. Theo
anh Bình, có ai đó đã báo cáo rằng niên trưởng Nguyễn Huy Khoát đã để giảng
viên quá tự do trong việc đi học, đi chơi, lại còn biết giảng viên “trùm mền”
đánh xì dách những đêm cấm trại mà lại làm ngơ ..
Thế cho nên, tháng 5/1959 chức vụ Chỉ huy trưởng được bàn giao sang Thiếu
Tá Phan Thông Tràng. Khác hẳn với Chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu tá Phan Thông
Tràng là một sĩ quan theo đúng tác phong nhà binh: quân phục chỉnh tề, giày
đánh bóng đến độ có thể soi gương.
Ông là tuýp quân nhân gương mẫu, nhiều giảng viên dưới thời ông thậm chí
còn bình luận… “trên cả gương mẫu” hoặc nặng hơn với hai chữ “bệnh hoạn” như
anh Ngô Trí Thịnh đã nhận xét! “Bệnh hoạn” cũng có thể vì ông quá vệ sinh. Mỗi
lần bắt tay ai là thế nào ông cũng rửa tay bằng alcohol, chai cồn luôn ở trong
ngăn kéo bàn làm việc của ông!
Anh Văn Hùng Đốc kể lại lần hội ngộ anh Tôn Thất Đồng Nai tại San Jose
cách nay khoảng 15 năm, anh Đồng Nai đã phải thốt lên: “Gặp Văn Hùng Đốc là moa nhớ đến ông Tràng. Chỉ vì đầu tóc chưa kịp hớt
mà ông ta đày moa ra Nha Trang!”.
Dưới thời Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng, chi nhánh trường SNQĐ tại
Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang được coi là “Côn Đảo” dành cho các giảng
viên mà ông không ưa. Nhưng đối với anh Văn Hùng Đốc, quê quán vốn ở Nha Trang,
nên chỉ vài tháng sau về trường anh đã xin ra Nha Trang và được chấp thuận ngay.
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng (góc phải)
tái ngộ các giảng viên trẻ Phạm Gia Đoàn & Nguyễn
Ngọc Chính
nhân chuyến về thăm Việt Nam của anh Văn Hùng Đốc
(góc trái)
Anh Đốc tâm sự: “13 anh em chúng
tôi thuộc khóa 24 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức về trường vào giữa năm 1967. Chỉ vài
tháng sau đó tôi được ra Chi nhánh Nha Trang. Đại úy Vũ Đức Giang làm Trưởng
chi nhánh. Sau khi Đại úy Giang về trường thì Trung Úy Trịnh Khoa Nghi (đã mất
cách nay 3 năm) thay thế. Lần lượt các Trưởng chi nhánh có các sĩ quan Nguyễn
Long Giáp, Nguyễn Văn Minh, Văn Hùng Đốc (tạm thay anh Minh đi Lackland)”.
Chi nhánh Nha Trang được anh Đốc mô tả là “một Quốc Gia trong một Quốc Gia” vì sĩ quan giảng viên của trường
thuộc Bộ binh, không mặc đồng phục trắng và không trực thuộc Khối Văn hoá vụ
(Khối Quân huấn) và Bô Tư Lệnh Hải Quân. Do đó, nẩy sinh vài chuyện không được
hòa thuận trong sinh hoạt chung.
Anh Nguyễn Long Giáp kể lại: “Việc
lủng củng bắt đầu khi TTHLHQ Nha Trang ra Sự vụ lệnh cho giảng viên Tô Cao Hoan
(lúc đó là Thiếu Úy) đi công tác tại TTHLHQ Cam Ranh. Với tư cách Trưởng chi nhánh,
tôi đã phản đối, trả lại SVL đồng thời cho TTHLHQ biết là giới chức có thể điều
động giảng viên rời khỏi nhiệm sở là trường SNQĐ chứ không phải TTHLHQ. Kể từ
đó tình hình gây cấn giữa hai phía ngày càng căng thẳng”.
Theo anh Giáp, tình trạng “cơm không lành, canh không ngọt” biến thành
thành thuốc đắng khi TTHLHQ gây qũy xây tượng Thánh tổ Hải quân và mang sổ lạc
quyên trao cho Trưởng chi nhánh, “Tôi đổ
quạu nên phát ngôn hơi bừa bãi: “Thực phẩm phụ trội, mấy anh chia chác với
nhau, nay quyên tiền lại bảo tụi tôi đóng góp! Còn lâu. Đức thánh Trần là thánh
tổ của mấy anh chứ đâu phải thánh tổ của bọn tôi! Sorry”.
Sau này, tôi cũng có thời gian dạy tại Chi nhánh trường SNQĐ tại Khách sạn
Lục Quốc (Mondial) trên đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, nơi đây chuyên huấn luyện
Anh ngữ cho Hải quân. Bầu không khí tại đây khác hẳn với ngoài Nha Trang vì lý
do chi nhánh hoàn toàn do trường điều hành, không như ngoài Nha Trang, giảng
viên biệt phái ra dạy.
Không phải những hồi ức về Thiếu tá Phan Thông Tràng chỉ toàn những mảng
tối. Đối với anh Vũ Anh Tuấn “cổ thư” lúc nào anh cũng “đặc biệt tri ân” Thiếu
tá Tràng vì ông nhận anh về làm giảng viên cho dù anh tốt nghiệp Khóa 16 Thủ Đức
nhưng chỉ được đeo lon Trung sĩ.
Trong khi 14 người cùng khóa về trường với cặp lon Chuẩn úy, anh Tuấn phải
đeo “cánh gà” vì bị kỷ luật nhưng Chỉ huy trưởng vẫn nhận dù Ban huấn luyện phản
đối với lý do trường chưa từng có hạ sĩ quan nào làm giảng viên. Theo lời anh
Tuấn kể lại, ông Tràng nói “cứ nhận, nếu
sau này hắn “ba gai” thật thì đuổi đi vẫn chưa muộn!”.
Đoạn kết câu chuyện của anh Vũ Anh Tuấn trở thành một “happy ending”
theo như lời anh kể: “Một cơ may đã xảy đến
với tôi khi các lớp Thông dịch viên đồng hóa ào ào đến với trường. Thế là tôi
được cho đi dậy, vì “cánh gà bất đắc dĩ” dậy “cánh gà đồng hóa” thì được quá đi
chứ còn gì!”
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng đến dự tiệc hội ngộ
cựu giảng viên
trong vòng tay của hai anh Văn Hùng Đốc (trái) và
Nguyễn Văn Xuân (phải)
Sáu anh em chúng tôi thuộc khóa 4/68 Thủ Đức, về trường đầu năm 1969,
khi đó chức vụ Chỉ huy trưởng đã bàn giao từ niên trưởng Phan Thông Tràng sang
Thiếu tá Huỳnh Vĩnh Lại. Cả hai vị Chỉ huy trưởng nay đã qua đời vì tuổi tác.
Xin thắp một nén hương lòng để tưởng niệm hai người anh cả đã cống hiến một phần
cuộc đời mình cho lịch sử của trường SNQĐ.
Vào thời điểm 1975, niên trưởng Huỳnh Vĩnh Lại đã được thăng chức Trung
tá và đang ở Hoa Kỳ học khóa Tham mưu Cao cấp. Thế cho nên, Trung tá Lại là một
trường hợp hi hữu của một người Việt “tỵ nạn tại chỗ” chứ không cần vượt đại
dương. Bây giờ, ngồi nhớ lại, tôi thấy mình đã không lầm khi hồi xưa nhìn tướng
người phương phi của ông tôi đã thầm đoán “số người này thuộc loại đẻ bọc điều”!
Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm “đau thương” với Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại.
