Tham Khảo
Henry Kissinger - Việt Nam Hấp Hối (bài 1)
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (5/1953–6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa được của Đông Dương
Chương “The Agony of Vietnam” nằm trong sách White House Years
Lời giới thiệu
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp
tại Đông Dương (5/1953–6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương
Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa
được của Đông Dương khi mà người dân và chính phủ Pháp đã quá chán nản
không muốn tiếp tục cuộc chiến. Cựu Tư lệnh bào chữa cho chính ông và
quân đội Pháp về nguyên do thất thủ Điện Biên Phủ, qui trách nhiệm cho
chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần
thứ nhất 1946-1954. Cách đây hai năm tôi đã dịch và lược dịch vài chương
chính trong Agonie de l’Indochine để trình bày với quí độc giả về tình
hình bi đát của Đông Dương những năm 1953, 1954.
Hơn hai mươi năm sau, Henry Kissinger, Cố vấn an ninh Tổng thống cũng
kể lại tình trạng hấp hối của miền nam Việt Nam trong hồi ký của ông.
Chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương cũng là một vì hơn 90%
cơn khói lửa đã diễn ra tại Việt Nam. Tại đây Henry Kissinger nói về sự
khởi đầu của sụp đổ, thực trạng, nguyên do Việt Nam hấp hối vào năm 1969
trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Năm 1979 Kissinger viết hồi ký White House Years, Những Năm Tại Tòa
Bạch Ốc dầy 1,500 trang khổ giấy lớn, tương đương cuốn sách 2,000 trang
khổ giấy trung bình. Chương thứ VIII trong cuốn này: The Agony of
Vietnam, Việt Nam Hấp Hối, dài 85 trang (226 -311) tương đương một cuốn
sách trên 100 trang. Nó cùng tên gọi với cuốn hồi ký của Tướng Navvare
kể trên, cùng mục đích diễn tả lại sự chán nản của người dân cũng như
Hành pháp Mỹ.
Trên đống tro tàn quá khứ, Henry Kissinger quay lại khúc phim bi kịch
miền nam VN năm 1969, dần dần những sự thật phũ phàng về cuộc chiến
Đông Dương đã được tiết lộ. Henry đã làm sống lại cả một giai đoạn lịch
sử mà quyết định sai lầm trầm trọng của tân Tổng thống Nixon và Nội các
mới đưa tới thảm kịch mấy năm sau. Theo ông, người Mỹ đã sai lầm lớn khi
nhượng bộ Hà Nội với hy vọng khai thông bế tắc tại cuộc hòa đàm Ba Lê.
Trước hết cuối tháng 10-1968, Tổng thống Johnson đã cho ngưng oanh tạc
toàn diện Bắc Việt theo yêu cầu của Hà Nội và sau đó, năm 1969 tân Tổng
thống Nixon đã nhượng bộ Hà Nội rút quân đơn phương. Henry Kissnger cho
rằng cả hai nhượng bộ đều không được CSVN đếm xỉa tới, hòa đàm vẫn bế
tằc cho tới khi địch thảm bại trong trận mùa hè đỏ lửa 1972 họ mới chịu
nhượng bộ Mỹ nhiều điều khoản khai thông Hội nghị vào tháng 9 và tháng
10-1972.
Riêng về trường hợp Nixon, Henry cho rằng tân Tổng thống đã thực hiện
rút quân đơn phương về nước bắt đầu từ gần cuối 1969 nhằm hai mục đích
chính:
-Thúc đẩy đàm phán tại Ba Lê tiến nhanh hơn, nhượng bộ Hà Nội cho rút quân không điều kiện.
-Xoa dịu dư luận chống đối trong nước
Nhưng ông nhận định cả hai mục tiêu trên đều không đạt được, trước
hết tại cuộc hòa đàm phía Hà Nội không hề thay đổi lập trường. Yêu cầu
của họ vẫn y như cũ, giống như những lời khắc trong đá: Mỹ rút quân
không điều kiện, loại bỏ Thiệu, lập chính phủ Liên hiệp, cắt viện trợ
VNCH… Sở dĩ địch cứng đầu vì họ nắm được cái tẩy của Hành pháp Mỹ đang
bị Quốc hội và người dân chống đối mạnh.
Việc Mỹ rút quân để xoa dịu dư luận trong nước cũng hoàn toàn thất
bại, tại Mỹ phong trào chống đối vẫn lên cao, người dân không bao giờ
vừa ý. Sau này chính Nixon phải công nhận trong hồi ký (No More
Vietnạms) mặc dù đã đem lại hòa bình (1-1973) lấy tù binh, đưa quân về
nước nhưng phong trào phản chiến vẫn ngoan cố tiếp tục chống đối mạnh,
hết chống chiến tranh họ chuyển sang vụ Watergate.
Nhậm chức năm 1969, Nixon vừa phải tiến hành cuộc chiến tại Đông
Dương, đương đầu với CSBV ngoan cố tại bàn Hội nghị, nhất là phải xoa
dịu Quốc hội và phong trào phản chiến. Nixon tứ bề thọ địch, phải chống
đỡ tại mặt trận ngoại quốc cũng như đối chọi với mặt trận tại đất nhà mà
mặt trận này xem ra còn khốc liệt hơn: Quốc hội thù nghịch chống đối,
đảng đối lập Dân chủ nay bắt tay với phong trào phản chiến chống lại
Hành pháp Cộng hòa ngày một rộng lớn. Thật là khôi hài, một nền Hành
pháp, một chính phủ phải năn nỉ Quốc hội, xoa dịu người dân, đương đầu
với chính tình hình trong nước, một chính phủ không có thực quyền như
thế thử hỏi còn làm được gì?
Kissinger chỉ trích chương trình rút quân của Nixon cho là sẽ làm sụp
đổ miền nam vì họ không đủ sức chống lại cuộc xâm lăng mấy năm sau. Tác
giả Walter Isaacson trong cuốn Kissinger a Biography (trang 234-241) có
đề cập nhiều về chương trình này, mà theo Walter do Bộ trưởng quốc
phòng Laird đề nghị, Nixon chấp nhận, Kissinger chống đối nhưng không
can ngăn được Nixon. Kissinger phản đối rút quân vì cho rằng nó sẽ làm
mất thế mạnh tại bàn Hội nghị, tại đây có sự bất đồng ý kiến giữa các
nhà lãnh đạo Hành Pháp. Laird đặt tên chương trình này là Việt Nam hóa
chiến tranh (Vietnamization) mà Walter Isaacson cho là nghe thì lịch sự
nhưng tàn nhẫn, vô cảm, độc ác. Kế hoạch rút khỏi Việt Nam sinh ra một
học thuyết mới: Thuyết Nixon (The Nixon doctrine) chủ trương không can
thiệp vào nước khác (Interventionism) mà đứng biệt lập (Isolationism).
