Thân Hữu Tiếp Tay...
"Đối với dân tộc Việt Nam, hôm nay là ngày không thể không bao giờ quên!" _ Hà Văn Thịnh..
               
                           
Những trang ngắn trong  Bên Thắng Cuộc kể lại chi tiết của quan hệ Trung Việt trong những năm 70  của thế kỷ trước mới nguyên giống như vừa xảy ra hôm qua: Trong chỗ  riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần  Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền  Nam, Trung Quốc nói không có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để  đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều  kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng  không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác bộ, thồ bằng xe đạp’. Các  anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm  đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ  muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn.  Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế  cả Đông Dương, cho nên mình phải tính”191…
Bên Thắng Cuộc là một  tác phẩm lớn, không đồng nghĩa với việc không sai sót. Chẳng hạn, có một  lỗi rất nhỏ lẽ ra không đáng mắc phải ở trang 75: Quần đảo Poulo Vai,  khi thì tác giả nói là Hòn Trọc, có khi lại là Hòn Ông, Hòn Bà – mặc dù  ai đã ở Hà Tiên, từng quan tâm đến Hà Tiên, đều biết đó không phải là  một đảo mà là một quần đảo. Một cách khách quan, do trên nền tảng là một  nhà báo nên HĐ không ít lần sa vào những chi tiết “nổi bật” của dòng  lịch sử mà “quên” đi cái phần chìm rất lớn, đa chiều và sâu xa hơn. Tất  nhiên, nếu không có những cái focus đặc trưng (tạm dùng từ “giật gân” –  trong khi lẽ ra là tiêu điểm, cái nóng nhất, đáng chú ý nhất – tuy nó  rất không thỏa đáng trong cuốn sách này), thì bài báo đó chẳng ai đọc;  ngược lại, nếu sa vào thì “phần chìm” lịch sử sẽ mất đi. Chẳng hạn, khi  kể về việc VN quá đáng trong việc ra điều kiện với Mỹ để bình thường hóa  nên đánh mất cơ hội, tác giả đã quên mất rằng; TQ, với bản năng “săn  mồi” sâu hiểm, đã “vồ” ngay lấy cái cơ may nảy sinh từ ấu trĩ của VN –  muốn “giết một người đã chết” (ám chỉ bắt Mỹ chịu nhục thêm một lần nữa)  để tìm mọi cách ngăn cản quyết liệt việc bình thường hóa quan hệ Mỹ –  Việt. Tác giả cũng “bỏ qua” quan hệ nhiều bất trắc Việt – Xô – khiến cho  ông Lê Duẩn “đi chữa bệnh” bao nhiêu lần rồi mà đại hội vẫn cứ hoãn đi  hoãn lại dài dài; bỏ qua cả chuyện ăn bo bo, cấm xe máy vô cùng “sinh  động” của cái thời ngắc ngoải, quắt quay bằng việc chỉ sơ lược điểm vài  nét đen trên bức tranh vẽ bầu trời xám. Tác giả đã “quên” mất rằng bên  thắng đã có dấu hiệu thua khi cuộc chiến tranh chưa tan khói súng. Miền  Bắc không biết đến son phấn, mỳ ăn liền, “đồ bộ” (may bằng vải hoa  mỏng), không biết dùng từ “ý thức” như một động từ, không hề biết hai từ  Honda, cái đồng hồ Orient 2 “cửa sổ” sau giải phóng bán ở chợ Vinh  tương đương với hai chỉ vàng… Hoặc trong việc HĐ đã không kể về chuyện  trước khi rút quân khỏi CPC, báo đài liên tục nói rằng “tình hình CPC là  không thể đảo ngược được” – đùng một cái lại “tự mình đảo ngược” làm  cho cả thế giới choáng váng(!) Lẽ dĩ nhiên, để có được một cái nền kiến  thức sâu và rộng đủ làm “chìa khóa” phân tích những vấn đề phức tạp của  thế giới đương đại là điều không dễ dàng; không thể đòi hỏi tác giả làm  hơn những gì có thể, nhưng lịch sử VN đương đại từ 1975-1991 mà chỉ có  204 trang (tập 1) là chưa thật thỏa đáng, rất mong trong lần tái bản  tới, phần phân tích + bổ sung tư liệu sẽ dày dặn hơn…