Tôi không hề oán trách ông vì đó là… “lỗi tại tôi mọi đàng”. Hồi đó mới về trường
nên chưa được đứng lớp, tôi được giao trách nhiệm phụ trách sinh viên sĩ quan khóa
sinh Không quân tại cơ sở ở số 4 đường Nguyễn Văn Tráng mà sau này có thời gian
là Đại học Minh Đức.
Công việc quá nhàn nhã, chỉ quản lý khóa sinh và cắt đặt công tác vệ
sinh tầng lầu… Nhưng cũng chính vì “nhàn cư vi bất thiện” nên tôi bị Chỉ huy
trưởng phạt 4 ngày trọng cấm, có xe jeep đưa vào tận quân lao trong Tổng tham
mưu! Lý do: tầng lầu mà đại đội tôi phụ trách “bốc mùi” khi có phái đoàn đến
thăm trường cộng thêm tội bỏ đi xiné trong giờ làm việc.
Tôi còn nhớ đó là phim Lady
Hamilton chiếu tại rạp Vĩnh Lợi rất gần trường. Sau này nghiệm ra có một sự
trùng hợp đến bất ngờ: nhảy dù đi xem phim tại rạp Vĩnh Lợi và bị Chỉ huy trưởng
Vĩnh Lại quất cho 4 “củ”. Đối với tôi, hai từ ngữ “Lợi” hay “Lại” chỉ mang lại
điều bất lợi: 4 ngày tù trọng cấm!
Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại (trái) và Thiếu tá Ngô Phát Tài (Liên đoàn Khóa sinh)
trong một dịp hội ngộ của trường SNQĐ tại Hoa Kỳ
Điểm đặc biệt của 6 Chuẩn úy mới tốt nghiệp khóa 4/68 chúng tôi là có đến
2 người Việt gốc Hoa: Lương Tô (gốc Chợ Lớn) và Trương Bác Chí (người Hoa gốc Bắc
“di cư”). Số mạng của hai người cũng thuộc loại “đặc biệt”. TB Chí tự ý ở lại
Hoa Kỳ sau khi học xong khóa đào tạo giảng viên tại DLI năm 1971, anh được coi
là một trong những người “vượt biên” sớm
nhất!.
Người thứ hai, Lương Tô, chết trong trại cải tạo Kà Tum. Theo anh Nguyễn
Kim Trọng hiện ở Hoa Kỳ: “… Anh Tô ở đội
khác đội của tôi. Nghe nói trong thời gian cải tạo anh Tô tập luyện một loại
hít thở cổ truyền của người Trung Hoa (an ancient Chinese breathing technique)
có tên gọi đặc biệt mà tôi không nhớ tên. Anh Tô chết vì bị “tẩu hỏa nhập ma”
trong lúc tập, bị bệnh sau đó và chết chứ không phải chết vì bị “bội thực” như
một số anh em đồn đãi”.
Một lần nữa phải tin vào sự trớ trêu của định mạng, những người hiền
lành như Lương Tô sao lại vắn số? Phải chăng, hiểu theo Phật giáo, đó là hậu quả
của kiếp trước, nhân quả trùng trùng theo vòng quay của bánh xe luân hồi?
Không riêng gì Khóa 4/68 có tới 2 trong 6 tân Chuẩn úy là người Việt gốc Hoa,
trước đó, trường SNQĐ cũng đã có những sĩ quan như các anh Phăng Gi On, Lưu Út,
Lý Tô Hán… Tôi còn nhớ, ngay trong buổi đầu tiên trình diện CHT, ông Lại đã “nửa
đùa nửa thật” hỏi các tân giảng viên: “Các
anh về trường tốn hết bao nhiêu?”.
Tôi và 3 người bạn cùng khóa hiện còn sống đến ngày nay xin khẳng định hoàn toàn không
có chuyện “lo lót” vì khi thi tuyển về trường chúng tôi phải làm test ECL
(English Comprehension Level) của DLI Hoa Kỳ. ECL là một cuốn băng bao gồm 100
câu hỏi để trắc nghiệm trình độ Anh ngữ của thí sinh về văn phạm, ngữ vựng, đàm
thoại…
Thí sinh phải nghe băng và đánh dấu câu trả lời “a, b, c,
d” trên booklet đi kèm. Điểm tối đa là 100/100 và tiêu chuẩn để được chấm đậu
làm giảng viên phải từ 80 điểm trở lên. Phần bài thi của tôi, do hai anh Đinh
Trọng Đại và Nguyễn Hữu Phú thuộc ban Khảo thí xác định, được 89/100. Các khóa về trường sau
này còn gặp khó khăn hơn vì phải thêm phần phỏng vấn của ban Khảo thí.
Khóa tôi về trường có Hồ Hới gốc “tu xuất” nhưng “quậy” không ai bằng.
Người ta hay nói “nhất quỷ, nhì ma, thứ
ba học trò” và một số người sửa lại là “nhất
quỷ, nhì ma, thứ ba… thầy xuất”. Cái nghịch của Hồ Hới không làm hại một ai
nhưng đôi khi cũng làm các giảng viên khóa đàn anh phải nhíu mày, khó chịu. Có
điều ít ai ngờ, Hồ Hới ngày nay là một “ông già”, tính tình điềm đạm khác hẳn
ngày xưa. “Sông có khúc, người có lúc”
là vậy!
Hồ Hới (người đeo kính đứng cạnh người thắt
cravate)
trong một lần hội ngộ với anh em tại Việt Nam
Nguyễn Công Sang “đẹp trai” nhất trong đám sĩ quan Khóa 4/68 về trường.
Sang gốc người Long Xuyên nhưng lại mang phong thái của “Công tử xứ Bạc Liêu” từ
cách ăn nói cho đến lối hành sử. Sang là roomate của tôi khi chúng tôi đi học tại
DLI (Lackland) năm 1971 và anh cũng là người có “sense of humor”. Tôi còn nhớ
mãi những câu pha trò của Sang: “Goodbye
lấy cái chai đựng rượu”, “Thank you lấy cái siêu sắc thuốc”…
Nguyễn Công Sang rời Việt Nam từ đầu năm 1980, trong một email từ
Canada, Sang viết: “Tôi vẫn nhớ những kỷ-niệm
mình ở Lackland. Cái cassette với tiếng đàn guitar Chính đệm cho tôi hát bài
"Oui devant Dieu" để tặng vợ tôi nhân kỷ-niệm 2 năm ngày cưới của
chúng tôi vào tháng 11-1971, tôi vẫn còn giữ đây. Mỗi lần nghe là tôi nhớ đến
người bạn hiền-lành dễ-thương năm nào”.
Nguyễn Công Sang (trái) hội ngộ Nguyễn Lương Năng tại
Melbourne
Nhân vật cuối cùng của Khóa 4/68 là
người được nhắc đến nhiều nhất, cả
trong thời gian trường còn hoạt động lẫn giai đoạn sau năm 1975. Hiện
đang ở Mỹ, Nguyễn Cường Nam là người có thể lái xe hàng trăm dặm để đưa
các bạn cũ đi chơi thăm thú
anh em lâu ngày không gặp. Có một dạo Nam còn giữ “tay hòm chìa khóa”
cho quỹ
tương trợ, giúp đỡ anh em gặp khó khăn bên nhà.
Hồi còn ở trường, Nguyễn Cường Nam vóc người nhỏ bé thế mà ngoài việc đứng
lớp còn được kiêm nhiệm nhiều chức vụ “linh tinh” như lo hàng quân tiếp vụ cho
trường nên mới chết tên “Nam Gạo”. Nam còn “chịu trách nhiệm” về bàn ghế của cả
4 cơ sở Trần Hưng Đạo (Bộ Tổng tham mưu), Phan Thanh Giản (Hải quân), Nguyễn
Văn Tráng (Lục quân và Không quân), Đồng Khánh (Không quân).
