Tham Khảo
Chính Đề Việt Nam (1965)
Danh từ “canh tân” rất thông dụng trong thời Nho học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như: "phát triển”, “hiện đại hoá”…. Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi vấn đề căn bản
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM:
MỘT
VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG,
MỘT
ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
GS Tôn Thất Thiện
I
Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình
trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung học, 1942-44, rồi qua
những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai học, từ năm 1947 cho đến nay,
2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạngAA bố lão, tôi không ngớt suy tư,
sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa
dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt
mọi người.
Danh từ “canh tân” rất thông dụng trong thời Nho
học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như:
"phát triển”, “hiện đại hoá”…. Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi
vấn đề căn bản của rất nhiều nước Á, Phi, Nam Mỹ châu, trong đó có Việt Nam,
là những nước ở tình trạng chậm tiến. “Chậm tiến” là dẫm chân, thua xa về đời
sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng
khoa học kỹ tAhuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại. Cho nên “canh tân”
cũng có nghĩa là “Tây phương hoá” và “hiện đại hoá”.
Tôi đã được học hỏi ở những Đại học
có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính trị,
Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát
triển; tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt
được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí
tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến
sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra
được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó. Mãi đến năm 2004 tôi
mới được cái may mắn này.
Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến,
rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam.
Trong trường hợp nào
tôi đã được cái may mắn đó, tôi đã kể lại trong Đặc
San về Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diêm năm 2004. Trong bài này tôi
sẽ nhắm vào những điểm sau đây:
1/ nói lên phản ứng
của tôi sau khi đọc hết tác phẩm này, trong tư thế là một học giả đã để nhiều
thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề, '
2/ bàn về một
số khía cạnh nhưng không phân tách, nhận xét về toàn
bộ của tác phẩm, môt điều vượt khung cảnh của bài; thay
vào đó, phần Phụ bản đăng nguyên văn chương đầu - “Bối cảnh của
vấn đề” - và chương cuối - “Kết luận: trụ mà không trụ” - để giúp các độc giả
không có đủ thì giờ , hoặc không quen với lối hành văn lập luận trừu tượng,
hoặc không có được tác phẩm trong tay, để đọc toàn bộ tác phẩm, ít nhứt có
một ý niệm khá rõ ràng về những khía cạnh của vấn đề được các tác giả bàn
đến, và tóm tắt, họ chủ trương gì?
II
Đọc xong Chính Đề Việt Nam, tôi thấy ngay tầm quan
trọng của tác phẩm và tôi đã đề xướng tái bản nó. Nhưng, lúc đó, vấn đề gặp
một số trở ngại về danh tánh của tác giả. Trong phần “Phụ Giải về tái bản Chính
Đề Việt Nam” trong Đặc San năm 2007, tôi có nói rằng ai là tác giả
của tác phẩm cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một
công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Cọng Hoà Việt Nam - I
vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có
thêm dữ kiện để suy ngẫm. May thay, nay những trở ngại đó không còn nữa và
tác phẩm đã được tái bản (dưới hình thức một tài liệu học tập nội bộ của
những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hoà, đúng như tác dụng nguyên thủy của nó).
Ở đây, tôi xin mở một dấu
ngoặc để đính chính một điểm: trong “Phụ Giải”
tôi đã nói lầm rằng Ông Lê Văn Đồng đã
là Bộ Trưởng Bộ Canh Nông năm 1957; thật ra, Ông là Đổng
Lý Văn Phòng Bộ Lao Động, mà Bộ Trưởng là Ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Hai ông này
đều thuộc nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu. Nhân tiện cũng để ghi nhận rằng
theo “Lời Trần Tình” trong tái bản, tài liệu xuất bản năm 1964 ở Việt Nam
được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988 “do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên
nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan
Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác”, và “dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm
chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này nhằm khổi động sức phấn đấu của
dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay”. Và để nói rõ và lớn lên một
điều rất đúng đã được dân chúng Miền Nam truyền miệng rộng rãi vào khoảng năm
2007: (trong khi “Xã Hội Chủ Nghĩa” đã chết nhưng chưa chôn”) thì “Việt Nam
Cộng Hòa đã chôn nhưng chưa chết”….
Đúng vậy.
Vói sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính
Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp
tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó, uy tín của
chế độ Đệ Nhứt Cọng Hoà và sự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ sẽ
được công nhận. Đối với các nhà lãnh đạo chính trị và những nhà nghiên cứu về
vấn đề chậm tiến của các quốc gia thuộc vế khối gọi là “Đệ Tam Thế Giới”, tác
phẩm này sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một
viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại. Ở đây tưởng nên nhắc
đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này. \
“Lời Trần Trình” trong tái bản của tác phẩm tiết lộ:
“Tập tài liệu bạn có trong tay là kết tụ những nghiên cứu
và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu
cùng một số phụ tá thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm
vững con đường phát triển dân tộc… “Một phần những đề tài này đã được thảo
luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà,… nhất là công
cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong
giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương
lai dân tộc bị gián đoạn từ đó…một số chiến hữu trung kiên đã cho in tập tài
liệu này, nhưng tình hình chính trị bất ổn, và chính quyền quân sự lúc đó
đang bị nhiều áp lực từ nhiều phía, vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi
là di sản của “chế độ cũ” nên bị chôn vùi và quên lãng.”
Nhưng tác phẩm Chính Đề Việt Nam đã không bị
quên lãng. Nó xuất hiện lại, và sự xuất hiện ấy là một nhắc nhở rằng Chế Độ
Việt Nam Cọng Hoà, qua thời gian, tuy đã bị chôn vùi, nhưng vẫn chưa chết.
Ngày nay nó lại tỏ ra vẫn còn sống mạnh và được hãnh diện thấy những cống
hiến lớn của nó cho xứ sở được càng ngày càng nhiều người ghi
nhận và thẳng thắn công nhận. Trong đó, sự đóng góp về cách tiếp cận và đề
xướng một giải pháp thích nghi và hữu hiệu vào vấn đề phát triển các quốc gia
chậm tiến là một biểu chứng cụ thể.
III
Sau khi đọc xong Chính Đề Việt
Nam, phản ứng đầu tiên của tôi là: “Trời! Sao mình không được biết đến
tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã
mất gần 50 năm - 1960-2007 - tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã
viết lên rồi”. Và chắc chắn đây cũng là trường hợp của rất nhiều người Việt
Nam khác. Nói chung, Việt Nam đã mất đi 50 năm quý báu. Một phần không nhỏ vì
những cuộc xáo trộn năm 1963 và những năm tiếp theo. Những tư tưởng chứa đựng
trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng thì chế độ Cọng
Hoà I bị lật đổ, với những hậu quả rất tai hại cho sự phát triển của Dân Tộc
Việt Nam.
Trong tư cách là một
học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến, tôi
không ngần ngại quả quyết rằng Chính Đề Việt Nam là tài liệu xuất sắc
nhứt mà tôi đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua. Không những nó
sẽ giúp cho những người liên hệ với vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến
thấy rõ tại sao các chương trình kế hoạch viện trợ các quốc gia này đã thất
bại, mà còn cung cấp cho họ một lối tiếp cận có nhiều triển vọng thành công
hơn. Riêng về Việt Nam, nó là tài liệu đầu tiên mà tôi được biết đến chỉ rõ
con đường dẫn Việt Nam ra khỏi tình trạng bi đát của hơn 100 năm qua. Tác
phẩm đã đặt đúng vấn đề và đã soi chiếu ánh sáng vào những yếu tố then chốt
và riêng biệt của các quốc gia chậm tiến, và phân tách tường tận những yếu tố
đó. Phần khác, tác phẩm cũng khảo xét tình trạng các quốc gia lớn đã thực
nghiệm những chương trình phát triển, như Nga, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc
những quốc gia tương tự Việt Nam, và đưa ra những nhận xét rất hữu ích cho
người Việt. Riêng về Nga, Trung Hoa, và Việt Nam những kết luận của Tùng
Phong đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay,
2009, có thể nói là tiên tri.
Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn
lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe,
đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi
học ở Trường L.S.E. (London School of Economics). Trường này được
coi là lớn hạng nhất của Liên Hiệp Anh (Commonwealth). Tuy mang tên ngắn gọn
là L.S.E., nhưng tên đúng của nó là “London School of Economics and Political
Science”. Thực ra, nó được coi là một trường chuyên về Xã Hội Học. Dù sao
Kinh Tế/Economics cũng là môn chính trong chương trình giảng dạy của nó. Do
đó nó chú tâm về môn “Economic Development” - Phát triển Kinh Tế - là một
điều tự nhiên. Sự chú tâm này phản ảnh những lo âu của các giới chính trị
kinh tế Tây phương trong những năm đầu sau Chiến Tranh Thế Giới II, phải
đương đầu với vấn đề tái thiết và lập lại ổn định , và với những đòi hỏi cải
thiện gấp rút đời sống của các quốc gia Á, Phi, Nam Mỹ. Thêm vào đó lại khởi
phát một cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Nga Sô trong một chiến tranh lạnh bao
trùm thế giới.
Hậu quả của những chuyển biến trên đây
là thế giới cần một sự phát triển kinh tế quy mô
và nhanh chóng. Lúc đó, chỉ Hoa Kỳ có khả năng
trợ giúp các quốc gia khác - đồng minh đương nhiên vì đồng
chế độ, hoặc thuộc khối “không liên kết” cần lôi kéo về phía
mình - vì Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không bi tàn phá, kinh tế phát triển
vượt bực để phục vụ nhu cầu không những của mình, mà của toàn thể khối Đồng
minh. Phần khác, Hoa Kỳ cũng cần duy trì sản xuất kinh tế để tránh những xáo
trộn do một cuộc giảm sút kinh tế lớn gây ra.
Vì những lý do nêu trên, các Đại học, các
học giả trứ danh về kinh tế học, các chuyên gia kinh tế, các giới kinh tế-tài
chánh, các giới truyền thông, chính trị gia, nhất là ở Hoa Kỳ, đổ xô vào việc
nghiên cứu, bàn luận, đề xuất lý thuyết về phát triển. Các Chính Phủ Hoa Kỳ
đưa ra những chương trình ngoại viện lớn; các kế hoạch này được Quốc Hội
thông qua dễ dàng và được dân chúng ủng hộ rộng rãi.
Có hai loại ngoại viện: 1/ viện trợ các quốc
gia đồng minh cũ, thuộc Tây Âu; 2/ các quốc gia chậm tiến, hoặc thuộc
ảnh hưởng Hoa Kỳ, hoặc “không liên kết”. Loại đầu là Chương Trình Marshall;
loại thứ hai là “Point IV”/ Điểm thứ tư, được gọi như vậy vì đó là điểm thứ
tư trong môt bài diễn văn lớn của Tổng Thống Truman năm 1947 tuyên bố quyết
tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến.
Chương trình Marshall không quan hệ gì đến các
nước chậm tiến vì nó nhằm trợ giúp các quốc gia Tây Âu
tái thiết, không thuộc về lãnh vực phát triển, nên không bàn đến
ở đây. Chương trình “Point IV”/ Điểm thứ 4, trái lại, không những
nói lên quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến phát triển, cung cấp
phương tiện dồi dào, mà vạch ra cả một lý thuyết, và các phương thức
thực hành cuộc phát triển này.
Những điều chứa đựng trong “Point IV”/ Điểm IV
của Tổng Thống Truman này là thâu tóm quan điểm của những tư tưởng gia
Hoa Kỳ về vấn đề phát triển. Theo quan niệm này, lý do chính của sự chậm tiến
của các quốc gia chậm tiến là họ thiếu vốn và “know how” (kỹ thuật).
Nếu các quốc gia này được cung cấp dồi dào - cho không, hay cho vay nhẹ
lãi - vốn, và kỹ thuật - qua các chương trình cung cấp chuyên viên, huấn
luyện người bản xứ tại chỗ hay trong các trường Đại học Hoa Kỳ - thì trong
một thời gian ngắn, họ sẽ phát triển, trở nên giàu có, không bị cọng sản
quyến dỗ nữa. Qua thực nghiệm sau mấy chục năm áp dụng, nó tỏ ra không
hiệu nghiệm, không đạt được mục đích. Vì sai lầm.
Trước hết là về thực chất của vấn đề.
Như Tùng Phong nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần,
muốn giải quyết một vấn đề, phải thấu triệt vấn đề đó. Vấn đề
Việt Nam là một vấn đề liên quan đến cộng đồng và lãnh đạo Việt Nam: “… các
biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay [1940-1960] là một ví dụ cụ
thể minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải
giải quyết đối với đa số lãnh đạo….
“Đối tượng của quyển sách nầy là tìm xem vấn đề cần
phải giải quyết của cộng-đồng Quốc-Gia Việt Nam trong thời kỳ nầy là
vấn đề gì” (CĐVN, tr.42). Và tác giả đã giải thích tường tận, chi
tiết, vấn đề sống còn của Việt Nam, trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, là
phát triển để thoát khỏi tình trạng thua kém về khoa học kỹ thuật bằng một
cuộc Tây phương hoá, “không e dè, không rụt rè, không ngần ngại” (CĐVN, tr.
76).Cuộc Tây phương hoá đó là ‘một cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, do đó, có
đường hướng và có mục đích.” Nó cũng phải là một cuộc Tây phương hoá toàn
diện… nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội, và theo đó kinh tế
và văn hoá” (CĐVN, tr 144)
Về mục đích của công cuộc Tây phương hoá, Tùng
Phong viết: “Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hoá nầy và sẽ đưa nó đến
một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới
khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hoà mới”. (CĐVN, tr. 137) Câu ngắn ngủi
này chứa đựng những ý niệm căn bản rất độc đáo của tác phẩm. Các ý niệm
này sẽ được bàn đến trong phần dưới đây: “Tây phương hoá ,“chủ động”, “mức độ
cao, “tiêu chuẩn giá trị mới”,”trạng thái điều hoà”…. Cần nhấn mạnh rằng tác
phẩm đề cập đến nhiều ý niệm độc đáo khác, nhưng không thể bàn trong bài này
vì quá nhiều.
Vấn đề cần được đặt trong bối cảnh riêng
biệt của nó. Việt Nam có ba bối cảnh:1/ tình hình chính trị thế giới,
2/các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự,
3/các Quốc-Gia thuộc về một khối văn hoá với Việt Nam : các nước láng
giềng ở Đông-Á và Đông-Nam-Á (CĐVN, tr. 43).
Cuối cùng là phương thức nghiên cứu. Về điểm
này, tính chất vô tư và khoa học của công trình nghiên cứu
cần được bảo đảm, nên tác giả Tùng Phong đã cương quyết chọn
vị trí lịch sử, vì "thực tế lịch sử không có thể phủ nhận
được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận
không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản". Tác giả cũng nhấn mạnh rằng
không bao giờ tác giả đứng vào các vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết vì
"đó là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có
thể kéo dài vô cùng tận". Bất cứ trong lãnh vực nào - chính trị, văn hoá
và kinh tế - "sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ
trên những sự kiện lịch sử và để một bên các lý thuyết... để tránh tất cả
những sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của
quyển sách" (CĐVN, tr. 45-46).
