Trước mắt tôi là sưu tập Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ
quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng Việt Bắc. Nhân cái chết của Stalin,
tạp chí của Hội ra một số đặc biệt, không chỉ Tố Hữu mà nhiều tác giả
khác có bài liên quan tới sự kiện này
Về thơ
Chế Lan Viên có Stalin không chết, mở đầu bằng mấy câu
Stalin mất rồi
Đồng chí Stalin đã mất!
Thế giới không cha nặng tiếng thở dài
Kinh Đời
Để hiểu thêm Tố Hữu
Tác giả: Vương Trí Nhàn
KD: Khi đọc bài viết này, mình bỗng nhớ đến câu nói của một nhà thơ về thơ: Thơ là thật, thật đến tận cùng của sự hoàn toàn chân thành thật. Thế mà nhiều khi vẫn giả, kể cả chân thành giả tạo. Đó là một bí ẩn của thơ.
Bí ẩn ấy bao gồm một nghịch lý tệ hại : Có bài thơ hay, xúc động lòng người, mà người viết bài thơ ấy rất giả.
Ở đoạn dưới
Mẹ hiền ta ơi
Em bé ta ơi
Đồng chí Stalin không bao giờ chết
…Triệu triệu mẹ già em dại
Đều là súng Stalin để lại ( VTN gạch dưới)*
Giữ lấy hòa bình thế giới
Tiếng nổ ca vang dội thấu mặt trời
Các bài tiếp theo:
Trước bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu là bài Nhớ đồng chí Sta lin của Huy Cận
Tiếp đó các bài của Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn.
Xuân Diệu có bài Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin:
Nghe tin mất mới thấy lòng quyến luyến
Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh
Về phần văn xuôi.
Phan Khôi có bài Một vị học giả mác-xít thiên tài. Trước khi
viết kỹ về cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn ngữ, Phan Khôi có đoạn dạo
đầu ngắn:
Đối với cái chết của Đại nguyên soái Stalin, vấn đề đề ra
trước mắt những người đang sống là: Chúng ta phải học tập Stalin, học
tập đạo đức cách mạng và trí tuệ của ông, được cả càng hay, không thì
được phần nào cũng hay phần ấy, đó là một đảm bảo vững chắc cho cuộc
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của Chủ nghĩa tân dân chủ.
Lê Đạt thì xuất hiện như một phóng viên, ghi lại không khí một
nhà máy trong rừng khi nghe tin Stalin mất. Bài viết khoảng 3.000 chữ
này kể chuyện cái chết của Stalin đã gợi lên niềm xúc động to lớn, từ đó
đánh thức tinh thần lao động sáng tạo của cả một tập thể công nhân gang
thép.
Xin phép mở một dấu ngoặc.
Ngoài các bài Liễu, Bài thơ tình ở Hàng Châu, Tế Hanh còn có
bài thơ ngắn sau đây, viết trong đợt thăm Trung quốc 1962. Tôi vẫn
thường nhẩm lại mỗi khi nhớ tới đời sống tinh thần của chúng tôi những
năm 1965 về trước.
Hồ Nam xe chạy không dừng bước
Dãy núi cao liền dãy núi cao
Quê hương lãnh tụ mây thêu nắng
Thấy mặt trời lên nhớ bác Mao
Tôi muốn thầm nói với Tế Hanh: Anh không việc gì phải xấu hổ cả. Hồi ấy, bao nhiêu người nghĩ thế, chứ đâu phải riêng anh!
Trở lại chuyện Tố Hữu.
Nếu có ai hỏi tôi thích bài nào của Tố Hữu nhất, tôi sẽ nói
rằng đó là cụm mấy bài ông làm hồi đi tù, in trong phần Xiềng xích của
tập Từ ấy.
Bài Nhớ đồng
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
Bài Tiếng hát đi đầy
Hỡi những anh đầu đi trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đầy
Những bài thơ này có cái giọng mà sau này không bao giờ Tố Hữu
có nữa. Nhà thơ bơ vơ trong cảnh đơn độc ở núi rừng. Phải làm thơ, phải
lấy thơ để tự khẳng định, thơ cất lên không để cho ai mà trước tiên để
cho mình .
Những bài thơ viết khi người ta không biết mình sẽ sống hay chết như thế này,
tôi còn gặp một lần nữa trong thơ VN về sau, đó là tập Ánh sáng và phù sa.