Theo một câu chuyện thuộc loại “tiếu lâm” về những kỷ niệm dưới mái trường
SNQĐ, Nam “Gạo” viết về chuyện của mình có liên quan đến Chỉ huy trưởng Huỳnh
Vĩnh Lại:
Hồi mới đáo nhậm
Trường SNQD, Chuẩn úy Nguyễn Cường Nam được Đặc Ân (hay bị Đì không biết) của
Thiếu Tá Nguyễn Thọ Đan, ngoài giờ đứng lớp, trông coi bàn ghế cho học viên của
cả 4 cơ sở: Trần Hưng Đạo, Nguyễn văn Tráng, Phan Thanh Giản và Đồng Khánh. Cái
nào sứt tay gãy gọng thì làm báo cáo cho Đại úy Gẫm sửa. Chuẩn úy Nam nhờ vậy
mà ghi được chuyện này. Hôm nay hơn 57
năm sau mới Bật Mí ra.
Vào một buổi lể mừng
Sinh Nhật Trường SNQD tổ chức tại chi nhánh Đồng Khánh, Trung Tá Huỳnh Vĩnh Lại
có mời Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (hình như anh ruột của Đại
Úy Giảng viên Phan Trọng Vĩnh thì phải) và một số quan khách. Chuẩn úy Nam được
lệnh sắp xếp bàn ghế. Hàng chủ toạ, vì số khách mời, Chuẩn úy Nam đặc biệt sắp
5 ghế. Gần tới giờ, Trung tá CHT vào kiểm tra.
- ĐM thằng nào xếp
ghế thế này đây?
- Dạ tôi, Trung
Tá.
- ĐM mày chửi tụi
tao là Quỷ hay sao mà sắp 5 ghế. Năm thằng ngồi là Ngũ Quỷ hiểu chưa.
- Dạ, tôi xin thêm
1 ghế nữa.
- ĐM mày chửi tụi
tao là Trâu Bò hả. Sáu thằng ngồi là Lục Súc. Mày phải sắp 7 ghế cho thành Thất
Hiền hoặc 8 ghế để là Bát Tiên, hiểu chưa Sữa (TT Lại gọi tôi là Chuẩn úy Sữa
vì mới ra trường có 6 tháng thôi mà).
Buổi lễ diễn ra tốt
đẹp và cuối cùng là màn vũ khoả thân của vũ nữ Tuyết Nhung. Khi cô xuất hiện
trên sân khấu, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Khi cô vất áo choàng xuống sàn,
hàng tràng pháo tay khen thưởng. Mảnh vải che phiá trên được trút bỏ ra, hàng
tràng pháo tay khen thưởng.
Mảnh vải cuối cùng
trên mình cô được lột ra. Cả hội trường chỉ còn nghe lẹt đẹt vài tiếng vỗ tay của
mấy vị khách. Trung Tá CHT thất sắc gọi Trưởng chi nhánh Đồng Khánh lại hỏi:
- ĐM bộ không hay
hay sao mà chẳng thằng nào vỗ tay hết vậy?
- Trình Trung tá,
Đại úy Trạch nói, một tay làm sao vỗ nên kêu. Thằng nào cũng một tay đút túi quần
hết”.
Nam kết luận câu chuyện trên với một câu khá
dí dỏm: “Ai không tin thì đi hỏi ông LẠI
coi tui kể có đúng không”. Mà CHT Lại nay đã quá cố thì làm sao “xác minh”
cho được. Tuy tôi đã nhiều lần nghe Trung tá Lại chửi thề những khi ông bực tức
nhưng câu chuyện của Nam đã để ông xổ ra một lô “những giấy bạc lớn” có lẽ
nên được coi là một chuyện tiếu lâm thuần túy, “off the record”.
Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại và anh Nguyễn Văn Sở, trưởng
khoa Anh ngữ
Ngoài các vị Chỉ huy trưởng có những cá tính khác người, trường SNQĐ
cũng còn có những sĩ quan làm cho anh em giảng viên được “nở mày nở mặt”, cả về
trình độ chuyên môn cũng như cách xử thế. Có những tên tuổi mỗi khi nhắc
mọi người đều kính trọng, cả về cấp bậc lẫn kiến thức, như các anh Tô Cao Hoan,
Nguyễn Văn Sở, Nguyễn Hữu Phú, Đinh Trọng Đại, Mai Vị Sĩ, Đặng Trần Hải… Danh
sách còn dài và việc chọn lựa cũng chỉ là ý kiến cá nhân của người viết.
Anh Tô Cao Hoan (người thứ 2 từ trái qua)
trong một lần hội ngộ năm 2006 tại Sài Gòn
Trên Forum của trường SNQĐ, anh Nguyễn Văn Nghiên, giữ nhiệm vụ “Mõ Làng”
kiêm “Sĩ Quan Trực” của trường ngày nay, có nhắc đến một vị niên trưởng một thời
đã từng giữ chức vụ Chỉ huy phó, Thiếu tá Bùi Công Minh. Chuyện niên trưởng
“Ba” Minh “hiền như Bụt” nay đã ngoại bát tuần thì anh em ai cũng biết nhưng việc
anh Ba xuất bản tại Hoa Kỳ cuốn sách về lịch sử Chiến tranh Việt Nam, A Distant Cause – A History and the
Vindication of the Viet Nam War (*), chắc
nhiều người chưa biết.
Ngoài việc viết sách, niên trưởng Minh còn soạn nhạc, một trong những bản
nhạc của anh, bài Đừng vội, đã được
giới yêu nhạc chú ý. Một người “tài” và “đức” vẹn toàn như anh “Ba” Minh qủa là
hiếm, không những trong nội bộ trường SNQĐ mà còn trong hàng ngũ quân lực VNCH.
Bìa sách của niên trưởng Bùi Công Minh
Quân số trường SNQĐ vào thời “Việt Nam hóa” chiến tranh có lúc vượt quá
200 người và có lẽ trong quân lực VNCH đây là đơn vị có số sĩ quan vượt trội so
với hạ sĩ quan và binh sĩ. Trường Bộ binh Thủ Đức là nguồn cung cấp giảng viên
chủ lực nhưng sau này vì nhu cầu của cuộc chiến, trường còn tuyển thêm các sĩ
quan trong quân đội có khả năng Anh ngữ về trường để giảng dậy nhiều đợt quân
nhân trước khi lên đường sang Hoa Kỳ để học về chuyên môn.
Ban đầu, trường còn có Khoa Việt Ngữ để dạy tiếng Việt cho các quân nhân
đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Về sau, vì nhu cầu học tiếng Việt không còn,
các giảng viên Việt Ngữ được nhà trường tạo điều kiện du học Hoa Kỳ tiếp tục phục
vụ tại trường trong vai trò giảng viên tiếng Anh.
Có người nói, giảng viên về trường từ Thủ Đức là “con đẻ” và những người
về từ các nguồn khác chịu phận “con nuôi”. Tôi không đồng ý với lý lẽ đó vì
trong suốt 7 năm phục vụ tại trường tôi không hề thấy trường hợp “kỳ thị” nào.
Trong một môi trường văn hóa như tại trường SNQĐ, trình độ chuyên môn là thước đo chính xác nhất để
được bạn bè và đồng nghiệp tôn trọng, kính mến.
Sự tôn trọng và kính mến đó, cho đến ngày nay dù trong tình trạng “tan
đàn xẻ nghé”, vẫn còn hiện hữu trong mối liên lạc đời thường giữa các giảng
viên. Đó là nguồn khích lệ đối với những người đã một thời tuy khoác áo lính nhưng
cầm phấn trắng thay vì súng đạn.
