Kinh Đời
HÀ THÀNH THANH LỊCH - Đoan Nghi
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
“Vì lợi ích 10 năm,trồng cây. Vì lợi ích 100 năm, trồng người” Và chỉ sau thời gian ngắn, với chính sách trồng người này đã phá nát nền văn hóa Hà Thành thanh lịch như thế nào ?
“Vì lợi ích 10 năm,trồng cây. Vì lợi ích 100 năm, trồng người” Và chỉ sau thời gian ngắn, với chính sách trồng người này đã phá nát nền văn hóa Hà Thành thanh lịch như thế nào ?
Nền
văn hóa thanh lịch của Hà nội, được hình thành, phát triển, và củng cố
từ mấy trăm năm, qua bao nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ
dưới 80 năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn tay
của những người Cộng Sản …
Hơn
nửa thế kỷ trước, Hà nội được mệnh danh là đất “ngàn năm văn vật”, nơi
đã trải qua “4,000 năm văn hiến”. Hà nội được xưng tụng là “Hà Thành
thanh lịch”, đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ
tú” đã làm Hà nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An
Hà
nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền hòa, với 36 phố phường
và 5 cửa ô. Phố xá Hà nội ngắn, gọn, và sạch sẽ,nhà cửa khang trang.
Người Hà Nội hầu như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và
đối xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa giàu và nghèo
không chênh lệch là mấy.
Hà
nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng Nhật Tân ven Sông Hồng,
nhờ thổ nhưỡng đặc biết đã trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc.
Hoa đào Nhật Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi
chít trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những bông hoa
tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các nụ hoa chúm chím, và lất
phất những cánh lá non mươn mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng
lịch sử, ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận
Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã tới ngay làng Nhật
Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là
công chúa Ngọc Hân.
Hà
Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải trí của các bậc thức giả
phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng tác ra những bài ca trù, cho các ả đào
ngâm nga bên khay rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu
thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của một thú ăn
chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã nổi danh, được lưu truyền
trong văn học, và làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam.
Hà
Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều triều đại. Năm 1010, khi
vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên
trời hiện ra đám mây mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho
đó là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời vua Minh
Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra Hà Nội.
Hồ
Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung tâm Hà nội, ghi lại huyền
thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm
1428. Một con rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho
nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn ngậm vào miệng,
và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.
Thăng
Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng của trận Đống Đa, khi vua
Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789,
khiến Thái Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn sĩ
Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
Cái
văn hóa của người Hà nội xa xưa, là hình ảnh của những người đàn ông
phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội
trợ nề nếp, đảm đang, khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua
những mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô thiếu nữ
duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn quàng, lên chùa lễ Phật
buổi đầu năm. Người Hà nội, khi vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình,
giận dữ, biết kiềm chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.
Cái
thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập tành trong một sớm một
chiều mà có được. Cái phong thái đó, phải có sẵn trong nếp nhà, từ trước
khi đứa trẻ sinh ra đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo
cái nếp có sẵn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói,
nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó, là sự theo dõi,
uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để rồi khi tới tuổi trưởng
thành,người con trai trở nên một thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh
dạn bước vào đời, và người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm
đang, có khả năng quán xuyến một gia đình mới.
Có
người nhận xét, người Hà nội khéo ăn khéo nói, nhưng không thực lòng,
xử sự mềm mỏng nhưng thiếu chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu
cách. Có người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt
mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều hơn cho chính họ.
Những
nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường nhắc
nhở: “ Ở trong nhà thiếu thốn, thì cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra
ngoài, mà sử sự hẹp hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm
tiếu.” Bởi vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi đóng
góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay cắt xén những
khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn
kể cho tôi nghe rằng ngày bà còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà
đều bị bà ngoại tôi ép ăn cơm trưóc ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói
mà ăn uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải …khảnh ăn,
thanh cao, và đài các.
Tôi
đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp mặt với bạn bè của bà. Vừa
ăn xong, là các bà tranh nhau trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người
lịch sự, hào phóng, nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi
nghe bà bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa mua
tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng khi bà khách vừa ra
về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo màu mè, coi thiếu thẩm mỹ.