Khi soạn tập thơ (1960), Chế Lan Viên chưa chuyển sang giai đoạn lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa , như Xuân Sách sẽ viết .
Sinh thời, Tố Hữu hay nói, đại ý hãy coi ông là nhà cách mạng, sau đó mới là nhà thơ.
Như thế tức là ông cũng đã biết chỗ đứng của mình trong lịch sử.
Có điều không phải luôn luôn người ta làm được đúng như những điều người ta tự xác định.
Là một người hết sức nhạy cảm và sẵn có cả chất mệ của quê
hương, ông thừa biết nhiều khi dân văn nghệ ca ngợi thơ ông vì ông là
quan chức phụ trách người ta, nắm sinh mệnh của người ta.
Song nếu đủ sáng suốt để từ chối những lời nịnh bợ thường trực thì ông đã không còn là ông nữa.
Lẽ đời là vậy, lúc được được quá cái đáng được, thì lúc mất cũng mất quá cái đáng mất.
Nhưng về phần chúng ta, mỗi lần đả động đến ông, tôi nghĩ nên
phân biệt đang nói về ông như một quan chức cao cấp hay nói về ông như
một nhà thơ.
Khoảng năm 1973, Hà Nội có một triển lãm điêu khắc với ngôn
ngữ khá hiện đại của Nguyễn Hải và Lê Công Thành. Chính Tố Hữu cũng rất
thích — sang Hội nhà văn nghe ngóng về, Nguyễn Khải báo cho tôi biết tin
vui đó. Nhưng rồi hóa ra chúng tôi mừng hụt. Mấy vị to hơn tới xem cho
là không được. Và người ta lại thấy Tố Hữu cho truyền đi nhận định không
thể tìm tòi kiểu ấy, mà hãy trở lại với thứ điêu khắc mô phỏng đời
thường, kiểu Trần Văn Lắm!
Tức là cũng như chúng ta, Tố Hữu cũng có lúc phải làm ngược điều mình nghĩ.
Trước đó năm 1965, Nguyễn Thành Long bị nạn với bút ký Cái gốc.
Bài ký cũng chẳng có chuyện gì đen tối lắm, chỉ tả phụ nữ trong chiến
tranh quá nhếch nhác, nên bị Đảng đoàn Hội phụ nữ kêu.Theo chỗ tôi nhớ,
lúc đầu Nguyễn Thành Long rất tự tin, vì Tố Hữu đã nhắn xuống tỏ ý bênh,
“họ có Đảng đoàn thì mình cũng có Đảng đoàn chứ “( ý nói Đảng đoàn phụ
nữ và Đảng đoàn văn nghệ– hai cấp tương đương nhau ). Thế nhưng bên phụ
nữ kiện lên trên và cuối cùng văn nghệ thua, Cái gốc chung số phận với
Tình rừng.
Nguyễn Khải kể khoảng năm 1963, có lần được dự một cuộc họp
cùng bí thư tỉnh ủy các tỉnh đồng bằng do Tố Hữu chủ trì, chắc là bàn về
công tác tuyên huấn. Trong lúc nghe mọi người thảo luận, bỗng Nguyễn
Khải thấy Tố Hữu đang đi quanh thì dừng lại, ghé vào tai mình nói nhỏ:
— Chăc nhà văn nhìn cảnh này như một trò hề?!
Rồi ông lảng ngay, lên bàn chủ tịch, tiếp tục lo nốt các việc đang làm dở.
Cái lạ của các nhà văn sau 1945 là khi tính viết con người thời nay, chỉ hay viết về nhân vật quần chúng công nông. Còn những người kéo quần chúng đi, vẽ ra cái mẫu điển hình để quần chúng sống theo và nói chung chỉ có vai trò đơn giản là…lèo lái toàn bộ đời sống – những nhân vật quan chức nhân vật cán bộ kiểu ấy lại chả ai viết bao giờ.
Tôi đã phác qua một vài nét về Tố Hữu hồi ở Việt Bắc trong ghi chép về Nguyễn Đình Nghi.
Nhị Ca kể với tôi cái tình tiết sau đây: trong rừng, cạnh cơ
quan, thường có những quán cà phê, anh em hay ra đấy đấu láo. Đang vui
thì Tố Hữu đến. Thế là mọi người không ai bảo ai rút lui hết. Chỉ còn
một người bao giờ cũng ngồi với Tố Hữu đến cùng. Là Hoài Thanh.
