Di Sản Hồ Chí Minh
Chọn lựa duy nhất của dân tộc Việt Nam
Căng thẳng trên Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông Nam Á cao thêm một nấc sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong Vùng Đặc quyền Kinh tế Việt Nam từ 2 tháng 5 năm 2014.
Đại Dương
(VNTB) Căng
thẳng trên Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông Nam Á cao thêm một nấc sau
khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong Vùng Đặc quyền
Kinh tế Việt Nam từ 2 tháng 5 năm 2014.
Bắc
Kinh tự ý rút giàn khoan về gần đảo Hải Nam vào 15 tháng 7, trước thời
hạn dự trù 1 tháng làm cho tình hình căng thẳng trên Biển Nam Trung Hoa
chùng xuống đôi chút theo chiến thuật "căng chùng, chùng căng" cố hữu
của chủ nghĩa Đại Hán.
Trung
Cộng nói vì bão, do đã hoàn tất việc thăm dò dầu hoả nên cần thời gian
để nghiên cứu các dữ kiện, số liệu thu thập trước khi quyết định sẽ làm
gì tiếp theo. Quyết định của Bắc Kinh nhằm ngăn Việt Nam theo chân Phi
Luật Tân mà kiện ra trước các Toà án Quốc tế và kéo Hà Nội vào bàn đàm
phán song phương để phá vỡ chủ trương quốc-tế-hoá tranh chấp Biển Đông.
Việt
Nam hân hoan vì đã hành động khôn ngoan, tránh được xung đột quân sự
nên cùng với cộng đồng quốc tế tạo sức ép buộc Trung Cộng phải thoái
lui.
“Lý tưởng tương thông”
Nhưng,
nguồn gốc tranh chấp và xung đột trong khu vực vẫn sừng sững, đe doạ
các quốc gia duyên hải Đông Nam Á như Việt Nam, đòi hỏi những biện pháp
ngăn ngừa hữu hiệu.
Việt
Nam nằm trong khâu yếu nhất của chiến lược “cường quốc đại dương” xuất
phát từ con đường “Giấc mơ Trung Hoa Vĩ đại” được Chủ tịch Tập Cận Bình
đẩy mạnh kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2013 trong điều kiện Chính phủ
Barack Obama nói nhiều làm ít.
Với “Sơn thuỷ tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hoá tương đồng, Vận mệnh tương quan” do Giang Trạch Dân ban cho vào tháng 11 năm 1991, có nghĩa “Sông núi gắn liền, Cùng chung lý tưởng, Hoà nhập văn hoá, Có chung định mệnh” được đảng Cộng sản Việt Nam khái quát thành “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai” như chiếc thòng lọng buộc vào cổ dân tộc Việt Nam.
Bắc
Kinh muốn “đập” Phi Luật Tân một trận để dằn mặt, nhưng chạm phải Hiệp
ước Phòng thủ Hỗ tương Mỹ-Phi và sự khôn ngoan, quyết đoán của Tổng
thống Benigno Aquino III vì dám kiện Trung Cộng ra trước Toà án Trọng
tài về Luật Biển năm 1982. Aquino thừa nhận Phi Luật Tân yếu nên phải
nhờ Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản bảo vệ bằng cách cho phép quân đội Mỹ tiếp cận
nhiều căn cứ quân sự. Aquino tiếp nhận khí tài quân sự và sẵn sàng chấp
thuận cho Nhật Bản can thiệp khi Phi Luật Tân bị tấn công.
Nhưng,
chính sách 3 không của Việt Nam “không có căn cứ quân sự của nước
ngoài, không liên minh quân sự, không dựa nước này chống nước kia” khiến
đất nước cô đơn trước bất cứ cuộc tấn công nào từ bên ngoài. Việt Nam
tiếp giáp đất, biển với Trung Cộng cũng làm gia tăng nguy cơ bị xâm lấn,
đồng hoá hơn bất cứ quốc gia duyên hải Đông Nam Á nào khác.
Trước bối cảnh bất lợi đó, dân tộc Việt Nam cần làm gì để bảo toàn nòi giống, bảo vệ Tổ quốc thân yêu?
Người Việt, không phải đảng Cộng sản
Điều
đầu tiên và tiên quyết là người Việt Nam chứ không phải đảng Cộng sản
có toàn quyền quyết định số phận và tương lai của dân tộc. Quyền chọn
lựa lãnh đạo tài đức nằm trong tay dân tộc chứ không do đảng Cộng sản áp
đặt.
