Nhân xem lại bộ phim tài liệu 10 tập “The Vietnam War” của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick, bắt đầu trình chiếu ngày 17-9-2017 (*)
6-1-1969: Tổng-trưởng giáo dục Lê Minh Trí và vệ-sĩ bị thương nặng, tài-xế thiệt mạng, xe hơi bị cháy trên đường Hai Bà Trưng-Nguyễn Du Sài Gòn: 3 kẻ lạ mặt cỡi Honda ném lựu-đạn rồi tẩu thoát. Tổng-trưởng từ trần tại bệnh-viện Grall sau một cuộc giải-phẫu vô hiệu.
18-1-1969: Lựu-đạn nổ trong rạp hát quận-lỵ Phù Cát, Bình Định: 4 người chết, 52 bị thương.
23-1-1969: Khu định-cư Tân Hiệp tại Quảng Tín bị tấn công và thiêu hủy: 200 nhà cháy, 3 người chết, 16 bị thương.
7-2-1969: Lựu-đạn ném vào trụ sở phường Yên Đổ Sài-Gòn, 2 người bị thương, 2 khủng bố cỡi Honda bị bắt.
3-3-1969: Lúc 5 giờ sáng, Đô-thành bị pháo kích, hỏa tiễn bắn xuống bịnh-viện Grall; gần bến Bạch Đằng và Khánh Hội: 11 người chết, 21 bị thương, 30 căn nhà bị phá hủy.
8-5-1969: Lúc 8 giờ 10, mìn nổ tại Bưu điện Sài-Gòn: 2 người chết, 31 bị thương.
6-7-1969: Mìn nổ tại rạp hát Casino Cần Thơ: 4 người chết, 37 bị thương.
Đó là vài trong rất nhiều sự kiện khủng bố miền Nam thời chiến tranh (trích từ “Việc từng ngày 1969” của Đoàn Thêm) mà không bao giờ được thuật trong những quyển sử phe “thắng cuộc”, hoặc có kể trong những quyển biên niên “truyền thống” thì cũng không bao giờ đề cập các vụ giết hại thường dân. Có thể “nhặt” ra hàng trăm vụ khủng bố khắp miền Nam trong 5 quyển “Việc từng ngày” (1965, 1966, 1967, 1968, 1969) – giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến, đặc biệt từ sau thời Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Cá nhân tôi còn nhớ, hồi ấy, từ “Việt Cộng” luôn được nhắc với sự sợ hãi. Nó đồng nghĩa với kinh hoàng và người ta sợ đến mức không dám gọi thẳng tên. “Tối qua ‘mấy ổng’ về cắt cổ ông ấp trưởng. Cắt bằng lưỡi liềm!” – tôi vẫn còn nhớ được nghe những câu chuyện như vậy, xảy ra tại quê ngoại tôi, ở “vùng bưng 6 xã” thuộc Thủ Đức. “Mấy ổng” ở đây là khủng bố Việt Cộng, những kẻ giết người không gớm tay.
Nhắc lại để thấy cuộc chiến Việt Nam không chỉ là những tổn thất mà miền Bắc phải gánh chịu từ bom Mỹ. Suốt giai đoạn chiến tranh, miền Nam chưa bao giờ thật sự yên ổn. Khắp đất nước, dải khăn sô không chỉ phủ trắng tang tóc lên Huế mà còn được đội ở gần như mọi tỉnh thành. Chẳng có gì “hào hùng” khi giết chết những người vô tội. Phải nói là tội ác lịch sử khi bom Mỹ giết chết những đứa trẻ vô tội miền Bắc và cũng phải nói là tội ác lịch sử khi Việt Cộng giết cả những đứa bé trong các vụ khủng bố, như vụ đánh bom nhà hàng nổi Mỹ Cảnh ngày 25-6-1965.
Những kẻ thực hiện các vụ khủng bố không phải là “anh hùng”. Họ cần phải được định danh lại cho đúng: tội phạm chiến tranh. Cuộc chiến này cũng cần được định danh lại cho đúng. Nó không phải là cuộc chiến “giải phóng” mà là cuộc chiến huynh đệ tương tàn với đầy đủ diện mạo đáng kinh tởm nhất mà thần Chiến tranh luôn mang lại đối với bất kỳ cuộc chiến nào. Đó là một cuộc tắm máu dân tộc mà bất kỳ kẻ hoạt đầu chính trị nào liên quan đều phải chịu trách nhiệm.