Cái công của Tố Hữu hồi ấy là giữ cho được anh em đi theo kháng chiến đến cùng không để họ trở về thành.
Những năm chiến tranh, thỉnh thoảng một số anh em viết trẻ
chúng tôi cũng được gọi đi nghe Tố Hữu nói chuyện. Có một câu ông nói
khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất, đó là cái ý ông bảo sang
nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước thấy đồng bào mình
sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn.
Ông cũng thường nói là nổi tiếng ở nước ngoài thì dễ, nổi tiếng ở trong nước mới khó .
Lại có lần khuyến khích lớp trẻ, ông bảo phải biết đấu tranh
cho chân lý, khi cần phải cắn xé(!). May mà bọn tôi đã nghe nhiều về
tính đồng bóng của ông, nên chẳng mấy cảm động, nhớ đâu hình như chính
Xuân Quỳnh bảo rằng có mà ông cho ghè gẫy răng.
Tố Hữu quản cán bộ cấp dưới thế nào? Nguyễn Khải nhận xét có
vẻ như càng những người bất tài và có khuyết điểm ông lại càng thích
dùng. Những ông A ông B từng bị Tố Hữu mắng như tát nước vào mặt lại rất
vững vàng trong vị trí của mình. Vì ông thừa biết loại đó bảo thế nào
họ cũng phải nghe.
Bảo Định Giang, người phụ trách Hội liên hiệp những năm ấy
thường kể với mọi người ông Lành dọa sẽ lấy đầu nếu BĐG để một vài văn
nghệ sĩ tiêu biểu lơ mơ ở Hà Nội rồi dính bom đạn.
Một lần, khoảng những năm trước 1980, tôi ngồi với Nguyễn
Khải, Xuân Sách, cùng giở một số báo Tết. Khi ấy Tố Hữu đã đi phụ trách
kinh tế, nhưng các số báo tết vẫn có bài của ông. Nguyễn Khải sát hạch
tôi:
— Thằng Nhàn hãy thử bình một câu xem nào.
Tôi lúc đầu cũng chỉ biết nói như mọi người:
— Thế là được một nhà kinh tế mà mất một nhà thơ.
Nguyễn Khải gạt phắt đi:
— Không được.
Trong cơn bí, tôi phụt ra một ý mà trước đó tôi không hề nghĩ:
— Người làm ra những bài thơ như thế này thì chắc làm kinh tế cũng không ra gì!
Bấy giờ Nguyễn Khải mới cười, bảo ra tôi cũng bắt đầu biết rồi đấy.
Kim Lân có lần rủ rỉ bảo tôi chính Tố Hữu đã kể với tác giả Vợ
nhặt rằng hồi nhỏ ông mắc bệnh mộng du. Có lần chui lên cả bàn thờ họ mà
làm một giấc ngủ trưa
HAI BÀI THƠ TỐ HỮU
Sau đây là hai bài thơ Tố Hữu viết về Triều Tiên, bọn học
sinh cấp II ( trung học cơ sở ) chúng tôi được học trong chương trình
chính khóa mấy năm 1956-57 ở Hà Nội, nhưng lại không thấy in trong các
tập thơ của tác giả. Tôi ghi theo trí nhớ, nên có thể có khiếm khuyết,
mong được lượng thứ.
Em bé Triều Tiên
Em bé Triều Tiên ơi
Mẹ của em đâu rồi ?
Có ai đây mà hỏi
Giặc bốn bề lửa khói
Mẹ của em đấy ư ?
Cái thân trắng lắc lư
Đầu dây treo lủng lẳng
Cha của em đấy ư?
Cái đầu lâu rũ tóc
Máu chảy dài thân cọc
Không, không phải em ơi
Mẹ của em đây rồi
Mẹ em đây
Người dân công tải đạn
Mẹ em đây người nữ cứu thương
Cha em đây giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn chặn đường giặc lui.
Anh Chí nguyện
Con Bác Mao đã đến
Anh đã đến
Với cha em giết hết loài man rợ
Cho mẹ em xây lại tổ mềm
Cho em sướng cho em ca múa
Trên đồng hoa bãi lúa
Nhịp sống vui muôn thuở của Triều Tiên
Bé em ơi, giữa súng rền
Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều!