Các nhà học giả Mỹ về chiến tranh VN cho rằng các danh từ hoa mỹ như
Việt nam hóa chiến tranh, học thuyết Nixon chẳng qua chỉ là rút quân bỏ
chạy trá hình.
Mặc dù phản đối chương trình này cho là sẽ nguy hại tới an ninh miền
nam VN nhưng Kissinger không đưa ra một phương án cụ thể nào khả dĩ thay
thế rút quân mà ông chỉ nói cần làm mạnh vào năm 1970, có nghĩa là oanh
tạc mạnh CSBV bằng B-52 để lấy lợi thế. Các phụ tá của Kissinger đã
nghiên cứu một kế hoạch quân sự: phong tỏa Hải phòng, oanh tạc các cơ sở
quân sự Bắc Việt trong 4 ngày… để buộc CS đàm phán nghiêm chỉnh nhưng
chính ông không dám đề nghị kế hoạch táo bạo này lên Nixon.
Trong phần kết luận chương này, Kissinger bi quan không tin tưởng vào
kế hoạch, bằng giọng chán chường thất vọng, ông lấy làm tiếc đã không
can ngăn được Tổng thống và Nội các khi họ đã lựa chọn giải pháp tàn
nhẫn này. Kissinger nói ông đã tiên đoán trước sự thất bại của chương
trình (rút): tại Ba Lê đối phương vẫn cứng đầu không chịu đàm phán, tại
mặt trận đất nhà bọn phản chiến ngày càng ngoan cố, leo thang chống đối,
cuối cùng miền nam VN sụp đổ vì không đủ lực lượng gánh vác toàn bộ
chiến trường. Henry nói.
“Một khi tiến hành (rút) không quay lại, tôi biết là nó có thể là một
con đường dài bi thảm và có thể đưa tới thất bại – mà tôi đã nhiều lần
trình bầy sơ lược những những nguy hiểm của nó với Tổng thống (Nixon)”
Kissinger đã đặt cho Chương VIII này cái tên “cường điệu” Viêt Nam
Hấp Hối để lên án sự sai lầm trầm trọng và nguy hại của kế hoạch, dù sao
đây cũng chỉ là quan điểm riêng của tác giả về chương trình này.
Quí vị có thể tham khảo thêm trong cuốn sách nổi tiêng Kissinger a
Biography (từ trang 234 tới 241) của Walter Isaacson nói về đề tài này.
Và tôi xin lược dịch Chương VIII, The Agony of Vietnam trong White House Years, từ trang 226 tới 311.
Trọng Đạt
_______
Việt Nam Hấp Hối
Kissinger nói tôi không thể viết về Việt Nam mà không đau lòng. Khi
chúng tôi tới nhận nhiệm sở (vào Bạch Ốc), hơn nửa triệu quân Mỹ đang
chiến đấu cách xa nước Mỹ mười ngàn dặm. Chúng tôi chưa nghĩ tới việc
rút quân, 31,000 người đã chết, năm 1969 uy tín và niềm tin vào cuộc
chiến đã bị hủy hoại, cuộc chiến tranh của chúng ta không công khai và
không được Quốc Hội, người dân, truyền thông ủng hộ. Năm 1969 người dân
chống đối dữ dội, ngày càng tăng hơn, họ gồm bốn thành phần: Những người
yêu hòa bình không muốn Mỹ tham gia cuộc bắn giết; nhóm thực tiễn không
thấy kết quả tốt; nhóm biệt lập không muốn Mỹ can thiệp; nhóm lý tưởng
kết án cuộc chiến dã man.
Hành pháp Nixon vào Tòa Bạch ốc, những người (Dân chủ) đã gây ra cuộc
tham chiến tại VN, mới đầu họ trung lập sau quay ra chống đối. Họ buộc
Nixon có trách nhiệm về cuộc chiến mà ông chỉ thừa hưởng, họ tấn công
ông ta nhân danh những giải pháp mà chính họ đã không thực hiện khi còn
cầm quyền.
Một siêu cường chấm dứt chiến tranh bỏ một nước nhỏ cho bọn bạo chúa là
thiếu đạo đức và còn phương hại tới bang giao quốc tế. Người Mỹ muốn
chấm dứt chiến tranh, qua thăm dò và qua bầu cử cho thấy họ coi mục đích
cuộc chiến là đáng trân trọng, họ không muốn Mỹ bị thua nhục nhã. Chính
phủ phải quan tâm kính trọng những gia đình có con chết cho đất nước
(US) và họ không muốn những hy sinh ấy là vô ích
Tôi nghĩ chiến tranh VN là một sự ngây thơ về lý tưởng, đất nước phải mắc nợ những hy sinh của những thanh niên Mỹ.
Tôi sa vào chỗ sa lầy
Cuộc chiến VN là do Bắc Việt muốn chiếm miền Nam bằng vũ lực, Trung Cộng
điều khiển cuộc chiến này. Walt Rostow, Giám đốc nghiên cứu chính sách
Bộ ngoại giao nói người Pháp có mấy trăm ngàn quân ở Đông Dương thất
bại, họ không có lực lượng lưu động như Mỹ. Việc lật đổ chính phủ Ngô
Đình Diệm làm mất niềm tin các nước Đông Nam Á, mặc dù sau đó thắng về
quân sự nhưng không bù lại những thất bại chính trị. Trước 1963 địch chỉ
đánh du kích nhưng sau khi đảo chính Ngô Đình Diệm chúng mới đánh chính
qui. Năm 1965 Kissinger nói ông nằm trong số đám đông thầm lặng ủng hộ
chính phủ Johnson đưa quân vào chống lại CS Hà Nội xâm lăng miền nam VN.