Suốt
chiều dài lãnh đạo, đảng Cộng sản đã phạm những sai lầm chiến lược
nghiêm trọng khiến cho Việt Nam không thể phát triển như một quốc gia
bình thường.
Đảng
Cộng sản Việt Nam đơn phương quyết định tiến hành cuộc “cách mạng bạo
lực” do mù mắt trước “xu thế giải thực” trên thế giới xuất phát từ sau
Đệ nhất Thế chiến và được đẩy mạnh sau khi Thế chiến Thứ hai kết thúc.
Sai lầm này đã cướp đi 4 triệu sinh mạng Con Hồng Cháu Lạc, một đất nước
tan nát vì bom đạn, một mối hận thù dân tộc đến nay vẫn chưa nguôi, một
xã hội hằn học và chia rẽ ngày càng khó hàn gắn, một tâm thức lệ thuộc
ngoại bang, một nền độc lập dân tộc muộn màng.
Tại
Châu Á và Châu Phi có 14 quốc gia cùng hoàn cảnh bị ngoại bang cai trị
như Việt Nam đã giành được độc lập dân tộc sớm hơn 30 năm, đất nước
nguyên vẹn, thiệt hại nhân mạng chẳng đáng kể nhờ chọn con đường “đấu
tranh bất bạo động” thuận theo xu hướng giải thực toàn cầu.
Ở
vào thập niên thứ hai của thế kỷ thứ 21 mà đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
còn kể công trạng “giải phóng dân tộc”, chẳng phải thuộc vào loại có đầu
óc bệnh hoạn hay sao?
Cuộc
cách mạng bạo lực do đảng Cộng sản tiến hành còn chĩa họng súng vào
người đồng chủng qua các vụ thanh trừng đẫm máu với những ai không
khuất phục chủ nghĩa Mác-Lê. Cải cách ruộng đất diễn ra khắp thế giới
trong thế kỷ 20, nhưng khi đến Việt Nam đã mang theo các cố vấn Trung
Cộng nên gieo rắc kinh hoàng ở nông thôn miền Bắc từ 1950-1953 với
172.000 nạn nhân - theo thống kê của Nhà nước ghi trong cuốn Lịch sử
Kinh tế tập II - mà oan sai tới 72%. Nhưng, con số này dao động tới
675.000 nếu tính theo quy định tỉ lệ địa chủ chiếm 5,6% dân số. Số người
bị giết từ 15.000 đến 50.000. Ác tính con người dẫn tới các vụ nhục
hình như thời Trung cổ nên tội ác chống nhân loại của tập đoàn lãnh đạo
khó bác bỏ.
23 năm tụt hậu
Sau
Đệ nhị Thế chiến, một số quốc gia tình nguyện theo Liên Xô như Việt
Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba, hoặc bị bắt buộc như các nước Đông Âu, Trung
Âu, Caucasus đều chuốc lấy thảm hoạ. Trái lại các quốc gia nghiêng về
phía Tây Phương đều tránh được tai hoạ và phát triển hài hoà.
Ba
quốc gia bị chia đôi sau Thế chiến Thứ hai mà chỉ có Việt Nam chịu
thiệt hại nhiều nhất, do sự điên cuồng của đảng Cộng sản quyết thống
nhất đất nước bằng xương máu của 4 triệu người cùng nòi giống.
Đông
Đức không tấn công Tây Đức vì có binh lính Mỹ, Anh, Pháp trú đóng để
rồi thống nhất trong hoà bình vào năm 1990. Tây Đức tốn hơn 3.500 tỉ USD
làm đầu tàu kéo Đông Đức theo kịp đà phát triển toàn cầu.
Bắc
Hàn rất muốn dùng vũ lực để thống trị Nam Hàn, nhưng bị dội vì 28.500
lính Mỹ được Liên Hiệp Quốc uỷ nhiệm vẫn hiện diện ở phía Nam sau khi ký
kết Hiệp định Đình chiến năm 1953. Ngày nay, Đại Hàn Dân Quốc trở thành
quốc gia công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới với lợi tức bình
quân đầu người 24.000 USD vào năm 2013 so với 583 USD của Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên và 1.900 của Việt Nam.
Năm
2009, Nhật Bản đã yểm trợ cho quân Mỹ đồn trú 5,6 tỉ USD. Từ năm 1991,
Đại Hàn bắt đầu chi trả kinh phí cho quân Mỹ đồn trú và lên tới mức 897
triệu USD vào năm 2014. Nhật Bản và Đại Hàn đã được bảo đảm an ninh để
phát triển thần tốc nhờ chính phủ và dân chúng biết đặt quyền lợi dân
tộc trên kiểu sĩ diện hảo.
Nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã kìm hãm sự phát triển của đất
nước và làm cho Việt Nam lệ thuộc ngày càng sâu đậm vào Trung Cộng. Để
tăng lợi tức bình quân đầu người lên gấp đôi, Việt Nam cần 23 năm so với
10 của Indonesia, 8 của Thái Lan, 6 của Tân Gia Ba và 4,7 của Đại Hàn.
Không phải dân Việt Nam kém cỏi mà do sự lãnh đạo trì độn của đảng.
Đừng “buôn nước bọt”
Đứng
trước nguy cơ mất thêm từng mãnh cơ đồ vào tay Trung Cộng, dân tộc Việt
Nam cần có viễn kiến sáng suốt để xác định chính xác ai là kẻ thù từ
bên ngoài, ai là kẻ nội thù, ai là bạn mà tìm liên minh nhằm bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ và bảo tồn dân tộc.
Việt
Nam yếu thế hơn Trung Cộng trên nhiều phương diện, đặc biệt trên biển,
trên không và vũ khí huỷ diệt hàng loạt nên không thể đơn độc giành
thắng lợi. Do đó, liên minh quân sự với các cường quốc biển để răn đe
hành động điên rồ của Bắc Kinh trở thành một nhiệm vụ cấp bách, không
thể thoái thác mà phải chấp nhận việc trả giá. Trong quan hệ quốc tế
chẳng có gì cho không, biếu không mà phải có qua có lại, có tính chất
pháp lý mới bền vững.
Lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia có giá trị vĩnh cữu khi được luật pháp quốc
tế công nhận, nên Việt Nam cần lập tức tham gia với Phi Luật Tân trong
vụ kiện Bắc Kinh trước Toà án Trọng Tài về Luật Biển.
Tiếp
theo, Việt Nam phải kiện Trung Cộng ra trước Toà án Công lý Quốc tế vì
đã cưỡng đoạt Quần đảo Hoàng Sa, tức Paracel Islands, tức Tây Sa. Dù cho
Bắc Kinh có từ chối như từng làm vào năm 1932 và 1947 thì Việt Nam vẫn
chứng tỏ một quốc gia tuân thủ và biết vận dụng Luật Biển 1982 để bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam cũng phải kiện Bắc Kinh vì xâm phạm Vùng
Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển 1982 quy định.
Trước
Toà án Quốc tế, các bên đều bình đẳng không phân biệt nước lớn hay nước
nhỏ. Ngược lại, tại bàn đàm phán song phương, cường quốc có nhiều lợi
thế lấn át nhược tiểu.
Hoa
Kỳ đang lần lượt chuyển 60% lực lượng Hải quân vào Biển Đông. Nhật Bản
đã trở thành “quốc gia bình thường” để có thể tiếp cứu đồng minh, thân
hữu khi bị tấn công. Mỹ, Úc, Nhật đã kết thành liên minh trên thực tế,
tuy chưa có hiệp ước chính thức, để duy trì nguyên trạng hoà bình, phát
triển tại Châu Á-Thái Bình Dương.
Các
quốc gia Đông Nam Á ngày càng có xu hướng đoàn kết trước mưu đồ đen tối
của Bắc Kinh nên Việt Nam không thể đứng ngoài mà chờ sung rụng. Chẳng
ai chịu cứu giúp khi Việt Nam chỉ thích “buôn nước bọt”.
Sự
lệ thuộc kinh tế quá nhiều vào Trung Cộng làm cho Bắc Kinh có điều kiện
sử dụng lưỡi dao kinh tế để xẻo từng miếng cơ đồ Việt Nam. Vì thế, bằng
mọi giá Việt Nam phải gia nhập bằng được vào Hiệp ước Đối tác
Xuyên-Thái Bình Dương để dựa vào 11 nền kinh tế quan trọng mà thoát dần
khỏi bóng ma Trung Cộng.
http://www.ijavn.org/2014/07/vntb-chon-lua-duy-nhat-cua-dan-toc-viet.html
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Chọn lựa duy nhất của dân tộc Việt Nam
Căng thẳng trên Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông Nam Á cao thêm một nấc sau khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong Vùng Đặc quyền Kinh tế Việt Nam từ 2 tháng 5 năm 2014.