Thay lời kết:
Sau bài viết Hồi ức về Trường Sinh
ngữ Quân đội được post trước bài này tại:
Tác giả nhận được một số comments, trong đó có hai lời bình luận đáng
chú ý.
1. Trường hợp thứ
nhất là comment của Đoàn Hồng Nguyên, con trai của anh Đoàn Trọng Thu (khóa
5/68, về trường SNQĐ cùng với Nguyễn Bình Quyền, có biệt danh là Quyền “Lucky
Luck”)
“Cháu chào bác
Chính,
Cháu đọc Hồi ức một
đời người của Bác. Chương Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn đặc biệt
gây cho cháu ấn tượng... cháu ấn tượng vì Bố cháu cũng từng là Giảng viên trường
này.
Bố cháu tên Đoàn
Trọng Thu. Vào Thủ Đức khoảng 68-69. Về Trường SNQĐ khoảng năm 69. Đến năm
1971, thay vì đi Mỹ, bố cháu xin về dạy học, vì Bố cháu gốc giáo chức.
Cháu mạo muội ghi
mấy dòng này gửi Bác, mong Bác giúp cháu, nếu Bác có thông tin, để cháu tìm
thêm thông tin về một quãng thời gian trong cuộc đời Bố cháu. Bố cháu mất đột
ngột năm 2007, nên cháu không kịp lưu giữ các thông tin cần thiết.
Đoàn Hồng Nguyên”
2. Trường
hợp thứ hai là comment của Nguyễn Huy Thông, con trai của giảng viên Nguyễn Văn
Bé, hồi đó anh em thuờng gọi đùa là “Bé Tây Lai”.
“Con chào bác
Chính,
Thật may là bác
cũng biết ba con. Năm 1974, ba con bị chuyển ra Phù Cát, Quy Nhơn và đến tháng
04/1975 thì mất liên lạc với gia đình.. Con cũng đã liên lạc được với bác Bùi
Trọng Kính để xem có biết thêm gì không. Thật tiếc là bác Kính sau khi trao đổi
với bác Hỷ cũng không rõ thêm được là bao. Sau này, con cũng đã liên hệ với bác
Tiep ở Hoa Kỳ, nhưng có lẽ là sau khi ba con chuyển đi Phù Cát thì các đồng
nghiệp ở đơn vị cũ cũng bặt tin luôn. Đến lúc này, gia đình kết luận có lẽ ba
con đã mất trong lúc miền Trung thất thủ hoặc trong trại tù của Cộng sản.
Nguyễn Huy Thông”
Nếu anh em cựu
SNQĐ có thông tin gì về hai trường hợp trên, xin liên hệ với tác giả để chuyển
tiếp cho 2 cháu.
***
Chú thích:
(*) A Distant Cause – A History
and the Vindication of the Viet Nam War, Bui Cong Minh
Xlibris Corporation
1-888-795-4274
www.Xlibris.com
Orders@Xlibris.com
Price: $15.00
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/06/buon-vui-duoi-mai-truong-sinh-ngu-quan.htmlSinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Buồn vui dưới mái trường Sinh ngữ Quân đội
Tôi chào đời ngày 19/6/1946, và một trường hợp tình cờ ngẫu nhiên, sau này ngày 19/6 được chọn là Ngày Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Thêm một sự trùng hợp hi hữu nữa, 10 năm kém một ngày sau, ngày 18/6/1956
Như vậy là khi thành lập Trường
Anh Ngữ Bộ Tổng Tham Mưu, tiền thân của trường SNQĐ sau này, tôi mới chỉ là
một cậu bé 10 tuổi. Không ngờ, chú bé đó sau này khi trưởng thành cũng là một
thành viên của trường và gắn bó tuổi thanh niên của mình trong nàu áo lính dưới
mái trường quân đội.
Huy hiệu trường SNQĐ
Năm 1955, Quân đội Quốc gia Việt Nam được Tổng thống Ngô Đình Diệm cải tổ
thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa sau khi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại. Trong
chiều hướng cải tổ đó, quân đội chuyển từ khối Liên hiệp Pháp sang mô hình của
Hoa Kỳ nên rất nhiều sĩ quan cần được gửi đi tu nghiệp tại Mỹ. Đó cũng là lý do
hình thành trường SNQĐ.
Trụ sở chính của trường SNQĐ trong Bộ Tổng tham mưu
Năm 2000, viết về những ngày đầu thành lập trường SNQĐ, niên trưởng Nguyễn
Hữu Khoát, hiện ở Montreal, Canada, và cũng là vị chỉ huy trưởng đầu tiên của
trường, cho biết:
“Vào trung tuần
tháng 6/1956 tôi được Bộ Tổng tham mưu chỉ định thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM
và tổ chức lớp Anh ngữ đầu tiên tại Bộ TTM cho các quân nhân Quân đội VNCH chuẩn
bị đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ… nên đã được thuyên chuyển về đơn vị quản trị địa
phương số 1, ngày 3-7-1956, công tác kể từ ngày 18 tháng 6 năm 1956”.
Đó là lý do ngày 18/6/1956 mặc nhiên trở thành ngày thành lập Trường Anh ngữ Bộ TTM, sau này lại đổi
thành Trường Anh ngữ Quân sự, rồi Trường Anh ngữ Quân đội (Armed Forces
English Language School) và cuối cùng là Trường
Sinh ngữ Quân đội (Armed Forces Languages School).
Niên trưởng Nguyễn Hữu Khoát, khi đó là Đại úy Chỉ huy trưởng, kể lại những
ngày đầu của trường trong Bộ Tổng tham mưu:
“Trụ sở của trường
là hai căn nhà lợp fibro ciment, một căn dành làm văn phòng, lớp học, phòng ghi
âm (lab) và một căn dành cho các khóa sinh nội trú. Tổng số nhân viên kể cả giảng
viên, hành chánh và tạp dịch không quá 10 người nên trường đã gặp rất nhiều khó
khăn trở ngại trong những buổi đầu vì thiếu phương tiện và kinh nghiệm… Tuy
nhiên, tất cả mọi người đều cố gắng vượt qua mọi trở ngại, và lớp Anh ngữ đầu
tiên (Khóa 1 của Trường Anh ngữ Quân đội) đã được khai giảng đúng thời hạn ấn định
của Bộ TTM vào thượng tuần tháng 8/1956”.
Trong giai đoạn đầu, thời gian học tập của khóa sinh được dự trù là 4 tuần,
chương trình giảng huấn chú trọng vào việc nói và hiểu tiếng Anh. Ngoài việc học
về ngữ vựng, văn phạm, các khoá sinh còn được thực tập trên máy ghi âm, nghe và
nói theo các giảng viên người Mỹ được ghi âm tại Viện Ngữ học Quốc phòng (Defense
Language Institute – DLI) Hoa Kỳ. Đây cũng là nơi hỗ trợ đắc lực về chuyên môn
trong việc đào tạo giảng viên người Việt dạy tiếng Anh như là một ngôn ngữ thứ
hai.
Huy hiệu DLI (Viện Ngữ học Quốc phòng Hoa Kỳ)
Theo hệ thống quân giai, trường ANQÐ trực thuộc Bộ TTM/Phòng Quân huấn, nhưng
về mặt chuyên môn lại trực thuộc Trường Ðại học Quân sự. Từ đầu năm 1957, trường
mở thêm lớp Anh ngữ dành cho sĩ quan cao cấp chuẩn bị đi tu nghiệp tại trường
Chỉ huy và Tham mưu Fort Leavenworth. Nhiều vị tướng lãnh trong quân đội đã
theo học qua các lớp này như các Tướng Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện
Khiêm, Cao Văn Viên, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Ngọc
Tâm, Thái Quang Hoàng, Vĩnh Lộc, Mai Hữu Xuân, Hoàng Xuân Lãm, Lữ Lan, Nguyễn
Vĩnh Nghi, Nguyễn Ngọc Lễ, Dương Ngọc Lắm….
