Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Cựu ủy viên Bộ Chính trị QH Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng sau 1979
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có
Tháng Bảy 1979, ông Hoàng Văn Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị, Đại
sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc, bỏ trốn theo Trung Quốc.
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan,
nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau
cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân TQ bị phe “thân
Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ
sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức. Việc thanh
trừng vừa là nỗ lực bóc tách các phần tử “thân TQ” thật sự và tiềm năng,
nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở
VN.
Vai trò cá nhân
Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to
lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo
buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc. Là thành viên sáng lập
Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến
kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng. Năm 1948, ông được giao
việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu
tiên của Bắc Việt ở TQ.Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành
Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không
thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất. Vị trí cao nhất ông từng giữ là
phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư
đầy quyền lực.
Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ
Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có
thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.Được
biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào
đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh
chấp Liên Xô – TQ.
Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ
hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương
Đảng. Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải
thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và
Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân
TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội. Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn
vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung. Ví dụ,
năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn
quanh viện trợ kinh tế của TQ.
Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề
Campuchia. Năm 1974, Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ
để �chữa bệnh�, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm
phán biên giới bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả
đã thất bại.Tình hữu nghị giữa hai nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc
đổ vỡ năm 1979. Sự khác biệt giữa TQ và VN về Campuchia và Hoàng Sa đã
không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai
trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn
cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro
an ninh.Sau Chiến tranh Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần
hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy
Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành
chiến tranh, vị trí của Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng Bảy, ông
quyết định đào tẩu. Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay
ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm
1991.Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng
cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo
ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân
biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia.
Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977,
Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng
người Hoa ở Chợ Lớn. Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan
trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia. Nhưng mặt khác, Hoan và nhà bảo
trợ TQ dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc
Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả
khả năng gia nhập Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ
vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết. Bắc Kinh càng làm vết thương
thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng
Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố �những kẻ phá hoại
tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu�.Mặc dù VN nhấn mạnh sự trốn chạy
của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết
chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ. Mùa xuân 1979, khi giới
chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào �Vùng Kinh tế Mới�,
nhiều người VN đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc
ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo. Tháng Sáu 1978,
Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết
gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.
Khủng hoảng xã hội
Quyết loại bỏ những thành phần �bội phản�, giới chức có những biện pháp
khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải
ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương
trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành
an ninh. Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương
có gốc Tàu, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc
Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy
ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân
ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.Tuy nhiên, sự thanh trừng
không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột
Việt – Trung.
Trước hết, các vụ tảo thanh trong hàng ngũ đảng đã bắt đầu từ những
năm trước. Giai đoạn 1970 – 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi
hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung
đột Việt – Trung. Việc trục xuất các cá nhân thân TQ đạt đỉnh cao từ
tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt
đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô,
biển thủ và các hành vi tội phạm.Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên
chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng
viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%).
Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn
là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi
được bổ nhiệm vào Nam.Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng
Cộng sản phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là
mở đợt thanh trừng chính trị to lớn. Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa
làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở
cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả. Ngược lại, một nhà ngoại
giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành �quân dự bị gồm
những kẻ tội phạm�. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải
thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt
với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công
chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã “hết hạn sử dụng” đối với nước chủ
nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi
nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Balazs Szalontai
* Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông
Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn
sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung
tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại
Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
(Nghiên cứu Lịch sử)
Bàn ra tán vào (1)
quang dinh
NGU TRUNG LÃO TƯỚNG
*
Ngu trung lão tướng Nguyễn Viết Thanh
Hậu sanh khả quái dị Trấn Thành
Phùng Quang Thanh ẩn trong rừng núi
Sản sinh ân huệ Trịnh Xuân Thanh
*
Đập ruồi đả hổ tanh banh làm xương cho sáo tiết canh tử cấm thành
Ba Ngòi chuyền nổ Cam Ranh
Khánh Hòa bình lãng lá cành họa Trung Hoa
Tỷ tiền Phú Trọng Mát xa Phạm Văn Đồng nát Gạc Ma khinh nóng gần
*
Cọp gầm voi ré Nguyễn Bá Thanh
Vó câu Qúy Ngọ Nguyễn Tất Thành
Lấy tay mà móc đồng chó ngáp
Lầu tồn ca ngặc Chệt Giang Thanh
*
Từ khi lái lụa từ Trần Dân Tiên cấm cửa Việt Tân Miên Du ghiền
Từ khi Yên Bái Tế Điên
Vũ Khiêu thôi dụ Kỳ Duyên đạo lõa lồ
Võ Kim Cự tuyệt tô hô lòng trong như đã xuống mồ Nguyễn Sinh Cung
*
TÂM THANH
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Cựu ủy viên Bộ Chính trị QH Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng sau 1979
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có
Tháng Bảy 1979, ông Hoàng Văn Hoan, cựu ủy viên Bộ Chính trị, Đại
sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc, bỏ trốn theo Trung Quốc.