IV
Cách tiếp cận nêu trên cần thiết để bảo đảm
sự lựa chọn những giải pháp thích nghi cho việc thực hiện những mục
đích mong muốn. Những mục đích này minh định do vị trí của Việt Nam trong thế
giới ngày nay, vừa trong lãnh vực địa dư, vừa trong lãnh vực tiến hoá chung
của nhân loại. Cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam, các điểm
này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta « ít lắm là vài thế
kỷ" (CĐVN, tr. 68).
Những mục đích tùy thuộc vị trí quốc
tế hiện tại của Việt Nam do các điểm sau đây minh định: 1/ Việt
Nam là một nước nhỏ kém mở mang; 2/ Theo truyền thống văn hoá,
Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á ; 3/Việt Nam thuộc vào khối các nước Á
Châu vừa thoát khỏi ách thực dân Đế quốc ; 4/ Việt Nam phải cần Tây
phương hoá như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để
1/ Tồn tại, bảo vệ độc lập,
2/ Phát triển đời sống kinh tế hầu xây
dựng hạnh phúc cho nhân dân. (CĐVN, - nt -)
Trong nhãn quan của Tùng Phong, trong hai mục đích
này, “Độc lập không phải là mục đích chính”. Phải độc lập
vì độc lập là “điều kiện tiên quyết và thiết yếu khẩn
thiết để thực hiện cho được cuộc Tây phương hoá… Có độc lập, chúng ta
mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được cuộc Tây phương hoá
mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp
tới đây” (CĐVN, tr. 158).
Vấn đề chính của Dân Tộc Việt Nam
là vấn đề phát triển, và cuộc phát triển đó thực hiện qua một cuộc
Tây phương hoá. Sự thành bại của cuộc Tây phương hoá này quyết định tương lai
của Việt Nam, không những gần, mà trong mấy thế kỷ sắp đến. Cho nên vấn đề
được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển -Tây phương
hoá. Vấn đề độc lâp được bàn đến, và rất chi tiết, như là một vấn đề dính
liền với nguy cơ tái lệ thuộc Trung Hoa nếu Việt Nam chọn con đường cộng sản
trong công cuộc phát triển.
Theo Tùng Phong “công cuộc phát triển Dân Tộc bằng cách
Tây phương hoá là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc… một sự
kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy
ra, Dân Tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai” (CĐVN, tr.134-35).
Kháí niệm “Tây phương hoá” là khái niệm then chốt của tác
phẩm này nên chúng ta cần minh định nghĩa của danh từ và nội dung của khái
niệm để tránh ngộ nhận. Danh từ “Tây phương hoá” - “Westernization”
(theo Anh văn), hay “Occidentalisation” ( theo Pháp văn) - là một danh từ
thông dụng trong giới học giả và báo chí Tây phương trong những năm trước
1950. Nhưng các giới chính trị, trí thức Á Đông , đặc biệt là Ấn Độ và Trung
Hoa, chống việc sử dụng danh từ này vì họ cho rằng nếu Á Đông thua kém Tây
phương vế kỹ thuật khoa học họ lại hơn Tây phương về phương diện triết lý,
tinh thần, và nếu họ muốn kỹ nghệ hoá họ không muốn mang luôn văn hoá Tây
phương. Do đó, một danh từ khác, trung lập hơn, được dùng. Đó là “hiện đại
hoá”. Cho nên, trong bài này, “Tây phương hoá” nên hiểu là “hiện đại hoá”.
Thật ra, danh từ này rất sát nghĩa khái niệm “Tây phương hoá” của Tùng Phong.
“Tây phương hoá”, theo Tùng Phong, là thế nào?
“ Tây phương hoá là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy
luận và nhiều tập quán của Âu-Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất
của Dân Tộc... Bản chất Dân Tộc chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của
chúng ta, và phương pháp sáng tạo của chúng ta, khi nào chúng ta đã chủ động
được các phương tiện và phương pháp sáng tạo Tây phương. Và đây là mục đích
chính của công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta đang theo đuổi…; chúng ta cần
phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không
ngần ngại” (CĐVN, tr.76).
Hai điểm then chốt trong ý niệm trên là ta phải
chủ động công cuộc Tây phương hoá, và phải đi đến mức sáng tạo. Cuộc
Tây phương hoá này phải là một cuộc Tây phương hoá tự ý, không ép
buộc, vì “nếu chúng ta không tự ý Tây phương hoá, thì trước hết ta sẽ mất
chủ quyền định đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó cuộc Tây phương hoá
vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và
hướng dẫn. Một cuộc Tây phương hoá không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã
của xã hội chúng ta… Như vậy, giữa hai thái độ tự ý Tây phương hoá và bắt
buộc Tây phương hoá thế nào cũng phải lựa chọn thái độ tự ý Tây phương hoá”
(CĐVN, tr. 166).
Điểm thứ hai, đi đến mức sáng tạo, một mức cao, cũng là
một đặc điểm của cuộc Tây phương hoá mà Tùng Phong chủ trương. Theo ông,
“công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào thực hiện đúng đến mức độ cao”
(CĐVN, tr. 153).
Thế nào là “mức độ cao”? Ông ta giải
thích:
“Tây phương hoá đến mức độ cao có nghĩa là Tây phương
hoá đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây
phương. Cho đến khi nào chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật
Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ cao. Chỉ khi nào chúng
ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn
cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ
đủ cao trong công cuôc Tây phương hoá… Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng
ta, sau khi hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức
rõ rệt rằng chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần nỗ lực để
đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy
giờ cuộc Tây phương hoá của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành
công” (CĐVN, tr, 172)
“Chế ngự khả năng sáng tạo” là một ý niệm trừu tượng, tế
nhị, có thể gây hiểu lầm rằng “Tây phương hoá” đồng nghĩa với làm mất “bản
sắc Dân Tộc” . Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này ở đoạn sau. Ở đây cần nhấn mạnh
rằng Tùng Phong rất ý thức điều này, nên ông ta đã đưa ra những giải
thích rất chi tiết và rõ ràng. Ông viết:
“Một cuộc Tây phương hoá, đến mức độ cao, chỉ thực hiện
được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp
thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ
thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng
sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó” (CĐVN, tr. 463-464).
Có một quan niệm thông thường cho rằng Tây phương mạnh nhờ khoa học
của họ, và nếu chúng ta học được khoa học của
họ thì chúng ta cũng mạnh như họ. Nhưng, thật ra, nếu chúng ta
học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây
phương. Bởi vì: “khoa học cũng như tất cả các sáng tạo của Tây phương là
những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ
thuật của Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới
là gió.“Kỹ thuật Tây phương đẻ ra khoa học, chớ không phải khoa học đẻ ra kỹ
thuật. Như vậy thì sự thâu thập khoa học chưa đủ để giúp cho người thâu thập
chế ngự được kỹ thuật Tây phương.” (- nt-)
Vậy nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật
Tây phương là cái gì?
Tùng Phong cho rằng câu hỏi này “vô cùng quan
trọng cho công cuộc Tây phương hoá”. Có trả lời được, chúng ta mới thoả mãn
được một điều kiện của công cuộc Tây phương hoá đến mức đô đủ cao. Điều kiện
thứ hai là thực hiện được những điểm mà câu hỏi sẽ nêu lên: (- nt -)
Và giải đáp mà Tùng Phong đưa ra
là một giải đáp có thể nói là độc đáo, mới,
mà riêng tôi, xin thú thực là chưa hề được nghe
nói đến: kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính, xin
nhấn mạnh đức tính, vô cùng quý báu: 1/ chính xác về lý trí, 2/ ngăn
nắp và minh bạch trong tổ chức.
Tùng Phong nhấn mạnh rằng hai đức tính này là hai đức tính
của văn minh cố Hy Lạp và La Mã. Nó là nguồn sinh lực của kỹ thuật Tây
phương. Nó có trước mọi phát minh khoa học và đã phát sinh ra khoa học. Và nó
phải có nếu ta muốn đạt đến mức độ sáng tạo như Tây phương. Một sự thu thập
khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho ta chế ngự
được kỹ thuật Tây phương. “Một công cuộc Tây phương hoá chỉ chú trọng vào sự
thu thập khoa học Tây phương sẽ mãi mãi là một cuộc Tây phương hoá không đúng
mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương thì,
mãi mãi, sẽ lệ thuộc vào các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, và không khi
nào lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương.” (CĐVN, tr. 468).
Vấn đề đã trở nên rất rõ: nếu chúng ta
muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta phải rèn
luyện để có được hai đức tính:
1/ Chính xác về lý trí.
2/ Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Muốn rèn luyện hai đức tính trên
đây, “chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch,
và ngôn ngữ của chúng ta cũng phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh
bạch... ;đời sống hằng ngày của chúng ta, và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta
sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác
về lý trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã chỉnh đốn
lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật chất và vũ
trụ tinh thần” (CĐVN, tr.468).
Về vấn đề Tây phương hoá có làm mất bản sắc Dân
Tộc, “mất quốc hồn quốc túy” hay không, Tùng Phong nói:
“Các Dân Tộc Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn
sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác
của lý trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ minh chiết
như nhau - sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau - thế mà họ vẫn khác nhau
trong sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ…. Biết như thế rồi
chúng ta mới thấy tánh cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc
túy…” CĐVN, tr. 76)
Phần khác,
“… nếu thực sự một cuộc Tây phương hoá tự ý và có
lãnh đạo không làm tan rã xã hội lại có thể làm mất bản chất Dân Tộc, thì
chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hoá bắt buôc và không
hướng dẫn, [không làm]tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản
chất Dân Tộc của chúng ta.”(CĐVN, tr. 166)
V
Trong những trang trên đây, ta thấy tác giả đề
cập rất nhiều đến những danh từ như: “xã hội”, “nỗ lực”, “rèn luyện”, “chế
ngự “, “chỉnh đốn”, “đức tính”, “lý trí”, “suy luận”… Đây là những
danh từ mang ý niệm trừu tượng thuộc về lãnh vực văn hoá. Điều này nói lên sự
khác biệt căn bản của lối tiếp cận vấn đề của Tùng Phong với lối tiếp cận
kinh tế, thống kê, chính trị của những học giả, chuyên gia chủ trương Point
IV/Điểm 4 về vấn đề phát triển. Lối tiếp cận của Tùng Phong là một lối
tiếp cận chú tâm vào các khía cạnh xã hội và tâm lý, nghĩa là văn hoá
. Đây là một lối tiếp cận đòi hỏi môt sự thấu triệt hoàn cảnh và tâm lý của
dân tộc muốn phát triển, một điều rất khó khăn và đòi hỏi nơi người nghiên
cứu, cũng như nơí người thực hành, những kiến thức rất sâu rộng, và một khả
năng dùng linh tính mà tâm lý học gọi là “introspection”, một khả năng mà
người ngoại quốc không có, mà ít người bản xứ dùng đến trong việc nghiên cứu
vì cho rằng nó “không khoa học”. Nhưng, nếu phối hợp với kỹ thuật ở mức độ
cao, như đã trình bày ở trên, nó là lối tiếp cận hữu hiệu nhất, và đưa đến sự
phát giác những giải pháp độc đáo và thích nghi nhứt, như ta sẽ thấy dưới
đây.
Mục tiêu của Tây Phương hóa là phát triển, và, như đã nói
ở trên, phát triển để có điều kiện bảo đảm sự tồn tại và độc lập, và xây dựng
hạnh phúc cho nhân dân. Công cuộc chính của phát triển là xây dựng lại xã hội
Việt Nam sau 80 năm thống trị của người Pháp.
Cuộc thống trị đó đã để lại một di sản
mà ngay nay dân Việt đang còn phải mang những hậu quả rất
tai hại: Ba gánh nặng nhứt là: 1/ một công cuộc hoá Tây phương bắt
buộc, 2/ một xã hội tan rã, 3/ một sự gián đoạn trong
vấn đề lãnh đạo.
Công cuộc Tây phương hoá bắt buộc làm cho chúng ta mất tin
tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thâp nền văn minh
mới. Vận mạng của chúng ta không phải do chúng nắm. Vì vậy, cuộc Tây phương
hoá mà chúng ta phải chịu đựng từ môt thế kỷ nay là một cuộc Tây phương hoá
bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn.” Dân chúng bị lôi cuốn vào
một phong trào Tây phương hoá, “mà không hiểu Tây phương hoá để làm gì,
Tây phương hoá đến mức nào là đủ, và Tây phương hoá sao là đúng.” (CĐVN, tr.
268).
Tình trạng trên đây đã dẫn dắt đến sự tan
rã của xã hội của chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn
cũ đã mất hết hiệu lực, mà các tiêu chuẩn mới thì không có. Do
đó, tín hiệu tập hợp các phần tử đã mất. “Đó là một điều
vô cùng bất hạnh” vì chính là lúc này, lúc ta cần nhiều
nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người, “sự có
một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết để toàn dân trông vào và tin tưởng,
mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh”. (- nt
-)
Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự
gián đoạn lãnh đạo” đến một trình độ trầm trọng nhứt”. Sự chuyển quyền không
thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Các bí mật [bí quyết]
Quốc gia và bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyển
lại được. Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn
khố thất lạc và bị cướp bóc. ( - nt -) Đặc biệt là sự thiếu hụt
lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: sự điều hoà giữa thiểu số lãnh đạo và
đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn
định và tiến lên của xã hội không còn nữa.
Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính
trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường
tận. Những tư tưởng rất mới mẻ, độc đáo và sáng suốt về vấn đề này là
những đóng góp lớn vào sự soi sáng vấn đề phát triển của các nước chậm tiến.
Theo nhận xét, rất đúng, của Tùng Phong , xã hội gồm hai
khối: thiểu số lãnh đạo, và đa số chịu lãnh đạo.Xã hội nào cũng có mâu thuẫn
nội bộ, giữa những nhu cầu cá nhân và những nhu cầu của cộng đồng, giữa những
nhu cầu ngằn hạn và những nhu cầu dài hạn của cộng đồng, giữa những mức độ
đóng góp hy sinh mà lãnh đạo thấy cần và đa số chịu lãnh đạo chịu chấp nhận….
Những mâu thuẫn này phải được điều hoà thì xã hội mới ổn định và tiến được.
Tùng Phong đã phân tách vấn đề một cách chi tiết như sau:
“Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp
thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh
đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.
“Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được phát triển
của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của cá nhân, tình
nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước
vọng của cá nhân.
“Nói một cách khác lý do của cuộc sống là lý do cá nhân.
Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong
bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá
nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào
cũng có ở trong nội tâm của mọi phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương
phản.
“Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều
hoà tuyệt đối giữa hai hình thức của một sự thăng bằng đồng tiến, nghĩa là
hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể
cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hoà được thực hiện dưới hình thức một sự
thăng bằng tỉnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm
giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự
điều hoà không được thực hiện, cộng đồng sẽ tan vỡ.” (CĐVN, tr. 18)
Những mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân
và cộng đồng có khi nặng, khi nhẹ. Trong những thời kỳ bình
thường, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi
sự đóng góp nhiều của cá nhân. Nhưng cũng có những thời kỳ mà cộng đồng phải
đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và sự sống còn của cộng đồng
đòi hỏi nhưng sự đóng góp to tát. Ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy
tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá thông thường để đưa cộng
đồng lướt qua các trở lực.