——-
Việt Nam – Triều Tiên
Việt Nam với Triều Tiên
Ta là hai anh em
Sinh đôi cùng một mẹ
Thương nhau từ thuở bé
Nay đều khỏe lớn lên
Việt Nam với Triều Tiên
Ta thành hai đồng chí
Ta thành hai anh hùng
Ta thành hai chiến lũy
Cùng bảo vệ hòa bình
Kim Nhật Thành—Hồ Chí Minh
Hai chúng ta là một
Qua Trung Hoa ta như liền khúc ruột
Với Liên xô ta chung một mái nhà
Bây giờ ta đến thăm ta
Nhìn nhau khóe mắt mầu da thân tình
Cây thông xanh Triều Tiên cháy xém
Thương cây tre Việt Nam giặc chém
Cây thông xanh nhựa chẩy ròng ròng
Thương cây tre đứt ruột đứt lòng
Nhưng chúng ta quyết không khuất phục
Chúng ta không một lúc cúi đầu
Chúng ta chiến đấu bên nhau
Tâm giao một tổ trước sau một đường
Ta quyết giữ quê hương Triều Việt
Cho chúng ta cho cả loài người
Quang vinh Việt Bắc Tháp Mười
Quang vinh Trường Bạch đỉnh đồi Thượng Cam
Triều Tiên với Việt Nam anh dũng
Đất nước ta dù im tiếng súng
Đường bạn còn đi tới Tế Châu
Đường chúng tôi còn tới Cà Mâu
Ta lại bước bên nhau lại bước
Như giông tố không thể nào ngăn được.
Bây giờ ta với ta đây
Triều Tiên với Việt Nam anh dũng
Hôm nay hãy hôn đôi bàn tay
Hôm nay hãy hôn đôi nòng súng
Giữ hòa bình Tổ quốc chúng ta
Và ngàn năm Triều Việt một nhà.
——–
Blog Vương Trí Nhàn, ngày 18/8/2014
Bàn ra tán vào (3)
----------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
Để hiểu thêm Tố Hữu
Tác giả: Vương Trí Nhàn
KD: Khi đọc bài viết này, mình bỗng nhớ đến câu nói của một nhà thơ về thơ: Thơ là thật, thật đến tận cùng của sự hoàn toàn chân thành thật. Thế mà nhiều khi vẫn giả, kể cả chân thành giả tạo. Đó là một bí ẩn của thơ.
Bí ẩn ấy bao gồm một nghịch lý tệ hại : Có bài thơ hay, xúc động lòng người, mà người viết bài thơ ấy rất giả.
Trước mắt tôi là sưu tập Văn Nghệ số 40 ra 3-1953. Lúc này cơ
quan Hội văn nghệ đang đóng ở rừng Việt Bắc. Nhân cái chết của Stalin,
tạp chí của Hội ra một số đặc biệt, không chỉ Tố Hữu mà nhiều tác giả
khác có bài liên quan tới sự kiện này
Về thơ
Chế Lan Viên có Stalin không chết, mở đầu bằng mấy câu
Stalin mất rồi
Đồng chí Stalin đã mất!
Thế giới không cha nặng tiếng thở dài
Ở đoạn dưới
Mẹ hiền ta ơi
Em bé ta ơi
Đồng chí Stalin không bao giờ chết
…Triệu triệu mẹ già em dại
Đều là súng Stalin để lại ( VTN gạch dưới)*
Giữ lấy hòa bình thế giới
Tiếng nổ ca vang dội thấu mặt trời
Các bài tiếp theo:
Trước bài Đời đời nhớ Ông của Tố Hữu là bài Nhớ đồng chí Sta lin của Huy Cận
Tiếp đó các bài của Bàn Tài Đoàn, Nông Quốc Chấn.
Xuân Diệu có bài Thương tiếc Đại nguyên soái Stalin:
Nghe tin mất mới thấy lòng quyến luyến
Từ bao lâu yêu Người tận tủy xương
Tiếng khóc đây là tất cả can trường
Thấy Người thật là bát cơm miếng bánh
Người gắn với chúng con trong vận mệnh
Về phần văn xuôi.
Phan Khôi có bài Một vị học giả mác-xít thiên tài. Trước khi
viết kỹ về cuốn Chủ nghĩa Mác và vấn đề ngôn ngữ, Phan Khôi có đoạn dạo
đầu ngắn:
Đối với cái chết của Đại nguyên soái Stalin, vấn đề đề ra
trước mắt những người đang sống là: Chúng ta phải học tập Stalin, học
tập đạo đức cách mạng và trí tuệ của ông, được cả càng hay, không thì
được phần nào cũng hay phần ấy, đó là một đảm bảo vững chắc cho cuộc
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của Chủ nghĩa tân dân chủ.