Cabot Lodge mời ông sang thăm VN tháng 10 -1965 hai tuần và tháng
7-1966 trong mười ngày, và vài ngày tháng 10- 1966. Kissinger nhận dịnh
ta không thể thắng được vì địch có căn cứ hậu cần bên Lào, Miên. Chúng
ta oanh tạc Bắc Việt đưa tới chống đối trên thế giới rất nản chí và sau
này nó là yếu tố quyết định.
Thiệt hại nhân mạng lính Mỹ tạo lên ý kiến chống đối chính trong nước,
tôi nghĩ trong một cuộc nội chiến, thắng lợi về quân sự sẽ vô nghĩa trừ
khi đưa tới một thực tế chính trị còn tồn tại sau khi ta rút đi. Thương
thuyết chỉ có được nếu Hà Nội nhận thấy họ sẽ mất ảnh hưởng chính trị
nhiều đối với dân miền nam (VN) khi cuộc chiến kéo dài. Bắc Việt và Việt
Cộng chiến đấu trên địa diện quen thuộc, họ chỉ cần kéo dài cho tới khi
Hoa Kỳ chán nản cuộc chiến. Thử thách của chúng ta là chiến đấu đồng
thời tăng sức mạnh cho miền Nam sống được khi không có ta, nói khác đi
là ta rảnh nợ. Nguyên tắc du kích chiến là nếu họ không thua tức là
thắng, (nguyên tắc) quân chính qui nếu không thắng là thua. Chúng ta
chiến đấu bằng quân sự với một kẻ thù lẩn trốn, địch tranh thủ chính trị
với một khối dân cố định, quân chính qui BV đưa lực lượng ta vào chỗ
mất ý nghĩa chính trị, còn Việt Cộng phá các vùng nông thôn VNCH.
Kissinger viếng Vĩnh Long tháng 10-1965, ông tỉnh trưởng cho biết 80%
yên ổn, khi thăm VN tháng 7-1966, ông tỉnh trưởng Vĩnh Long nói an ninh
tiến bộ nhiều, nay 70%.
Giữa tháng 7 tới tháng 10-1967, chính phủ Johnson nhờ Kissinger làm
trung gian hòa giải, ông mang lời nhắn nhờ hai nhà trí thức Pháp mà ông
quen. Một người trong đó quen thân Hồ Chí Minh từ 1940, đã cho Hồ Chí
Minh ở nhờ khi sang Pháp thương thuyết, hai người (Pháp) tới Hà Nội gặp
Hồ Chí Minh. Vài tháng sau Kissinger gặp họ ở Paris, cố gắng này thất
bại nhưng nó là bước đầu cho cuộc hòa đàm một năm sau.
Cuối năm 1968 Kissinger nhận định:
-Kế hoạch quân sự không thể thắng
-Miền Nam phải đoàn kết.
-Hoa Kỳ bớt gia tăng trách nhiệm điều khiển cuộc chiến cho VNCH.
-Hà Nội cứng rắn, ta phải thực hiện những giải pháp đơn phương
Tháng 1-1969, Kissinger không đồng ý cho rút quân đơn phương về Mỹ.
Chúng ta Chiến Đấu ra sao
Những lời công khích, kể cả của Dân chủ làm như chính Nixon là người đã
tham chiến can thiệp vào VN. Khi Nixon vào tòa Bạch Ốc, hơn một nửa
triệu quân Mỹ, thực ra con số còn tiếp tục tăng lên tới đỉnh cao là
549,500 người vào tháng 4-1969 do Chính phủ trước hoạch định như vậy
(thực sự tháng 4-1969 là 543,000 người). Chiến phí là 30 tỷ cho tài khóa
1969, thiệt hại trung bình 200 người (Mỹ) một tuần từ nửa năm sau 1968
(thời Johnson), tổng cộng có 14,592 người (Mỹ) chết tại mặt trận năm
1968. Số lính Mỹ bị giết từ 1961 tới 20-1- 1969 tổng cộng là 31,000
người, phía VNCH khoảng 90,000 người tử trận. Cuộc chiến bế tắc, ta
thắng trận Mậu Thân (tháng 2-1968) nhưng người dân Mỹ không ủng hộ cuộc
chiến khiến phải ngưng oanh tạc (cuối tháng 10-1968) nhiều áp lực bắt ta
phải rút quân. Quân đội VNCH năm 1968 là 826,000 người tăng nhiều so
với năm trước (1967 là 743,000 người). Họ được trang bị nhiều hơn nhưng
trách nhiệm nặng nề: canh gác một biên giới dài hơn 600 dặm (1,000 km)
và bảo đảm an ninh cho đất nước. Việt Cộng bị thiệt hại nhưng nay hầu
như quân chính qui Bắc Việt đảm nhiệm vai chính, không còn chiến tranh
nhân dân. Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng thống năm 1967, tòa Đại sứ
Mỹ tại Sài Gòn ước lượng 65% dân toàn quốc, 81% miền quê chịu ảnh hưởng
của CS. Tình trạng miền quê không tiến gì hơn năm 1966 khi Kissinger qua
thăm VN, CSBV đánh Mỹ để gây tổn thất, VC thì quấy phá VNCH. Giữa năm
1968, Tướng Creighton Abrams thay Tướng Westmoreland, ông thay đổi chiến
lược, thay vì tấn công CSBV, ông lo bảo vệ người dân, quân Mỹ lo bảo vệ
các thành phố lớn.
Ngày 1-11-1968, Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc và Hà Nội ngầm không tấn công
các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng. Từ nhiều năm qua, các giới chức
quân sự than phiền các nhà lãnh đạo dân sự kìm hãm họ, nhưng khi Nixon
hỏi họ về chiến lược mới thì họ nói tái oanh tạc Bắc Việt (mà đã bỏ từ
31-10-1968). Chỉ thị mới của Nixon là ông không muốn mâu thuẫn với Chính
phủ Sài Gòn và không muốn để Hà Nội phá vỡ cơ cấu chính trị của VNCH.
Văn thư nghiên cứu của Hội đồng an ninh quốc gia (HĐANQG) đòi hỏi các
Bộ, phủ trả lời những câu hỏi. Những người tương đối lạc quan như
Bunker, Abram, McCain cho là CSBV yếu thế nên phải đàm phán, ta thuận
lợi nhưng Ngũ giác đài, CIA bi quan cho là phải thảo luận rút quân về
nước.