Một trong những giảng viên kỳ cựu của trường, anh Nguyễn Hải Bình, hiện
sống tại Canada, hồi tưởng lại ngày về trường: “Tôi về trường Anh ngữ Quân đội đầu năm 1957, tròn 22 tuổi với hàm
trung úy “lấp lánh ánh vàng lon trên vai”. Phải, “lon trên vai” vì khi tôi rời
chức vụ thông dịch viên sau gần hai năm tại quân trường bộ binh Fort Benning
thì còn mới đeo cặp lon “hai con đỉa” của thời Liên hiệp Pháp. Về đến Sàigòn
đáo nhậm trường mới đổi lấy hai bông mai vàng trên “ve” áo”.
… Nhân số trường
lúc đó vẻn vẹn chỉ có đại ca Phạm Hữu Khoát mang ba bông mai làm xếp, ông cố vấn
dân sự Brownstein hách xì xằng, trung úy đồng hóa Hà văn Anh dáng điệu play boy
rất tếu và coi kỷ luật nhà binh như pha. Cộng thêm vài sỹ quan giảng viên khác,
trường thật lèo tèo nên chi bấy giờ ông Khoát mừng lắm khi gần chục thằng chúng
tôi trình diện, cái chức “Chỉ huy trưởng” của ông rõ là có phần nặng ký hơn.
Người chiều chúng tôi lắm, lũ này trẻ măng, đi Mỹ về lại nói ''ăng lê'' như Tây,
cộng với Hà văn Anh nên mọi người có vây cánh không ớn lão Brownstein “hù” văn
phạm nữa. Thật ra đại ca Khoát chiều chúng tôi cũng vì bản tính tốt, xuề xòa và
chịu chơi.
Giữa hai tiếng kẻng
10 phút giải lao, phòng giảng viên 15 đứa lúc nào cũng ồn ào đấu láo, kể chuyện
Gò Vấp ngay bên kia cổng hậu TTM, chuyện mặc “áo mưa”, chuyện vua Bảo Đại của
Nguyễn Phước Bảo Đề… Ào ào như vậy nhưng vào lớp thì chúng tôi được nể lắm. Thoạt
đầu các khóa sinh là từ ba binh chủng [Hải, Lục, Không quân – chú thích của NNC] bao gồm sỹ quan và hạ sỹ quan, những quân
nhân được gởi đi thụ huấn tại Hoa Kỳ lần đầu”.
Đám giảng viên thời đó được các khóa sinh nổi tiếng như “ông tu bíp” Từ
Uyên hay cố Trung sỹ Không quân “Dê húc càn” Dương Hùng Cường… coi trọng, có lẽ
vì… “nhất tự vi sư, bán tự vi tiên sư”!
Vào những năm 1958-1959, anh Nguyễn Hải Bình và vài đồng nghiệp khác được giao
phụ trách mấy lớp giành riêng cho các vị tướng lãnh sẽ đi tu nghiệp tham mưu
chiến lược tại Hoa Kỳ.
Theo lời anh Bình, “Trong năm vị
tướng lãnh cầm đầu đảo chánh 1963 thì hồi đó đã có bốn vị tôi được vinh dự phục
vụ tại mấy lớp cấp tốc này. Gay lắm, hồi hộp, lo lắng chỉ sợ có gì sai lầm, vi
phạm quân kỷ nên mấy thằng chúng tôi sáng sáng nhìn nhau kiểm soát lại quần áo,
giầy nón, biển tên đến đầu tóc mặt mày. Tới giờ, trước cửa lớp nín hơi bước vào,
cứng như khúc gỗ, rồi giơ tay chào kính miệng hô “Good morning, Sir!” trước khi
bắt đầu “Please, repeat after me”!
Được cái, Chỉ huy trưởng Nguyễn Hữu Khoát rất “chịu chơi”, cho phép giảng
viên “nhẩy dù” đi học thêm ngoài giờ giảng dậy và ứng trực. Nhờ vậy, một số giảng
viên lấy thêm bằng cấp ngoài đời dân sự như cử nhân luật hoặc thêm các chứng chỉ
bên văn khoa…
Niên trưởng Phạm Hữu Khoát
Chỉ huy trưởng đầu tiên của Trường SNQĐ
Có nhiều dư luận về việc thay đổi chức vụ Chỉ huy trưởng trường SNQĐ. Theo
anh Bình, có ai đó đã báo cáo rằng niên trưởng Nguyễn Huy Khoát đã để giảng
viên quá tự do trong việc đi học, đi chơi, lại còn biết giảng viên “trùm mền”
đánh xì dách những đêm cấm trại mà lại làm ngơ ..
Thế cho nên, tháng 5/1959 chức vụ Chỉ huy trưởng được bàn giao sang Thiếu
Tá Phan Thông Tràng. Khác hẳn với Chỉ huy trưởng đầu tiên, Thiếu tá Phan Thông
Tràng là một sĩ quan theo đúng tác phong nhà binh: quân phục chỉnh tề, giày
đánh bóng đến độ có thể soi gương.
Ông là tuýp quân nhân gương mẫu, nhiều giảng viên dưới thời ông thậm chí
còn bình luận… “trên cả gương mẫu” hoặc nặng hơn với hai chữ “bệnh hoạn” như
anh Ngô Trí Thịnh đã nhận xét! “Bệnh hoạn” cũng có thể vì ông quá vệ sinh. Mỗi
lần bắt tay ai là thế nào ông cũng rửa tay bằng alcohol, chai cồn luôn ở trong
ngăn kéo bàn làm việc của ông!
Anh Văn Hùng Đốc kể lại lần hội ngộ anh Tôn Thất Đồng Nai tại San Jose
cách nay khoảng 15 năm, anh Đồng Nai đã phải thốt lên: “Gặp Văn Hùng Đốc là moa nhớ đến ông Tràng. Chỉ vì đầu tóc chưa kịp hớt
mà ông ta đày moa ra Nha Trang!”.
Dưới thời Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng, chi nhánh trường SNQĐ tại
Trung tâm Huấn luyện Hải quân Nha Trang được coi là “Côn Đảo” dành cho các giảng
viên mà ông không ưa. Nhưng đối với anh Văn Hùng Đốc, quê quán vốn ở Nha Trang,
nên chỉ vài tháng sau về trường anh đã xin ra Nha Trang và được chấp thuận ngay.
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng (góc phải)
tái ngộ các giảng viên trẻ Phạm Gia Đoàn & Nguyễn
Ngọc Chính
nhân chuyến về thăm Việt Nam của anh Văn Hùng Đốc
(góc trái)
Anh Đốc tâm sự: “13 anh em chúng
tôi thuộc khóa 24 Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức về trường vào giữa năm 1967. Chỉ vài
tháng sau đó tôi được ra Chi nhánh Nha Trang. Đại úy Vũ Đức Giang làm Trưởng
chi nhánh. Sau khi Đại úy Giang về trường thì Trung Úy Trịnh Khoa Nghi (đã mất
cách nay 3 năm) thay thế. Lần lượt các Trưởng chi nhánh có các sĩ quan Nguyễn
Long Giáp, Nguyễn Văn Minh, Văn Hùng Đốc (tạm thay anh Minh đi Lackland)”.
Chi nhánh Nha Trang được anh Đốc mô tả là “một Quốc Gia trong một Quốc Gia” vì sĩ quan giảng viên của trường
thuộc Bộ binh, không mặc đồng phục trắng và không trực thuộc Khối Văn hoá vụ
(Khối Quân huấn) và Bô Tư Lệnh Hải Quân. Do đó, nẩy sinh vài chuyện không được
hòa thuận trong sinh hoạt chung.