Tôi thắc mắc về thái độ này, thì mẹ tôi giải thích rằng: “chiếc áo đã lỡ
mua rồi, không thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”
Ngày
còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những thái độ này là đúng hay sai,
nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi lại thấy, có lẽ những cách xử thế này,
đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của
người Hà thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể diện”,
và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói, tới cách thức
giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và gia đình chịu o ép, thiệt
thòi, chứ không để cho thiên hạ dị nghị, chê cười.
Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế kỷ trước.
Người
xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở Giang Nam thì ngọt, trồng ở
Giang Bắc thì chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào việc
hình thành phẩm chất của cây trái.
Con
người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay đổi theo hoàn cảnh và môi
trường sống. Sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao
cho CS, thì từ cảnh quang, tới con người Hà nội, đều mau chóng….bị phá
sản. Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà nội, bị CS lên án là
“phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học theo “nếp sống
mới”.
“Nếp
sống mới” khai thác sức lao đông của con người. Nông trường và công
trường được thành lập để mọi người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài
duyên dáng,thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn
gàng, vừa đỡ tốn vải.Có lao động mới được nhà nước bán cho 15 kí gạo mỗi
tháng, đuợc mua nhu yếuphẩm theo giá quy định, và được phân phối 3 mét
vải may quần áo mỗi năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là
văn hóa nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người, nên bị
cấm lưu hành và trình diễn. Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận
diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được tự do sáng
tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử dụng cho mục đích tuyên
truyền và khích động đấu tranh. Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã
bóp nghẹt tự do ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người
làm văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện, làm mê
muội trí óc.
Tiếp
thu Hà nội, CS chào mừng dân chúng bằng “Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi
người đóng góp vàng và các quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất
nước. Ban đầu,là tự nguyện, nhưng sau khi “ tuần lễ vàng” kết thúc, cán
bộ ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và bắt buộc
họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước. “Tuần lễ vàng” là hình thức
cướp của, và bần cùng hóa nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại
miền Nam, năm 75, sau khi CS cưỡng chiếm.
Ngay
khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế hoạch dồn những người Hà nội
ra các vùng phụ cận thành phố, để lấy chỗ cho những người có công với
cách mạng, từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình vào
nhập cư. Những người Hà nội còn sót lại, như cá nằm trên thớt, cố uốn
mình để thích nghi theo nếp sống của những người mới nhập cư, mong được
yên thân.
Để
củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp mọi nơi, mọi chỗ, ngấm
ngầm chỉ định những người láng giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo
dõi lẫn nhau, để báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng
được cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong gia đình,
để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu không khí ngột ngạt, bất
an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình và xã hội.
Đợt
cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những năm 54-56, đảng CS đã
phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của một xã hội đặt nặng đạo đức và nền
tảng gia đình,của người dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt
buộc, thúc đẩy, hăm dọa,để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ, học
trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng những câu
chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm chí “mày tao chi tớ”,
“thằng này, con kia” bất kể tới tuổi tác và tôn ty trật tự, ngay trước
mặt đám đông.
Nhà
nước giữ độc quyền quyết định và phân phối những nhu cầu sống căn bản
của người dân như gạo, đường, muối, vải…. Trong thời kỳ kinh tế bao cấp,
người dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên thèm
thuồng đủ thứ. Con người dần “biến chất”, trở thành ích kỷ, hẹp hòi, và
ty tiện. Đi chơi xa, phải xách theo khẩu phần gạo của mình, nếu
không,chỉ được ngồi nói chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì
mỗi người chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo tặc”, xã
hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc ngoặc, cắt xén, phe
phẩy. Người ta sẵn sàng bán rẻ bạn bè, thân tộc, vì những quyền lợi vật
chất nhỏ nhen. Con người mất hết nhân phẩm.
Trong
các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập chính trị, diễn giả đã
không ngần ngại dùng những từ ngữ … thiếu văn hóa “thằng này, con nọ”,
“mày, tao,chi, tớ”. để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí,
đến những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang đầy tính
chất bạo lực đến… rợn người:
“ Bún xào thịt giặc mới ngon.