Bắc Việt tấn công và cuộc oanh tạc bên Miên
CSBV gia tăng xâm nhập khi Nixon lên làm TT, ngày 24-11-1968, Bộ trưởng
quốc phòng nói có thể sẽ oanh tạc trở lại, khi nhiệm kỳ mới bắt đầu ,
chính phủ hy vọng đất nước đoàn kết để đạt đàm phán trong danh dự. Điều
không may là khó mà oanh tạc Bắc Việt trở lại. Kissinger, Laird (Bộ
trưởng quốc phòng), Tướng Wheeler (TMT liên quân) họp bàn tại Ngũ giác
đài để bảo vệ miền nam VN, Wheeler nói quân Mỹ nay đã được đưa tới VN
rất nhiều, ta cần đánh khu Phi quân sự hay oanh tạc Bắc Việt trở lại.
Cuộc họp đưa tới việc oanh tạc căn cứ CSBV tại Miên, đó không phải là
khiêu chiến mà là cách tránh oanh tạc Bắc Việt và để ngăn chặn những
cuộc tấn công địch gây thiệt hại cho Mỹ 400 người chết một tuần.
Những người xét lại cho rằng Chính phủ Nixon tấn công một nước trung
lập. Trong bốn năm qua, bốn sư đoàn Bắc Việt đã hoạt động dọc theo biên
giới Miên-Việt, chúng tấn công VNCH rồi rút về bên kia biên giới, có thể
oanh tạc vùng này được vì không có dân, chỉ có CSBV tấn công giết VNCH
và Mỹ rồi tháo chạy về biên giới. Trước hết Tướng Wheeler đề nghị tái
oanh tạc căn cứ Bắc Việt tại biên giới Miên, ngày 9-2 Tướng Abram ở Sài
Gòn điện tín về cho Wheeler nói Bộ chỉ huy CS toàn miền nam ở bên kia
biên giới. Abrams xin oanh tạc bằng B-52, Đại sứ Bunker ủng hộ ý kiến
này trong một điện tín của ông gửi Bộ ngoại giao.
TT Nixon gửi ghi chú cho Kissinger nói chúng ta cần phá hủy hậu cần CSBV
tại biên giới Miên. Tướng Wheeler cho biết các kiện hàng hóa quân sự
được đưa vào cảng Sihanoukville. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn cho biết từ
tháng 10-1967 tới tháng 9-1968 có hàng chục nghìn tấn hàng quân sự đã
qua cảng Sihanoukville, còn CIA và Bộ ngoại giao cho là vũ khí qua đường
mòn Hồ Chí Minh rất nhiều cho CSBV tại miền nam VN. Những người chủ
trương đánh sang Miên nhấn mạnh hải cảng Sihanoukville, những người
chống thì đánh giá thấp. Sau khi đánh sang Miên xong năm 1970, hàng vũ
khí do tầu thủy chở tới đây nhiều rất xa so với dự đoán.
Ngày 18-2, nhận được báo cáo từ Sài Gòn, Kissinger trình lên Tổng thống
rằng Tướng Abrams xác nhận không có dân trong vùng ta định oanh tạc. Khi
Nixon hoãn lại cuộc tấn công vào vùng căn cứ địa của địch định thương
thuyết, Bắc Việt bèn tấn công lớn khiến tuần đầu Mỹ thiệt mạng 453
người, tuần thứ hai 336 người , tuần thứ ba 351 người, phía VNCH mỗi
tuần trung bình 500 người chết một tuần. Trận đánh diễn ra một ngày
trước khi Nixon đi ngoại quốc làm nhục ông tân Tổng thống, chủ đích của
Bắc Việt là giết người Mỹ để gây ảnh hưởng phản chiến. Nixon nghe báo
cáo trận đánh rồi nuôi ý định đánh trả địch, từ nhiều năm trước ông luôn
chỉ trích TT Johnson tiền nhiệm trả đũa yếu quá, nhưng nếu (Nixon) trả
đũa sẽ bị chống đối tại Ân châu. Phản ứng duy nhất của Tòa Bạch Ốc là
Kissinger gọi cho Đại Sứ Nga nói nếu Bắc Việt tiếp tục tấn công Mỹ sẽ
trả đũa. Trong khi trên đường đi từ Mỹ tới Bỉ ngày 23-2 bỗng nhiên Nixon
ra lệnh oanh tạc căn cứ địa CS tại Miên, Kissinger biết là Nixon quyết
định một mình trên không trung nên ông đánh điện khuyên TT hoãn lại 48
giờ.
Phụ tá Haig, Haldeman và Kissinger bay tới Bỉ rồi cùng họp nhau trên Air
Force One bàn luận về cuộc oanh tạc, sẽ oanh tạc trong phạm vi cách
biên giới năm dặm và không tuyên bố trước, nếu chính phủ Miên phản đối
thì Mỹ sẽ bồi thường thiệt hại. Haig và các chuyên viên Ngũ Giác Đài trở
về Mỹ thuyết trình cho Bộ trưởng Laird nghe, ông này đánh điện từ Hoa
Thịnh Đốn cho biết không thể giữ kín cuộc oanh tạc, báo chí sẽ đề cập,
người dân sẽ chống đối.. và ông đề nghị ta tạm hoãn tới khi địch tấn
công rõ ràng. Kissinger cho rằng việc ngưng ném bom tháng 10-1968 (thời
Johnson) coi như thất bại, ông ta đồng ý với Laird về oanh tạc trả đũa
tại Miên, nếu không có phản ứng với cuộc tấn công xỏ lá của CSBV thì coi
như không thể thương thuyết tốt đẹp.
Hà Nội thấy Nixon bị dư luận chống đối không dám làm gì nên họ sẽ cưa
Nixon như đã từng cưa Johnson. Kissinger nghĩ khó mà mở cuộc tấn công
khi Tổng thống đi Âu châu vì sẽ bị chống đối và đã khuyên Nixon, hôm sau
tại Bonn Tổng thống bỏ kế hoạch này. Báo New York times ngày 9-3 trách
tân Chính phủ đang nghiên cứu kế hoạch tấn công gây hấn CSBV. Ngày 4-3
TT họp báo nói nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng tức là yếu thế. Ta sẽ
không tha cho những tiếp tục vi phạm những cái đã ngầm thỏa thuận, không
tha cho những cuộc tấn công gây tổn thất cho Mỹ trong khi chúng ta đang
tìm hòa bình tại Paris.