Anh Nguyễn Long Giáp kể lại: “Việc
lủng củng bắt đầu khi TTHLHQ Nha Trang ra Sự vụ lệnh cho giảng viên Tô Cao Hoan
(lúc đó là Thiếu Úy) đi công tác tại TTHLHQ Cam Ranh. Với tư cách Trưởng chi nhánh,
tôi đã phản đối, trả lại SVL đồng thời cho TTHLHQ biết là giới chức có thể điều
động giảng viên rời khỏi nhiệm sở là trường SNQĐ chứ không phải TTHLHQ. Kể từ
đó tình hình gây cấn giữa hai phía ngày càng căng thẳng”.
Theo anh Giáp, tình trạng “cơm không lành, canh không ngọt” biến thành
thành thuốc đắng khi TTHLHQ gây qũy xây tượng Thánh tổ Hải quân và mang sổ lạc
quyên trao cho Trưởng chi nhánh, “Tôi đổ
quạu nên phát ngôn hơi bừa bãi: “Thực phẩm phụ trội, mấy anh chia chác với
nhau, nay quyên tiền lại bảo tụi tôi đóng góp! Còn lâu. Đức thánh Trần là thánh
tổ của mấy anh chứ đâu phải thánh tổ của bọn tôi! Sorry”.
Sau này, tôi cũng có thời gian dạy tại Chi nhánh trường SNQĐ tại Khách sạn
Lục Quốc (Mondial) trên đường Phan Thanh Giản, Sài Gòn, nơi đây chuyên huấn luyện
Anh ngữ cho Hải quân. Bầu không khí tại đây khác hẳn với ngoài Nha Trang vì lý
do chi nhánh hoàn toàn do trường điều hành, không như ngoài Nha Trang, giảng
viên biệt phái ra dạy.
Không phải những hồi ức về Thiếu tá Phan Thông Tràng chỉ toàn những mảng
tối. Đối với anh Vũ Anh Tuấn “cổ thư” lúc nào anh cũng “đặc biệt tri ân” Thiếu
tá Tràng vì ông nhận anh về làm giảng viên cho dù anh tốt nghiệp Khóa 16 Thủ Đức
nhưng chỉ được đeo lon Trung sĩ.
Trong khi 14 người cùng khóa về trường với cặp lon Chuẩn úy, anh Tuấn phải
đeo “cánh gà” vì bị kỷ luật nhưng Chỉ huy trưởng vẫn nhận dù Ban huấn luyện phản
đối với lý do trường chưa từng có hạ sĩ quan nào làm giảng viên. Theo lời anh
Tuấn kể lại, ông Tràng nói “cứ nhận, nếu
sau này hắn “ba gai” thật thì đuổi đi vẫn chưa muộn!”.
Đoạn kết câu chuyện của anh Vũ Anh Tuấn trở thành một “happy ending”
theo như lời anh kể: “Một cơ may đã xảy đến
với tôi khi các lớp Thông dịch viên đồng hóa ào ào đến với trường. Thế là tôi
được cho đi dậy, vì “cánh gà bất đắc dĩ” dậy “cánh gà đồng hóa” thì được quá đi
chứ còn gì!”
Chỉ huy trưởng Phan Thông Tràng đến dự tiệc hội ngộ
cựu giảng viên
trong vòng tay của hai anh Văn Hùng Đốc (trái) và
Nguyễn Văn Xuân (phải)
Sáu anh em chúng tôi thuộc khóa 4/68 Thủ Đức, về trường đầu năm 1969,
khi đó chức vụ Chỉ huy trưởng đã bàn giao từ niên trưởng Phan Thông Tràng sang
Thiếu tá Huỳnh Vĩnh Lại. Cả hai vị Chỉ huy trưởng nay đã qua đời vì tuổi tác.
Xin thắp một nén hương lòng để tưởng niệm hai người anh cả đã cống hiến một phần
cuộc đời mình cho lịch sử của trường SNQĐ.
Vào thời điểm 1975, niên trưởng Huỳnh Vĩnh Lại đã được thăng chức Trung
tá và đang ở Hoa Kỳ học khóa Tham mưu Cao cấp. Thế cho nên, Trung tá Lại là một
trường hợp hi hữu của một người Việt “tỵ nạn tại chỗ” chứ không cần vượt đại
dương. Bây giờ, ngồi nhớ lại, tôi thấy mình đã không lầm khi hồi xưa nhìn tướng
người phương phi của ông tôi đã thầm đoán “số người này thuộc loại đẻ bọc điều”!
Tôi còn nhớ mãi một kỷ niệm “đau thương” với Chỉ huy trưởng Huỳnh Vĩnh Lại.
Tôi không hề oán trách ông vì đó là… “lỗi tại tôi mọi đàng”. Hồi đó mới về trường
nên chưa được đứng lớp, tôi được giao trách nhiệm phụ trách sinh viên sĩ quan khóa
sinh Không quân tại cơ sở ở số 4 đường Nguyễn Văn Tráng mà sau này có thời gian
là Đại học Minh Đức.
Công việc quá nhàn nhã, chỉ quản lý khóa sinh và cắt đặt công tác vệ
sinh tầng lầu… Nhưng cũng chính vì “nhàn cư vi bất thiện” nên tôi bị Chỉ huy
trưởng phạt 4 ngày trọng cấm, có xe jeep đưa vào tận quân lao trong Tổng tham
mưu! Lý do: tầng lầu mà đại đội tôi phụ trách “bốc mùi” khi có phái đoàn đến
thăm trường cộng thêm tội bỏ đi xiné trong giờ làm việc.
Tôi còn nhớ đó là phim Lady
Hamilton chiếu tại rạp Vĩnh Lợi rất gần trường. Sau này nghiệm ra có một sự
trùng hợp đến bất ngờ: nhảy dù đi xem phim tại rạp Vĩnh Lợi và bị Chỉ huy trưởng
Vĩnh Lại quất cho 4 “củ”. Đối với tôi, hai từ ngữ “Lợi” hay “Lại” chỉ mang lại
điều bất lợi: 4 ngày tù trọng cấm!
Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại (trái) và Thiếu tá Ngô Phát Tài (Liên đoàn Khóa sinh)
trong một dịp hội ngộ của trường SNQĐ tại Hoa Kỳ
Điểm đặc biệt của 6 Chuẩn úy mới tốt nghiệp khóa 4/68 chúng tôi là có đến
2 người Việt gốc Hoa: Lương Tô (gốc Chợ Lớn) và Trương Bác Chí (người Hoa gốc Bắc
“di cư”). Số mạng của hai người cũng thuộc loại “đặc biệt”. TB Chí tự ý ở lại
Hoa Kỳ sau khi học xong khóa đào tạo giảng viên tại DLI năm 1971, anh được coi
là một trong những người “vượt biên” sớm
nhất!.
Người thứ hai, Lương Tô, chết trong trại cải tạo Kà Tum. Theo anh Nguyễn
Kim Trọng hiện ở Hoa Kỳ: “… Anh Tô ở đội
khác đội của tôi. Nghe nói trong thời gian cải tạo anh Tô tập luyện một loại
hít thở cổ truyền của người Trung Hoa (an ancient Chinese breathing technique)
có tên gọi đặc biệt mà tôi không nhớ tên. Anh Tô chết vì bị “tẩu hỏa nhập ma”
trong lúc tập, bị bệnh sau đó và chết chứ không phải chết vì bị “bội thực” như
một số anh em đồn đãi”.
Một lần nữa phải tin vào sự trớ trêu của định mạng, những người hiền
lành như Lương Tô sao lại vắn số? Phải chăng, hiểu theo Phật giáo, đó là hậu quả
của kiếp trước, nhân quả trùng trùng theo vòng quay của bánh xe luân hồi?