“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”
hoặc
Giết! Giết nữa,bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt“ (1)
Được
trưởng thành trong một môi trường… vô văn hóa, thiếu nhân bản, và tràn
ngập hận thù như vậy, người dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng,
sẵn sàng đỏ mặt, xăn tay áo gây gổ, mở miệng ra là chửi thề, dùng các
danh từ thô lỗ “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã hội cũng xuất
hiện những hàng quán loại“cơm mắng, cháo chửi”, chẳng giống ai. Ở đây,
khách hàng không phải là thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả … con ở.
Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán: “ Này ! không chờ được
thì.. xéo đi, lấy chỗ cho người khác, đừng có đứng đó mà lải nhải…”,
hoặc là “Mắt để ở trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước
mắm để ở góc bàn kia kìa…” Điều ngạc nhiên, là mỗi lần nghe chửi mắng,
thì thực khách trong quán đã không tức giận, mà lại còn nháy mắt với
nhau, và…rú lên cười. Người ta bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món
ăn vừa rẻ, vừa ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội
bây giờ mất hết cả tư cách.
Ăn
uống ở Hà nội, thực khách xả rác vô tư.Những xương xẩu, giấy chùi tay,
đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn
quang quác như ở chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi
quay lại, thấy vắng người là vạch quần …xả xú bắp.
Về
cảnh quang, Hà nội ngày nay, không còn là một thành phố hiền hòa và
sạch sẽ như nửa thế kỷ trước. Cho dù, Hà nội đã có những tòa cao ốc chọc
trời, những sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự
phát triển của Hà nội, là sự phát triển không đồng đều, và thiếu kế
hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó, giống như một cái áo cũ
mang nhiều miếng vá khác nhau. Hệ thống thoát nước không được phát
triển song hành, nên sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây
trở ngại giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một căn
nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn nhau. Vì cảnh
“cha chung không ai khóc”, nên không ai quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo
trì nhà cửa. Vôi tường tróc lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch,
quần áo phơi kín ban công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật
kín vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành.Trên trời, đường
dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng đường, xe cộ quá
tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo nên nạn ô nhiễm môi trường.
Người
Hà nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như hai thái cực. Giai cấp giàu
có tụ tập trong những khu sang trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu
Mỹ, có bảo vệ giữ an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại
quốc du học, và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị.
Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa tối, sống
trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sư cách biệt vật chất, tạo
nên tình trạng phân hóa trong xã hội.
Thương
buôn ở Hà nội ngày nay đã biết mánh mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng
nhái, pha trộn hóa chất vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật,
móc nối với tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang về
VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần nhau giữa chốn
thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp, cướp xe ngay giữa ban ngày…
Bảy
mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà nội vào vòng tay sắt máu
của chế độ CS, khiến Hà nội bị… phá sản, cả về hình thức, lẫn nội dung.
Nền văn hóa của Hà nội hiện nay, là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống
sô bồ, chụp giựt.Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế bằng các chị
cán bộ cục mịch, dữ dằn,và các anh thanh niên vai u, thịt bắp, chửi thề
như …pháo nổ.
Trở
về thăm cố hương, những người Hà nội năm xưa, không khỏi ngậm ngùi,
tiếc nuối cho một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn
kéo dài cho tới ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền
văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào quên lãng với thời
gian.
Đoan Nghi
(1) Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc, trang 37
Hoàng Phạm chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Có miệng như không" - by / Trần Văn Giang (ghi lại).
- 100 năm sau vẫn bồi hồi "Tôi đi học" - by Minh Tự / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Tiếng Anh chưa rành" - by Dzung Nguyen / Trần Văn Giang (ghi lại
- "Nỗi Khổ Của Người Hà Nội" - by Nguyễn Thị Thương / Trần Văn Giang (ghi lại)
HÀ THÀNH THANH LỊCH - Đoan Nghi
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
“Vì lợi ích 10 năm,trồng cây. Vì lợi ích 100 năm, trồng người” Và chỉ sau thời gian ngắn, với chính sách trồng người này đã phá nát nền văn hóa Hà Thành thanh lịch như thế nào ?