Ngày 4-3 Kissinger trình Tổng thống văn thư của Laird, ông chống đề nghị
oanh tạc miền Bắc của Bộ TM liên quân mà ủng hộ oanh tạc biên giới
Miên. Nixon nghe theo và ra lệnh oanh tạc Miên ngày 9-3. Ngày 7-3 Rogers
(Bộ trưởng ngoại giao) phản đối vì vấn đề hòa đàm nên Nixon lại thôi,
ông không muốn tấn công Bắc Việt nhưng phải tấn công một chỗ nào đó.
Ngày 14-3 ông trả lời trong cuộc phỏng vấn nay tổn thất nhân mạng Mỹ
giảm từ 400 người một tuần xuống còn 300 nhưng vẫn còn cao, ta không cần
cảnh cáo địch, nếu tổn thất nhiều hơn ta sẽ trả đũa. Hôm sau chúng pháo
kích Sài Gòn 5 quả, tổng cộng có 32 cuộc tấn công VNCH trong hai tuần
đầu tháng 3. Trưa hôm địch pháo kích Sài Gòn, Kissinger nhận được điện
thoại của TT, ông ra lệnh oanh tạc căn cứ địch tại biên giới Miên.
Lệnh chưa được thi hành, Kissinger đề nghị Nixon nên hỏi ý kiến các cố
vấn để tránh chống đối, trong phiên họp ở phòng Bầu dục Tòa Bạch ốc,
Kissinger cho biết có thể địch sẽ làm mạnh hơn, dân Mỹ sẽ chống đối. Tại
phiên họp ngày 16-3 tại phòng Bầu dục gồm Rogers, Laird, Wheeler, lần
đầu tiên Nixon gặp một quyết định cụ thẻ mang tính quốc tế (có liên quan
Miên). Laird, Wheeler ủng hộ mạnh, Rogers (Bộ trưởng ngoại giao) chống
đối vì sợ dư luận trong nước. Nixon có quyền đánh CSBV vì chúng vi phạm
nền trung lập của Miên, Rogers sợ Quốc hội chống đối, Laird và Wheeler
đề nghị TT giữ quyết định, sau cùng Rogers đồng ý cho oanh tạc Bộ chỉ
huy CSBV (tại biên giới Miên)
Sau phiên họp, TMT Liên quân Wheeler đề nghị oanh tạc quân Bắc Việt vi
phạm Khu phi quân sự nhưng lời đề nghị không được chấp thuận. Ngày 18-3,
B-52 ném bom căn cứ CSBV 353 cách biên giới 5 dặm. Tháng 4-1969 Nixon
lại cho oanh tạc vì Hà Nội và Nam Vang không phản đối và vì kết quả tốt
ngoài sự mong đợi, đánh trúng các kho dầu, đạn dược gây 73 tiếng nổ phụ
tại đây. Nixon hoãn lại cuộc oanh tạc vì Rogers và Laird phản đối mạnh,
ông đã chứng tỏ cho Hà Nội biết mình không bị tê liệt.
Tháng 5-1969 Nixon cho oanh tạc dẫy căn cứ dọc biên giới, sau đó cuộc
tấn công được tiến hành đều đặn. Sau này năm 1974 Ủy ban tư pháp Hạ viện
đã kết án TT Nixon về cuộc oanh tạc này vì đã dấu nhẹm Quốc hội.
Kissinger nói những lời kết án này là sai vì chúng nằm sát biên giới, cả
CSBV và chính phủ Miên không hề tố cáo có thường dân bị giết. Cuộc oanh
tạc kéo dài tới tháng 5-1970 khi Mỹ oanh tạc để yểm trợ quân đội Mỹ và
VNCH mở cuộc hành quân sang Miên tấn công các căn cứ CSBV. Những báo cáo
về cuộc oanh tạc đều đã được trình Tổng thống. Tháng 12-1969 và tháng
2-1970 Nixon hỏi về những thất bại của nó, Laird báo cáo cho biết Tướng
Abrams, Đại sứ Bunker ở Sài Gòn quả quyết cuộc oanh tạc biên giới Miên
rất hiệu quả. Abrams đánh giá nó rất tốt đã tiêu hủy hậu cần, kho hàng,
ngăn chận các cuộc tấn công đe dọa Sài Gòn, Laird cho tiếptục oanh tạc.
Hà Nội không phản đối cuộc oanh tạc, tại cuộc Hòa đàm Paris, ngày 22-3
họ đồng ý mật đàm (đi đêm) theo lời yêu cầu của Mỹ. Sihanouk không phản
đối và cho là cuộc tấn công không liên hệ tới ông vì tại những đia điểm
oanh tạc này không có dân Miên mà chỉ có quân Bắc Việt. Sihanouk là ông
vua thừa kế, được người dân ủng hộ, ông đã giành độc lập, là người cần
thiết của đất nước, ông trung lập hóa Miên năm 1965 và đoạn giao với Mỹ.
Hà Nội khuyến khích giúp đỡ Khmer đỏ, Sihanouk đã tuyên án tử hình
khiếm diện lãnh đạo CS Miên. Kissinger ủng hộ mạnh ý kiến của Rogers
khuyên Tổng thống tháng 2-1969 cố thân thiện với Sihanouk và rồi Mỹ mở
lại tòa Đại Sứ. Từ ngày 10-1-1968 thời chính phủ Johnson, Sihanouk đã
nói với Bowles đặc phái viên Tổng thống
“Chúng tôi không muốn bọn VN ở Miên, nếu các ông đánh Việt Cộng trong
vùng Miên chúng tôi sẽ không chống đối, các ông giải phóng chúng tôi
khỏi bọn VC, mong các ông đuổi chúng khỏi nước tôi”
Ngày 13-5-1969, khoảng hai tháng sau cuộc oanh tạc, Sihanouk họp báo
tuyên bố không phản đối vì tại đây không có thường dân, không xác định
được có ai thiệt mạng, không mất một con bò, đó chỉ là chuyện giữa Mỹ và
VC. Ngày 22-8-1969, Sihanouk cũng nói như vậy với Thượng nghị sĩ
Mansfield, người Khmer không phản đối Mỹ khi họ chỉ đánh VC và ông yêu
cầu họ đừng gây thiệt hại cho người dân Miên. Ngày 31-7, chỉ sau bốn
tháng rưỡi oanh tạc căn cứ địa Bắc Việt tại biên giới Miên, Sihanouk
nồng nhiệt mời TT Nixon sang thăm Khmer, liên hệ tốt đẹp cho tới khi ông
bị lật đổ.