Khi đọc “Xương trắng Trường Sơn” của tác giả Xuân Vũ (1974) – một trong những quyển sách hay nhất viết về cuộc chiến Việt Nam, miêu tả những cuộc hành quân của lính Bắc Việt – tôi không thấy những cuộc hành quân “thần thánh”. Tôi chỉ thấy một sự lừa bịp tận cùng để đẩy những thanh niên Bắc Việt vô tội lao vào chỗ vùi thịt phơi xương trên con đường “sinh Bắc tử Nam”. Thần Chiến tranh không bao giờ tự đến. Thần Chiến tranh chỉ xuất hiện khi có những con quỷ khát máu tìm đến chiến tranh.
Sách sử “một chiều” của phe “chiến thắng” luôn nhấn mạnh đến “tội ác Mỹ-Ngụy” và yếu tố “giải phóng” như bản chất cốt lõi của cuộc chiến. Sách sử “một chiều” nhìn họ như là “nạn nhân” của cuộc chiến và họ phải có “sứ mạng” “mang lại hòa bình” bằng công cụ chiến tranh, kể cả sau khi một hiệp định hòa bình đã được ký kết (1973). Hàng triệu người miền Bắc đã bị vắt kiệt để thỏa mãn “ý chí” “giải phóng” của những kẻ mà bây giờ cũng cần được định danh lại cho đúng: “Ngụy”. Bộ máy chiến tranh Hà Nội đáng gọi là “ngụy” vì họ đã ngụy trá và lừa bịp để đẩy hàng triệu đồng bào lao vào cuộc bắn giết hàng triệu đồng bào. Họ cũng ngụy trá và lừa bịp thành công khi đưa phong trào phản chiến của miền Nam trở thành một phần của công cuộc “giải phóng dân tộc”. Thái độ phản đối chiến tranh của miền Nam không nằm trong “khái niệm” “giải phóng dân tộc” của Hà Nội.
Hậu quả của cách nhìn ngụy trá đã tạo ra một sự thù hận hậu chiến vô cùng phi nhân và đến giờ vẫn khoét sâu rạn nứt hai miền Nam Bắc, vẫn tạo ra ranh giới giữa “phe Quốc gia” và “phe Cộng sản”, giữa “cờ vàng” với “cờ đỏ”. 42 năm sau khi chiến tranh chấm dứt, phe “chiến thắng” chưa một lần nào mời tất cả viên chức Chính quyền Sài Gòn và tất cả sĩ quan quân đội VNCH cùng ngồi lại để bắt tay nhau như một biểu tượng của sự hàn gắn và để cùng xây dựng quê hương. Chính sách “hòa hợp” của Hà Nội là một chính sách nửa vời và không thành thật. Hà Nội vẫn xem đồng bào mình, ở chiến tuyến bên kia trước đó hàng chục năm, như những kẻ thù đáng nghi kỵ. 42 năm sau chiến tranh, phe “chiến thắng” vẫn thể hiện họ như thể là những kẻ “chính danh” được quyền “sở hữu” quốc gia trong khi những người cùng dòng máu Việt chạy trốn khỏi chính sách đối xử cay nghiệt của họ là “những kẻ lưu vong”.
Tiếng súng đã im. Lòng người vẫn còn vang vọng tiếng bom đạn khoét sâu chia rẽ lẫn hận thù. Bao giờ thì đất nước này, dân tộc này, mới có thể ngồi lại với nhau đây?
Đó là một “bức tranh hòa bình” mà không bất kỳ người dân Việt nào muốn và không hề nằm trong suy nghĩ của những người miền Nam trước 1975 từng khát khao một nền hòa bình thật sự trên khắp dải đất quê hương. Để cho một đất nước tiếp tục bị chia rẽ, có lẽ cũng cần định danh lại những kẻ được gọi là phe “chiến thắng”: chính xác hơn, họ là những kẻ thất bại.
Trong chiến tranh, họ đã biến hàng triệu người dân thành nạn nhân. Sau chiến tranh, hàng chục triệu người dân tiếp tục trở thành nạn nhân của họ. Họ luôn nói về những “chiến thắng” cách đây hàng chục năm, tuy nhiên, những thất bại mà họ tạo ra thời hậu chiến thì họ đã không thể “thắng” được. Họ không thể bước qua nổi cái di sản chiến tranh để kiến tạo một nền hòa bình cho dân tộc và một sự thống nhất cho quê hương.
(*) Về “The Vietnam War”, tôi xin giới thiệu trong một bài khác. Tiếng Dân