Sẽ có nhiều nhà sử học  không đồng tình với cách đánh giá của sử lều tôi nhưng, dẫu chỉ mới đọc  phần I, tôi vẫn nhấn mạnh rằng, ngoại trừ SGK, sách hàn lâm về lịch sử  là nên viết khác, còn một cuốn lịch sử đúng nghĩa luôn cần phải là như  vậy (với điều kiện HĐ đúng). Công lao lớn nhất của Huy Đức là anh đã  giải mã được rất nhiều mảng che khuất của lịch sử mà có nhiều người chỉ  mới “nghe” chứ chưa hề hiểu và biết. Xét theo ý nghĩa này, đây cũng là  lần đầu tiên những bí mật cỡ đó được phát hiện và tỏ bày. Tôi đã đọc  nhiều cuốn lịch sử của người Mỹ viết (về VN, Nhật Bản, TQ, Nga…) và cảm  nhận được ảnh hưởng việc HĐ đã chịu tác động (tốt) từ những cách viết  đó. Đặc biệt, năm 1974, khi tôi tự học tiếng Anh, tôi đến Thư viện Quốc  gia tập dịch cuốn: The World after Vietnam: The Future of The US Foreign  Policy – Thế giới sau VN: Tương lai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,  1967, của H. Kissinger, tôi đã rất cảm phục (choi dù chỉ hiểu lõm bõm)  cách viết của H. Kissinger: Ngay khi chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền  Nam VN vừa mới bắt đầu, ông ta đã khẳng định là sẽ thua bởi “chúng ta  không thắng tức là đã thua và, Việt Cộng không thua có nghĩa là họ đã  thắng”(!) Dường như cách viết của H. Kissinger ảnh hưởng khá đậm trong  phong cách của HĐ(?) Vì thế, lịch sử sẽ hấp dẫn hơn theo cách viết của  anh, lịch sử sẽ đáng trân trọng theo cách làm tư liệu của anh (nếu tư  liệu của anh chính xác) và lịch sử sử học sẽ ghi nhận công lao của anh.  Đó là điều chắc chắn.
Những bài học (ngầm định  hoặc công khai) mà HĐ đưa ra thật đáng để chiêm ngẫm, nhất là đối với  các nhà lãnh đạo nước ta. Rồi sẽ có “chấn chỉnh”, phê phán, thậm chí là  những động thái căng thẳng hơn, nhưng nếu thực sự muốn học hỏi từ những  sai lầm để làm thế nào đó cho đất nước, dân tộc tốt hơn, rất mong các vị  có trách nhiệm đọc cuốn sách này. Có những chi tiết HĐ đưa ra thật đắt:  Chuyện nghe báo tin bộ đội ta tiến vào Phnom penh, TBT Lê Duẩn vẫn… ngủ  tiếp(?) hay chuyện sau 13 năm làm “thái thú” cho CPC, khi rời khỏi đất  nước có mùi ngọt khắt, khó hiểu như mùi vị đường Thốt nốt, ông Ngô Điền  chẳng được ai đưa tiễn, cho dù trong 13 năm ấy, hàng vạn người trai Đất  Việt đã bỏ xác trên đất… “bạn”… Chỉ riêng những sự thật cay đắng đó,  đáng để phân tích nhiều trang và có không ít những bực tức, khó chịu…;  nhưng chẳng phải, chính người Mỹ đã xây Đài Kỷ niệm chiến tranh VN –  cuộc chiến tranh lần đầu tiên Mỹ thất bại (đến nay vẫn là thất bại duy  nhất), ngay giữa thủ đô Washington D.C.(?!) Nhìn thẳng vào sự thật đắng  cay là cách thức để thoát khỏi những sai lầm; là điều đáng kể nhất, để  cho một dân tộc trở nên lớn hơn… Xin cảm ơn anh, Huy Đức! Nếu lãnh đạo  nước mình đọc, rồi lại hạ cố phản hồi về chuyện đúng – sai, thì tốt biết  bao nhiêu…?
( Trần Minh chuyển )
"Đối với dân tộc Việt Nam, hôm nay là ngày không thể không bao giờ quên!" _ Hà Văn Thịnh..