Oanh tạc Miên chỉ là hành động tự vệ tối thiểu vì CSBV đã chiếm đóng
Miên bốn năm, chúng lập căn cứ, đánh giết Mỹ chết 400 người một tuần.
Cuộc oanh tạc được giữ kín vì có thể khiến Bắc Việt trả đũa và chính phủ
Miên yêu cầu ngưng oanh tạc. Bắc Việt không dám lên tiếng vì nó sẽ để
lộ việc họ chiếm đóng trái phép tại Miên, cuộc oanh tạc đã cứu nhiều
lính Mỹ và VNCH. Tờ New York times ngày 26-3 và 27-4 và Washington Post
ngày 27-4 tiết lộ cuộc oanh tạc của B-52 tại Miên, cuộc oanh tạc này đã
đưa chiến tranh vào xứ Chùa tháp. Năm sau Sihanouk bị lật đổ, CSBV công
khai chiếm các thành phố lớn, cô lập Nam Vang và lật đổ chính phủ sau.
Cuộc oanh tạc nảy đã được Tòa Đại Sứ Mỹ kiểm soát kỹ lưỡng nhằm tránh
thiệt hại tối đa cho người dân Miên, cuộc oanh tạc cũng không bị Miên,
CSBV, Nga, Trung Cộng phản đối.
Ngoại giao tìm hòa bình
Dư luận phản chiến buộc chính phủ đàm phán, cổ võ nhượng bộ. Thượng nghị sĩ Robert Kennedy trong cuộc tranh cử năm 1968 đề nghị.
-Ngưng ném bom Bắc Việt
-Quốc tế giám sat.
-Giảm kế hoạch tìm và diệt địch.
-Thương thuyết với Mặt trân GP (VC)
-Bảo đảm tổng tuyển cử tại miền nam VN.
Sau khi Robert Kennedy bị ám sát, ba người lãnh đạo phản chiến Dân Chủ là McGovern, McCarthy và Edward Kennedy cùng chủ trương.
-Ngưng ném bom không điều kiện
-Đàm phán rút quân Mỹ và CSBV
-Khuyên VNCH và MTGP hòa giải
-Giảm các cuộc tấn công của Mỹ tại miền nam VN.
Những đề nghị này bị phản đối trong cuộc họp của Dân Chủ vì nhu nhược quá.
Harriman, đại diện Mỹ tại hòa đàm Paris 1968-69 dưới thời Johnson cho
rằng giải pháp quân sự không thuận lợi vì nó sẽ khiến Trung Cộng can
thiệp nên cần phải thương thuyết, ông đề nghị Mỹ và Bắc Việt phải rút
khỏi miền nam VN. Khác với mong đợi của TT Johnson, ngày 3-11-1968, tức
hai ngày sau khi Johnson ngưng oanh tạc, CSBV lại đòi thêm nhiều hơn như
lật đổ chính phủ Sài Gòn. Tân TT Nixon phải đương đầu với đường lối
ngoại giao điên khùng của CSBV. Căn bản vấn đề, CS coi cuộc chiến là
sinh tử, họ không cho Hòa đàm Paris là một công cụ hòa bình nhưng là
dụng cụ của cuộc chiến tranh chính trị. Chúng là vũ khí để gây ảnh hương
làm tiêu hao người Mỹ về tâm lý, chia rẽ tách rời Mỹ và VNCH, chia rẽ ý
kiến người dân cho họ biết rằng Hành pháp Mỹ điên, không tưởng. Họ
không muốn có tiến bộ hòa đàm, muốn đi đêm vì không muốn cho người ta
thấy có tiến bộ Hội nghị. Mỗi khi họ giải quyết một vấn đề thì họ cố làm
ảnh hưởng dư luận Mỹ, cuộc chiến Mỹ bị người dân, truyền thông chỉ
trích vì họ thấy Bắc Việt có vẻ biết điều nhất là đối với những người
chống hay chửi chính phủ. CSBV xâm lăng VNCH, Miên, Lào, không tuyên
chiến, vi phạm hiệp định Genève trung lập Lào 1962.
Khi Hà Nội sẵn sàng ký kết (tháng 10-1972) mà trước đây họ chỉ gây rối
khéo léo. Trước búa phản chiến và đe Hà Nội, Tổng thống rất nghi ngờ,
ông không tin là đàm phán có thể tốt nếu tình hình quân sự không thay
đồi nhiều. Nixon cho rằng địch chịu tìm hòa bình vì không còn đường nào
khác, nói chung ông chọn chính sách dùng áp lực mạnh tối đa, ông chỉ
muốn đàm phán khi đã thắng về quân sự. Rogers thì muốn tránh chống đối
trong nước,
Laird vừa nghi ngờ đàm phán vừa nghi ngờ cả chiến thắng quân sự. Ông này
muốn ta phải rút khỏi VN trước khi bị chống đối, nhưng ông lại muốn làm
như vậy mà không đưa tới sụp đổ miền nam VN và cổ võ Việt Nam hóa chiến
tranh. Laird quả quyết rút quân là tốt nhất, đó là mối quan tâm hàng
đầu của ông. Kissinger lại hy vọng ở đàm phán sẽ có kết quả tốt trong
vòng một năm và ông không hy vọng vào rút quân.
Tổng thống tiền nhiệm Johnson đã để mất cơ hội chiến thắng, nếu ta tiếp
tục cuộc chiến VC sẽ không thích mà chúng thích thương thuyết. Thảo luận
về rút song phương (cả Mỹ và CSBV) trở nên vô ích, Bắc Việt không muốn
rút mà ta muốn rút đơn phương. Thảo luận hai bên cùng rút ta sẽ để lại
bao nhiêu? Các ý kiến cho 100,000 phụ lực quân nhưng vấn đề bị đảo lộn
vì biến cố vì người dân (tức Mậu Thân). Bộ ngoại giao và phái bộ tại Ba
Lê thảo luận Mỹ ngưng oanh tạc, tấn công, pháo kích. Bộ Tư lệnh (US) tại
Sài Gòn, Bộ TM liên quân (tại Mỹ) phản đối vì nếu nhượng bộ chúng sẽ
lập căn cứ mạnh. Một vấn đề đáng nói là Hà Nội không bao giờ chịu xuống
thang, họ không muốn ngưng bắn mà chỉ muốn chiến thắng bằng quân sự.