Sự mâu thuẫn khi nào cũng có. Nhưng trong trường hợp
trầm trọng, trạng thái điều hòa rất khó thực hiện, sự tan
vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào, và, trong thực tế,
nó trở thành một vấn đề cho lãnh đạo vì “sự mâu thuẫn giữa hai quyền
lợi cộng đồng và cá nhân sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh
đạo và đa số chịu lãnh đao, vì đa số lãnh đạo, nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự
đóng góp của đa số chịu lãnh đạo” (CĐVN, tr.19)
Sự mâu thuẫn càng ác liệt nếu đại đa
số không có ý thức cộng đồng và không hiểu biết
vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này dễ xảy ra
trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa
số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu
và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và mãi bận tâm
giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày, không có thì giờ để hiểu biết
vấn đề của cộng đồng.
Ở đây ta thấy rõ tầm quan trọng của lãnh đạo và sự
tham gia tự ý của đại đa số. Trong thời kỳ bình thường có thể cưỡng
bách đại đa số tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong thời kỳ thử
thách, uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực không
thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng. Điều kiện
thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là “đa số chịu lãnh đạo
phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần giải quyết cần phải giải quyết
của cộng đồng”. Và có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới
“điều hoà và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách
quyết liệt đang đợi chờ.” (CĐVN, tr.20)
Cần nhấn mạnh ở đây rằng sự đa số chịu lãnh
đạo cũng phải ý thức vấn đề của công đồng rất quan trọng vì
như vậy nó mở rộng địa bàn xoay xở của thiểu số lãnh đạo cho họ tránh được
nhiều lỗi lầm chiến thuật do sự tranh đấu gay go gây ra. Nhờ đó mà sự phối
hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ, và của các
quyết định chiến thuật không mất hữu hiệu.
Qua những điều vừa trinh bày ở trên, ta thấy
Tùng Phong coi vấn đề lãnh đạo là chính yếu, và, thực ra, Chính
Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học
tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những
người “lãnh đạo xứng danh”. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một
tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cọng Hoà I, mà ngay cả Việt Nam: nó
có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn
hiện đại hoá.
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng, đối với người
lãnh đạo “xứng danh”, các vấn đề tổ chức và giáo dục quần
chúng cũng rất hệ trong. Nó cũng được Tùng Phong soi sáng, nhưng
ta không thể bàn đến trong khung khổ của bài này.
Vấn đề then chốt kế tiếp cần được soi
sáng, sau khi đã được thấy rõ vấn đề chính của Việt Nam, lối
tiếp cận hữu hiệu, và một giải pháp thích nghi để giải quyết
vấn đề, là vấn đề lựa chọn dụng cụ để thực hiện giải
pháp đó: vấn đề “khung cảnh chính trị.”
VI
Vấn đề “khung cảnh chính trị”
là vấn đề tìm cho Việt Nam “một chính thể thích nghi cho
Dân Tộc”. Chính thể đó “không phải định đoạt do một
sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị hay
là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được quy định một cách rõ
rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát
triển của Dân Tộc….” Đặt vấn đề như vây là xét vấn đề phát triển từ góc đô
địa lý chính trị và văn hoá, một lối tiếp cận vấn đề phát triển mới và độc
đáo.
Một điều độc đáo và mới nữa là trong sự tìm một
con đuờng thích nghi cho sự phát triển Việt Nam, Tùng Phong chú tâm vào nguy
cơ Việt Nam bị xâm lăng, và đặc biệt nguy cơ bị lệ thuộc Trung Hoa. Trong sự
cứu xét kỹ vấn đề này ông đã đưa ra những cảnh báo có tính cách tiên tri, vì
tuy đưa ra cách đây 50 năm, ngày nay nó đang xảy ra ngay dưới mắt chúng
ta.
Tùng Phong đặt sự phân tách vấn đề trên hai
dữ kiện: 1/ hoàn cảnh địa dư lịch sử của Việt Nam, và 2/
tình trạng nội bộ của Việt Nam.
Ngay trong trang mở đầu của tác phẩm, ông đã
đặt vấn đề như sau:
"Việt Nam là một nước nhỏ - về dân số, về lãnh thổ,
về kinh tế kém phát triển, về phần đóng góp vào văn minh nhân loại. Cho nên
lúc nào cũng bị các nước lớn chi phối, lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên
tục của ngoại xâm, và “và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa
Dân Tộc Việt Nam”. (CĐVN, tr.13) Ở một đoạn dưới Tùng Phong cảnh báo: “bao
giờ yếu tố đó chưa thay đổi thì họa xâm lăng vẫn còn”.(CĐVN, tr.236).
Nói đến “địa dư” là nói đến sự kiện
Việt Nam nằm sát biên giới Trung Hoa. Nói đến “tình trạng nội bộ của chúng
ta” là nói đến tình trạng Bắc Việt đã chọn con đường Cộng Sản., nghĩa là chế
độ Độc tài Đảng trị như Trung Hoa.
Phương pháp Độc tài Đảng trị là một
phương pháp hấp dẫn đối với nhiều người lãnh đạo khi có một chương trình
vĩ đại cần được thực hiện trong một thời gian ngắn vì nó dưạ trên căn bản
chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia
đình, xã hội, tôn giáo và văn hoá, và thay vào đó bằng những liên hệ duy nhứt
với một Đảng chính trị duy nhứt nắm chính quyền. Nó biến mỗi cá nhân thành ra
một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng
cũng dễ xử dụng trong tay người lãnh đạo. (CĐVN, tr.302-04)
Nhưng, về phần miền Nam thì Tùng Phong
quả quyết: nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải
thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng “chính thể đó
không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất
rõ rệt” (CĐVN, tr.244-245).
Lý do của thái độ dứt khoát trên đây là một chế độ
Độc tài Đảng trị không thể đưa đến một trạng thái điều hoà mới trong đó tiêu
chuẩn mới sống chung với tiêu chuẩn cũ, “vì [nó] phủ nhận quyền tư hữu, bài
trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá
nhân, do đó tiêu diệt trạng thái thăng bằng động tiến căn bản trong một cộng
đồng, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng
biến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp
sáng tạo. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hoá trong tương lai của cộng
đồng không bảo đảm” (CĐVN, tr. 305).
Không có một quốc gia Tây phương nào thực hiện phát
triển bằng Độc tài Đảng trị. Ngay cả Nga Sô cũng phải
từ bỏ chế độ đó và trở về với những
giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của nhân loại. Bài học của
Nga Sô chứng minh rằng phương pháp Độc tài Đảng trị Cộng Sản không thế
nào bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển Dân Tộc toàn
diện. Nó đòi hỏi phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn, và đả phá tận nền tảng
Mác-Lê. Lãnh đạo Nga Sô không muốn vậy, nhưng “thực tế lịch sử đã dồn họ vào
cái thế không làm sao không thay đổi được”. Điều nhận xét nay được đưa ra năm
1960, 40 năm trước khi khối cộng sản tan rã, và Liên Bang Nga Sô và Đảng Cộng
Sản Liên Sô bị giải thể….
Trong bối cảnh trên đây, câu hỏi được đặt
ra là: sau khi độc lập đã khai phục, Dân Tộc chuyển qua giai đoạn phát
triển, đường lối Cộng Sản còn thích hợp hay không? Giải đáp cho câu hỏi này
liên quan đến sự bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam.
Về phía Trung Hoa, Tùng Phong nhận xét:
“Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc,
các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hoà thuận với Trung Quốc và
tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn
không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung hoa, suốt thời gian
gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi
như tạm mất” (CĐVN, tr.235)
Tùng Phong nhắc lại rằng trong 900 năm (939-1840) Trung
Hoa đã bẩy lần toan chiếm Việt Nam.
“Một hành đông liên tục như vậy nhứt định có nghĩa là tất
cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt nền thống trị
trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh
tế định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các
tỉnh Tây Nam của Trung Hoa. Đã như vậy, ngay từ bây giờ [1960], ý định của
Trung Hoa vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra
cũng Bắc phần…” (CĐCV, tr. 235)
Thế còn dữ kiện Trung Cộng ủng hộ viện trợ cho
Việt Nam, và đặc biệt đã giúp Việt Nam thắng trong trận Điện Biên Phủ? Tùng
Phong giải thích: Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt vì, trong hoàn cảnh
phát triển nghiêm khắc của họ, họ phải nỗ lực vận động một mặt trận đồng minh
thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình phát triển của họ. Vả lại ta phải tự
hỏi: họ đã gíúp khí giới kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì
họ thân Việt Nam hay vì họ bài Mỹ, và khi viện trợ như vậy họ coi Việt Nam là
một đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp gần được gồm
thâu vào lãnh thổ của họ”?( - nt--)
Với cuộc phát triển đang
thực hiện “nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con đường ra
biển “hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa”. Viện
trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con
đường ra biển ‘khi thời cơ đến” (CĐCN, tr.29). Cho nên “Đối với Dân Tộc Việt
Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như của các triều đại Nguyên, Tống,
Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp” (CĐVN, tr. 286).
Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960.
Ngày nay, 50 năm sau, trong bối cảnh Trung Hoa cưỡng chiếm các đảo Trường Sa,
Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hải phận Vịnh Bắc Việt,
v.v…, nó nói lên sự sáng suốt của những người lãnh đạo Cọng Hoà I, và
sự thất thiệt lớn lao cho xứ sở do sự mất những người lãnh đạo này do
những biến cố năm 1963 gây nên.
VII
Những điều vừa trình bày trên đây cho phép trả lời
một cách dứt khoát câu hỏi: ngày nay, đường lối Cộng Sản còn thích hợp không?
Giải đáp là: không. Không những đúng cho thời gian 1960, mà hiện nay, 2009,
lại còn đúng hơn nữa. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu cho thật rõ: tại
sao, như Tùng Phong giải thích dưới đây.
Chủ trương Cộng Sản chẳng những không giải
quyết được vấn đề của Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này
[1960] của cộng đồng, mà lại “sẽ đưa Dân Tộc vào một con đường đen tối cho
nhiều thế hệ tương lai” (CĐVN, tr.27) và “sự gắn liền vận mạng của chúng ta
vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc” (CDVN, tr.290).
Tùng Phong nhận xét: mối liên hệ giữa Cộng Sản Việt
Nam với Trung Quốc làm “tái hiện dũng mãnh”, sau một trăm năm vắng mặt, “ký
ức thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta”, và cảnh báo:
“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự
chi phối của Trung Cộng, đã đặt ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành
động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển
của chúng ta, mà còn đe dọa sự tồn tại của Dân Tộc…"
“Sở dĩ ngày nay [1960], sự thống trị của Trung Cộng đối
với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho
phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực
vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc
Việt thôn tính, thì sự thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian” (CĐVN,
tr.301).
Ngày nay, năm 2009, những cảnh báo trên đây không còn
là cảnh báo nữa, mà đã thành hiện thực: sự thôn tính Nam Việt
bởi Bắc Việt đã mở đường cho Trung Quốc thôn tính toàn Việt Nam.
Tùng Phong viết: “các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa
nhận thức được nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối
của chúng ta vẫn còn tiếp tục” vì “những người lãnh đạo này đang còn say mê
thuyết Cộng Sản và đương nhiên đưa nó lên hàng một chân lý” trong khi Nga Sô
và Trung Cộng chỉ coi nó là một phương tiện. Đưa một phương tiện của ngưòi
lên làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bực đối với
các lãnh tụ cộng sản quốc tế, “và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức
cho người sai khiến”. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các
nhà lãnh đạo phía Bắc “lý thuyết được để lên trên quyền lợi Dân Tộc” (CĐVN,
tr. 290).
Vì sự lệ thuộc về lý thuyết, các lãnh đạo Cộng Sản Việt
Nam đã hy sinh quyền lợi Dân Tộc Việt Nam cho quyến lợi của Dân Tộc Trung
Hoa. Nếu đặt quyền lợi của Dân Tộc trên hết, “thì không có lý do gì để binh
vực sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công
cuộc phát triển của Trung Cộng” (CĐVN, tr.338).
Tùng Phong nói :”sự gắn liền vận mạng của chúng ta
vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc”. (CĐVN, tr. 290)
Sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực Trung Cộng vào trường hợp Việt
Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những phương
tiện như vậy, là “làm sống lại tâm lý thuộc quốc gần như đã chết trong thế
kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước “Trung Hoa vĩ đại”, lúc nào
cũng xem Việt Nam là “một Trung Hoa con con” (CĐVN, tr. 342). Nếu Trung Hoa
diễn tuồng trên sân khấu 100 m2, Việt Nam cũng phải diễn cùng một
tấn tuồng trên 1 m2 . “ Ngày nay, vì nước Tàu thi hành
phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn ,thì Bắc Việt cũng
phải thi hành phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ” (- nt
-)
Sự quy phục thuyết Cộng Sản “sẽ đương nhiên biến sự
đe doạ thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam thành thực tế…”; các nhà lãnh
đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp Độc tài Đảng trị ở Việt Nam “sẽ đương nhiên
tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam” vì phương pháp đó
“sẽ suy nhược hoá sức đề kháng của Dân Tộc đối với kẻ xâm lăng” (CĐVN,
tr.373).
“Trong tình thế chính trị chúng ta được mục kích, sự quy
phục thuyết Cộng Sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự nó là một sự thần phục
Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa…”
(CĐVN, tr.374).
“Sự quy phục lý thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn
liền vận mạng công cuộc phát triển Dân Tộc chúng ta vào vận mạng công cuộc
phát triển của Trung Hoa… Như vậy có nghĩa là “chúng ta tự ý bỏ công cuộc
phát triển của chúng ta” ( - nt - )
Sự lệ thuộc trên đây là một
lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với văn hoá Tàu.
Từ ngày lập quốc, cách đây hơn một ngàn năm, sự chi phối của Trung
Hoa đối với Việt Nam nặng nề đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm
mọi lĩnh vực của đời sống của Dân Tộc.
Tâm lý này xuất phát từ hai sự kiện:
tự ty mặc cảm đối với “Trung Hoa vĩ đại”,
và sự lệ thuộc của ta đối với văn hoá Tàu. Những lời ca
tụng “Trung Hoa vĩ đại” của miền Bắc, những điệu âm thanh
Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ nữ hoà bình, và những y
phục theo Tàu đều là “những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hoá
càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng” bởi vì “các nhà lãnh
đạo miền Bắc đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng” (CĐVN, tr. 375).
Mà cũng vì lệ thuộc chủ nghĩa Cọng
Sản mà cuộc chiến đấu dành độc lập của chúng ta tiêu hao bao sinh
lực Dân Tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh
tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng từ hai mươi
năm nay. (CĐVN, tr 376). Từ mười năm nay [1954] Bắc Việt chưa thực hiện được
những mục tiêu đáng kể, trong khi các thực hiện của Nam Việt đều bị du
kích quân Băc Việt phá hoại. Bao nhiêu sinh lực của Dân Tộc đã bị phí phạm.
Tùng Phong nhận xét rằng: “Chưa có một triệu chứng nào
chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức những điều kiện
trên. Thư lại chính trị miền Băc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những
giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ” (CĐVN, tr.287). Và cũng vì các
lý do trên đây, Tùng Phong nói, “chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà
lãnh đạo phía Bắc chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc, và những ngày
đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục” (CĐVN, tr. 217).