Lê Đạt thì xuất hiện như một phóng viên, ghi lại không khí một
nhà máy trong rừng khi nghe tin Stalin mất. Bài viết khoảng 3.000 chữ
này kể chuyện cái chết của Stalin đã gợi lên niềm xúc động to lớn, từ đó
đánh thức tinh thần lao động sáng tạo của cả một tập thể công nhân gang
thép.
Xin phép mở một dấu ngoặc.
Ngoài các bài Liễu, Bài thơ tình ở Hàng Châu, Tế Hanh còn có
bài thơ ngắn sau đây, viết trong đợt thăm Trung quốc 1962. Tôi vẫn
thường nhẩm lại mỗi khi nhớ tới đời sống tinh thần của chúng tôi những
năm 1965 về trước.
Hồ Nam xe chạy không dừng bước
Dãy núi cao liền dãy núi cao
Quê hương lãnh tụ mây thêu nắng
Thấy mặt trời lên nhớ bác Mao
Tôi muốn thầm nói với Tế Hanh: Anh không việc gì phải xấu hổ cả. Hồi ấy, bao nhiêu người nghĩ thế, chứ đâu phải riêng anh!
Trở lại chuyện Tố Hữu.
Nếu có ai hỏi tôi thích bài nào của Tố Hữu nhất, tôi sẽ nói
rằng đó là cụm mấy bài ông làm hồi đi tù, in trong phần Xiềng xích của
tập Từ ấy.
Bài Nhớ đồng
Gì sâu bằng những trưa thương nhớ
Hiu quạnh bên trong một tiếng hò
Bài Tiếng hát đi đầy
Hỡi những anh đầu đi trước đó
Biết chăng còn lắm bạn đi đầy
Những bài thơ này có cái giọng mà sau này không bao giờ Tố Hữu
có nữa. Nhà thơ bơ vơ trong cảnh đơn độc ở núi rừng. Phải làm thơ, phải
lấy thơ để tự khẳng định, thơ cất lên không để cho ai mà trước tiên để
cho mình .
Những bài thơ viết khi người ta không biết mình sẽ sống hay chết như thế này,
tôi còn gặp một lần nữa trong thơ VN về sau, đó là tập Ánh sáng và phù sa.
Khi soạn tập thơ (1960), Chế Lan Viên chưa chuyển sang giai đoạn lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa , như Xuân Sách sẽ viết .
Sinh thời, Tố Hữu hay nói, đại ý hãy coi ông là nhà cách mạng, sau đó mới là nhà thơ.
Như thế tức là ông cũng đã biết chỗ đứng của mình trong lịch sử.
Có điều không phải luôn luôn người ta làm được đúng như những điều người ta tự xác định.
Là một người hết sức nhạy cảm và sẵn có cả chất mệ của quê
hương, ông thừa biết nhiều khi dân văn nghệ ca ngợi thơ ông vì ông là
quan chức phụ trách người ta, nắm sinh mệnh của người ta.
Song nếu đủ sáng suốt để từ chối những lời nịnh bợ thường trực thì ông đã không còn là ông nữa.
Lẽ đời là vậy, lúc được được quá cái đáng được, thì lúc mất cũng mất quá cái đáng mất.
Nhưng về phần chúng ta, mỗi lần đả động đến ông, tôi nghĩ nên
phân biệt đang nói về ông như một quan chức cao cấp hay nói về ông như
một nhà thơ.
Khoảng năm 1973, Hà Nội có một triển lãm điêu khắc với ngôn
ngữ khá hiện đại của Nguyễn Hải và Lê Công Thành. Chính Tố Hữu cũng rất
thích — sang Hội nhà văn nghe ngóng về, Nguyễn Khải báo cho tôi biết tin
vui đó. Nhưng rồi hóa ra chúng tôi mừng hụt. Mấy vị to hơn tới xem cho
là không được. Và người ta lại thấy Tố Hữu cho truyền đi nhận định không
thể tìm tòi kiểu ấy, mà hãy trở lại với thứ điêu khắc mô phỏng đời
thường, kiểu Trần Văn Lắm!
Tức là cũng như chúng ta, Tố Hữu cũng có lúc phải làm ngược điều mình nghĩ.