Đương đầu với CS ngoan cố Nixon muốn đàm phán với áp lực nhưng không
bằng triển khai chiến lược quân sự. Tháng một, tháng hai phái đoàn Paris
đòi hỏi Mỹ phải họp mật, cuộc họp ngày 22-3 Hà Nội đòi Mỹ phải rút
không điều kiện và lật đổ Thiệu, Kỳ. Các Bộ đều muốn đàm phán, Rogers
thảo luận với Đại sứ Nga Dobrynin ngày 8-3, ông nói muốn đề cập cả chính
trị và quân sự cùng lúc. TT Nixon không muốn đàm phán bí mật khi Sài
Gòn bị pháo kích.
Rogers muốn đi đêm ngay với Hà Nội, ông đề nghị mật đàm cả VNCH, Mặt
trận GP, ông không đòi CS ngưng tấn công các nơi đông dân cư (như Sài
Gòn). Kissinger thất vọng ở lập trường Rogers, còn Nixon thì không mưốn
ra lệnh cho người cấp dưới trừ khi những người này bất đồng ý kiến với
ông. Nội các Nixon không đồng ý với nhau, trong nhóm làm việc của ông
không đoàn kết đã là nguyên do chính của Watergate. Nixon cử Kissinger
gặp Đại sứ Nga Dobrynin ngày 11-3 cho biết chỉ có mật đàm Mỹ- Bắc Việt
trước khi mở rộng ra cho cả VNCH và VC.
Laird chủ trương rút đơn phương, Ngũ giác đài thông báo giảm 10% phi vụ
B-52 bắt đầu từ 30-6 vì lý do ngân sách. Kissinger nói ông muốn để dành
chút tài sản (ý nói sức mạnh quân sự) để thương thuyết với Bắc Việt,
Kissinger chủ trương rút song phương trái với Laird. Một ký giả nói Hà
Nội coi đây là bước đầu của rút quân còn Sài Gòn cho rằng đây là dấu
hiệu giảm sự can thiệp vào miền Nam. TT Nixon tuyên bố giảm phi vụ B-52,
Kissinger nhận xét Hà Nội không bao giờ trả tiền cho cái quà mà họ bỏ
túi (tức không bao giờ đáp ứng thiện chí Mỹ). Với Hà Nội Mỹ đã mất vị
thế khi nhượng bộ rút đơn phương, trong nước Nixon giảm chống đối nhưng
cũng làm nản lòng những người ủng hộ cho kế hoạch để chiến thắng.
Kissinger nói những người này không hiểu rằng tiềp tục chiến đấu cho sự
rút lui trong danh dự là một điều hão huyền. Kissinger cho rằng hành
pháp không được sự ủng hộ của những người họ coi chiến tranh là một bài
học đạo đức cho nước Mỹ không hoàn hảo lắm.
Sứ mệnh của Vance
Kissinger nói ta bị bất lợi về thời thế, khi được cử làm Phụ tá an ninh
QG ông đề cử Cyrus Vance làm Thứ trưởng ngoại giao, Rogers (Bộ trương
ngoại giao) trong khi Vance không có ý kiến cũng không từ chối. McNamara
người xếp cũ của ông thúc dục làm. Thế rồi ông từ chức Phụ tá trưởng
phái đoàn Paris ngày 19-2-1969, TT Nixon gửi điện tín cám ơn. Trong cuộc
nói chuyện với Đại Sứ Nga Dobrynin, Kissinger nhấn mạnh về quan hệ
Nga-Mỹ hợp tác giải quyết cuộc chiến thì ông ta tránh trả lới và nói Nga
ảnh hưởng tới Hà Nội ít lắm. Phía Mỹ đáp lại Nga bằng cách trì hoãn
những thảo luận mà Nga quan tâm như: Vấn đề tài giảm binh bị, Trung
Đông, giao thương nhưng không đề nghị gì vế Sô viết đối với VN.
Kisinger gặp Vance ngày 18-3 để giải thích về việc cử ông ta đi Moscow:
đàm phán tài giảm binh bị và bí mật gặp đại diện Bắc Việt, Vance hỏi
nhiều chi tiết về sứ mệnh này ngày 3-4. Kissinger chính thức đề nghị sứ
mệnh của Vance lên TT Nixon sau khi chỉ ra những khó khăn tại hòa đàm
Paris. Hành pháp Mỹ cam đoan với người dân sẽ giải quyết cuộc chiến, Mỹ
cần phải tiếp tục áp lực quân sự (oanh tạc) để Hà Nội không đàm phán như
tại Bàn Môn Điếm (Cao Ly 1953), Hà Nội ngoan cố, cần có Nga tham dự.
Kissinger gặp Đại sứ Nga và cảnh cáo liên hệ Nga-Mỹ đang ở ngã tư trong
khi ấy Nixon muốn quan hệ này tiến bộ về mọi mặt, chiến tranh VN là một
trở ngại lớn. Để giải quyết vấn đề này TT đã gửi một phái đoàn cao cấp
tới Moscow do Vance đẫn đầu. Nixon đồng ý ngay về vấn đề tài giảm binh
bị, Vance được trao quyền thảo luận với đại diện Bắc Việt, Mỹ có thể đề
nghị ngưng bắn, rút đơn phương, hứa hẹn cho MTGP (VC) được tham gia
chính trị. TT Nixon cho 6 tuần để thương thuyết.
