Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Cuộc đời trắc trở của 2 vị Hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng triều Nguyễn
Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi gây dựng cơ đồ, còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết trong cô đơn nơi đất khách quê người
Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi
gây dựng cơ đồ, còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết
trong cô đơn nơi đất khách quê người.
Triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị
hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng được sắc phong khi còn sống. Đó là Thừa
Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan, vợ vua Gia Long và Nam Phương hoàng
hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại. Cuộc đời hai hoàng hậu cùng tên
Lan có nhiều trắc trở. Cho đến nay, sử sách cũng chưa lý giải vì sao từ
thời vua Minh Mạng trở đi đều để trống ngôi vị chủ hậu cung, chỉ ban
tước cao nhất là hoàng quý phi, giúp hoàng thái hậu trông coi lương
thực, chỉnh tề công việc bên trong.
Người vợ đồng cam cộng khổ với vua Gia Long
Thừa Thiên Cao hoàng hậu (1762-1814) tên thật là Tống Thị Lan, là vợ đầu
tiên của vua Gia Long, bôn ba khắp nơi theo ông gây dựng lại cơ đồ chúa
Nguyễn. Năm 1778, bà theo cha là Quý quốc công Tống Phúc Khuông cùng
gia quyến vào Gia Định. Khi bà 18 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh đã đích thân đem
lễ vật đến hỏi cưới và lập làm nguyên phi. Bà là người cẩn trọng, có
phép tắc lễ độ nên được gia đình chồng yêu quý.
Khi bị nhà Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Nguyễn Phúc Ánh vừa cầu cứu quân
Xiêm La, lại đem con trai 3 tuổi là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh giao cho
giáo sĩ Bá Đa Lộc làm con tin, sang Pháp hòng cầu thêm ngoại viện. Chia
ly chẳng biết ngày đoàn tụ, ông đã chặt đôi nén vàng, giữ một nửa còn
một nửa đưa cho vợ và nói "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, phi
hãy phụng dưỡng quốc mẫu (mẹ chồng). Chưa biết sau này gặp nhau ở nơi
nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin". Bà nuốt nước mắt, nhận
trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng, chăm nom gia tộc suốt thời gian đó.
Cầu cứu được 50 nghìn viện binh Xiêm La nhưng Nguyễn Phúc Ánh vẫn bị nhà
Tây Sơn đè bẹp. Bà Tống Thị Lan cùng mẹ chồng lánh mình ở đảo Phú Quốc,
ngày ngày ngóng đợi tin. Khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia
Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo ông để chăm
lo mọi việc.
Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đề nghị bà làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn
Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử là bà phi Trần Thị Đang
(Thuận Thiên Cao hoàng hậu) còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều
kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Phúc Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử
Đảm về ở hẳn với bà.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy
niên hiệu Gia Long. Sau đó một năm, bà được lập làm vương hậu và năm
1806 thì được phong làm hoàng hậu. Vua có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập
duy nhất ngôi hậu cho bà. Tiếc rằng hưởng phúc không được bao lâu thì
hoàng hậu qua đời năm 1814, thọ 53 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc nên
khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Hoàng hậu được hiệp
táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây
là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song
song nhau.
Thừa Thiên Cao hoàng hậu sinh được hai người con trai nhưng đều mất sớm,
trước khi vua Gia Long đoạt được sơn hà. Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên
của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở, con cháu bà dù thuộc dòng đích (con
cả) của vua Gia Long nhưng cũng chịu đắng cay không kém, trầm luân
trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị
giáng làm thường dân.
Con trai đầu của bà là hoàng tử Cảnh khi 3 tuổi đã theo Bá Đa Lộc làm
con tin, lênh đênh chân trời góc bể, sau này ở ngôi đông cung thái tử
chưa được bao lâu thì mắc bệnh đậu mùa rồi mất khi mới 21 tuổi, để lại
vợ và hai con trai. Sau này, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn
Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai cả của hoàng tử Cảnh lên nối ngôi, mà
truyền ngôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.