Đại Dương
(VNTB) Căng
thẳng trên Biển Nam Trung Hoa, tức Biển Đông Nam Á cao thêm một nấc sau
khi Bắc Kinh đưa giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong Vùng Đặc quyền
Kinh tế Việt Nam từ 2 tháng 5 năm 2014.
Bắc
Kinh tự ý rút giàn khoan về gần đảo Hải Nam vào 15 tháng 7, trước thời
hạn dự trù 1 tháng làm cho tình hình căng thẳng trên Biển Nam Trung Hoa
chùng xuống đôi chút theo chiến thuật "căng chùng, chùng căng" cố hữu
của chủ nghĩa Đại Hán.
Trung
Cộng nói vì bão, do đã hoàn tất việc thăm dò dầu hoả nên cần thời gian
để nghiên cứu các dữ kiện, số liệu thu thập trước khi quyết định sẽ làm
gì tiếp theo. Quyết định của Bắc Kinh nhằm ngăn Việt Nam theo chân Phi
Luật Tân mà kiện ra trước các Toà án Quốc tế và kéo Hà Nội vào bàn đàm
phán song phương để phá vỡ chủ trương quốc-tế-hoá tranh chấp Biển Đông.
Việt
Nam hân hoan vì đã hành động khôn ngoan, tránh được xung đột quân sự
nên cùng với cộng đồng quốc tế tạo sức ép buộc Trung Cộng phải thoái
lui.
“Lý tưởng tương thông”
Nhưng,
nguồn gốc tranh chấp và xung đột trong khu vực vẫn sừng sững, đe doạ
các quốc gia duyên hải Đông Nam Á như Việt Nam, đòi hỏi những biện pháp
ngăn ngừa hữu hiệu.
Việt
Nam nằm trong khâu yếu nhất của chiến lược “cường quốc đại dương” xuất
phát từ con đường “Giấc mơ Trung Hoa Vĩ đại” được Chủ tịch Tập Cận Bình
đẩy mạnh kể từ khi lên cầm quyền vào năm 2013 trong điều kiện Chính phủ
Barack Obama nói nhiều làm ít.
Với “Sơn thuỷ tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hoá tương đồng, Vận mệnh tương quan” do Giang Trạch Dân ban cho vào tháng 11 năm 1991, có nghĩa “Sông núi gắn liền, Cùng chung lý tưởng, Hoà nhập văn hoá, Có chung định mệnh” được đảng Cộng sản Việt Nam khái quát thành “Láng giềng hữu nghị, Hợp tác toàn diện, Ổn định lâu dài, Hướng tới tương lai” như chiếc thòng lọng buộc vào cổ dân tộc Việt Nam.
Bắc
Kinh muốn “đập” Phi Luật Tân một trận để dằn mặt, nhưng chạm phải Hiệp
ước Phòng thủ Hỗ tương Mỹ-Phi và sự khôn ngoan, quyết đoán của Tổng
thống Benigno Aquino III vì dám kiện Trung Cộng ra trước Toà án Trọng
tài về Luật Biển năm 1982. Aquino thừa nhận Phi Luật Tân yếu nên phải
nhờ Hoa Kỳ lẫn Nhật Bản bảo vệ bằng cách cho phép quân đội Mỹ tiếp cận
nhiều căn cứ quân sự. Aquino tiếp nhận khí tài quân sự và sẵn sàng chấp
thuận cho Nhật Bản can thiệp khi Phi Luật Tân bị tấn công.
Nhưng,
chính sách 3 không của Việt Nam “không có căn cứ quân sự của nước
ngoài, không liên minh quân sự, không dựa nước này chống nước kia” khiến
đất nước cô đơn trước bất cứ cuộc tấn công nào từ bên ngoài. Việt Nam
tiếp giáp đất, biển với Trung Cộng cũng làm gia tăng nguy cơ bị xâm lấn,
đồng hoá hơn bất cứ quốc gia duyên hải Đông Nam Á nào khác.
Trước bối cảnh bất lợi đó, dân tộc Việt Nam cần làm gì để bảo toàn nòi giống, bảo vệ Tổ quốc thân yêu?
Người Việt, không phải đảng Cộng sản
Điều
đầu tiên và tiên quyết là người Việt Nam chứ không phải đảng Cộng sản
có toàn quyền quyết định số phận và tương lai của dân tộc. Quyền chọn
lựa lãnh đạo tài đức nằm trong tay dân tộc chứ không do đảng Cộng sản áp
đặt.