Nền
văn hóa thanh lịch của Hà nội, được hình thành, phát triển, và củng cố
từ mấy trăm năm, qua bao nhiêu thế hệ tiếp nối nhau, vẫn phát huy rực rỡ
dưới 80 năm đô hộ của thực dân Pháp , nhưng lại bị yểu tử dưới bàn tay
của những người Cộng Sản …
Hơn
nửa thế kỷ trước, Hà nội được mệnh danh là đất “ngàn năm văn vật”, nơi
đã trải qua “4,000 năm văn hiến”. Hà nội được xưng tụng là “Hà Thành
thanh lịch”, đào tạo ra những “trai thanh, gái lịch”. Các“nam thanh, nữ
tú” đã làm Hà nội hãnh diện bằng 2 câu thơ:
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng An
Hà
nội xa xưa, chỉ là một thành phố xinh xắn,hiền hòa, với 36 phố phường
và 5 cửa ô. Phố xá Hà nội ngắn, gọn, và sạch sẽ,nhà cửa khang trang.
Người Hà Nội hầu như quen biết nhau gần hết. Họ chung sống hài hòa, và
đối xử với nhau lịch sự tới độ khách sáo. Khoảng cách giữa giàu và nghèo
không chênh lệch là mấy.
Hà
nội còn nổi tiếng về các vùng phụ cận như làng Nhật Tân ven Sông Hồng,
nhờ thổ nhưỡng đặc biết đã trồng được loại hoa đào đẹp nhất miền Bắc.
Hoa đào Nhật Tân, sắc hồng thắm rực rỡ, cánh kép lâu tàn, nụ hoa chi
chít trên cành. Ngày mùng một Tết, đào Nhật Tân nở rộ, những bông hoa
tươi thắm còn ngậm sương mai, xen lẫn với các nụ hoa chúm chím, và lất
phất những cánh lá non mươn mướt trên cành, trông đẹp vô tả. Theo dòng
lịch sử, ngày mùng 5 tháng Giêng năm Kỷ Dậu, khi vừa chiến thắng trận
Đống Đa, vua Quang Trung vào thành Thăng Long, và đã tới ngay làng Nhật
Tân để chọn một cành đào đẹp nhất, gửi về tặng Bắc Cung Hoàng Hậu, là
công chúa Ngọc Hân.
Hà
Nội còn nổi danh với khu Khâm Thiên, nơi giải trí của các bậc thức giả
phong lưu. Họ đã ngẫu hứng sáng tác ra những bài ca trù, cho các ả đào
ngâm nga bên khay rượu. Giọng ngâm thơ, xen lẫn với tiếng trống chầu
thưởng, phạt, khen, chê đã nâng cao trình độ nghệ thuật của một thú ăn
chơi nửa thanh nửa tục. Nhiều bài hát ả đào đã nổi danh, được lưu truyền
trong văn học, và làm phong phú thêm cho nền văn hóa Việt Nam.
Hà
Nội mang nhiều dấu ấn lịch sử, trải qua nhiều triều đại. Năm 1010, khi
vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư, ra thành Đại La, đột nhiên thấy trên
trời hiện ra đám mây mang hình dáng một con rồng đang bay lượn. Vua cho
đó là điềm lành, nên đổi tên ra Thăng Long thành. Rồi tới đời vua Minh
Mạng, năm 1831, lại đổi tên từ Thăng Long ra Hà Nội.
Hồ
Hoàn Kiếm, một danh lam thắng cảnh ở trung tâm Hà nội, ghi lại huyền
thoại vua Lê Thái Tổ du ngoạn trên hồ, khi vừa đại thắng quân Minh, năm
1428. Một con rùa vàng trồi lên mặt nước, đòi lại thanh bảo kiếm, đã cho
nhà vua mượn diệt giặc. Nhận được thanh kiếm, rùa bèn ngậm vào miệng,
và lặn xuống đáy hồ. Vua Lê Thái Tổ bèn đặt tên cho hồ, là Hồ Hoàn Kiếm.
Thăng
Long thành còn ghi lại chiến tích oai hùng của trận Đống Đa, khi vua
Quang Trung đại phá quân Thanh vào ngày mùng 5 Tết năm Kỷ Dậu, 1789,
khiến Thái Thú Sầm Nghi Đống phải treo cổ tự vận, và tướng giặc Tôn sĩ
Nghị phải bỏ cả ấn tín, tháo chạy về Tàu.