Dưới thời vua Minh Mạng, con dâu, cháu nội của Thừa Thiên Cao hoàng hậu
bị giáng cho tội thông dâm với nhau, người bị dìm nước cho đến chết,
người phải giao trả ấn tín, bị giáng làm thứ dân, người bị bệnh chết.
Sau chắt nội của bà được phong tước để lo việc thờ phụng Anh Duệ hoàng
thái tử (tức hoàng tử Cảnh). Cuộc trầm luân vẫn chưa kết thúc, năm 1836,
triều thần tiếp tục nghị tội, buộc dòng dõi của hoàng tử Cảnh bị giáng
làm dân thường mới được tạm yên ổn.
Nói về cuộc đời Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tiến sĩ sử học Nguyễn Khắc
Thuần nhận xét, việc bắt Nguyễn Phúc Ánh làm tờ giao ước khi nhận Nguyễn
Phúc Đảm làm con nuôi là biểu hiện sự cẩn trọng của bà đối với Thuận
Thiên Cao hoàng hậu, cũng là cẩn trọng đối với chính người chồng. Tiếc
là sự cẩn trọng ấy vẫn chưa đủ. Theo TS Thuần, thời ấy có hai tội thuộc
hàng đại ác không thể tha là bất trung và thất đức. Bất trung thì con
trai trưởng của hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, Minh Mạng muốn yên
vị trên ngai vàng ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức là thông dâm
với mẹ.
"Vua Minh Mạng... từ nhỏ đã được Thừa Thiên Cao hoàng hậu nuôi dưỡng,
với hoàng tử Cảnh khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết
hại chị dâu, đày đọa các con của anh. Ai đó nói rằng, phàm là hoàng đế
thì chẳng thể dung tha dòng trưởng của tộc họ nhà mình. Mức độ đúng sai
với ai thì chưa rõ, nhưng với vua Minh Mạng thì chí lý thay", ông đánh
giá.
Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963) |
Cuộc đời vui buồn của hoàng hậu Nam Phương
Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963), vợ vua Bảo Đại, tên thật là Nguyễn Hữu
Thị Lan, nổi tiếng bởi vẻ đẹp dịu dàng, đức hạnh và tài năng.
Năm 1932, vua Bảo Đại về nước sau 10 năm học ở Pháp. Vị vua trẻ đẹp
trai, thích thể thao, săn bắn trở thành người chồng lý tưởng của các cô
gái nhà quyền quý. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì người đầu
tiên được chọn làm vợ Bảo Đại không phải là bà Nam Phương mà là cô Bạch
Yến, con gái ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê Phong Điền (Thừa Thiên-
Huế). Cô Yến đã được dạy đàn ca, nghi lễ chuẩn bị tiến cung nhưng cuối
cùng không được chọn.
Dưới sự sắp xếp của vợ chồng Charles - nguyên Khâm sứ Trung Kỳ, Bảo Đại
gặp gỡ cô Lan xinh đẹp, từng 3 lần đoạt giải hoa hậu Đông Dương, cháu
ngoại ông Huyện Sỹ giàu nhất miền Nam thời bấy giờ tại một buổi tiệc ở
Đà Lạt. Hoàng đế trẻ bị người con gái mặc áo dài lụa đen, gương mặt
thanh thoát không trang điểm cuốn hút. Họ thường gặp lại nhau một cách
"bất ngờ" sau lần hội ngộ đầu tiên ấy.
Khi Bảo Đại ngỏ lời cầu hôn, cô Lan đồng ý lấy ông với 3 điều kiện: được
tấn phong làm hoàng hậu ngay trong lễ cưới; được giữ nguyên đạo Thiên
chúa; các con sinh ra đều được rửa tội, được giữ đạo; cuộc hôn nhân này
phải được Tòa thánh La Mã cho phép, hai người giữ hai tôn giáo khác
nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo.