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan,
nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau
cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân TQ bị phe “thân
Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ
sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức. Việc thanh
trừng vừa là nỗ lực bóc tách các phần tử “thân TQ” thật sự và tiềm năng,
nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở
VN.
Vai trò cá nhân
Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to
lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo
buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc. Là thành viên sáng lập
Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến
kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng. Năm 1948, ông được giao
việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu
tiên của Bắc Việt ở TQ.Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành
Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không
thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất. Vị trí cao nhất ông từng giữ là
phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư
đầy quyền lực.
Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ
Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có
thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.Được
biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào
đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh
chấp Liên Xô – TQ.
Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ
hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương
Đảng. Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải
thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh.
Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và
Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân
TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội. Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn
vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung. Ví dụ,
năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn
quanh viện trợ kinh tế của TQ.
Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề
Campuchia. Năm 1974, Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ
để �chữa bệnh�, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm
phán biên giới bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả
đã thất bại.Tình hữu nghị giữa hai nước cộng sản Việt Nam – Trung Quốc
đổ vỡ năm 1979. Sự khác biệt giữa TQ và VN về Campuchia và Hoàng Sa đã
không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai
trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn
cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro
an ninh.Sau Chiến tranh Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần
hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy
Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung
ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành
chiến tranh, vị trí của Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng Bảy, ông
quyết định đào tẩu. Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay
ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm
1991.Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng
cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo
ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân
biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia.
Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977,
Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng
người Hoa ở Chợ Lớn. Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan
trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia. Nhưng mặt khác, Hoan và nhà bảo
trợ TQ dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc
Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả
khả năng gia nhập Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ
vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết. Bắc Kinh càng làm vết thương
thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng
Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố �những kẻ phá hoại
tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu�.Mặc dù VN nhấn mạnh sự trốn chạy
của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết
chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ. Mùa xuân 1979, khi giới
chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào �Vùng Kinh tế Mới�,
nhiều người VN đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc
ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo. Tháng Sáu 1978,
Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết
gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.
Khủng hoảng xã hội
Quyết loại bỏ những thành phần �bội phản�, giới chức có những biện pháp
khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải
ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương
trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành
an ninh. Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương
có gốc Tàu, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc
Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy
ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân
ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.Tuy nhiên, sự thanh trừng
không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột
Việt – Trung.
Trước hết, các vụ tảo thanh trong hàng ngũ đảng đã bắt đầu từ những
năm trước. Giai đoạn 1970 – 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi
hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung
đột Việt – Trung. Việc trục xuất các cá nhân thân TQ đạt đỉnh cao từ
tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt
đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô,
biển thủ và các hành vi tội phạm.Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên
chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng
viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%).
Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn
là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi
được bổ nhiệm vào Nam.Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng
Cộng sản phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là
mở đợt thanh trừng chính trị to lớn. Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa
làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở
cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả. Ngược lại, một nhà ngoại
giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành �quân dự bị gồm
những kẻ tội phạm�. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải
thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt
với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công
chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã “hết hạn sử dụng” đối với nước chủ
nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi
nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Balazs Szalontai
* Tiến sĩ Balazs Szalontai từng dạy ở Đại học Khoa học Công nghệ Mông
Cổ và hiện là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn
sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung
tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại
Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
(Nghiên cứu Lịch sử)