               
                           
Những trang ngắn trong  Bên Thắng Cuộc kể lại chi tiết của quan hệ Trung Việt trong những năm 70  của thế kỷ trước mới nguyên giống như vừa xảy ra hôm qua: Trong chỗ  riêng tư, vợ Lê Duẩn, bà Nguyễn Thụy Nga kể: “Anh (Lê Duẩn) nói: ‘Lần  Việt Nam xin đạn pháo để chuẩn bị giải phóng miền  Nam, Trung Quốc nói không có, nhưng Việt Nam đã dự trữ từ lâu đủ đạn để  đánh. Khi xin 2.000 chiếc xe vận tải Giải phóng thì Trung Quốc ra điều  kiện ‘phải cho 500 lái xe Trung Quốc theo’. Anh nói: ‘Một thằng tôi cũng  không cho, nếu không có xe thì chúng tôi vác bộ, thồ bằng xe đạp’. Các  anh khác bảo: ‘Anh làm gì mà căng thế?’. Anh nói: ‘Trung Quốc nói làm  đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ  muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn.  Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế  cả Đông Dương, cho nên mình phải tính”191…
Bên Thắng Cuộc là một  tác phẩm lớn, không đồng nghĩa với việc không sai sót. Chẳng hạn, có một  lỗi rất nhỏ lẽ ra không đáng mắc phải ở trang 75: Quần đảo Poulo Vai,  khi thì tác giả nói là Hòn Trọc, có khi lại là Hòn Ông, Hòn Bà – mặc dù  ai đã ở Hà Tiên, từng quan tâm đến Hà Tiên, đều biết đó không phải là  một đảo mà là một quần đảo. Một cách khách quan, do trên nền tảng là một  nhà báo nên HĐ không ít lần sa vào những chi tiết “nổi bật” của dòng  lịch sử mà “quên” đi cái phần chìm rất lớn, đa chiều và sâu xa hơn. Tất  nhiên, nếu không có những cái focus đặc trưng (tạm dùng từ “giật gân” –  trong khi lẽ ra là tiêu điểm, cái nóng nhất, đáng chú ý nhất – tuy nó  rất không thỏa đáng trong cuốn sách này), thì bài báo đó chẳng ai đọc;  ngược lại, nếu sa vào thì “phần chìm” lịch sử sẽ mất đi. Chẳng hạn, khi  kể về việc VN quá đáng trong việc ra điều kiện với Mỹ để bình thường hóa  nên đánh mất cơ hội, tác giả đã quên mất rằng; TQ, với bản năng “săn  mồi” sâu hiểm, đã “vồ” ngay lấy cái cơ may nảy sinh từ ấu trĩ của VN –  muốn “giết một người đã chết” (ám chỉ bắt Mỹ chịu nhục thêm một lần nữa)  để tìm mọi cách ngăn cản quyết liệt việc bình thường hóa quan hệ Mỹ –  Việt. Tác giả cũng “bỏ qua” quan hệ nhiều bất trắc Việt – Xô – khiến cho  ông Lê Duẩn “đi chữa bệnh” bao nhiêu lần rồi mà đại hội vẫn cứ hoãn đi  hoãn lại dài dài; bỏ qua cả chuyện ăn bo bo, cấm xe máy vô cùng “sinh  động” của cái thời ngắc ngoải, quắt quay bằng việc chỉ sơ lược điểm vài  nét đen trên bức tranh vẽ bầu trời xám. Tác giả đã “quên” mất rằng bên  thắng đã có dấu hiệu thua khi cuộc chiến tranh chưa tan khói súng. Miền  Bắc không biết đến son phấn, mỳ ăn liền, “đồ bộ” (may bằng vải hoa  mỏng), không biết dùng từ “ý thức” như một động từ, không hề biết hai từ  Honda, cái đồng hồ Orient 2 “cửa sổ” sau giải phóng bán ở chợ Vinh  tương đương với hai chỉ vàng… Hoặc trong việc HĐ đã không kể về chuyện  trước khi rút quân khỏi CPC, báo đài liên tục nói rằng “tình hình CPC là  không thể đảo ngược được” – đùng một cái lại “tự mình đảo ngược” làm  cho cả thế giới choáng váng(!) Lẽ dĩ nhiên, để có được một cái nền kiến  thức sâu và rộng đủ làm “chìa khóa” phân tích những vấn đề phức tạp của  thế giới đương đại là điều không dễ dàng; không thể đòi hỏi tác giả làm  hơn những gì có thể, nhưng lịch sử VN đương đại từ 1975-1991 mà chỉ có  204 trang (tập 1) là chưa thật thỏa đáng, rất mong trong lần tái bản  tới, phần phân tích + bổ sung tư liệu sẽ dày dặn hơn…