Cuộc hôn nhân gặp nhiều bàn tán, vấp phải nhiều lễ giáo mấy trăm năm của
tiền triều. Nhưng với quyết tâm của ông vua được ăn học bên Tây, hôn lễ
vẫn được tổ chức vào ngày 20/3/1934 tại điện Cần Chánh - nơi vua thiết
triều. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một người phụ nữ xuất
hiện giữa triều đình, được mặc phẩm phục màu vàng cam - màu sắc chỉ dành
riêng cho hoàng đế. Ngay sau lễ cưới, Bảo Đại đã tấn phong cho bà
Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu. Tên hiệu Nam Phương có nghĩa là "hương
thơm của phương Nam".
Vua còn sửa nội thất điện Kiến Trung cổ kính thành nơi tân tiến với
nhiều tiện nghi như có nhiều phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Là
người theo học ở nước ngoài nhiều năm, hoàng hậu Nam Phương giúp chồng
ngoại giao, đón tiếp quốc khách, giao thiệp với người Pháp, trong nước
làm khuyến học, giúp người nghèo. Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con
gồm hoàng thái tử Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương
Liên và hoàng tử Bảo Thăng.
Hoàng hậu Nam Phương có một tuổi thanh xuân êm đềm, bước vào cuộc hôn
nhân tưởng chừng viên mãn nhưng rồi rạn nứt, bà sống thiếu hạnh phúc
những năm cuối đời và chết trong cô đơn nơi đất khách. Tháng 8/1945, vua
Bảo Đại thoái vị rồi ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Nam
Phương cùng các con dọn ra cung An Định, bên bờ sông An Cựu sống.
Rời bỏ cuộc sống giàu sang của một bà hoàng, bà dốc sức nuôi dạy các
con, tham gia góp vàng bạc, vận động người dân Huế gây quỹ cho chính
quyền mới. Nhân danh cựu hoàng hậu của nước Việt Nam, bà thay mặt cho 13
triệu phụ nữ Việt Nam gửi thông điệp vận động phụ nữ thế giới tố cáo âm
mưu lăm le quay lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
Dù từng công khai nói trước triều đình là "chống lại tục đa thê của vua
chúa Việt Nam" nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn có vô số nhân tình bên ngoài.
Chuyện nước, chuyện nhà không vui khiến cựu hoàng hậu và các con qua
Pháp sinh sống còn Bảo Đại thì vẫn ở Việt Nam. Năm 1949, không chịu được
gian khổ, thử thách của hoàn cảnh, ông quay lại cộng tác với Pháp. Năm
1955, khi lên nắm chính quyền miền Nam, Ngô Đình Diệm đã tịch thu tài
sản của gia đình cựu hoàng ở Sài Gòn và cả ở Pháp. Bảo Đại uất ức, bỏ
nhà đi săn, theo đuổi nhân tình. Cha con, vợ chồng tan tác khiến bà Nam
Phương đau khổ.
Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ tại ngôi làng Chabrignac, một vùng nông thôn
nước Pháp. Bảo Đại ít khi về thăm bà, chỉ có vài ba lần và lần nào cũng
rất ngắn ngủi. Hoàng hậu Nam Phương qua đời vào ngày 14/9/1963. Hôm đó,
bà thấy người mệt mỏi, gọi bác sĩ thì được chẩn đoán viêm họng nhẹ, chỉ
cần uống thuốc vài hôm. Nhưng bác sĩ mới đi được vài tiếng thì bà thấy
khó thở rồi qua đời ngay trong đêm, khi 49 tuổi. Vị hoàng hậu cuối cùng
của triều Nguyễn sống không hạnh phúc, mất trong cô đơn, không có người
thân bên cạnh ngoài các nàng hầu. Khi đó, các con bà đều học hành, làm
việc ở Paris.
Đám tang hoàng hậu Nam Phương được tổ chức ở nhà thờ Chabrignac, có đầy
đủ dân làng mến mộ bà. Các con trai, con gái đều về chịu tang mẹ, riêng
người chồng Bảo Đại thì không thấy đâu. Bà được an táng ngay cạnh khu mộ
thuộc gia đình bá tước De La Besse. Bà bá tước chính là công chúa Như
Lý (con gái vua Hàm Nghi) khi biết tin đã chua xót nói "Ở gần nhau hàng 5
năm mà không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời rồi mới
biết. Thật tiếc thương".