Không riêng gì Khóa 4/68 có tới 2 trong 6 tân Chuẩn úy là người Việt gốc Hoa,
trước đó, trường SNQĐ cũng đã có những sĩ quan như các anh Phăng Gi On, Lưu Út,
Lý Tô Hán… Tôi còn nhớ, ngay trong buổi đầu tiên trình diện CHT, ông Lại đã “nửa
đùa nửa thật” hỏi các tân giảng viên: “Các
anh về trường tốn hết bao nhiêu?”.
Tôi và 3 người bạn cùng khóa hiện còn sống đến ngày nay xin khẳng định hoàn toàn không
có chuyện “lo lót” vì khi thi tuyển về trường chúng tôi phải làm test ECL
(English Comprehension Level) của DLI Hoa Kỳ. ECL là một cuốn băng bao gồm 100
câu hỏi để trắc nghiệm trình độ Anh ngữ của thí sinh về văn phạm, ngữ vựng, đàm
thoại…
Thí sinh phải nghe băng và đánh dấu câu trả lời “a, b, c,
d” trên booklet đi kèm. Điểm tối đa là 100/100 và tiêu chuẩn để được chấm đậu
làm giảng viên phải từ 80 điểm trở lên. Phần bài thi của tôi, do hai anh Đinh
Trọng Đại và Nguyễn Hữu Phú thuộc ban Khảo thí xác định, được 89/100. Các khóa về trường sau
này còn gặp khó khăn hơn vì phải thêm phần phỏng vấn của ban Khảo thí.
Khóa tôi về trường có Hồ Hới gốc “tu xuất” nhưng “quậy” không ai bằng.
Người ta hay nói “nhất quỷ, nhì ma, thứ
ba học trò” và một số người sửa lại là “nhất
quỷ, nhì ma, thứ ba… thầy xuất”. Cái nghịch của Hồ Hới không làm hại một ai
nhưng đôi khi cũng làm các giảng viên khóa đàn anh phải nhíu mày, khó chịu. Có
điều ít ai ngờ, Hồ Hới ngày nay là một “ông già”, tính tình điềm đạm khác hẳn
ngày xưa. “Sông có khúc, người có lúc”
là vậy!
Hồ Hới (người đeo kính đứng cạnh người thắt
cravate)
trong một lần hội ngộ với anh em tại Việt Nam
Nguyễn Công Sang “đẹp trai” nhất trong đám sĩ quan Khóa 4/68 về trường.
Sang gốc người Long Xuyên nhưng lại mang phong thái của “Công tử xứ Bạc Liêu” từ
cách ăn nói cho đến lối hành sử. Sang là roomate của tôi khi chúng tôi đi học tại
DLI (Lackland) năm 1971 và anh cũng là người có “sense of humor”. Tôi còn nhớ
mãi những câu pha trò của Sang: “Goodbye
lấy cái chai đựng rượu”, “Thank you lấy cái siêu sắc thuốc”…
Nguyễn Công Sang rời Việt Nam từ đầu năm 1980, trong một email từ
Canada, Sang viết: “Tôi vẫn nhớ những kỷ-niệm
mình ở Lackland. Cái cassette với tiếng đàn guitar Chính đệm cho tôi hát bài
"Oui devant Dieu" để tặng vợ tôi nhân kỷ-niệm 2 năm ngày cưới của
chúng tôi vào tháng 11-1971, tôi vẫn còn giữ đây. Mỗi lần nghe là tôi nhớ đến
người bạn hiền-lành dễ-thương năm nào”.
Nguyễn Công Sang (trái) hội ngộ Nguyễn Lương Năng tại
Melbourne
Nhân vật cuối cùng của Khóa 4/68 là
người được nhắc đến nhiều nhất, cả
trong thời gian trường còn hoạt động lẫn giai đoạn sau năm 1975. Hiện
đang ở Mỹ, Nguyễn Cường Nam là người có thể lái xe hàng trăm dặm để đưa
các bạn cũ đi chơi thăm thú
anh em lâu ngày không gặp. Có một dạo Nam còn giữ “tay hòm chìa khóa”
cho quỹ
tương trợ, giúp đỡ anh em gặp khó khăn bên nhà.
Hồi còn ở trường, Nguyễn Cường Nam vóc người nhỏ bé thế mà ngoài việc đứng
lớp còn được kiêm nhiệm nhiều chức vụ “linh tinh” như lo hàng quân tiếp vụ cho
trường nên mới chết tên “Nam Gạo”. Nam còn “chịu trách nhiệm” về bàn ghế của cả
4 cơ sở Trần Hưng Đạo (Bộ Tổng tham mưu), Phan Thanh Giản (Hải quân), Nguyễn
Văn Tráng (Lục quân và Không quân), Đồng Khánh (Không quân).
Theo một câu chuyện thuộc loại “tiếu lâm” về những kỷ niệm dưới mái trường
SNQĐ, Nam “Gạo” viết về chuyện của mình có liên quan đến Chỉ huy trưởng Huỳnh
Vĩnh Lại:
Hồi mới đáo nhậm
Trường SNQD, Chuẩn úy Nguyễn Cường Nam được Đặc Ân (hay bị Đì không biết) của
Thiếu Tá Nguyễn Thọ Đan, ngoài giờ đứng lớp, trông coi bàn ghế cho học viên của
cả 4 cơ sở: Trần Hưng Đạo, Nguyễn văn Tráng, Phan Thanh Giản và Đồng Khánh. Cái
nào sứt tay gãy gọng thì làm báo cáo cho Đại úy Gẫm sửa. Chuẩn úy Nam nhờ vậy
mà ghi được chuyện này. Hôm nay hơn 57
năm sau mới Bật Mí ra.
Vào một buổi lể mừng
Sinh Nhật Trường SNQD tổ chức tại chi nhánh Đồng Khánh, Trung Tá Huỳnh Vĩnh Lại
có mời Trung tướng Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn (hình như anh ruột của Đại
Úy Giảng viên Phan Trọng Vĩnh thì phải) và một số quan khách. Chuẩn úy Nam được
lệnh sắp xếp bàn ghế. Hàng chủ toạ, vì số khách mời, Chuẩn úy Nam đặc biệt sắp
5 ghế. Gần tới giờ, Trung tá CHT vào kiểm tra.
- ĐM thằng nào xếp
ghế thế này đây?
- Dạ tôi, Trung
Tá.
- ĐM mày chửi tụi
tao là Quỷ hay sao mà sắp 5 ghế. Năm thằng ngồi là Ngũ Quỷ hiểu chưa.
- Dạ, tôi xin thêm
1 ghế nữa.
- ĐM mày chửi tụi
tao là Trâu Bò hả. Sáu thằng ngồi là Lục Súc. Mày phải sắp 7 ghế cho thành Thất
Hiền hoặc 8 ghế để là Bát Tiên, hiểu chưa Sữa (TT Lại gọi tôi là Chuẩn úy Sữa
vì mới ra trường có 6 tháng thôi mà).
Buổi lễ diễn ra tốt
đẹp và cuối cùng là màn vũ khoả thân của vũ nữ Tuyết Nhung. Khi cô xuất hiện
trên sân khấu, hàng tràng pháo tay khen thưởng. Khi cô vất áo choàng xuống sàn,
hàng tràng pháo tay khen thưởng. Mảnh vải che phiá trên được trút bỏ ra, hàng
tràng pháo tay khen thưởng.
Mảnh vải cuối cùng
trên mình cô được lột ra. Cả hội trường chỉ còn nghe lẹt đẹt vài tiếng vỗ tay của
mấy vị khách. Trung Tá CHT thất sắc gọi Trưởng chi nhánh Đồng Khánh lại hỏi:
- ĐM bộ không hay
hay sao mà chẳng thằng nào vỗ tay hết vậy?