Trước đó năm 1965, Nguyễn Thành Long bị nạn với bút ký Cái gốc.
Bài ký cũng chẳng có chuyện gì đen tối lắm, chỉ tả phụ nữ trong chiến
tranh quá nhếch nhác, nên bị Đảng đoàn Hội phụ nữ kêu.Theo chỗ tôi nhớ,
lúc đầu Nguyễn Thành Long rất tự tin, vì Tố Hữu đã nhắn xuống tỏ ý bênh,
“họ có Đảng đoàn thì mình cũng có Đảng đoàn chứ “( ý nói Đảng đoàn phụ
nữ và Đảng đoàn văn nghệ– hai cấp tương đương nhau ). Thế nhưng bên phụ
nữ kiện lên trên và cuối cùng văn nghệ thua, Cái gốc chung số phận với
Tình rừng.
Nguyễn Khải kể khoảng năm 1963, có lần được dự một cuộc họp
cùng bí thư tỉnh ủy các tỉnh đồng bằng do Tố Hữu chủ trì, chắc là bàn về
công tác tuyên huấn. Trong lúc nghe mọi người thảo luận, bỗng Nguyễn
Khải thấy Tố Hữu đang đi quanh thì dừng lại, ghé vào tai mình nói nhỏ:
— Chăc nhà văn nhìn cảnh này như một trò hề?!
Rồi ông lảng ngay, lên bàn chủ tịch, tiếp tục lo nốt các việc đang làm dở.
Cái lạ của các nhà văn sau 1945 là khi tính viết con người thời nay, chỉ hay viết về nhân vật quần chúng công nông. Còn những người kéo quần chúng đi, vẽ ra cái mẫu điển hình để quần chúng sống theo và nói chung chỉ có vai trò đơn giản là…lèo lái toàn bộ đời sống – những nhân vật quan chức nhân vật cán bộ kiểu ấy lại chả ai viết bao giờ.
Tôi đã phác qua một vài nét về Tố Hữu hồi ở Việt Bắc trong ghi chép về Nguyễn Đình Nghi.
Nhị Ca kể với tôi cái tình tiết sau đây: trong rừng, cạnh cơ
quan, thường có những quán cà phê, anh em hay ra đấy đấu láo. Đang vui
thì Tố Hữu đến. Thế là mọi người không ai bảo ai rút lui hết. Chỉ còn
một người bao giờ cũng ngồi với Tố Hữu đến cùng. Là Hoài Thanh.
Cái công của Tố Hữu hồi ấy là giữ cho được anh em đi theo kháng chiến đến cùng không để họ trở về thành.
Những năm chiến tranh, thỉnh thoảng một số anh em viết trẻ
chúng tôi cũng được gọi đi nghe Tố Hữu nói chuyện. Có một câu ông nói
khiến tôi nhớ nhất và phải nói thực sợ nhất, đó là cái ý ông bảo sang
nước ngoài thấy đời sống họ lạnh lùng lắm, về nước thấy đồng bào mình
sống với nhau, ấm cúng hơn hẳn.
Ông cũng thường nói là nổi tiếng ở nước ngoài thì dễ, nổi tiếng ở trong nước mới khó .
Lại có lần khuyến khích lớp trẻ, ông bảo phải biết đấu tranh
cho chân lý, khi cần phải cắn xé(!). May mà bọn tôi đã nghe nhiều về
tính đồng bóng của ông, nên chẳng mấy cảm động, nhớ đâu hình như chính
Xuân Quỳnh bảo rằng có mà ông cho ghè gẫy răng.
Tố Hữu quản cán bộ cấp dưới thế nào? Nguyễn Khải nhận xét có
vẻ như càng những người bất tài và có khuyết điểm ông lại càng thích
dùng. Những ông A ông B từng bị Tố Hữu mắng như tát nước vào mặt lại rất
vững vàng trong vị trí của mình. Vì ông thừa biết loại đó bảo thế nào
họ cũng phải nghe.
Bảo Định Giang, người phụ trách Hội liên hiệp những năm ấy
thường kể với mọi người ông Lành dọa sẽ lấy đầu nếu BĐG để một vài văn
nghệ sĩ tiêu biểu lơ mơ ở Hà Nội rồi dính bom đạn.
Một lần, khoảng những năm trước 1980, tôi ngồi với Nguyễn
Khải, Xuân Sách, cùng giở một số báo Tết. Khi ấy Tố Hữu đã đi phụ trách
kinh tế, nhưng các số báo tết vẫn có bài của ông. Nguyễn Khải sát hạch
tôi:
— Thằng Nhàn hãy thử bình một câu xem nào.