Mộ hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đơn sơ, trên bia đá ghi dòng chữ
Hán Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng, mặt sau ghi dòng chữ Pháp,
dịch Đây là nơi an nghỉ của hoàng hậu An Nam, nhũ danh Maria Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan. Theo ông Nguyễn Đắc Xuân, vì thương mến bà nên người
ta đã táng theo những đồ trang sức quý giá. Nhưng việc này đã để lại
hậu quả xấu là bọn trộm nhiều lần đào bới để tìm vàng.
Dân làng Chabrignac đã xem mộ hoàng hậu Nam Phương là một trong ba di sản quý của làng.
(VnExpress)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Cuộc đời trắc trở của 2 vị Hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng triều Nguyễn
Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi gây dựng cơ đồ, còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết trong cô đơn nơi đất khách quê người
Thừa Thiên Cao hoàng hậu hơn 20 năm theo vua Gia Long bôn ba khắp nơi
gây dựng cơ đồ, còn Nam Phương hoàng hậu sống không hạnh phúc, chết
trong cô đơn nơi đất khách quê người.
Triều Nguyễn tồn tại 143 năm, qua 13 đời vua trị vì nhưng chỉ có hai vị
hoàng hậu đầu tiên và cuối cùng được sắc phong khi còn sống. Đó là Thừa
Thiên Cao hoàng hậu Tống Thị Lan, vợ vua Gia Long và Nam Phương hoàng
hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, vợ vua Bảo Đại. Cuộc đời hai hoàng hậu cùng tên
Lan có nhiều trắc trở. Cho đến nay, sử sách cũng chưa lý giải vì sao từ
thời vua Minh Mạng trở đi đều để trống ngôi vị chủ hậu cung, chỉ ban
tước cao nhất là hoàng quý phi, giúp hoàng thái hậu trông coi lương
thực, chỉnh tề công việc bên trong.
Người vợ đồng cam cộng khổ với vua Gia Long
Thừa Thiên Cao hoàng hậu (1762-1814) tên thật là Tống Thị Lan, là vợ đầu
tiên của vua Gia Long, bôn ba khắp nơi theo ông gây dựng lại cơ đồ chúa
Nguyễn. Năm 1778, bà theo cha là Quý quốc công Tống Phúc Khuông cùng
gia quyến vào Gia Định. Khi bà 18 tuổi, Nguyễn Phúc Ánh đã đích thân đem
lễ vật đến hỏi cưới và lập làm nguyên phi. Bà là người cẩn trọng, có
phép tắc lễ độ nên được gia đình chồng yêu quý.
Khi bị nhà Tây Sơn truy đuổi gắt gao, Nguyễn Phúc Ánh vừa cầu cứu quân
Xiêm La, lại đem con trai 3 tuổi là hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh giao cho
giáo sĩ Bá Đa Lộc làm con tin, sang Pháp hòng cầu thêm ngoại viện. Chia
ly chẳng biết ngày đoàn tụ, ông đã chặt đôi nén vàng, giữ một nửa còn
một nửa đưa cho vợ và nói "Con chúng ta đi rồi, ta cũng sẽ đi đây, phi
hãy phụng dưỡng quốc mẫu (mẹ chồng). Chưa biết sau này gặp nhau ở nơi
nào và ở ngày nào, đem vàng này để làm của tin". Bà nuốt nước mắt, nhận
trọng trách phụng dưỡng mẹ chồng, chăm nom gia tộc suốt thời gian đó.
Cầu cứu được 50 nghìn viện binh Xiêm La nhưng Nguyễn Phúc Ánh vẫn bị nhà
Tây Sơn đè bẹp. Bà Tống Thị Lan cùng mẹ chồng lánh mình ở đảo Phú Quốc,
ngày ngày ngóng đợi tin. Khi Nguyễn Phúc Ánh chiếm lại được thành Gia
Định liền cho người đón mẹ và vợ về. Từ đây, bà luôn đi theo ông để chăm
lo mọi việc.