Những nhận xét và cảnh báo trên đây là những
nhận xét và cảnh báo thốt ra năm 1960. Những gì xảy ra từ 1975 chứng tỏ rằng
tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn thêm, và lại còn đen tối hơn là Tùng
Phong đã dự đoán. Ngày nay, 2009, Trung Hoa không những đe dọa sự tồn tại của
Việt Nam, mà đang thực sự thôn tính Việt Nam. Nhân danh xã hội chủ nghĩa và
cách mạng thế giới Cộng Sản Trung Hoa đả cỡi lưng Cộng Sản Việt Nam bành
trướng ách thống trị của Trung Hoa qua vĩ tuyến 17, bao luôn Cao Nguyên Nam
Phần, xuống tận Cà Mau.
Năm 1960, Tùng Phong còn hy vọng rằng “sự tồn tại miền Nam
là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là bảo
đảm cho cơ hội phát triển của chúng ta, và vừa là một lối thoát cho các nhà
lãnh đạo Băc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…; sự mất còn
của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong
tương lai của Dân Tộc.” (CĐVN, tr. 301-302).
Không may cho Dân Tộc Việt Nam, hy vọng lớn trên đây
đã không thành . Cuộc đảo chánh tháng 11, năm 1963, và những
sự xáo trộn nó gây ra, tạo ra một tình trạng miền Nam vô chính phủ, vô
lãnh đạo, sinh lực sút giảm; đồng thời những xáo trộn do những lực lượng phản
chiến Hoa Kỳ áp lực chính phủ Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam, tạo ra một tình trạng
hỗn loạn, suy sụp, tạo điều kiện cho Cộng Sản chiến thắng và thôn tính miền
Nam. Đặc biệt là lúc đó, họ càng tin là họ đã đúng đường. Nhưng, ngày nay,
sau những gì đã xảy ra từ lúc Cộng Sản xâm chiếm miến Nam, càng ngày càng rõ
rằng những gì Tùng Phong nói lên trên đây trong Chính Đề Việt Nam là
đúng: sự mất còn của miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách
thống trị Trung Cộng, vùa là lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý
thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…
Điều vừa nêu lên giúp làm sáng tỏ một vấn đề đã làm dư
luận bàn tán nhiều năm 1963, và trong thờì gian qua, vẫn còn được nhiều người
đề cập đến. Năm 1963 có những tin đồn rằng ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) liên
lạc với Cọng Sản. Điều này nay đã được những người thân cận xác nhận. Nhưng
điều quan trọng nhất - để làm gì - thì ngoài ông Nhu ra, không ai biết ông
Nhu và những người bên kia bàn gì với nhau. Nay ông Nhu đã mất, điều này
vẩn chưa được soi sáng vì không có, và không còn nhân chứng, trừ anh Cao Xuân
Vỹ; mà chính anh Cao Xuân Vỹ cũng không được biết.
Nay, chỉ
còn tôi là người nhân chứng duy nhứt. Nhưng tôi chỉ làm nhân
chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp
báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch
viên trong buổi họp báo đó, (xin xem hình kèm) và tôi đã nghe và thông dịch
hai điều sau đây: 1/ ông đã tiếp Trần Độ ngay “trong phòng này”, văn
phòng của ông, nơi mà ông đang tiếp các ký giả, 2/ Trần Độ có hỏi ông: “Nếu
chúng tôi buông súng thì Việt Nam sẽ thế nào?”
Như vậy nghĩa là:
1/ Ông Nhu đã có tiếp xúc
với phía Cộng Sản;
2/ Ông Nhu đã có đề cập đến vấn
đề phía Cộng Sản ngưng chiến.
Với những lý luận gì? Nay Chính Đề Việt
Nam - ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962
- cho phép ta nghĩ rằng Ông Nhu đã nói với phía bên kia như sau:
1/ Chuyên chế Độc tài Đảng trị không
thể chấp nhận được, và khư khư ôm lấy thuyết Cộng
Sản, như các nhà lãnh đạo miền Bắc đang làm, là sai, vì nó không thich nghi
với hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và không giải quyết được vấn đề phát
triển/hiện đại hoá của Dân Tôc Việt Nam được.
2/ Áp dụng thuyết Cộng Sản là thần phục Trung Hoa, tái lập
sự lệ thuôc của Dân Tộc Việt Nam đối với Trung Hoa như dưới các triều xưa, và
tạo điều kiện cho Trung Hoa xâm chiếm Việt Nam.
3/ Sự tồn tại của miền Nam là một
lối thoát cho lãnh đạo miền Bắc khỏi mang tiếng là đã hy sinh quyền lợi của
Dân Tôc Việt Nam, và phục vụ quyền lợi Trung Hoa.
Như ta đã thấy ở đoạn trên, Ông Nhu than
phiền rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc đã mù quáng không chịu
bỏ thuyết Cộng Sản, vẫn cho đó là chân lý, nhất quyết “trụ” với giải
pháp Độc tài Đảng trị, và quy phục Trung Cộng.
Đó là năm 1962. Bây giờ, năm 2009, tình trạng lại trầm
trọng và khẩn trương hơn. Và không biết bao giờ lại mới có cơ hội, và một sự
lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển để giải quyết vấn đề đặt
ra cho Dân Tộc Việt Nam từ một ngàn năm: "cởi bỏ cho Dân Tộc tâm lý
thuộc quốc đối với Trung Hoa”, như Lý ThườngKiệt và Nguyễn Huệ đã làm. (CĐVN,
tr.342)
Dù sao, ngày nay, với Chính Đề Việt Nam,
lối tiếp cận và giải pháp đã có; ngoài hai điều kiện vừa nêu trên, chỉ cần
một điều kiện căn bản hơn cả, mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc
tác phẩm. Đó là:
“Trong tình hình chính trị thế gới hiện nay, và trong
trình độ tiến hoá của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong
thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị
trí Dân Tộc”. (CĐVN, tr.503)
Và Tùng Phong kết luận vói một lời nhắc và hai
lời kêu gọi.
Lời nhắc đề cập đến một thực tế mà ta
không thể phủ nhận được. Đó là dưới áp lực của nhân
khẩu, Trung Hoa phải bành trướng. Sự bành trướng này đã mở màn. “Nếu chúng ta
không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói
trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn ảnh đó cũng đủ làm cho chúng ta
khủng khiếp.”
Và hai lời kêu gọi, một lời hướng về miền Nam,
và một lời hướng về miền Bắc:
1/ “công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc không
lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng Dân Tộc Việt Nam bằng trong lúc này hết;
2/ “chúng ta mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc kịp
thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hoá của Dân Tộc, không nên tiếp tục sự
trụ-đóng vào phương tiện Cộng Sản nữa”
.(CĐVN, tr.505-506)
Ngày nay, miền Nam không còn nữa, mà Tùng Phong cũng
không còn nữa, nhưng lời nhắc và những lời kêu gọi trên lại còn
thích hợp hơn lúc nào hết.
Viết cho Đặc San
Vào dịp Lễ Tưởng Niệm Tống
Thống Ngô Đình Diệm
Tháng 11, năm 2009
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Chính Đề Việt Nam (1965)
Danh từ “canh tân” rất thông dụng trong thời Nho học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như: "phát triển”, “hiện đại hoá”…. Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi vấn đề căn bản
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM:
MỘT
VIÊN NGỌC QUÝ TRONG KHO TÀNG TƯ TƯỞNG,
MỘT
ĐÓNG GÓP LỚN VỀ SOI SÁNG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
GS Tôn Thất Thiện
I
Từ lúc tôi bắt đầu suy tư về tình
trạng Việt Nam, vào những năm cuối giai đoạn Trung học, 1942-44, rồi qua
những năm học hỏi, sưu tầm, giảng dạy ở Đai học, từ năm 1947 cho đến nay,
2009, đã 85 tuổi, hưu trí được liệt vào hạngAA bố lão, tôi không ngớt suy tư,
sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề canh tân, cải tiến Việt Nam để đưa
dân tộc ra khỏi tình trạng chậm tiến, khổ cực được dàn ra hàng ngày trước mặt
mọi người.
Danh từ “canh tân” rất thông dụng trong thời Nho
học còn thịnh, nay được thay thế bằng những danh từ mới như:
"phát triển”, “hiện đại hoá”…. Sự thay đổi danh từ không làm thay đổi
vấn đề căn bản của rất nhiều nước Á, Phi, Nam Mỹ châu, trong đó có Việt Nam,
là những nước ở tình trạng chậm tiến. “Chậm tiến” là dẫm chân, thua xa về đời
sống yên ổn, sung túc so với dân các nước Tây Phương, và so với tình trạng
khoa học kỹ tAhuật của nhân loại trong giai đoạn hiện đại. Cho nên “canh tân”
cũng có nghĩa là “Tây phương hoá” và “hiện đại hoá”.
Tôi đã được học hỏi ở những Đại học
có tiếng là đứng hàng đầu thế giới về các môn Chính trị,
Kinh tế, Xã hội học, tôi đã đọc rất nhiều sách, báo, về vấn đề phát
triển; tôi đã dành rất nhiều thì giờ quan sát, suy tư về vấn đề, và cũng đạt
được một số nhận xét có thể coi là chính xác, nhưng tôi không mãn nguyện, trí
tôi vẫn không yên, vì tôi chưa thấy thật rõ ràng và toàn bộ giải pháp dẫn đến
sự phát triển mà tôi mong muốn. Điều này cũng có nghĩa là tôi chưa tìm ra
được một cách tiếp cận hiệu nghiệm để thấy con đường đó. Mãi đến năm 2004 tôi
mới được cái may mắn này.
Năm 2004 là năm tôi được nghe nói đến,
rồi được đọc, tác phẩm Chính Đề Việt Nam.
Trong trường hợp nào
tôi đã được cái may mắn đó, tôi đã kể lại trong Đặc
San về Lễ Tưởng Niệm Tổng Thống Ngô Đình Diêm năm 2004. Trong bài này tôi
sẽ nhắm vào những điểm sau đây:
1/ nói lên phản ứng
của tôi sau khi đọc hết tác phẩm này, trong tư thế là một học giả đã để nhiều
thì giờ, nhiều công và tâm trí vào việc tìm hiểu vấn đề, '
2/ bàn về một
số khía cạnh nhưng không phân tách, nhận xét về toàn
bộ của tác phẩm, môt điều vượt khung cảnh của bài; thay
vào đó, phần Phụ bản đăng nguyên văn chương đầu - “Bối cảnh của
vấn đề” - và chương cuối - “Kết luận: trụ mà không trụ” - để giúp các độc giả
không có đủ thì giờ , hoặc không quen với lối hành văn lập luận trừu tượng,
hoặc không có được tác phẩm trong tay, để đọc toàn bộ tác phẩm, ít nhứt có
một ý niệm khá rõ ràng về những khía cạnh của vấn đề được các tác giả bàn
đến, và tóm tắt, họ chủ trương gì?
II
Đọc xong Chính Đề Việt Nam, tôi thấy ngay tầm quan
trọng của tác phẩm và tôi đã đề xướng tái bản nó. Nhưng, lúc đó, vấn đề gặp
một số trở ngại về danh tánh của tác giả. Trong phần “Phụ Giải về tái bản Chính
Đề Việt Nam” trong Đặc San năm 2007, tôi có nói rằng ai là tác giả
của tác phẩm cũng không quan trọng. Điều quan trọng là phổ biến rộng rãi một
công trình đóng góp rất lớn của những người lãnh đạo Cọng Hoà Việt Nam - I
vào sự soi sáng vấn đề phát triển Việt Nam, để những ai cứu xét vấn đề có
thêm dữ kiện để suy ngẫm. May thay, nay những trở ngại đó không còn nữa và
tác phẩm đã được tái bản (dưới hình thức một tài liệu học tập nội bộ của
những người thuộc Đệ Nhất Cộng Hoà, đúng như tác dụng nguyên thủy của nó).
Ở đây, tôi xin mở một dấu
ngoặc để đính chính một điểm: trong “Phụ Giải”
tôi đã nói lầm rằng Ông Lê Văn Đồng đã
là Bộ Trưởng Bộ Canh Nông năm 1957; thật ra, Ông là Đổng
Lý Văn Phòng Bộ Lao Động, mà Bộ Trưởng là Ông Huỳnh Hữu Nghĩa. Hai ông này
đều thuộc nhóm thân hữu của ông Ngô Đình Nhu. Nhân tiện cũng để ghi nhận rằng
theo “Lời Trần Tình” trong tái bản, tài liệu xuất bản năm 1964 ở Việt Nam
được tái bản tại Hoa Kỳ năm 1988 “do một nhóm thân hữu đã cùng sát cánh bên
nhau trong nhiều năm, trong ấy phải kể các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Văn Đồng, Phan
Xứng, Đỗ La Lam, và một số thân hữu khác”, và “dù gặp muôn vàn khó khăn, nhóm
chủ trương quyết định ấn hành tài liệu này nhằm khổi động sức phấn đấu của
dân tộc trong giai đoạn cấp bách hiện nay”. Và để nói rõ và lớn lên một
điều rất đúng đã được dân chúng Miền Nam truyền miệng rộng rãi vào khoảng năm
2007: (trong khi “Xã Hội Chủ Nghĩa” đã chết nhưng chưa chôn”) thì “Việt Nam
Cộng Hòa đã chôn nhưng chưa chết”….
Đúng vậy.
Vói sự phổ biến rộng rãi của tác phẩm Chính
Đề Việt Nam, những tư tưởng, suy luận trong đó, và nhứt là phương pháp
tiếp cận đưa đến những giải pháp rất hay được trình bày trong đó, uy tín của
chế độ Đệ Nhứt Cọng Hoà và sự đóng góp của những nhà lãnh đạo của chế độ sẽ
được công nhận. Đối với các nhà lãnh đạo chính trị và những nhà nghiên cứu về
vấn đề chậm tiến của các quốc gia thuộc vế khối gọi là “Đệ Tam Thế Giới”, tác
phẩm này sẽ được coi như là một tác phẩm hết sức độc đáo, một đóng góp lớn, một
viên ngọc quý trong kho tàng tư tưởng của nhân loại. Ở đây tưởng nên nhắc
đến những người đóng góp lớn nhứt vào công trình này. \
“Lời Trần Trình” trong tái bản của tác phẩm tiết lộ:
“Tập tài liệu bạn có trong tay là kết tụ những nghiên cứu
và phân tích dựa trên kinh nghiệm lịch sử của cố vấn Ngô Đình Nhu
cùng một số phụ tá thân cận nhằm giúp những cán bộ quốc gia nắm
vững con đường phát triển dân tộc… “Một phần những đề tài này đã được thảo
luận trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo dưới thời Đệ Nhất Cộng Hoà,… nhất là công
cuộc xây dựng tầng lớp lãnh đạo có đủ khả năng gánh vác trọng trách trong
giai đọan mới cần nhiều thời gian chuẩn bị, nên lược đồ xây dựng cho tương
lai dân tộc bị gián đoạn từ đó…một số chiến hữu trung kiên đã cho in tập tài
liệu này, nhưng tình hình chính trị bất ổn, và chính quyền quân sự lúc đó
đang bị nhiều áp lực từ nhiều phía, vì vậy tập tài liệu quí hiếm này bị coi
là di sản của “chế độ cũ” nên bị chôn vùi và quên lãng.”