Tôi lúc đầu cũng chỉ biết nói như mọi người:
— Thế là được một nhà kinh tế mà mất một nhà thơ.
Nguyễn Khải gạt phắt đi:
— Không được.
Trong cơn bí, tôi phụt ra một ý mà trước đó tôi không hề nghĩ:
— Người làm ra những bài thơ như thế này thì chắc làm kinh tế cũng không ra gì!
Bấy giờ Nguyễn Khải mới cười, bảo ra tôi cũng bắt đầu biết rồi đấy.
Kim Lân có lần rủ rỉ bảo tôi chính Tố Hữu đã kể với tác giả Vợ
nhặt rằng hồi nhỏ ông mắc bệnh mộng du. Có lần chui lên cả bàn thờ họ mà
làm một giấc ngủ trưa
HAI BÀI THƠ TỐ HỮU
Sau đây là hai bài thơ Tố Hữu viết về Triều Tiên, bọn học
sinh cấp II ( trung học cơ sở ) chúng tôi được học trong chương trình
chính khóa mấy năm 1956-57 ở Hà Nội, nhưng lại không thấy in trong các
tập thơ của tác giả. Tôi ghi theo trí nhớ, nên có thể có khiếm khuyết,
mong được lượng thứ.
Em bé Triều Tiên
Em bé Triều Tiên ơi
Mẹ của em đâu rồi ?
Có ai đây mà hỏi
Giặc bốn bề lửa khói
Mẹ của em đấy ư ?
Cái thân trắng lắc lư
Đầu dây treo lủng lẳng
Cha của em đấy ư?
Cái đầu lâu rũ tóc
Máu chảy dài thân cọc
Không, không phải em ơi
Mẹ của em đây rồi
Mẹ em đây
Người dân công tải đạn
Mẹ em đây người nữ cứu thương
Cha em đây giữa chiến trường
Mặt đen khói đạn chặn đường giặc lui.
Anh Chí nguyện
Con Bác Mao đã đến
Anh đã đến
Với cha em giết hết loài man rợ
Cho mẹ em xây lại tổ mềm
Cho em sướng cho em ca múa
Trên đồng hoa bãi lúa
Nhịp sống vui muôn thuở của Triều Tiên
Bé em ơi, giữa súng rền
Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều!
——-
Việt Nam – Triều Tiên
Việt Nam với Triều Tiên
Ta là hai anh em
Sinh đôi cùng một mẹ
Thương nhau từ thuở bé
Nay đều khỏe lớn lên
Việt Nam với Triều Tiên
Ta thành hai đồng chí
Ta thành hai anh hùng
Ta thành hai chiến lũy
Cùng bảo vệ hòa bình
Kim Nhật Thành—Hồ Chí Minh
Hai chúng ta là một
Qua Trung Hoa ta như liền khúc ruột
Với Liên xô ta chung một mái nhà
Bây giờ ta đến thăm ta
Nhìn nhau khóe mắt mầu da thân tình
Cây thông xanh Triều Tiên cháy xém
Thương cây tre Việt Nam giặc chém
Cây thông xanh nhựa chẩy ròng ròng
Thương cây tre đứt ruột đứt lòng
Nhưng chúng ta quyết không khuất phục
Chúng ta không một lúc cúi đầu
Chúng ta chiến đấu bên nhau
Tâm giao một tổ trước sau một đường
Ta quyết giữ quê hương Triều Việt
Cho chúng ta cho cả loài người
Quang vinh Việt Bắc Tháp Mười
Quang vinh Trường Bạch đỉnh đồi Thượng Cam
Triều Tiên với Việt Nam anh dũng
Đất nước ta dù im tiếng súng
Đường bạn còn đi tới Tế Châu
Đường chúng tôi còn tới Cà Mâu
Ta lại bước bên nhau lại bước
Như giông tố không thể nào ngăn được.
Bây giờ ta với ta đây
Triều Tiên với Việt Nam anh dũng
Hôm nay hãy hôn đôi bàn tay
Hôm nay hãy hôn đôi nòng súng
Giữ hòa bình Tổ quốc chúng ta
Và ngàn năm Triều Việt một nhà.
——–
Blog Vương Trí Nhàn, ngày 18/8/2014