Năm 1793, Nguyễn Phúc Ánh đề nghị bà làm mẹ nuôi cho hoàng tử Nguyễn
Phúc Đảm (vua Minh Mạng) dù mẹ đẻ của hoàng tử là bà phi Trần Thị Đang
(Thuận Thiên Cao hoàng hậu) còn đang khỏe mạnh. Bà bằng lòng với điều
kiện chồng phải viết giao ước. Nguyễn Phúc Ánh đồng ý, từ đó hoàng tử
Đảm về ở hẳn với bà.
Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lật đổ hoàn toàn nhà Tây Sơn, lên ngôi vua lấy
niên hiệu Gia Long. Sau đó một năm, bà được lập làm vương hậu và năm
1806 thì được phong làm hoàng hậu. Vua có hơn trăm phi tần nhưng chỉ lập
duy nhất ngôi hậu cho bà. Tiếc rằng hưởng phúc không được bao lâu thì
hoàng hậu qua đời năm 1814, thọ 53 tuổi. Vua Gia Long thương tiếc nên
khóc lóc rất thảm thiết, để tang bà một năm theo lễ. Hoàng hậu được hiệp
táng ngay sát cạnh mộ vua Gia Long trong khuôn viên Thiên Thọ lăng. Đây
là lăng tẩm duy nhất của nhà Nguyễn có mộ vua và hoàng hậu đặt song
song nhau.
Thừa Thiên Cao hoàng hậu sinh được hai người con trai nhưng đều mất sớm,
trước khi vua Gia Long đoạt được sơn hà. Cuộc đời hoàng hậu đầu tiên
của triều Nguyễn gặp nhiều trắc trở, con cháu bà dù thuộc dòng đích (con
cả) của vua Gia Long nhưng cũng chịu đắng cay không kém, trầm luân
trong cuộc củng cố vương quyền dưới thời Minh Mạng khi kẻ chết, người bị
giáng làm thường dân.
Con trai đầu của bà là hoàng tử Cảnh khi 3 tuổi đã theo Bá Đa Lộc làm
con tin, lênh đênh chân trời góc bể, sau này ở ngôi đông cung thái tử
chưa được bao lâu thì mắc bệnh đậu mùa rồi mất khi mới 21 tuổi, để lại
vợ và hai con trai. Sau này, vua Gia Long không chọn cháu đích tôn
Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai cả của hoàng tử Cảnh lên nối ngôi, mà
truyền ngôi cho hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm.
Dưới thời vua Minh Mạng, con dâu, cháu nội của Thừa Thiên Cao hoàng hậu
bị giáng cho tội thông dâm với nhau, người bị dìm nước cho đến chết,
người phải giao trả ấn tín, bị giáng làm thứ dân, người bị bệnh chết.
Sau chắt nội của bà được phong tước để lo việc thờ phụng Anh Duệ hoàng
thái tử (tức hoàng tử Cảnh). Cuộc trầm luân vẫn chưa kết thúc, năm 1836,
triều thần tiếp tục nghị tội, buộc dòng dõi của hoàng tử Cảnh bị giáng
làm dân thường mới được tạm yên ổn.
Nói về cuộc đời Thừa Thiên Cao hoàng hậu, tiến sĩ sử học Nguyễn Khắc
Thuần nhận xét, việc bắt Nguyễn Phúc Ánh làm tờ giao ước khi nhận Nguyễn
Phúc Đảm làm con nuôi là biểu hiện sự cẩn trọng của bà đối với Thuận
Thiên Cao hoàng hậu, cũng là cẩn trọng đối với chính người chồng. Tiếc
là sự cẩn trọng ấy vẫn chưa đủ. Theo TS Thuần, thời ấy có hai tội thuộc
hàng đại ác không thể tha là bất trung và thất đức. Bất trung thì con
trai trưởng của hoàng tử Cảnh chẳng có biểu hiện gì, Minh Mạng muốn yên
vị trên ngai vàng ắt phải khép Mỹ Đường vào tội thất đức là thông dâm
với mẹ.