Nhưng tác phẩm Chính Đề Việt Nam đã không bị
quên lãng. Nó xuất hiện lại, và sự xuất hiện ấy là một nhắc nhở rằng Chế Độ
Việt Nam Cọng Hoà, qua thời gian, tuy đã bị chôn vùi, nhưng vẫn chưa chết.
Ngày nay nó lại tỏ ra vẫn còn sống mạnh và được hãnh diện thấy những cống
hiến lớn của nó cho xứ sở được càng ngày càng nhiều người ghi
nhận và thẳng thắn công nhận. Trong đó, sự đóng góp về cách tiếp cận và đề
xướng một giải pháp thích nghi và hữu hiệu vào vấn đề phát triển các quốc gia
chậm tiến là một biểu chứng cụ thể.
III
Sau khi đọc xong Chính Đề Việt
Nam, phản ứng đầu tiên của tôi là: “Trời! Sao mình không được biết đến
tài liệu này sớm hơn! Tất cả những gì mình tìm kiếm đều có trong đó. Mình đã
mất gần 50 năm - 1960-2007 - tìm kiếm những gì mà đã có người Việt Nam đã
viết lên rồi”. Và chắc chắn đây cũng là trường hợp của rất nhiều người Việt
Nam khác. Nói chung, Việt Nam đã mất đi 50 năm quý báu. Một phần không nhỏ vì
những cuộc xáo trộn năm 1963 và những năm tiếp theo. Những tư tưởng chứa đựng
trong Chính Đề Việt Nam chưa được phổ biến và áp dụng thì chế độ Cọng
Hoà I bị lật đổ, với những hậu quả rất tai hại cho sự phát triển của Dân Tộc
Việt Nam.
Trong tư cách là một
học giả chuyên nghiên cứu về vấn đề phát triển các quốc gia châm tiến, tôi
không ngần ngại quả quyết rằng Chính Đề Việt Nam là tài liệu xuất sắc
nhứt mà tôi đã được đọc trong suốt thời gian gần 70 năm qua. Không những nó
sẽ giúp cho những người liên hệ với vấn đề phát triển các quốc gia chậm tiến
thấy rõ tại sao các chương trình kế hoạch viện trợ các quốc gia này đã thất
bại, mà còn cung cấp cho họ một lối tiếp cận có nhiều triển vọng thành công
hơn. Riêng về Việt Nam, nó là tài liệu đầu tiên mà tôi được biết đến chỉ rõ
con đường dẫn Việt Nam ra khỏi tình trạng bi đát của hơn 100 năm qua. Tác
phẩm đã đặt đúng vấn đề và đã soi chiếu ánh sáng vào những yếu tố then chốt
và riêng biệt của các quốc gia chậm tiến, và phân tách tường tận những yếu tố
đó. Phần khác, tác phẩm cũng khảo xét tình trạng các quốc gia lớn đã thực
nghiệm những chương trình phát triển, như Nga, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, hoặc
những quốc gia tương tự Việt Nam, và đưa ra những nhận xét rất hữu ích cho
người Việt. Riêng về Nga, Trung Hoa, và Việt Nam những kết luận của Tùng
Phong đưa ra lúc soạn tài liệu này, vào khoảng những năm 1957-1960, ngày nay,
2009, có thể nói là tiên tri.
Những điều trên đây, từ điểm quan sát 2009 nhìn
lui, tôi thấy rõ, vì đó là những điều tôi đã được nghe,
đọc, thấy, suy ngẫm, từ những năm 1949-1952, lúc tôi
học ở Trường L.S.E. (London School of Economics). Trường này được
coi là lớn hạng nhất của Liên Hiệp Anh (Commonwealth). Tuy mang tên ngắn gọn
là L.S.E., nhưng tên đúng của nó là “London School of Economics and Political
Science”. Thực ra, nó được coi là một trường chuyên về Xã Hội Học. Dù sao
Kinh Tế/Economics cũng là môn chính trong chương trình giảng dạy của nó. Do
đó nó chú tâm về môn “Economic Development” - Phát triển Kinh Tế - là một
điều tự nhiên. Sự chú tâm này phản ảnh những lo âu của các giới chính trị
kinh tế Tây phương trong những năm đầu sau Chiến Tranh Thế Giới II, phải
đương đầu với vấn đề tái thiết và lập lại ổn định , và với những đòi hỏi cải
thiện gấp rút đời sống của các quốc gia Á, Phi, Nam Mỹ. Thêm vào đó lại khởi
phát một cuộc tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Nga Sô trong một chiến tranh lạnh bao
trùm thế giới.
Hậu quả của những chuyển biến trên đây
là thế giới cần một sự phát triển kinh tế quy mô
và nhanh chóng. Lúc đó, chỉ Hoa Kỳ có khả năng
trợ giúp các quốc gia khác - đồng minh đương nhiên vì đồng
chế độ, hoặc thuộc khối “không liên kết” cần lôi kéo về phía
mình - vì Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không bi tàn phá, kinh tế phát triển
vượt bực để phục vụ nhu cầu không những của mình, mà của toàn thể khối Đồng
minh. Phần khác, Hoa Kỳ cũng cần duy trì sản xuất kinh tế để tránh những xáo
trộn do một cuộc giảm sút kinh tế lớn gây ra.
Vì những lý do nêu trên, các Đại học, các
học giả trứ danh về kinh tế học, các chuyên gia kinh tế, các giới kinh tế-tài
chánh, các giới truyền thông, chính trị gia, nhất là ở Hoa Kỳ, đổ xô vào việc
nghiên cứu, bàn luận, đề xuất lý thuyết về phát triển. Các Chính Phủ Hoa Kỳ
đưa ra những chương trình ngoại viện lớn; các kế hoạch này được Quốc Hội
thông qua dễ dàng và được dân chúng ủng hộ rộng rãi.
Có hai loại ngoại viện: 1/ viện trợ các quốc
gia đồng minh cũ, thuộc Tây Âu; 2/ các quốc gia chậm tiến, hoặc thuộc
ảnh hưởng Hoa Kỳ, hoặc “không liên kết”. Loại đầu là Chương Trình Marshall;
loại thứ hai là “Point IV”/ Điểm thứ tư, được gọi như vậy vì đó là điểm thứ
tư trong môt bài diễn văn lớn của Tổng Thống Truman năm 1947 tuyên bố quyết
tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến.
Chương trình Marshall không quan hệ gì đến các
nước chậm tiến vì nó nhằm trợ giúp các quốc gia Tây Âu
tái thiết, không thuộc về lãnh vực phát triển, nên không bàn đến
ở đây. Chương trình “Point IV”/ Điểm thứ 4, trái lại, không những
nói lên quyết tâm Hoa Kỳ trợ giúp các quốc gia chậm tiến phát triển, cung cấp
phương tiện dồi dào, mà vạch ra cả một lý thuyết, và các phương thức
thực hành cuộc phát triển này.
Những điều chứa đựng trong “Point IV”/ Điểm IV
của Tổng Thống Truman này là thâu tóm quan điểm của những tư tưởng gia
Hoa Kỳ về vấn đề phát triển. Theo quan niệm này, lý do chính của sự chậm tiến
của các quốc gia chậm tiến là họ thiếu vốn và “know how” (kỹ thuật).
Nếu các quốc gia này được cung cấp dồi dào - cho không, hay cho vay nhẹ
lãi - vốn, và kỹ thuật - qua các chương trình cung cấp chuyên viên, huấn
luyện người bản xứ tại chỗ hay trong các trường Đại học Hoa Kỳ - thì trong
một thời gian ngắn, họ sẽ phát triển, trở nên giàu có, không bị cọng sản
quyến dỗ nữa. Qua thực nghiệm sau mấy chục năm áp dụng, nó tỏ ra không
hiệu nghiệm, không đạt được mục đích. Vì sai lầm.
Trước hết là về thực chất của vấn đề.
Như Tùng Phong nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần,
muốn giải quyết một vấn đề, phải thấu triệt vấn đề đó. Vấn đề
Việt Nam là một vấn đề liên quan đến cộng đồng và lãnh đạo Việt Nam: “… các
biến cố xảy ra ở Việt Nam từ hơn hai mươi năm nay [1940-1960] là một ví dụ cụ
thể minh xác tính cách thiết yếu của sự hiểu biết vấn đề cộng đồng cần phải
giải quyết đối với đa số lãnh đạo….
“Đối tượng của quyển sách nầy là tìm xem vấn đề cần
phải giải quyết của cộng-đồng Quốc-Gia Việt Nam trong thời kỳ nầy là
vấn đề gì” (CĐVN, tr.42). Và tác giả đã giải thích tường tận, chi
tiết, vấn đề sống còn của Việt Nam, trong hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam, là
phát triển để thoát khỏi tình trạng thua kém về khoa học kỹ thuật bằng một
cuộc Tây phương hoá, “không e dè, không rụt rè, không ngần ngại” (CĐVN, tr.
76).Cuộc Tây phương hoá đó là ‘một cuộc Tây phương hóa tự ý muốn, do đó, có
đường hướng và có mục đích.” Nó cũng phải là một cuộc Tây phương hoá toàn
diện… nghĩa là trên lĩnh vực quân sự, chính trị, xã hội, và theo đó kinh tế
và văn hoá” (CĐVN, tr 144)
Về mục đích của công cuộc Tây phương hoá, Tùng
Phong viết: “Chúng ta sẽ chủ động cuộc Tây phương hoá nầy và sẽ đưa nó đến
một mức độ đủ cao để xã hội chúng ta tìm được những tiêu chuẩn giá trị mới
khả dĩ tạo cho nó một trạng thái điều hoà mới”. (CĐVN, tr. 137) Câu ngắn ngủi
này chứa đựng những ý niệm căn bản rất độc đáo của tác phẩm. Các ý niệm
này sẽ được bàn đến trong phần dưới đây: “Tây phương hoá ,“chủ động”, “mức độ
cao, “tiêu chuẩn giá trị mới”,”trạng thái điều hoà”…. Cần nhấn mạnh rằng tác
phẩm đề cập đến nhiều ý niệm độc đáo khác, nhưng không thể bàn trong bài này
vì quá nhiều.
Vấn đề cần được đặt trong bối cảnh riêng
biệt của nó. Việt Nam có ba bối cảnh:1/ tình hình chính trị thế giới,
2/các nước trong thế giới đang ứng phó với một thử thách tương tự,
3/các Quốc-Gia thuộc về một khối văn hoá với Việt Nam : các nước láng
giềng ở Đông-Á và Đông-Nam-Á (CĐVN, tr. 43).
Cuối cùng là phương thức nghiên cứu. Về điểm
này, tính chất vô tư và khoa học của công trình nghiên cứu
cần được bảo đảm, nên tác giả Tùng Phong đã cương quyết chọn
vị trí lịch sử, vì "thực tế lịch sử không có thể phủ nhận
được. Và trên nền tảng vững chắc đó mới có thể lấy óc khoa học mà suy luận
không sợ phạm vào những lỗi lầm căn bản". Tác giả cũng nhấn mạnh rằng
không bao giờ tác giả đứng vào các vị trí triết lý, tôn giáo, và lý thuyết vì
"đó là những lĩnh vực mà sự đối chọi giữa hai chủ trương trái ngược có
thể kéo dài vô cùng tận". Bất cứ trong lãnh vực nào - chính trị, văn hoá
và kinh tế - "sự nhận xét phân tách và suy luận của tác giả đều căn cứ
trên những sự kiện lịch sử và để một bên các lý thuyết... để tránh tất cả
những sự biện luận không thiết thực và do đó không thích hợp với mục đích của
quyển sách" (CĐVN, tr. 45-46).
IV
Cách tiếp cận nêu trên cần thiết để bảo đảm
sự lựa chọn những giải pháp thích nghi cho việc thực hiện những mục
đích mong muốn. Những mục đích này minh định do vị trí của Việt Nam trong thế
giới ngày nay, vừa trong lãnh vực địa dư, vừa trong lãnh vực tiến hoá chung
của nhân loại. Cùng với những điều kiện nội bộ riêng cho Việt Nam, các điểm
này chi phối mọi đường lối chính trị của chúng ta « ít lắm là vài thế
kỷ" (CĐVN, tr. 68).
Những mục đích tùy thuộc vị trí quốc
tế hiện tại của Việt Nam do các điểm sau đây minh định: 1/ Việt
Nam là một nước nhỏ kém mở mang; 2/ Theo truyền thống văn hoá,
Việt Nam thuộc vào xã hội Đông Á ; 3/Việt Nam thuộc vào khối các nước Á
Châu vừa thoát khỏi ách thực dân Đế quốc ; 4/ Việt Nam phải cần Tây
phương hoá như tất cả các nước không thuộc khối Tây phương để
1/ Tồn tại, bảo vệ độc lập,
2/ Phát triển đời sống kinh tế hầu xây
dựng hạnh phúc cho nhân dân. (CĐVN, - nt -)
Trong nhãn quan của Tùng Phong, trong hai mục đích
này, “Độc lập không phải là mục đích chính”. Phải độc lập
vì độc lập là “điều kiện tiên quyết và thiết yếu khẩn
thiết để thực hiện cho được cuộc Tây phương hoá… Có độc lập, chúng ta
mới chủ động được vận mạng của chúng ta và lãnh đạo được cuộc Tây phương hoá
mà sự thành hay bại quyết định tương lai của chúng ta trong mấy thế kỷ sắp
tới đây” (CĐVN, tr. 158).
Vấn đề chính của Dân Tộc Việt Nam
là vấn đề phát triển, và cuộc phát triển đó thực hiện qua một cuộc
Tây phương hoá. Sự thành bại của cuộc Tây phương hoá này quyết định tương lai
của Việt Nam, không những gần, mà trong mấy thế kỷ sắp đến. Cho nên vấn đề
được bàn đến trong Chính Đề Việt Nam là vấn đề phát triển -Tây phương
hoá. Vấn đề độc lâp được bàn đến, và rất chi tiết, như là một vấn đề dính
liền với nguy cơ tái lệ thuộc Trung Hoa nếu Việt Nam chọn con đường cộng sản
trong công cuộc phát triển.
Theo Tùng Phong “công cuộc phát triển Dân Tộc bằng cách
Tây phương hoá là một công cuộc liên hệ đến sự sống còn của Dân Tộc… một sự
kiện lịch sử dĩ nhiên, không thể tránh được, và ngoài công cuộc phát triển ấy
ra, Dân Tộc chúng ta không còn một lối thoát thứ hai” (CĐVN, tr.134-35).
Kháí niệm “Tây phương hoá” là khái niệm then chốt của tác
phẩm này nên chúng ta cần minh định nghĩa của danh từ và nội dung của khái
niệm để tránh ngộ nhận. Danh từ “Tây phương hoá” - “Westernization”
(theo Anh văn), hay “Occidentalisation” ( theo Pháp văn) - là một danh từ
thông dụng trong giới học giả và báo chí Tây phương trong những năm trước
1950. Nhưng các giới chính trị, trí thức Á Đông , đặc biệt là Ấn Độ và Trung
Hoa, chống việc sử dụng danh từ này vì họ cho rằng nếu Á Đông thua kém Tây
phương vế kỹ thuật khoa học họ lại hơn Tây phương về phương diện triết lý,
tinh thần, và nếu họ muốn kỹ nghệ hoá họ không muốn mang luôn văn hoá Tây
phương. Do đó, một danh từ khác, trung lập hơn, được dùng. Đó là “hiện đại
hoá”. Cho nên, trong bài này, “Tây phương hoá” nên hiểu là “hiện đại hoá”.