Sẽ có nhiều nhà sử học  không đồng tình với cách đánh giá của sử lều tôi nhưng, dẫu chỉ mới đọc  phần I, tôi vẫn nhấn mạnh rằng, ngoại trừ SGK, sách hàn lâm về lịch sử  là nên viết khác, còn một cuốn lịch sử đúng nghĩa luôn cần phải là như  vậy (với điều kiện HĐ đúng). Công lao lớn nhất của Huy Đức là anh đã  giải mã được rất nhiều mảng che khuất của lịch sử mà có nhiều người chỉ  mới “nghe” chứ chưa hề hiểu và biết. Xét theo ý nghĩa này, đây cũng là  lần đầu tiên những bí mật cỡ đó được phát hiện và tỏ bày. Tôi đã đọc  nhiều cuốn lịch sử của người Mỹ viết (về VN, Nhật Bản, TQ, Nga…) và cảm  nhận được ảnh hưởng việc HĐ đã chịu tác động (tốt) từ những cách viết  đó. Đặc biệt, năm 1974, khi tôi tự học tiếng Anh, tôi đến Thư viện Quốc  gia tập dịch cuốn: The World after Vietnam: The Future of The US Foreign  Policy – Thế giới sau VN: Tương lai chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ,  1967, của H. Kissinger, tôi đã rất cảm phục (choi dù chỉ hiểu lõm bõm)  cách viết của H. Kissinger: Ngay khi chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền  Nam VN vừa mới bắt đầu, ông ta đã khẳng định là sẽ thua bởi “chúng ta  không thắng tức là đã thua và, Việt Cộng không thua có nghĩa là họ đã  thắng”(!) Dường như cách viết của H. Kissinger ảnh hưởng khá đậm trong  phong cách của HĐ(?) Vì thế, lịch sử sẽ hấp dẫn hơn theo cách viết của  anh, lịch sử sẽ đáng trân trọng theo cách làm tư liệu của anh (nếu tư  liệu của anh chính xác) và lịch sử sử học sẽ ghi nhận công lao của anh.  Đó là điều chắc chắn.
Những bài học (ngầm định  hoặc công khai) mà HĐ đưa ra thật đáng để chiêm ngẫm, nhất là đối với  các nhà lãnh đạo nước ta. Rồi sẽ có “chấn chỉnh”, phê phán, thậm chí là  những động thái căng thẳng hơn, nhưng nếu thực sự muốn học hỏi từ những  sai lầm để làm thế nào đó cho đất nước, dân tộc tốt hơn, rất mong các vị  có trách nhiệm đọc cuốn sách này. Có những chi tiết HĐ đưa ra thật đắt:  Chuyện nghe báo tin bộ đội ta tiến vào Phnom penh, TBT Lê Duẩn vẫn… ngủ  tiếp(?) hay chuyện sau 13 năm làm “thái thú” cho CPC, khi rời khỏi đất  nước có mùi ngọt khắt, khó hiểu như mùi vị đường Thốt nốt, ông Ngô Điền  chẳng được ai đưa tiễn, cho dù trong 13 năm ấy, hàng vạn người trai Đất  Việt đã bỏ xác trên đất… “bạn”… Chỉ riêng những sự thật cay đắng đó,  đáng để phân tích nhiều trang và có không ít những bực tức, khó chịu…;  nhưng chẳng phải, chính người Mỹ đã xây Đài Kỷ niệm chiến tranh VN –  cuộc chiến tranh lần đầu tiên Mỹ thất bại (đến nay vẫn là thất bại duy  nhất), ngay giữa thủ đô Washington D.C.(?!) Nhìn thẳng vào sự thật đắng  cay là cách thức để thoát khỏi những sai lầm; là điều đáng kể nhất, để  cho một dân tộc trở nên lớn hơn… Xin cảm ơn anh, Huy Đức! Nếu lãnh đạo  nước mình đọc, rồi lại hạ cố phản hồi về chuyện đúng – sai, thì tốt biết  bao nhiêu…?
( Trần Minh chuyển )
 
       
638974400808704309.jpg)


638973501519568371.jpg)



638973501519568371.jpg)




638972638875837638.jpg)
.638972558392097892.jpg)