- Trình Trung tá,
Đại úy Trạch nói, một tay làm sao vỗ nên kêu. Thằng nào cũng một tay đút túi quần
hết”.
Nam kết luận câu chuyện trên với một câu khá
dí dỏm: “Ai không tin thì đi hỏi ông LẠI
coi tui kể có đúng không”. Mà CHT Lại nay đã quá cố thì làm sao “xác minh”
cho được. Tuy tôi đã nhiều lần nghe Trung tá Lại chửi thề những khi ông bực tức
nhưng câu chuyện của Nam đã để ông xổ ra một lô “những giấy bạc lớn” có lẽ
nên được coi là một chuyện tiếu lâm thuần túy, “off the record”.
Trung tá Huỳnh Vĩnh Lại và anh Nguyễn Văn Sở, trưởng
khoa Anh ngữ
Ngoài các vị Chỉ huy trưởng có những cá tính khác người, trường SNQĐ
cũng còn có những sĩ quan làm cho anh em giảng viên được “nở mày nở mặt”, cả về
trình độ chuyên môn cũng như cách xử thế. Có những tên tuổi mỗi khi nhắc
mọi người đều kính trọng, cả về cấp bậc lẫn kiến thức, như các anh Tô Cao Hoan,
Nguyễn Văn Sở, Nguyễn Hữu Phú, Đinh Trọng Đại, Mai Vị Sĩ, Đặng Trần Hải… Danh
sách còn dài và việc chọn lựa cũng chỉ là ý kiến cá nhân của người viết.
Anh Tô Cao Hoan (người thứ 2 từ trái qua)
trong một lần hội ngộ năm 2006 tại Sài Gòn
Trên Forum của trường SNQĐ, anh Nguyễn Văn Nghiên, giữ nhiệm vụ “Mõ Làng”
kiêm “Sĩ Quan Trực” của trường ngày nay, có nhắc đến một vị niên trưởng một thời
đã từng giữ chức vụ Chỉ huy phó, Thiếu tá Bùi Công Minh. Chuyện niên trưởng
“Ba” Minh “hiền như Bụt” nay đã ngoại bát tuần thì anh em ai cũng biết nhưng việc
anh Ba xuất bản tại Hoa Kỳ cuốn sách về lịch sử Chiến tranh Việt Nam, A Distant Cause – A History and the
Vindication of the Viet Nam War (*), chắc
nhiều người chưa biết.
Ngoài việc viết sách, niên trưởng Minh còn soạn nhạc, một trong những bản
nhạc của anh, bài Đừng vội, đã được
giới yêu nhạc chú ý. Một người “tài” và “đức” vẹn toàn như anh “Ba” Minh qủa là
hiếm, không những trong nội bộ trường SNQĐ mà còn trong hàng ngũ quân lực VNCH.
Bìa sách của niên trưởng Bùi Công Minh
Quân số trường SNQĐ vào thời “Việt Nam hóa” chiến tranh có lúc vượt quá
200 người và có lẽ trong quân lực VNCH đây là đơn vị có số sĩ quan vượt trội so
với hạ sĩ quan và binh sĩ. Trường Bộ binh Thủ Đức là nguồn cung cấp giảng viên
chủ lực nhưng sau này vì nhu cầu của cuộc chiến, trường còn tuyển thêm các sĩ
quan trong quân đội có khả năng Anh ngữ về trường để giảng dậy nhiều đợt quân
nhân trước khi lên đường sang Hoa Kỳ để học về chuyên môn.
Ban đầu, trường còn có Khoa Việt Ngữ để dạy tiếng Việt cho các quân nhân
đồng minh tham chiến tại Việt Nam. Về sau, vì nhu cầu học tiếng Việt không còn,
các giảng viên Việt Ngữ được nhà trường tạo điều kiện du học Hoa Kỳ tiếp tục phục
vụ tại trường trong vai trò giảng viên tiếng Anh.
Có người nói, giảng viên về trường từ Thủ Đức là “con đẻ” và những người
về từ các nguồn khác chịu phận “con nuôi”. Tôi không đồng ý với lý lẽ đó vì
trong suốt 7 năm phục vụ tại trường tôi không hề thấy trường hợp “kỳ thị” nào.
Trong một môi trường văn hóa như tại trường SNQĐ, trình độ chuyên môn là thước đo chính xác nhất để
được bạn bè và đồng nghiệp tôn trọng, kính mến.
Sự tôn trọng và kính mến đó, cho đến ngày nay dù trong tình trạng “tan
đàn xẻ nghé”, vẫn còn hiện hữu trong mối liên lạc đời thường giữa các giảng
viên. Đó là nguồn khích lệ đối với những người đã một thời tuy khoác áo lính nhưng
cầm phấn trắng thay vì súng đạn.
Thay lời kết:
Sau bài viết Hồi ức về Trường Sinh
ngữ Quân đội được post trước bài này tại:
Tác giả nhận được một số comments, trong đó có hai lời bình luận đáng
chú ý.
1. Trường hợp thứ
nhất là comment của Đoàn Hồng Nguyên, con trai của anh Đoàn Trọng Thu (khóa
5/68, về trường SNQĐ cùng với Nguyễn Bình Quyền, có biệt danh là Quyền “Lucky
Luck”)
“Cháu chào bác
Chính,
Cháu đọc Hồi ức một
đời người của Bác. Chương Hồi ức về Trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn đặc biệt
gây cho cháu ấn tượng... cháu ấn tượng vì Bố cháu cũng từng là Giảng viên trường
này.
Bố cháu tên Đoàn
Trọng Thu. Vào Thủ Đức khoảng 68-69. Về Trường SNQĐ khoảng năm 69. Đến năm
1971, thay vì đi Mỹ, bố cháu xin về dạy học, vì Bố cháu gốc giáo chức.
Cháu mạo muội ghi
mấy dòng này gửi Bác, mong Bác giúp cháu, nếu Bác có thông tin, để cháu tìm
thêm thông tin về một quãng thời gian trong cuộc đời Bố cháu. Bố cháu mất đột
ngột năm 2007, nên cháu không kịp lưu giữ các thông tin cần thiết.
Đoàn Hồng Nguyên”
2. Trường
hợp thứ hai là comment của Nguyễn Huy Thông, con trai của giảng viên Nguyễn Văn
Bé, hồi đó anh em thuờng gọi đùa là “Bé Tây Lai”.
“Con chào bác
Chính,
Thật may là bác
cũng biết ba con. Năm 1974, ba con bị chuyển ra Phù Cát, Quy Nhơn và đến tháng
04/1975 thì mất liên lạc với gia đình.. Con cũng đã liên lạc được với bác Bùi
Trọng Kính để xem có biết thêm gì không. Thật tiếc là bác Kính sau khi trao đổi
với bác Hỷ cũng không rõ thêm được là bao. Sau này, con cũng đã liên hệ với bác
Tiep ở Hoa Kỳ, nhưng có lẽ là sau khi ba con chuyển đi Phù Cát thì các đồng
nghiệp ở đơn vị cũ cũng bặt tin luôn. Đến lúc này, gia đình kết luận có lẽ ba
con đã mất trong lúc miền Trung thất thủ hoặc trong trại tù của Cộng sản.
Nguyễn Huy Thông”
Nếu anh em cựu
SNQĐ có thông tin gì về hai trường hợp trên, xin liên hệ với tác giả để chuyển
tiếp cho 2 cháu.
***
Chú thích:
(*) A Distant Cause – A History
and the Vindication of the Viet Nam War, Bui Cong Minh
Xlibris Corporation
1-888-795-4274
www.Xlibris.com
Orders@Xlibris.com
Price: $15.00
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/06/buon-vui-duoi-mai-truong-sinh-ngu-quan.htmlSinh Tồn chuyển