Thật ra, danh từ này rất sát nghĩa khái niệm “Tây phương hoá” của Tùng Phong.
“Tây phương hoá”, theo Tùng Phong, là thế nào?
“ Tây phương hoá là việc thâu nhận các kỹ thuật, lối suy
luận và nhiều tập quán của Âu-Mỹ, không làm cho chúng ta mất được bản chất
của Dân Tộc... Bản chất Dân Tộc chúng ta sẽ bộc lộ ra trong các sáng tạo của
chúng ta, và phương pháp sáng tạo của chúng ta, khi nào chúng ta đã chủ động
được các phương tiện và phương pháp sáng tạo Tây phương. Và đây là mục đích
chính của công cuộc Tây phương hoá mà chúng ta đang theo đuổi…; chúng ta cần
phải dốc hết nỗ lực vào công cuộc ấy, không e dè, không rụt rè, không
ngần ngại” (CĐVN, tr.76).
Hai điểm then chốt trong ý niệm trên là ta phải
chủ động công cuộc Tây phương hoá, và phải đi đến mức sáng tạo. Cuộc
Tây phương hoá này phải là một cuộc Tây phương hoá tự ý, không ép
buộc, vì “nếu chúng ta không tự ý Tây phương hoá, thì trước hết ta sẽ mất
chủ quyền định đoạt vận mạng của Dân Tộc chúng ta. Sau đó cuộc Tây phương hoá
vẫn sẽ thực hiện đối với chúng ta, nhưng không phải chúng ta lãnh đạo và
hướng dẫn. Một cuộc Tây phương hoá không được hướng dẫn sẽ mang đến sự tan rã
của xã hội chúng ta… Như vậy, giữa hai thái độ tự ý Tây phương hoá và bắt
buộc Tây phương hoá thế nào cũng phải lựa chọn thái độ tự ý Tây phương hoá”
(CĐVN, tr. 166).
Điểm thứ hai, đi đến mức sáng tạo, một mức cao, cũng là
một đặc điểm của cuộc Tây phương hoá mà Tùng Phong chủ trương. Theo ông,
“công cuộc Tây phương hoá chỉ hữu hiệu khi nào thực hiện đúng đến mức độ cao”
(CĐVN, tr. 153).
Thế nào là “mức độ cao”? Ông ta giải
thích:
“Tây phương hoá đến mức độ cao có nghĩa là Tây phương
hoá đến khi nào chúng ta chế ngự được khả năng sáng tạo khoa học của Tây
phương. Cho đến khi nào chưa ra khỏi giai đoạn hấp thụ khoa học và kỹ thuật
Tây phương, thì chúng ta vẫn chưa thoát lên đến mức độ cao. Chỉ khi nào chúng
ta sử dụng được, chẳng những là khoa học và kỹ thuật Tây phương, mà lại còn
cả phương tiện sáng tạo khoa học và kỹ thuật, thì chúng ta mới đạt đến mức độ
đủ cao trong công cuôc Tây phương hoá… Chỉ khi nào các chuyên viên của chúng
ta, sau khi hấp thụ được các kỹ thuật và khoa học của ngành mình, lại ý thức
rõ rệt rằng chỉ vừa bước đi qua một giai đoạn sơ khởi, và còn cần nỗ lực để
đạt đến chỗ chế ngự được khả năng sáng tạo trong ngành của mình, thì lúc bấy
giờ cuộc Tây phương hoá của chúng ta mới đi đúng đường và có hy vọng thành
công” (CĐVN, tr, 172)
“Chế ngự khả năng sáng tạo” là một ý niệm trừu tượng, tế
nhị, có thể gây hiểu lầm rằng “Tây phương hoá” đồng nghĩa với làm mất “bản
sắc Dân Tộc” . Chúng ta sẽ bàn về vấn đề này ở đoạn sau. Ở đây cần nhấn mạnh
rằng Tùng Phong rất ý thức điều này, nên ông ta đã đưa ra những giải
thích rất chi tiết và rõ ràng. Ông viết:
“Một cuộc Tây phương hoá, đến mức độ cao, chỉ thực hiện
được khi nào sự hấp thụ kỹ thuật Tây phương được thành tựu đến mức độ người hấp
thụ chế ngự kỹ thuật đó, để đến phiên mình sáng tạo. Và muốn chế ngự được kỹ
thuật đó, trước tiên phải thấu triệt được những nguyên lý của khả năng
sáng tạo và luyện được cách sử dụng khả năng đó” (CĐVN, tr. 463-464).
Có một quan niệm thông thường cho rằng Tây phương mạnh nhờ khoa học
của họ, và nếu chúng ta học được khoa học của
họ thì chúng ta cũng mạnh như họ. Nhưng, thật ra, nếu chúng ta
học được khoa học của Tây phương thì chúng ta cũng chưa mạnh bằng Tây
phương. Bởi vì: “khoa học cũng như tất cả các sáng tạo của Tây phương là
những hiện tượng nhìn thấy được của kỹ thuật Tây phương, chớ chưa phải là kỹ
thuật của Tây phương. Các sáng tạo kỹ thuật là sóng, nhưng chính kỹ thuật mới
là gió.“Kỹ thuật Tây phương đẻ ra khoa học, chớ không phải khoa học đẻ ra kỹ
thuật. Như vậy thì sự thâu thập khoa học chưa đủ để giúp cho người thâu thập
chế ngự được kỹ thuật Tây phương.” (- nt-)
Vậy nguyên do của khả năng sáng tạo của kỹ thuật
Tây phương là cái gì?
Tùng Phong cho rằng câu hỏi này “vô cùng quan
trọng cho công cuộc Tây phương hoá”. Có trả lời được, chúng ta mới thoả mãn
được một điều kiện của công cuộc Tây phương hoá đến mức đô đủ cao. Điều kiện
thứ hai là thực hiện được những điểm mà câu hỏi sẽ nêu lên: (- nt -)
Và giải đáp mà Tùng Phong đưa ra
là một giải đáp có thể nói là độc đáo, mới,
mà riêng tôi, xin thú thực là chưa hề được nghe
nói đến: kỹ thuật Tây phương hùng mạnh nhờ hai đức tính, xin
nhấn mạnh đức tính, vô cùng quý báu: 1/ chính xác về lý trí, 2/ ngăn
nắp và minh bạch trong tổ chức.
Tùng Phong nhấn mạnh rằng hai đức tính này là hai đức tính
của văn minh cố Hy Lạp và La Mã. Nó là nguồn sinh lực của kỹ thuật Tây
phương. Nó có trước mọi phát minh khoa học và đã phát sinh ra khoa học. Và nó
phải có nếu ta muốn đạt đến mức độ sáng tạo như Tây phương. Một sự thu thập
khoa học Tây phương dù có mười phần kết quả cũng vẫn chưa giúp cho ta chế ngự
được kỹ thuật Tây phương. “Một công cuộc Tây phương hoá chỉ chú trọng vào sự
thu thập khoa học Tây phương sẽ mãi mãi là một cuộc Tây phương hoá không đúng
mức, và cộng đồng nào chỉ nhắm vào mục đích thu thập khoa học Tây phương thì,
mãi mãi, sẽ lệ thuộc vào các sáng tạo kỹ thuật của Tây phương, và không khi
nào lên đến mức độ sáng tạo như Tây phương.” (CĐVN, tr. 468).
Vấn đề đã trở nên rất rõ: nếu chúng ta
muốn chế ngự được kỹ thuật Tây phương chúng ta phải rèn
luyện để có được hai đức tính:
1/ Chính xác về lý trí.
2/ Ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức.
Muốn rèn luyện hai đức tính trên
đây, “chúng ta phải chỉnh đốn đời sống hằng ngày cho ngăn nắp và minh bạch,
và ngôn ngữ của chúng ta cũng phải được chỉnh đốn cho ngăn nắp và minh
bạch... ;đời sống hằng ngày của chúng ta, và ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta
sẽ trở thành những dụng cụ sắc bén để giúp cho chúng ta rèn luyện chính xác
về lý trí và ngăn nắp và minh bạch trong tổ chức. Và ngôn ngữ đã chỉnh đốn
lại trở thành một khí cụ suy luận để chúng ta soi thấu vũ trụ vật chất và vũ
trụ tinh thần” (CĐVN, tr.468).
Về vấn đề Tây phương hoá có làm mất bản sắc Dân
Tộc, “mất quốc hồn quốc túy” hay không, Tùng Phong nói:
“Các Dân Tộc Tây phương đều sử dụng một kỹ thuật và tôn
sùng một khoa học như nhau. Tất cả đều có một lối suy luận lấy sự chính xác
của lý trí làm nền tảng. Và tất cả đều sống trong một khuôn khổ minh chiết
như nhau - sự sinh sống và ăn mặc đều như nhau - thế mà họ vẫn khác nhau
trong sáng tác. Như vậy là bản chất Dân Tộc họ vẫn giữ…. Biết như thế rồi
chúng ta mới thấy tánh cách vô ích của sự nơm nớp lo sợ mất quốc hồn và quốc
túy…” CĐVN, tr. 76)
Phần khác,
“… nếu thực sự một cuộc Tây phương hoá tự ý và có
lãnh đạo không làm tan rã xã hội lại có thể làm mất bản chất Dân Tộc, thì
chúng ta có thể quả quyết rằng một cuộc Tây phương hoá bắt buôc và không
hướng dẫn, [không làm]tan rã xã hội, chắc chắn sẽ làm mất mười lần hơn bản
chất Dân Tộc của chúng ta.”(CĐVN, tr. 166)
V
Trong những trang trên đây, ta thấy tác giả đề
cập rất nhiều đến những danh từ như: “xã hội”, “nỗ lực”, “rèn luyện”, “chế
ngự “, “chỉnh đốn”, “đức tính”, “lý trí”, “suy luận”… Đây là những
danh từ mang ý niệm trừu tượng thuộc về lãnh vực văn hoá. Điều này nói lên sự
khác biệt căn bản của lối tiếp cận vấn đề của Tùng Phong với lối tiếp cận
kinh tế, thống kê, chính trị của những học giả, chuyên gia chủ trương Point
IV/Điểm 4 về vấn đề phát triển. Lối tiếp cận của Tùng Phong là một lối
tiếp cận chú tâm vào các khía cạnh xã hội và tâm lý, nghĩa là văn hoá
. Đây là một lối tiếp cận đòi hỏi môt sự thấu triệt hoàn cảnh và tâm lý của
dân tộc muốn phát triển, một điều rất khó khăn và đòi hỏi nơi người nghiên
cứu, cũng như nơí người thực hành, những kiến thức rất sâu rộng, và một khả
năng dùng linh tính mà tâm lý học gọi là “introspection”, một khả năng mà
người ngoại quốc không có, mà ít người bản xứ dùng đến trong việc nghiên cứu
vì cho rằng nó “không khoa học”. Nhưng, nếu phối hợp với kỹ thuật ở mức độ
cao, như đã trình bày ở trên, nó là lối tiếp cận hữu hiệu nhất, và đưa đến sự
phát giác những giải pháp độc đáo và thích nghi nhứt, như ta sẽ thấy dưới
đây.
Mục tiêu của Tây Phương hóa là phát triển, và, như đã nói
ở trên, phát triển để có điều kiện bảo đảm sự tồn tại và độc lập, và xây dựng
hạnh phúc cho nhân dân. Công cuộc chính của phát triển là xây dựng lại xã hội
Việt Nam sau 80 năm thống trị của người Pháp.
Cuộc thống trị đó đã để lại một di sản
mà ngay nay dân Việt đang còn phải mang những hậu quả rất
tai hại: Ba gánh nặng nhứt là: 1/ một công cuộc hoá Tây phương bắt
buộc, 2/ một xã hội tan rã, 3/ một sự gián đoạn trong
vấn đề lãnh đạo.
Công cuộc Tây phương hoá bắt buộc làm cho chúng ta mất tin
tưởng vào các giá trị tiêu chuẩn cũ, và miễn cưỡng thâu thâp nền văn minh
mới. Vận mạng của chúng ta không phải do chúng nắm. Vì vậy, cuộc Tây phương
hoá mà chúng ta phải chịu đựng từ môt thế kỷ nay là một cuộc Tây phương hoá
bắt buộc, không mục đích, không được hướng dẫn.” Dân chúng bị lôi cuốn vào
một phong trào Tây phương hoá, “mà không hiểu Tây phương hoá để làm gì,
Tây phương hoá đến mức nào là đủ, và Tây phương hoá sao là đúng.” (CĐVN, tr.
268).
Tình trạng trên đây đã dẫn dắt đến sự tan
rã của xã hội của chúng ta. Các giá trị tiêu chuẩn
cũ đã mất hết hiệu lực, mà các tiêu chuẩn mới thì không có. Do
đó, tín hiệu tập hợp các phần tử đã mất. “Đó là một điều
vô cùng bất hạnh” vì chính là lúc này, lúc ta cần nhiều
nỗ lực liên tục của toàn dân và nhiều hy sinh lớn lao của mọi người, “sự có
một tín hiệu tập hợp vô cùng cần thiết để toàn dân trông vào và tin tưởng,
mới có đủ nghị lực mà cung cấp cố gắng trong một hoàn cảnh khổ hạnh”. (- nt
-)
Về vấn đề lãnh đạo, chúng ta đã lâm vào một sự
gián đoạn lãnh đạo” đến một trình độ trầm trọng nhứt”. Sự chuyển quyền không
thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Các bí mật [bí quyết]
Quốc gia và bí mật [bí quyết] lãnh đạo đều mất. Thuật lãnh đạo không truyển
lại được. Người lãnh đạo không có đủ, di sản dĩ vãng không bảo tồn được, văn
khố thất lạc và bị cướp bóc. ( - nt -) Đặc biệt là sự thiếu hụt
lãnh đạo này có môt ảnh hưởng tai hại: sự điều hoà giữa thiểu số lãnh đạo và
đa số chịu lãnh đạo để bảo đảm một trạng thái thăng bằng cần thiết cho sự ổn
định và tiến lên của xã hội không còn nữa.
Tái lập sự thăng bằng này là nhiệm vụ chính
trong công cuộc phát triển, và nó được Tùng Phong cứu xét rất tường
tận. Những tư tưởng rất mới mẻ, độc đáo và sáng suốt về vấn đề này là
những đóng góp lớn vào sự soi sáng vấn đề phát triển của các nước chậm tiến.
Theo nhận xét, rất đúng, của Tùng Phong , xã hội gồm hai
khối: thiểu số lãnh đạo, và đa số chịu lãnh đạo.Xã hội nào cũng có mâu thuẫn
nội bộ, giữa những nhu cầu cá nhân và những nhu cầu của cộng đồng, giữa những
nhu cầu ngằn hạn và những nhu cầu dài hạn của cộng đồng, giữa những mức độ
đóng góp hy sinh mà lãnh đạo thấy cần và đa số chịu lãnh đạo chịu chấp nhận….