Suốt
chiều dài lãnh đạo, đảng Cộng sản đã phạm những sai lầm chiến lược
nghiêm trọng khiến cho Việt Nam không thể phát triển như một quốc gia
bình thường.
Đảng
Cộng sản Việt Nam đơn phương quyết định tiến hành cuộc “cách mạng bạo
lực” do mù mắt trước “xu thế giải thực” trên thế giới xuất phát từ sau
Đệ nhất Thế chiến và được đẩy mạnh sau khi Thế chiến Thứ hai kết thúc.
Sai lầm này đã cướp đi 4 triệu sinh mạng Con Hồng Cháu Lạc, một đất nước
tan nát vì bom đạn, một mối hận thù dân tộc đến nay vẫn chưa nguôi, một
xã hội hằn học và chia rẽ ngày càng khó hàn gắn, một tâm thức lệ thuộc
ngoại bang, một nền độc lập dân tộc muộn màng.
Tại
Châu Á và Châu Phi có 14 quốc gia cùng hoàn cảnh bị ngoại bang cai trị
như Việt Nam đã giành được độc lập dân tộc sớm hơn 30 năm, đất nước
nguyên vẹn, thiệt hại nhân mạng chẳng đáng kể nhờ chọn con đường “đấu
tranh bất bạo động” thuận theo xu hướng giải thực toàn cầu.
Ở
vào thập niên thứ hai của thế kỷ thứ 21 mà đảng Cộng sản Việt Nam vẫn
còn kể công trạng “giải phóng dân tộc”, chẳng phải thuộc vào loại có đầu
óc bệnh hoạn hay sao?
Cuộc
cách mạng bạo lực do đảng Cộng sản tiến hành còn chĩa họng súng vào
người đồng chủng qua các vụ thanh trừng đẫm máu với những ai không
khuất phục chủ nghĩa Mác-Lê. Cải cách ruộng đất diễn ra khắp thế giới
trong thế kỷ 20, nhưng khi đến Việt Nam đã mang theo các cố vấn Trung
Cộng nên gieo rắc kinh hoàng ở nông thôn miền Bắc từ 1950-1953 với
172.000 nạn nhân - theo thống kê của Nhà nước ghi trong cuốn Lịch sử
Kinh tế tập II - mà oan sai tới 72%. Nhưng, con số này dao động tới
675.000 nếu tính theo quy định tỉ lệ địa chủ chiếm 5,6% dân số. Số người
bị giết từ 15.000 đến 50.000. Ác tính con người dẫn tới các vụ nhục
hình như thời Trung cổ nên tội ác chống nhân loại của tập đoàn lãnh đạo
khó bác bỏ.
23 năm tụt hậu
Sau
Đệ nhị Thế chiến, một số quốc gia tình nguyện theo Liên Xô như Việt
Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba, hoặc bị bắt buộc như các nước Đông Âu, Trung
Âu, Caucasus đều chuốc lấy thảm hoạ. Trái lại các quốc gia nghiêng về
phía Tây Phương đều tránh được tai hoạ và phát triển hài hoà.
Ba
quốc gia bị chia đôi sau Thế chiến Thứ hai mà chỉ có Việt Nam chịu
thiệt hại nhiều nhất, do sự điên cuồng của đảng Cộng sản quyết thống
nhất đất nước bằng xương máu của 4 triệu người cùng nòi giống.
Đông
Đức không tấn công Tây Đức vì có binh lính Mỹ, Anh, Pháp trú đóng để
rồi thống nhất trong hoà bình vào năm 1990. Tây Đức tốn hơn 3.500 tỉ USD
làm đầu tàu kéo Đông Đức theo kịp đà phát triển toàn cầu.
Bắc
Hàn rất muốn dùng vũ lực để thống trị Nam Hàn, nhưng bị dội vì 28.500
lính Mỹ được Liên Hiệp Quốc uỷ nhiệm vẫn hiện diện ở phía Nam sau khi ký
kết Hiệp định Đình chiến năm 1953. Ngày nay, Đại Hàn Dân Quốc trở thành
quốc gia công nghiệp, kỹ thuật tiên tiến trên thế giới với lợi tức bình
quân đầu người 24.000 USD vào năm 2013 so với 583 USD của Cộng hoà Dân
chủ Nhân dân Triều Tiên và 1.900 của Việt Nam.