"Vua Minh Mạng... từ nhỏ đã được Thừa Thiên Cao hoàng hậu nuôi dưỡng,
với hoàng tử Cảnh khác chi anh em cùng cha cùng mẹ, thế mà cam tâm giết
hại chị dâu, đày đọa các con của anh. Ai đó nói rằng, phàm là hoàng đế
thì chẳng thể dung tha dòng trưởng của tộc họ nhà mình. Mức độ đúng sai
với ai thì chưa rõ, nhưng với vua Minh Mạng thì chí lý thay", ông đánh
giá.
Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963) |
Cuộc đời vui buồn của hoàng hậu Nam Phương
Hoàng hậu Nam Phương (1914-1963), vợ vua Bảo Đại, tên thật là Nguyễn Hữu
Thị Lan, nổi tiếng bởi vẻ đẹp dịu dàng, đức hạnh và tài năng.
Năm 1932, vua Bảo Đại về nước sau 10 năm học ở Pháp. Vị vua trẻ đẹp
trai, thích thể thao, săn bắn trở thành người chồng lý tưởng của các cô
gái nhà quyền quý. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì người đầu
tiên được chọn làm vợ Bảo Đại không phải là bà Nam Phương mà là cô Bạch
Yến, con gái ông Phó bảng Nguyễn Đình Tiến quê Phong Điền (Thừa Thiên-
Huế). Cô Yến đã được dạy đàn ca, nghi lễ chuẩn bị tiến cung nhưng cuối
cùng không được chọn.
Dưới sự sắp xếp của vợ chồng Charles - nguyên Khâm sứ Trung Kỳ, Bảo Đại
gặp gỡ cô Lan xinh đẹp, từng 3 lần đoạt giải hoa hậu Đông Dương, cháu
ngoại ông Huyện Sỹ giàu nhất miền Nam thời bấy giờ tại một buổi tiệc ở
Đà Lạt. Hoàng đế trẻ bị người con gái mặc áo dài lụa đen, gương mặt
thanh thoát không trang điểm cuốn hút. Họ thường gặp lại nhau một cách
"bất ngờ" sau lần hội ngộ đầu tiên ấy.
Khi Bảo Đại ngỏ lời cầu hôn, cô Lan đồng ý lấy ông với 3 điều kiện: được
tấn phong làm hoàng hậu ngay trong lễ cưới; được giữ nguyên đạo Thiên
chúa; các con sinh ra đều được rửa tội, được giữ đạo; cuộc hôn nhân này
phải được Tòa thánh La Mã cho phép, hai người giữ hai tôn giáo khác
nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo.
Cuộc hôn nhân gặp nhiều bàn tán, vấp phải nhiều lễ giáo mấy trăm năm của
tiền triều. Nhưng với quyết tâm của ông vua được ăn học bên Tây, hôn lễ
vẫn được tổ chức vào ngày 20/3/1934 tại điện Cần Chánh - nơi vua thiết
triều. Lần đầu tiên trong lịch sử nhà Nguyễn, có một người phụ nữ xuất
hiện giữa triều đình, được mặc phẩm phục màu vàng cam - màu sắc chỉ dành
riêng cho hoàng đế. Ngay sau lễ cưới, Bảo Đại đã tấn phong cho bà
Nguyễn Hữu Thị Lan làm hoàng hậu. Tên hiệu Nam Phương có nghĩa là "hương
thơm của phương Nam".
Vua còn sửa nội thất điện Kiến Trung cổ kính thành nơi tân tiến với
nhiều tiện nghi như có nhiều phòng ngủ, phòng ăn, phòng làm việc. Là
người theo học ở nước ngoài nhiều năm, hoàng hậu Nam Phương giúp chồng
ngoại giao, đón tiếp quốc khách, giao thiệp với người Pháp, trong nước
làm khuyến học, giúp người nghèo. Bà sinh cho vua Bảo Đại 5 người con
gồm hoàng thái tử Bảo Long, công chúa Phương Mai, Phương Dung, Phương
Liên và hoàng tử Bảo Thăng.