Những mâu thuẫn này phải được điều hoà thì xã hội mới ổn định và tiến được.
Tùng Phong đã phân tách vấn đề một cách chi tiết như sau:
“Một cộng đồng trong toàn bộ gồm nhiều phần tử cá nhân hợp
thành, chia làm hai khối, thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh
đạo. Thiểu số lãnh đạo có trách nhiệm với vận mạng của cộng đồng.
“Cộng đồng có tồn tại mới bảo đảm được phát triển
của cá nhân. Cộng đồng tồn tại nhờ cố gắng và hy sinh của cá nhân, tình
nguyện hay cưỡng bách, đóng góp. Nhưng lý do của cuộc sống là sự thoả mãn ước
vọng của cá nhân.
“Nói một cách khác lý do của cuộc sống là lý do cá nhân.
Mà điều kiện của cuộc sống là điều kiện cộng đồng. Vì thế cho nên, ngay trong
bản chất đã có sự mâu thuẫn giữa quyền lợi của cộng đồng và quyền lợi của cá
nhân trong cộng đồng. Một mâu thuẫn như thế thuộc vào loại mâu thuẫn lúc nào
cũng có ở trong nội tâm của mọi phối hợp sáng tạo giữa hai lực lượng tương
phản.
“Cứu cánh của sự lãnh đạo là thực hiện một trạng thái điều
hoà tuyệt đối giữa hai hình thức của một sự thăng bằng đồng tiến, nghĩa là
hai lực lượng tương phản sẽ dựa nhau và kích thích nhau để tiến, thì toàn thể
cộng đồng sẽ tiến triển. Nếu sự điều hoà được thực hiện dưới hình thức một sự
thăng bằng tỉnh chỉ, nghĩa là hai lực lượng tương phản sẽ đóng khung và kềm
giữ nhau, toàn thể cộng đồng sẽ mất đà tiến và trở thành trụ đóng. Nếu sự
điều hoà không được thực hiện, cộng đồng sẽ tan vỡ.” (CĐVN, tr. 18)
Những mâu thuẫn giữa hai quyền lợi cá nhân
và cộng đồng có khi nặng, khi nhẹ. Trong những thời kỳ bình
thường, cộng đồng không đứng trước một thử thách khó khăn, và không đòi hỏi
sự đóng góp nhiều của cá nhân. Nhưng cũng có những thời kỳ mà cộng đồng phải
đương đầu với một cuộc thử thách nghiêm trọng, và sự sống còn của cộng đồng
đòi hỏi nhưng sự đóng góp to tát. Ngoài sự bảo vệ trật tự xã hội còn phải quy
tụ những phương tiện vật chất và nhân sự vượt quá thông thường để đưa cộng
đồng lướt qua các trở lực.
Sự mâu thuẫn khi nào cũng có. Nhưng trong trường hợp
trầm trọng, trạng thái điều hòa rất khó thực hiện, sự tan
vỡ của cộng đồng có thể đến bất cứ lúc nào, và, trong thực tế,
nó trở thành một vấn đề cho lãnh đạo vì “sự mâu thuẫn giữa hai quyền
lợi cộng đồng và cá nhân sẽ biến hình thành sự mâu thuẫn giữa thiểu số lãnh
đạo và đa số chịu lãnh đao, vì đa số lãnh đạo, nhân danh cộng đồng đòi hỏi sự
đóng góp của đa số chịu lãnh đạo” (CĐVN, tr.19)
Sự mâu thuẫn càng ác liệt nếu đại đa
số không có ý thức cộng đồng và không hiểu biết
vấn đề cần phải giải quyết của cộng đồng. Trường hợp này dễ xảy ra
trong các cộng đồng nghèo nàn về vật chất và ấu trĩ trong tổ chức. Đa
số chịu lãnh đạo không được cộng đồng bảo đảm cho những cần thiết tối thiểu
và sơ đẳng nên không có lý do tâm lý để biết đến cộng đồng, và mãi bận tâm
giải quyết các vấn đề của đời sống hàng ngày, không có thì giờ để hiểu biết
vấn đề của cộng đồng.
Ở đây ta thấy rõ tầm quan trọng của lãnh đạo và sự
tham gia tự ý của đại đa số. Trong thời kỳ bình thường có thể cưỡng
bách đại đa số tôn trọng luật lệ của cộng đồng. Nhưng trong thời kỳ thử
thách, uy tín vững chắc của một lãnh tụ, hay sự cưỡng bách bằng võ lực không
thay thế được sự đóng góp có ý thức vào nhu cầu của cộng đồng. Điều kiện
thiết yếu để thực hiện sự tự giác đóng góp như vậy là “đa số chịu lãnh đạo
phải ý thức cộng đồng và hiểu biết vấn đề cần giải quyết cần phải giải quyết
của cộng đồng”. Và có như vậy thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo mới
“điều hoà và tạo cho cộng đồng sinh lực cần thiết để vượt qua các thử thách
quyết liệt đang đợi chờ.” (CĐVN, tr.20)
Cần nhấn mạnh ở đây rằng sự đa số chịu lãnh
đạo cũng phải ý thức vấn đề của công đồng rất quan trọng vì
như vậy nó mở rộng địa bàn xoay xở của thiểu số lãnh đạo cho họ tránh được
nhiều lỗi lầm chiến thuật do sự tranh đấu gay go gây ra. Nhờ đó mà sự phối
hợp giữa thiểu số lãnh đạo và đa số chịu lãnh đạo sẽ không sứt mẻ, và của các
quyết định chiến thuật không mất hữu hiệu.
Qua những điều vừa trinh bày ở trên, ta thấy
Tùng Phong coi vấn đề lãnh đạo là chính yếu, và, thực ra, Chính
Đề Việt Nam là một tài liệu được soạn đặc biệt như là một tài liệu học
tập để huấn luyện cán bộ cao cấp của chế độ về nghệ thuật trở thành những
người “lãnh đạo xứng danh”. Tuy nhiên, như ta đã thấy, tài liệu này có một
tầm quan trọng vượt xa không những chế độ Cọng Hoà I, mà ngay cả Việt Nam: nó
có giá trị một tài liệu học tập quý báu cho cán bộ các nước chậm tiến muốn
hiện đại hoá.
Những nhận xét trên đây cho thấy rằng, đối với người
lãnh đạo “xứng danh”, các vấn đề tổ chức và giáo dục quần
chúng cũng rất hệ trong. Nó cũng được Tùng Phong soi sáng, nhưng
ta không thể bàn đến trong khung khổ của bài này.
Vấn đề then chốt kế tiếp cần được soi
sáng, sau khi đã được thấy rõ vấn đề chính của Việt Nam, lối
tiếp cận hữu hiệu, và một giải pháp thích nghi để giải quyết
vấn đề, là vấn đề lựa chọn dụng cụ để thực hiện giải
pháp đó: vấn đề “khung cảnh chính trị.”
VI
Vấn đề “khung cảnh chính trị”
là vấn đề tìm cho Việt Nam “một chính thể thích nghi cho
Dân Tộc”. Chính thể đó “không phải định đoạt do một
sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị hay
là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được quy định một cách rõ
rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát
triển của Dân Tộc….” Đặt vấn đề như vây là xét vấn đề phát triển từ góc đô
địa lý chính trị và văn hoá, một lối tiếp cận vấn đề phát triển mới và độc
đáo.
Một điều độc đáo và mới nữa là trong sự tìm một
con đuờng thích nghi cho sự phát triển Việt Nam, Tùng Phong chú tâm vào nguy
cơ Việt Nam bị xâm lăng, và đặc biệt nguy cơ bị lệ thuộc Trung Hoa. Trong sự
cứu xét kỹ vấn đề này ông đã đưa ra những cảnh báo có tính cách tiên tri, vì
tuy đưa ra cách đây 50 năm, ngày nay nó đang xảy ra ngay dưới mắt chúng
ta.
Tùng Phong đặt sự phân tách vấn đề trên hai
dữ kiện: 1/ hoàn cảnh địa dư lịch sử của Việt Nam, và 2/
tình trạng nội bộ của Việt Nam.
Ngay trong trang mở đầu của tác phẩm, ông đã
đặt vấn đề như sau:
"Việt Nam là một nước nhỏ - về dân số, về lãnh thổ,
về kinh tế kém phát triển, về phần đóng góp vào văn minh nhân loại. Cho nên
lúc nào cũng bị các nước lớn chi phối, lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên
tục của ngoại xâm, và “và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa
Dân Tộc Việt Nam”. (CĐVN, tr.13) Ở một đoạn dưới Tùng Phong cảnh báo: “bao
giờ yếu tố đó chưa thay đổi thì họa xâm lăng vẫn còn”.(CĐVN, tr.236).
Nói đến “địa dư” là nói đến sự kiện
Việt Nam nằm sát biên giới Trung Hoa. Nói đến “tình trạng nội bộ của chúng
ta” là nói đến tình trạng Bắc Việt đã chọn con đường Cộng Sản., nghĩa là chế
độ Độc tài Đảng trị như Trung Hoa.
Phương pháp Độc tài Đảng trị là một
phương pháp hấp dẫn đối với nhiều người lãnh đạo khi có một chương trình
vĩ đại cần được thực hiện trong một thời gian ngắn vì nó dưạ trên căn bản
chặt hết các dây liên hệ của từng cá nhân bất cứ dưới hình thức gia
đình, xã hội, tôn giáo và văn hoá, và thay vào đó bằng những liên hệ duy nhứt
với một Đảng chính trị duy nhứt nắm chính quyền. Nó biến mỗi cá nhân thành ra
một bộ phận rất dễ sai khiến, dễ uốn nắn của bộ máy khổng lồ nhiều khả năng nhưng
cũng dễ xử dụng trong tay người lãnh đạo. (CĐVN, tr.302-04)
Nhưng, về phần miền Nam thì Tùng Phong
quả quyết: nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải
thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng “chính thể đó
không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất
rõ rệt” (CĐVN, tr.244-245).
Lý do của thái độ dứt khoát trên đây là một chế độ
Độc tài Đảng trị không thể đưa đến một trạng thái điều hoà mới trong đó tiêu
chuẩn mới sống chung với tiêu chuẩn cũ, “vì [nó] phủ nhận quyền tư hữu, bài
trừ tôn giáo, vân vân, đã nhân danh quyền lợi của cộng đồng mà bóp chết cá
nhân, do đó tiêu diệt trạng thái thăng bằng động tiến căn bản trong một cộng
đồng, giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng. Trạng thái thăng bằng
biến mất, vì hai lực lượng tương phản không còn để tạo ra một cuộc phối hợp
sáng tạo. Sinh lực sáng tạo không có thì sự tiến hoá trong tương lai của cộng
đồng không bảo đảm” (CĐVN, tr. 305).
Không có một quốc gia Tây phương nào thực hiện phát
triển bằng Độc tài Đảng trị. Ngay cả Nga Sô cũng phải
từ bỏ chế độ đó và trở về với những
giá trị tiêu chuẩn có tính cách di sản của nhân loại. Bài học của
Nga Sô chứng minh rằng phương pháp Độc tài Đảng trị Cộng Sản không thế
nào bảo đảm được sự thành công của một công cuộc phát triển Dân Tộc toàn
diện. Nó đòi hỏi phải thay thế các giá trị tiêu chuẩn, và đả phá tận nền tảng
Mác-Lê. Lãnh đạo Nga Sô không muốn vậy, nhưng “thực tế lịch sử đã dồn họ vào
cái thế không làm sao không thay đổi được”. Điều nhận xét nay được đưa ra năm
1960, 40 năm trước khi khối cộng sản tan rã, và Liên Bang Nga Sô và Đảng Cộng
Sản Liên Sô bị giải thể….
Trong bối cảnh trên đây, câu hỏi được đặt
ra là: sau khi độc lập đã khai phục, Dân Tộc chuyển qua giai đoạn phát
triển, đường lối Cộng Sản còn thích hợp hay không? Giải đáp cho câu hỏi này
liên quan đến sự bang giao giữa Trung Hoa và Việt Nam.
Về phía Trung Hoa, Tùng Phong nhận xét:
“Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc,
các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hoà thuận với Trung Quốc và
tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn
không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung hoa, suốt thời gian
gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi
như tạm mất” (CĐVN, tr.235)
Tùng Phong nhắc lại rằng trong 900 năm (939-1840) Trung
Hoa đã bẩy lần toan chiếm Việt Nam.
“Một hành đông liên tục như vậy nhứt định có nghĩa là tất
cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt nền thống trị
trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh
tế định: lưu vực sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các
tỉnh Tây Nam của Trung Hoa. Đã như vậy, ngay từ bây giờ [1960], ý định của
Trung Hoa vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra
cũng Bắc phần…” (CĐCV, tr. 235)
Thế còn dữ kiện Trung Cộng ủng hộ viện trợ cho
Việt Nam, và đặc biệt đã giúp Việt Nam thắng trong trận Điện Biên Phủ? Tùng
Phong giải thích: Trung Cộng đã viện trợ cho Bắc Việt vì, trong hoàn cảnh
phát triển nghiêm khắc của họ, họ phải nỗ lực vận động một mặt trận đồng minh
thế giới làm hậu thuẫn cho chương trình phát triển của họ. Vả lại ta phải tự
hỏi: họ đã gíúp khí giới kỹ thuật và phương tiện cho Việt Nam chiến thắng vì
họ thân Việt Nam hay vì họ bài Mỹ, và khi viện trợ như vậy họ coi Việt Nam là
một đồng chí Cộng Sản hay là một phần đất cũ xưa kia, và nay sắp gần được gồm
thâu vào lãnh thổ của họ”?( - nt--)
Với cuộc phát triển đang
thực hiện “nước Tàu của Mao Trạch Đông còn cần dùng con đường ra
biển “hơn cả các triều đại trước đây của Trung Hoa”. Viện
trợ cho Bắc Việt, trên quan điểm đó, là để dành quyền sử dụng con
đường ra biển ‘khi thời cơ đến” (CĐCN, tr.29). Cho nên “Đối với Dân Tộc Việt
Nam, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như của các triều đại Nguyên, Tống,
Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp” (CĐVN, tr. 286).
Những nhận xét trên đây được đưa ra vào khoảng năm 1960.
Ngày nay, 50 năm sau, trong bối cảnh Trung Hoa cưỡng chiếm các đảo Trường Sa,
Hoàng Sa, Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, hải phận Vịnh Bắc Việt,
v.v…, nó nói lên sự sáng suốt của những người lãnh đạo Cọng Hoà I, và
sự thất thiệt lớn lao cho xứ sở do sự mất những người lãnh đạo này do
những biến cố năm 1963 gây nên.
VII
Những điều vừa trình bày trên đây cho phép trả lời
một cách dứt khoát câu hỏi: ngày nay, đường lối Cộng Sản còn thích hợp không?
Giải đáp là: không. Không những đúng cho thời gian 1960, mà hiện nay, 2009,
lại còn đúng hơn nữa. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu cho thật rõ: tại
sao, như Tùng Phong giải thích dưới đây.
Chủ trương Cộng Sản chẳng những không giải
quyết được vấn đề của Quốc Gia Việt Nam trong thời kỳ này
[1960] của cộng đồng, mà lại “sẽ đưa Dân Tộc vào một con đường đen tối cho
nhiều thế hệ tương lai” (CĐVN, tr.27) và “sự gắn liền vận mạng của chúng ta
vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc” (CDVN, tr.290).