Đất Hà Thành là đất địa linh nhân kiệt. Người Hà Thành tao nhã, lịch sự từ lời ăn tiếng nói, tới cách phục sức, và giao tế.
Cái
văn hóa của người Hà nội xa xưa, là hình ảnh của những người đàn ông
phong lưu, lịch lãm, tề chỉnh mỗi khi bước ra khỏi cửa, là các bà nội
trợ nề nếp, đảm đang, khăn nhung, áo lụa, khoe tài nữ công gia chánh qua
những mâm cỗ thịnh soạn vào các ngày giỗ, ngày Tết, là các cô thiếu nữ
duyên dáng, e ấp trong tà áo nhung, tấm khăn quàng, lên chùa lễ Phật
buổi đầu năm. Người Hà nội, khi vui không sôi nổi, ồn ào, khi bất bình,
giận dữ, biết kiềm chế lời ăn tiếng nói, để tránh xung đột.
Cái
thanh lịch của người Hà Nội không phải chỉ tập tành trong một sớm một
chiều mà có được. Cái phong thái đó, phải có sẵn trong nếp nhà, từ trước
khi đứa trẻ sinh ra đời, để rồi khi lớn lên, đứa trẻ cứ rập khuôn theo
cái nếp có sẵn, mà học theo cách cư sử, phép giao tế, lời ăn tiếng nói,
nếp sinh hoạt của những bậc trưởng thượng. Thêm vào đó, là sự theo dõi,
uốn nắn, dạy dỗ của các bậc phụ huynh, để rồi khi tới tuổi trưởng
thành,người con trai trở nên một thanh niên phong lưu, lịch lãm, mạnh
dạn bước vào đời, và người con gái trở thành một thiếu nữ đức hạnh, đảm
đang, có khả năng quán xuyến một gia đình mới.
Có
người nhận xét, người Hà nội khéo ăn khéo nói, nhưng không thực lòng,
xử sự mềm mỏng nhưng thiếu chân tình, lịch sự, nhã nhặn nhưng ngầm kiểu
cách. Có người còn nói, người Hà Nội coi trọng thể diện, giữ gìn mặt
mũi, và sợ dư luận, nên họ sống cho người ngoài, nhiều hơn cho chính họ.
Những
nhận xét đó, không phải là sai. Ngày tôi còn nhỏ, mẹ tôi thường nhắc
nhở: “ Ở trong nhà thiếu thốn, thì cũng chỉ có mình biết, nhưng bước ra
ngoài, mà sử sự hẹp hòi, thì sẽ bị thiên hạ chê cười, làng nước đàm
tiếu.” Bởi vậy, các khoản chi tiêu về giao tế như hiếu, hỷ, hay mọi đóng
góp, mẹ tôi đều rất hào phóng. Để bù lại, bà thẳng tay cắt xén những
khoản chi tiêu trong gia đình, kể cả khoản tiền chợ mỗi ngày. Mẹ tôi còn
kể cho tôi nghe rằng ngày bà còn trẻ, trước khi đi ăn giỗ, ăn cưới, bà
đều bị bà ngoại tôi ép ăn cơm trưóc ở nhà, để khi tới nơi, không vì đói
mà ăn uống thô tục. Con gái của gia đình lễ giáo là phải …khảnh ăn,
thanh cao, và đài các.
Tôi
đã từng theo mẹ tôi đi tham dự các buổi họp mặt với bạn bè của bà. Vừa
ăn xong, là các bà tranh nhau trả tiền, để chứng tỏ rằng mình là người
lịch sự, hào phóng, nhưng khi về nhà, thì lại ngồi tiếc tiền. Có lần tôi
nghe bà bạn hỏi ý kiến mẹ tôi về cái áo choàng của chồng bà vừa mua
tặng từ Hồng Kong. Mẹ tôi hết lời khen ngợi, nhưng khi bà khách vừa ra
về, thì mẹ tôi lại nói với ba tôi là cái áo màu mè, coi thiếu thẩm mỹ.
Tôi thắc mắc về thái độ này, thì mẹ tôi giải thích rằng: “chiếc áo đã lỡ
mua rồi, không thay đổi được, thì can chi làm buồn lòng người khác !”