Năm
2009, Nhật Bản đã yểm trợ cho quân Mỹ đồn trú 5,6 tỉ USD. Từ năm 1991,
Đại Hàn bắt đầu chi trả kinh phí cho quân Mỹ đồn trú và lên tới mức 897
triệu USD vào năm 2014. Nhật Bản và Đại Hàn đã được bảo đảm an ninh để
phát triển thần tốc nhờ chính phủ và dân chúng biết đặt quyền lợi dân
tộc trên kiểu sĩ diện hảo.
Nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã kìm hãm sự phát triển của đất
nước và làm cho Việt Nam lệ thuộc ngày càng sâu đậm vào Trung Cộng. Để
tăng lợi tức bình quân đầu người lên gấp đôi, Việt Nam cần 23 năm so với
10 của Indonesia, 8 của Thái Lan, 6 của Tân Gia Ba và 4,7 của Đại Hàn.
Không phải dân Việt Nam kém cỏi mà do sự lãnh đạo trì độn của đảng.
Đừng “buôn nước bọt”
Đứng
trước nguy cơ mất thêm từng mãnh cơ đồ vào tay Trung Cộng, dân tộc Việt
Nam cần có viễn kiến sáng suốt để xác định chính xác ai là kẻ thù từ
bên ngoài, ai là kẻ nội thù, ai là bạn mà tìm liên minh nhằm bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ và bảo tồn dân tộc.
Việt
Nam yếu thế hơn Trung Cộng trên nhiều phương diện, đặc biệt trên biển,
trên không và vũ khí huỷ diệt hàng loạt nên không thể đơn độc giành
thắng lợi. Do đó, liên minh quân sự với các cường quốc biển để răn đe
hành động điên rồ của Bắc Kinh trở thành một nhiệm vụ cấp bách, không
thể thoái thác mà phải chấp nhận việc trả giá. Trong quan hệ quốc tế
chẳng có gì cho không, biếu không mà phải có qua có lại, có tính chất
pháp lý mới bền vững.
Lãnh
thổ và chủ quyền quốc gia có giá trị vĩnh cữu khi được luật pháp quốc
tế công nhận, nên Việt Nam cần lập tức tham gia với Phi Luật Tân trong
vụ kiện Bắc Kinh trước Toà án Trọng Tài về Luật Biển.
Tiếp
theo, Việt Nam phải kiện Trung Cộng ra trước Toà án Công lý Quốc tế vì
đã cưỡng đoạt Quần đảo Hoàng Sa, tức Paracel Islands, tức Tây Sa. Dù cho
Bắc Kinh có từ chối như từng làm vào năm 1932 và 1947 thì Việt Nam vẫn
chứng tỏ một quốc gia tuân thủ và biết vận dụng Luật Biển 1982 để bảo vệ
chủ quyền lãnh thổ. Việt Nam cũng phải kiện Bắc Kinh vì xâm phạm Vùng
Đặc quyền Kinh tế và Thềm Lục địa được Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển 1982 quy định.
Trước
Toà án Quốc tế, các bên đều bình đẳng không phân biệt nước lớn hay nước
nhỏ. Ngược lại, tại bàn đàm phán song phương, cường quốc có nhiều lợi
thế lấn át nhược tiểu.
Hoa
Kỳ đang lần lượt chuyển 60% lực lượng Hải quân vào Biển Đông. Nhật Bản
đã trở thành “quốc gia bình thường” để có thể tiếp cứu đồng minh, thân
hữu khi bị tấn công. Mỹ, Úc, Nhật đã kết thành liên minh trên thực tế,
tuy chưa có hiệp ước chính thức, để duy trì nguyên trạng hoà bình, phát
triển tại Châu Á-Thái Bình Dương.
Các
quốc gia Đông Nam Á ngày càng có xu hướng đoàn kết trước mưu đồ đen tối
của Bắc Kinh nên Việt Nam không thể đứng ngoài mà chờ sung rụng. Chẳng
ai chịu cứu giúp khi Việt Nam chỉ thích “buôn nước bọt”.
Sự
lệ thuộc kinh tế quá nhiều vào Trung Cộng làm cho Bắc Kinh có điều kiện
sử dụng lưỡi dao kinh tế để xẻo từng miếng cơ đồ Việt Nam. Vì thế, bằng
mọi giá Việt Nam phải gia nhập bằng được vào Hiệp ước Đối tác
Xuyên-Thái Bình Dương để dựa vào 11 nền kinh tế quan trọng mà thoát dần
khỏi bóng ma Trung Cộng.
http://www.ijavn.org/2014/07/vntb-chon-lua-duy-nhat-cua-dan-toc-viet.html
Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong riêng của tác giả.