Tùng Phong nhận xét: mối liên hệ giữa Cộng Sản Việt
Nam với Trung Quốc làm “tái hiện dũng mãnh”, sau một trăm năm vắng mặt, “ký
ức thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta”, và cảnh báo:
“Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự
chi phối của Trung Cộng, đã đặt ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành
động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển
của chúng ta, mà còn đe dọa sự tồn tại của Dân Tộc…"
“Sở dĩ ngày nay [1960], sự thống trị của Trung Cộng đối
với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho
phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực
vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt Nam bị Bắc
Việt thôn tính, thì sự thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian” (CĐVN,
tr.301).
Ngày nay, năm 2009, những cảnh báo trên đây không còn
là cảnh báo nữa, mà đã thành hiện thực: sự thôn tính Nam Việt
bởi Bắc Việt đã mở đường cho Trung Quốc thôn tính toàn Việt Nam.
Tùng Phong viết: “các nhà lãnh đạo phía Bắc vẫn chưa
nhận thức được nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc và những ngày đen tối
của chúng ta vẫn còn tiếp tục” vì “những người lãnh đạo này đang còn say mê
thuyết Cộng Sản và đương nhiên đưa nó lên hàng một chân lý” trong khi Nga Sô
và Trung Cộng chỉ coi nó là một phương tiện. Đưa một phương tiện của ngưòi
lên làm chân lý của mình là mặc nhiên hạ mình xuống thấp hơn một bực đối với
các lãnh tụ cộng sản quốc tế, “và tự biến mình thành một thứ nô lệ trí thức
cho người sai khiến”. Vì vậy cho nên, trong nhiều hành động chính trị của các
nhà lãnh đạo phía Bắc “lý thuyết được để lên trên quyền lợi Dân Tộc” (CĐVN,
tr. 290).
Vì sự lệ thuộc về lý thuyết, các lãnh đạo Cộng Sản Việt
Nam đã hy sinh quyền lợi Dân Tộc Việt Nam cho quyến lợi của Dân Tộc Trung
Hoa. Nếu đặt quyền lợi của Dân Tộc trên hết, “thì không có lý do gì để binh
vực sự gắn liền vận mạng công cuộc phát triển của chúng ta với vận mạng công
cuộc phát triển của Trung Cộng” (CĐVN, tr.338).
Tùng Phong nói :”sự gắn liền vận mạng của chúng ta
vào vận mạng Trung Cộng là một hành động di hại cho Dân Tộc”. (CĐVN, tr. 290)
Sự áp dụng các phương pháp huy động nhân lực Trung Cộng vào trường hợp Việt
Nam, mặc dầu hoàn cảnh phát triển của chúng ta không hề đòi hỏi những phương
tiện như vậy, là “làm sống lại tâm lý thuộc quốc gần như đã chết trong thế
kỷ, của những người tự ty mặc cảm trước “Trung Hoa vĩ đại”, lúc nào
cũng xem Việt Nam là “một Trung Hoa con con” (CĐVN, tr. 342). Nếu Trung Hoa
diễn tuồng trên sân khấu 100 m2, Việt Nam cũng phải diễn cùng một
tấn tuồng trên 1 m2 . “ Ngày nay, vì nước Tàu thi hành
phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách rộng lớn ,thì Bắc Việt cũng
phải thi hành phương pháp Độc tài Đảng trị kinh khủng một cách nho nhỏ” (- nt
-)
Sự quy phục thuyết Cộng Sản “sẽ đương nhiên biến sự
đe doạ thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam thành thực tế…”; các nhà lãnh
đạo Cộng Sản áp dụng phương pháp Độc tài Đảng trị ở Việt Nam “sẽ đương nhiên
tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng xâm chiếm Việt Nam” vì phương pháp đó
“sẽ suy nhược hoá sức đề kháng của Dân Tộc đối với kẻ xâm lăng” (CĐVN,
tr.373).
“Trong tình thế chính trị chúng ta được mục kích, sự quy
phục thuyết Cộng Sản của các nhà lãnh đạo Bắc Việt tự nó là một sự thần phục
Trung Cộng, như các triều đại xưa của chúng ta thần phục Trung Hoa…”
(CĐVN, tr.374).
“Sự quy phục lý thuyết Cộng Sản sẽ đương nhiên gắn
liền vận mạng công cuộc phát triển Dân Tộc chúng ta vào vận mạng công cuộc
phát triển của Trung Hoa… Như vậy có nghĩa là “chúng ta tự ý bỏ công cuộc
phát triển của chúng ta” ( - nt - )
Sự lệ thuộc trên đây là một
lệ thuộc nặng nề của Việt Nam đối với văn hoá Tàu.
Từ ngày lập quốc, cách đây hơn một ngàn năm, sự chi phối của Trung
Hoa đối với Việt Nam nặng nề đến đỗi tâm lý thuộc quốc bao trùm
mọi lĩnh vực của đời sống của Dân Tộc.
Tâm lý này xuất phát từ hai sự kiện:
tự ty mặc cảm đối với “Trung Hoa vĩ đại”,
và sự lệ thuộc của ta đối với văn hoá Tàu. Những lời ca
tụng “Trung Hoa vĩ đại” của miền Bắc, những điệu âm thanh
Trung Cộng của đài phát thanh Hà Nội, những điệu vũ nữ hoà bình, và những y
phục theo Tàu đều là “những biểu lộ thiết thực của một sự lệ thuộc văn hoá
càng ngày càng sâu đậm của miền Bắc đối với Trung Cộng” bởi vì “các nhà lãnh
đạo miền Bắc đã chấp nhận một sự lệ thuộc tư tưởng” (CĐVN, tr. 375).
Mà cũng vì lệ thuộc chủ nghĩa Cọng
Sản mà cuộc chiến đấu dành độc lập của chúng ta tiêu hao bao sinh
lực Dân Tộc, mà xảy ra tình trạng chia đôi đất nước, mà chiến tranh
tàn phá cái vốn nhân lực và tài nguyên của chúng từ hai mươi
năm nay. (CĐVN, tr 376). Từ mười năm nay [1954] Bắc Việt chưa thực hiện được
những mục tiêu đáng kể, trong khi các thực hiện của Nam Việt đều bị du
kích quân Băc Việt phá hoại. Bao nhiêu sinh lực của Dân Tộc đã bị phí phạm.
Tùng Phong nhận xét rằng: “Chưa có một triệu chứng nào
chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức những điều kiện
trên. Thư lại chính trị miền Băc vẫn còn đang ca tụng như những chân lý những
giá trị tiêu chuẩn và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ” (CĐVN, tr.287). Và cũng vì các
lý do trên đây, Tùng Phong nói, “chúng ta có thể quả quyết rằng các nhà
lãnh đạo phía Bắc chưa nhận thức nguy cơ đang đe dọa Dân Tộc, và những ngày
đen tối của chúng ta vẫn còn tiếp tục” (CĐVN, tr. 217).
Những nhận xét và cảnh báo trên đây là những
nhận xét và cảnh báo thốt ra năm 1960. Những gì xảy ra từ 1975 chứng tỏ rằng
tình hình càng ngày càng trầm trọng hơn thêm, và lại còn đen tối hơn là Tùng
Phong đã dự đoán. Ngày nay, 2009, Trung Hoa không những đe dọa sự tồn tại của
Việt Nam, mà đang thực sự thôn tính Việt Nam. Nhân danh xã hội chủ nghĩa và
cách mạng thế giới Cộng Sản Trung Hoa đả cỡi lưng Cộng Sản Việt Nam bành
trướng ách thống trị của Trung Hoa qua vĩ tuyến 17, bao luôn Cao Nguyên Nam
Phần, xuống tận Cà Mau.
Năm 1960, Tùng Phong còn hy vọng rằng “sự tồn tại miền Nam
là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách thống trị Trung Cộng, vừa là bảo
đảm cho cơ hội phát triển của chúng ta, và vừa là một lối thoát cho các nhà
lãnh đạo Băc Việt khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…; sự mất còn
của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong
tương lai của Dân Tộc.” (CĐVN, tr. 301-302).
Không may cho Dân Tộc Việt Nam, hy vọng lớn trên đây
đã không thành . Cuộc đảo chánh tháng 11, năm 1963, và những
sự xáo trộn nó gây ra, tạo ra một tình trạng miền Nam vô chính phủ, vô
lãnh đạo, sinh lực sút giảm; đồng thời những xáo trộn do những lực lượng phản
chiến Hoa Kỳ áp lực chính phủ Mỹ phải bỏ rơi Việt Nam, tạo ra một tình trạng
hỗn loạn, suy sụp, tạo điều kiện cho Cộng Sản chiến thắng và thôn tính miền
Nam. Đặc biệt là lúc đó, họ càng tin là họ đã đúng đường. Nhưng, ngày nay,
sau những gì đã xảy ra từ lúc Cộng Sản xâm chiếm miến Nam, càng ngày càng rõ
rằng những gì Tùng Phong nói lên trên đây trong Chính Đề Việt Nam là
đúng: sự mất còn của miền Nam là một bảo đảm cho Dân Tộc thoát khỏi ách
thống trị Trung Cộng, vùa là lối thoát cho các nhà lãnh đạo Bắc Việt khi họ ý
thức nguy cơ họ đang tạo cho Dân Tộc…
Điều vừa nêu lên giúp làm sáng tỏ một vấn đề đã làm dư
luận bàn tán nhiều năm 1963, và trong thờì gian qua, vẫn còn được nhiều người
đề cập đến. Năm 1963 có những tin đồn rằng ông Ngô Đình Nhu (Tùng Phong) liên
lạc với Cọng Sản. Điều này nay đã được những người thân cận xác nhận. Nhưng
điều quan trọng nhất - để làm gì - thì ngoài ông Nhu ra, không ai biết ông
Nhu và những người bên kia bàn gì với nhau. Nay ông Nhu đã mất, điều này
vẩn chưa được soi sáng vì không có, và không còn nhân chứng, trừ anh Cao Xuân
Vỹ; mà chính anh Cao Xuân Vỹ cũng không được biết.
Nay, chỉ
còn tôi là người nhân chứng duy nhứt. Nhưng tôi chỉ làm nhân
chứng những điều sau đây do chính ông Nhu đã tiết lộ trong một cuộc họp
báo với ký giả ngoại quốc vào cuối tháng 9, năm 1963. Tôi là thông dịch
viên trong buổi họp báo đó, (xin xem hình kèm) và tôi đã nghe và thông dịch
hai điều sau đây: 1/ ông đã tiếp Trần Độ ngay “trong phòng này”, văn
phòng của ông, nơi mà ông đang tiếp các ký giả, 2/ Trần Độ có hỏi ông: “Nếu
chúng tôi buông súng thì Việt Nam sẽ thế nào?”
Như vậy nghĩa là:
1/ Ông Nhu đã có tiếp xúc
với phía Cộng Sản;
2/ Ông Nhu đã có đề cập đến vấn
đề phía Cộng Sản ngưng chiến.
Với những lý luận gì? Nay Chính Đề Việt
Nam - ta nên nhớ rằng tác phẩm này được hoàn tất vào năm 1962
- cho phép ta nghĩ rằng Ông Nhu đã nói với phía bên kia như sau:
1/ Chuyên chế Độc tài Đảng trị không
thể chấp nhận được, và khư khư ôm lấy thuyết Cộng
Sản, như các nhà lãnh đạo miền Bắc đang làm, là sai, vì nó không thich nghi
với hoàn cảnh đặc biệt của Việt Nam và không giải quyết được vấn đề phát
triển/hiện đại hoá của Dân Tôc Việt Nam được.
2/ Áp dụng thuyết Cộng Sản là thần phục Trung Hoa, tái lập
sự lệ thuôc của Dân Tộc Việt Nam đối với Trung Hoa như dưới các triều xưa, và
tạo điều kiện cho Trung Hoa xâm chiếm Việt Nam.
3/ Sự tồn tại của miền Nam là một
lối thoát cho lãnh đạo miền Bắc khỏi mang tiếng là đã hy sinh quyền lợi của
Dân Tôc Việt Nam, và phục vụ quyền lợi Trung Hoa.
Như ta đã thấy ở đoạn trên, Ông Nhu than
phiền rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc đã mù quáng không chịu
bỏ thuyết Cộng Sản, vẫn cho đó là chân lý, nhất quyết “trụ” với giải
pháp Độc tài Đảng trị, và quy phục Trung Cộng.
Đó là năm 1962. Bây giờ, năm 2009, tình trạng lại trầm
trọng và khẩn trương hơn. Và không biết bao giờ lại mới có cơ hội, và một sự
lãnh đạo sáng suốt để bảo đảm công cuộc phát triển để giải quyết vấn đề đặt
ra cho Dân Tộc Việt Nam từ một ngàn năm: "cởi bỏ cho Dân Tộc tâm lý
thuộc quốc đối với Trung Hoa”, như Lý ThườngKiệt và Nguyễn Huệ đã làm. (CĐVN,
tr.342)
Dù sao, ngày nay, với Chính Đề Việt Nam,
lối tiếp cận và giải pháp đã có; ngoài hai điều kiện vừa nêu trên, chỉ cần
một điều kiện căn bản hơn cả, mà Tùng Phong đưa ra trong phần kết thúc
tác phẩm. Đó là:
“Trong tình hình chính trị thế gới hiện nay, và trong
trình độ tiến hoá của nhân loại hiện nay, các vấn đề Dân Tộc Việt Nam, trong
thời kỳ này, chỉ có thể tìm ra được một giải đáp nếu chúng ta trụ vào vị
trí Dân Tộc”. (CĐVN, tr.503)
Và Tùng Phong kết luận vói một lời nhắc và hai
lời kêu gọi.
Lời nhắc đề cập đến một thực tế mà ta
không thể phủ nhận được. Đó là dưới áp lực của nhân
khẩu, Trung Hoa phải bành trướng. Sự bành trướng này đã mở màn. “Nếu chúng ta
không thức tỉnh thì một trong những nạn nhân đầu tiên của sự bành trướng nói
trên sẽ là chúng ta. Chỉ tưởng tượng đến viễn ảnh đó cũng đủ làm cho chúng ta
khủng khiếp.”
Và hai lời kêu gọi, một lời hướng về miền Nam,
và một lời hướng về miền Bắc:
1/ “công cuộc chống sự xâm lăng của miền Bắc không
lúc nào khẩn thiết cho cộng đồng Dân Tộc Việt Nam bằng trong lúc này hết;
2/ “chúng ta mong mỏi các nhà lãnh đạo miền Bắc kịp
thời nhận định đã đến lúc, vì sự tiến hoá của Dân Tộc, không nên tiếp tục sự
trụ-đóng vào phương tiện Cộng Sản nữa”
.(CĐVN, tr.505-506)
Ngày nay, miền Nam không còn nữa, mà Tùng Phong cũng
không còn nữa, nhưng lời nhắc và những lời kêu gọi trên lại còn
thích hợp hơn lúc nào hết.
Viết cho Đặc San
Vào dịp Lễ Tưởng Niệm Tống
Thống Ngô Đình Diệm
Tháng 11, năm 2009