Ngày
còn nhỏ, tôi cứ phân vân, không biết những thái độ này là đúng hay sai,
nhưng từ khi biết suy nghĩ, tôi lại thấy, có lẽ những cách xử thế này,
đã góp phần không nhỏ trong việc kiến tạo cái xã hội thanh lịch của
người Hà thành. Vì họ luôn muốn vui lòng người khác, trọng “thể diện”,
và sợ tai tiếng, nên họ thận trọng từ lời ăn, tiếng nói, tới cách thức
giao tế, và dạy dỗ con cái. Thà là bản thân và gia đình chịu o ép, thiệt
thòi, chứ không để cho thiên hạ dị nghị, chê cười.
Đó là những người Hà Nội của hơn nửa thế kỷ trước.
Người
xưa nói, “cùng một giống quýt, trồng ở Giang Nam thì ngọt, trồng ở
Giang Bắc thì chua”. Như vậy, môi trường đã đóng góp không nhỏ vào việc
hình thành phẩm chất của cây trái.
Con
người cũng vậy. Bản chất con người cũng thay đổi theo hoàn cảnh và môi
trường sống. Sau khi đất nước bị chia đôi năm 1954, miền Bắc được giao
cho CS, thì từ cảnh quang, tới con người Hà nội, đều mau chóng….bị phá
sản. Nếp sống lễ giáo, gia phong của người Hà nội, bị CS lên án là
“phong kiến”, “tiểu tư sản”, và hô hào từ bỏ, để học theo “nếp sống
mới”.
“Nếp
sống mới” khai thác sức lao đông của con người. Nông trường và công
trường được thành lập để mọi người tham gia lao động tập thể. Tà áo dài
duyên dáng,thướt tha, được thay thế bằng quần đen, áo ngắn, vừa gọn
gàng, vừa đỡ tốn vải.Có lao động mới được nhà nước bán cho 15 kí gạo mỗi
tháng, đuợc mua nhu yếuphẩm theo giá quy định, và được phân phối 3 mét
vải may quần áo mỗi năm. Văn chương, thi phú, và âm nhạc bị kết tôi là
văn hóa nô dịch, văn chương tiểu tư sản, ủy mị, ru ngủ con người, nên bị
cấm lưu hành và trình diễn. Vụ án “Nhân Văn Giai Phẩm” năm 1957, đã tận
diệt các nhà trí thức, và các văn nghệ sĩ đòi hỏi quyền được tự do sáng
tác. Nhà nước nắm quyền chỉ đạo văn hóa, xử dụng cho mục đích tuyên
truyền và khích động đấu tranh. Bằng chính sách văn nghệ chỉ huy, CS đã
bóp nghẹt tự do ngôn luận, và tước đi cái khả năng sáng tạo của người
làm văn nghệ. Tôn giáo cũng bị bài xích, vì cho là thuốc phiện, làm mê
muội trí óc.
Tiếp
thu Hà nội, CS chào mừng dân chúng bằng “Tuần Lễ Vàng”, kêu gọi mọi
người đóng góp vàng và các quý kim, để nhà nước có tiền kiến thiết đất
nước. Ban đầu,là tự nguyện, nhưng sau khi “ tuần lễ vàng” kết thúc, cán
bộ ngầm tiếp xúc với những gia đình khá giả, rỉ tai hăm dọa và bắt buộc
họ đóng góp theo mức ấn định của nhà nước. “Tuần lễ vàng” là hình thức
cướp của, và bần cùng hóa nhân dân,giống như những đợt đánh tư sản tại
miền Nam, năm 75, sau khi CS cưỡng chiếm.
Ngay
khi vừa ổn định, chính quyền CS đã có kế hoạch dồn những người Hà nội
ra các vùng phụ cận thành phố, để lấy chỗ cho những người có công với
cách mạng, từ các vùng nông thôn Hà Đông, Nam Định, và Ninh Bình vào
nhập cư. Những người Hà nội còn sót lại, như cá nằm trên thớt, cố uốn
mình để thích nghi theo nếp sống của những người mới nhập cư, mong được
yên thân.