Hoàng hậu Nam Phương có một tuổi thanh xuân êm đềm, bước vào cuộc hôn
nhân tưởng chừng viên mãn nhưng rồi rạn nứt, bà sống thiếu hạnh phúc
những năm cuối đời và chết trong cô đơn nơi đất khách. Tháng 8/1945, vua
Bảo Đại thoái vị rồi ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ lâm thời Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa theo lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà Nam
Phương cùng các con dọn ra cung An Định, bên bờ sông An Cựu sống.
Rời bỏ cuộc sống giàu sang của một bà hoàng, bà dốc sức nuôi dạy các
con, tham gia góp vàng bạc, vận động người dân Huế gây quỹ cho chính
quyền mới. Nhân danh cựu hoàng hậu của nước Việt Nam, bà thay mặt cho 13
triệu phụ nữ Việt Nam gửi thông điệp vận động phụ nữ thế giới tố cáo âm
mưu lăm le quay lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp.
Dù từng công khai nói trước triều đình là "chống lại tục đa thê của vua
chúa Việt Nam" nhưng cựu hoàng Bảo Đại vẫn có vô số nhân tình bên ngoài.
Chuyện nước, chuyện nhà không vui khiến cựu hoàng hậu và các con qua
Pháp sinh sống còn Bảo Đại thì vẫn ở Việt Nam. Năm 1949, không chịu được
gian khổ, thử thách của hoàn cảnh, ông quay lại cộng tác với Pháp. Năm
1955, khi lên nắm chính quyền miền Nam, Ngô Đình Diệm đã tịch thu tài
sản của gia đình cựu hoàng ở Sài Gòn và cả ở Pháp. Bảo Đại uất ức, bỏ
nhà đi săn, theo đuổi nhân tình. Cha con, vợ chồng tan tác khiến bà Nam
Phương đau khổ.
Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ tại ngôi làng Chabrignac, một vùng nông thôn
nước Pháp. Bảo Đại ít khi về thăm bà, chỉ có vài ba lần và lần nào cũng
rất ngắn ngủi. Hoàng hậu Nam Phương qua đời vào ngày 14/9/1963. Hôm đó,
bà thấy người mệt mỏi, gọi bác sĩ thì được chẩn đoán viêm họng nhẹ, chỉ
cần uống thuốc vài hôm. Nhưng bác sĩ mới đi được vài tiếng thì bà thấy
khó thở rồi qua đời ngay trong đêm, khi 49 tuổi. Vị hoàng hậu cuối cùng
của triều Nguyễn sống không hạnh phúc, mất trong cô đơn, không có người
thân bên cạnh ngoài các nàng hầu. Khi đó, các con bà đều học hành, làm
việc ở Paris.
Đám tang hoàng hậu Nam Phương được tổ chức ở nhà thờ Chabrignac, có đầy
đủ dân làng mến mộ bà. Các con trai, con gái đều về chịu tang mẹ, riêng
người chồng Bảo Đại thì không thấy đâu. Bà được an táng ngay cạnh khu mộ
thuộc gia đình bá tước De La Besse. Bà bá tước chính là công chúa Như
Lý (con gái vua Hàm Nghi) khi biết tin đã chua xót nói "Ở gần nhau hàng 5
năm mà không biết nhau, đến khi người cháu Nam Phương qua đời rồi mới
biết. Thật tiếc thương".
Mộ hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn đơn sơ, trên bia đá ghi dòng chữ
Hán Đại Nam Nam Phương hoàng hậu chi lăng, mặt sau ghi dòng chữ Pháp,
dịch Đây là nơi an nghỉ của hoàng hậu An Nam, nhũ danh Maria Thérèse
Nguyễn Hữu Thị Lan. Theo ông Nguyễn Đắc Xuân, vì thương mến bà nên người
ta đã táng theo những đồ trang sức quý giá. Nhưng việc này đã để lại
hậu quả xấu là bọn trộm nhiều lần đào bới để tìm vàng.
Dân làng Chabrignac đã xem mộ hoàng hậu Nam Phương là một trong ba di sản quý của làng.
(VnExpress)