Để
củng cố thể chế, nhà nước đã đặt tai mắt khắp mọi nơi, mọi chỗ, ngấm
ngầm chỉ định những người láng giềng, bạn bè, thân tộc, nhòm ngó, theo
dõi lẫn nhau, để báo cáo cho chính quyền. Ngay cả các học sinh, cũng
được cán bộ chỉ dẫn về nhà nghe lén những lời trò chuyện trong gia đình,
để rồi báo cáo lại với thầy cô, tạo ra một bầu không khí ngột ngạt, bất
an, nghi kỵ lẫn nhau trong gia đình và xã hội.
Đợt
cải cách ruộng đất trời long đất lở, vào những năm 54-56, đảng CS đã
phá vỡ cái kỷ cương và lễ giáo của một xã hội đặt nặng đạo đức và nền
tảng gia đình,của người dân miền Bắc. Để đạt chỉ tiêu, cán bộ đã bắt
buộc, thúc đẩy, hăm dọa,để con cháu đứng lên đấu tố ông bà, cha mẹ, học
trò tố khổ thầy, những tay chân thân tín kể tội chủ bằng những câu
chuyện bịa đặt, các lời lẽ hỗn hào, thô lỗ, thậm chí “mày tao chi tớ”,
“thằng này, con kia” bất kể tới tuổi tác và tôn ty trật tự, ngay trước
mặt đám đông.
Nhà
nước giữ độc quyền quyết định và phân phối những nhu cầu sống căn bản
của người dân như gạo, đường, muối, vải…. Trong thời kỳ kinh tế bao cấp,
người dân triền miên sống trong tình trạng thiếu thốn, và trở nên thèm
thuồng đủ thứ. Con người dần “biến chất”, trở thành ích kỷ, hẹp hòi, và
ty tiện. Đi chơi xa, phải xách theo khẩu phần gạo của mình, nếu
không,chỉ được ngồi nói chuyện xuông, nhìn gia đình chủ nhà ăn cơm, vì
mỗi người chỉ có đủ khẩu phần gạo cho mình. “Bần cùng sinh đạo tặc”, xã
hội nảy sinh ra nhiều tệ trang như tham nhũng, móc ngoặc, cắt xén, phe
phẩy. Người ta sẵn sàng bán rẻ bạn bè, thân tộc, vì những quyền lợi vật
chất nhỏ nhen. Con người mất hết nhân phẩm.
Trong
các sinh hoạt công cộng, những buổi học tập chính trị, diễn giả đã
không ngần ngại dùng những từ ngữ … thiếu văn hóa “thằng này, con nọ”,
“mày, tao,chi, tớ”. để khích động lòng căm thù của người nghe. Thậm chí,
đến những câu vè, câu thơ, công cụ tuyên truyền, cũng mang đầy tính
chất bạo lực đến… rợn người:
“ Bún xào thịt giặc mới ngon.
“Cơm chan máu địch cho con no lòng…”
hoặc
Giết! Giết nữa,bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Stalin bất diệt“ (1)
Được
trưởng thành trong một môi trường… vô văn hóa, thiếu nhân bản, và tràn
ngập hận thù như vậy, người dân dễ dàng trở nên hiếu động, hung hăng,
sẵn sàng đỏ mặt, xăn tay áo gây gổ, mở miệng ra là chửi thề, dùng các
danh từ thô lỗ “đéo…” “đếch…” để mở đầu câu chuyện. Xã hội cũng xuất
hiện những hàng quán loại“cơm mắng, cháo chửi”, chẳng giống ai. Ở đây,
khách hàng không phải là thượng đế, mà bị đối xử tàn tệ hơn cả … con ở.
Nhiều người đã lập lại ngôn từ của bà chủ quán: “ Này ! không chờ được
thì.. xéo đi, lấy chỗ cho người khác, đừng có đứng đó mà lải nhải…”,
hoặc là “Mắt để ở trên trán hay sao mà xớn xác, không chịu nhìn. Nước
mắm để ở góc bàn kia kìa…” Điều ngạc nhiên, là mỗi lần nghe chửi mắng,
thì thực khách trong quán đã không tức giận, mà lại còn nháy mắt với
nhau, và…rú lên cười. Người ta bảo, sở dĩ quán đông khách là vì các món
ăn vừa rẻ, vừa ngon. Hóa ra, chỉ vì tham ăn, tục uống mà người Hà Nội
bây giờ mất hết cả tư cách.
Ăn
uống ở Hà nội, thực khách xả rác vô tư.Những xương xẩu, giấy chùi tay,
đàm rãi khạc nhổ đều dùng sàn nhà, ngay dưới chân. Cười nói, đùa rỡn
quang quác như ở chỗ không người. Ra đường, muốn đi tiểu thì quay đi
quay lại, thấy vắng người là vạch quần …xả xú bắp.
Về
cảnh quang, Hà nội ngày nay, không còn là một thành phố hiền hòa và
sạch sẽ như nửa thế kỷ trước. Cho dù, Hà nội đã có những tòa cao ốc chọc
trời, những sân golf trưởng giả, những khách sạn nguy nga, nhưng sự
phát triển của Hà nội, là sự phát triển không đồng đều, và thiếu kế
hoạch. Khu giàu sang sát ngay bên khu nghèo khó, giống như một cái áo cũ
mang nhiều miếng vá khác nhau. Hệ thống thoát nước không được phát
triển song hành, nên sau mỗi trận mưa lớn, là thành phố ngập lụt, gây
trở ngại giao thông. Cảnh sống tập thể của 5, 7 gia đình trong một căn
nhà, đã thường xuyên xảy ra xung đột, xô xát, gấu ó lẫn nhau. Vì cảnh
“cha chung không ai khóc”, nên không ai quan tâm tới việc tu bổ hoặc bảo
trì nhà cửa. Vôi tường tróc lở, mái ngói rêu phong, cửa nẻo xộc xệch,
quần áo phơi kín ban công. Ngoài phố xá, thương buôn ngồi la liệt chật
kín vỉa hè, xả rác vô tội vạ, bất chấp khách bộ hành.Trên trời, đường
dây điện chằng chịt như bát quái trận đồ. Dưới lòng đường, xe cộ quá
tải, bụi bậm mờ mịt, khói xe đầy trời, tạo nên nạn ô nhiễm môi trường.
Người
Hà nội ngày nay, giàu nghèo cách biệt như hai thái cực. Giai cấp giàu
có tụ tập trong những khu sang trọng, ở nhà cửa kiến trúc theo kiểu Âu
Mỹ, có bảo vệ giữ an ninh, có xe hơi sang trọng, có con cái ra ngoại
quốc du học, và khi đau ốm, thì bay sang các nước tân tiến điều trị.
Giai cấp nghèo thì buôn gánh bán bưng, ăn bữa sáng lo bữa tối, sống
trong những căn nhà lụp xụp, bên đống rác. Sư cách biệt vật chất, tạo
nên tình trạng phân hóa trong xã hội.
Thương
buôn ở Hà nội ngày nay đã biết mánh mung, lừa lọc, làm hàng giả, hàng
nhái, pha trộn hóa chất vào thực phẩm để trục lợi. Du sinh sang Nhật,
móc nối với tiếp viên hàng không, ăn cắp mỹ phẩm trong siêu thị, mang về
VN bán kiếm lời. Nữ sinh đánh lộn, xé quần áo, lột trần nhau giữa chốn
thanh thiên bạch nhật. Thanh niên giựt bóp, cướp xe ngay giữa ban ngày…
Bảy
mươi năm trời, vận nước oan khiên đã đưa Hà nội vào vòng tay sắt máu
của chế độ CS, khiến Hà nội bị… phá sản, cả về hình thức, lẫn nội dung.
Nền văn hóa của Hà nội hiện nay, là loại “văn hóa chợ trời” do cuộc sống
sô bồ, chụp giựt.Các nam thanh nữ tú, cũng được thay thế bằng các chị
cán bộ cục mịch, dữ dằn,và các anh thanh niên vai u, thịt bắp, chửi thề
như …pháo nổ.
Trở
về thăm cố hương, những người Hà nội năm xưa, không khỏi ngậm ngùi,
tiếc nuối cho một nền văn hóa đã từng vang bóng một thời, và dư âm còn
kéo dài cho tới ngày nay. Và rồi đây, nếu chế độ CS còn tồn tại, thì nền
văn hóa “Hà Thành thanh lịch” năm nào, sẽ dần đi vào quên lãng với thời
gian.
Đoan Nghi
(1) Trăm Hoa Đua Nở trên đất Bắc, trang 37
Hoàng Phạm chuyển