Kissinger nói với Nixon cần làm mạnh nêu không có kết quả, Hà Nội chỉ
muốn chiến thắng, không muốn ngưng bắn và chiếm đóng miền nam VN, họ
cũng không muốn bầu cử. Ngày 12-4-1969, Kissinger nói với Tổng thống về
cuộc họp với Đại sứ Nga ngày 14-4, ông chấp thuận. Kissinger gặp Đại sứ
Nga Dobrynin, ông này hỏi có phải Mỹ đặt điều kiện giải quyết vấn đề VN
sau đó mới bàn về Trung đông, liên quan kinh tế hai nước và tài giảm
binh bị? Kissinger trả lời nếu vấn đề VN xong thì dễ nói chuyện các vấn
đề khác nếu không sẽ tạo ra tình trạng phức tạp. Đại Sứ Nga nói Moscow
muốn thảo luận với Mỹ bất luận vấn đề VN ra sao, ông cũng nói Trung Cộng
muốn chia rẽ Nga-Mỹ. Ông ta nói thêm chiến tranh VN leo thang chỉ lợi
choTrung Cộng. Kissinger nói nếu vậy Nga phải hợp tác với Mỹ để tránh
những vấn đề phức tạp.
Phía Nga lặng thinh không trả lời gì, tháng 6 (69) Đại sứ Nga nói đề
nghị của Mỹ đã được chuyển cho Hà Nội nhưng không thấy kế quả. Ngày
22-12, Đại sứ Nga nói Moscow cố gắng quan tâm, Hà Nội từ chối đàm phán
trừ khi lập chính phủ Liên hiệp.
Nếu cho là Hà Nội giỏi đu giây giữa Nga-Tầu, lấy Moscow là nới quyết định đàm phán sẽ nguy hiểm.
Trở lại máy cối xay
Ngày 8-5, phía CSBV đưa ra chương trình mười điểm gồm những điểm chính
như: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, Mỹ phải rút hết quân vô điều kiện,
loại bỏ VNCH, Mỹ phải bồi thường chiến tranh, Miền nam VN phải Liên
hiệp…
Liên hiệp thực ra chỉ là để CS vào chính phủ Sài Gòn, chương trình Mười
điểm đòi hỏi Mỹ phải lật đổ VNCH, rút hết, Chính phủ liên hiệp chỉ là
lâm thời cho tới khi VNCH và VC thương thuyết. Khi CS chiếm miền nam
(1975), chúng không hề lập chính phủ liên hiệp mà Bắc Việt nắm hết. Đề
nghị của CS chỉ là một chiều và láo xược.
Ngày 25-4 Kissinger nhắc nhở TT Nixon về lời Xuân Thủy: “tại sao ông
Nixon không đưa ra một kế hoạch tìm hòa bình. Ngày 14-5 Nixon lên TV nói
ông duyệt lại bốn tháng từ khi nhậm chức Tổng thống như: Đã làm suy yếu
cuộc tấn công của địch, cải thiện bang giao với VNCH, và phát huy lập
trường đàm phán phía Mỹ. Nixon đề nghị Chương trình Tám điểm thể hiện
tiến bộ lớn trong cuộc đàm phán so với thời Johnson, ủng hộ việc rút
song phương. Mỹ đồng ý MTGP (tức VC) tham gia chính trị tại miền nam VN
bằng bầu cử có quốc tế giám sát. Nixon đặt lịch trình rút, ngưng bắn có
quốc tế giám sát.
(còn tiếp)
Tác giả: Henry Kissinger
Trọng Đạt lược dịch
(Ba Sàm)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Henry Kissinger - Việt Nam Hấp Hối (bài 1)
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (5/1953–6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa được của Đông Dương
Lời giới thiệu
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp
tại Đông Dương (5/1953–6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương
Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa
được của Đông Dương khi mà người dân và chính phủ Pháp đã quá chán nản
không muốn tiếp tục cuộc chiến. Cựu Tư lệnh bào chữa cho chính ông và
quân đội Pháp về nguyên do thất thủ Điện Biên Phủ, qui trách nhiệm cho
chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần
thứ nhất 1946-1954. Cách đây hai năm tôi đã dịch và lược dịch vài chương
chính trong Agonie de l’Indochine để trình bày với quí độc giả về tình
hình bi đát của Đông Dương những năm 1953, 1954.
Hơn hai mươi năm sau, Henry Kissinger, Cố vấn an ninh Tổng thống cũng
kể lại tình trạng hấp hối của miền nam Việt Nam trong hồi ký của ông.
Chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông Dương cũng là một vì hơn 90%
cơn khói lửa đã diễn ra tại Việt Nam. Tại đây Henry Kissinger nói về sự
khởi đầu của sụp đổ, thực trạng, nguyên do Việt Nam hấp hối vào năm 1969
trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Năm 1979 Kissinger viết hồi ký White House Years, Những Năm Tại Tòa
Bạch Ốc dầy 1,500 trang khổ giấy lớn, tương đương cuốn sách 2,000 trang
khổ giấy trung bình. Chương thứ VIII trong cuốn này: The Agony of
Vietnam, Việt Nam Hấp Hối, dài 85 trang (226 -311) tương đương một cuốn
sách trên 100 trang. Nó cùng tên gọi với cuốn hồi ký của Tướng Navvare
kể trên, cùng mục đích diễn tả lại sự chán nản của người dân cũng như
Hành pháp Mỹ.
Trên đống tro tàn quá khứ, Henry Kissinger quay lại khúc phim bi kịch
miền nam VN năm 1969, dần dần những sự thật phũ phàng về cuộc chiến
Đông Dương đã được tiết lộ. Henry đã làm sống lại cả một giai đoạn lịch
sử mà quyết định sai lầm trầm trọng của tân Tổng thống Nixon và Nội các
mới đưa tới thảm kịch mấy năm sau. Theo ông, người Mỹ đã sai lầm lớn khi
nhượng bộ Hà Nội với hy vọng khai thông bế tắc tại cuộc hòa đàm Ba Lê.
Trước hết cuối tháng 10-1968, Tổng thống Johnson đã cho ngưng oanh tạc
toàn diện Bắc Việt theo yêu cầu của Hà Nội và sau đó, năm 1969 tân Tổng
thống Nixon đã nhượng bộ Hà Nội rút quân đơn phương. Henry Kissnger cho
rằng cả hai nhượng bộ đều không được CSVN đếm xỉa tới, hòa đàm vẫn bế
tằc cho tới khi địch thảm bại trong trận mùa hè đỏ lửa 1972 họ mới chịu
nhượng bộ Mỹ nhiều điều khoản khai thông Hội nghị vào tháng 9 và tháng
10-1972.
Riêng về trường hợp Nixon, Henry cho rằng tân Tổng thống đã thực hiện
rút quân đơn phương về nước bắt đầu từ gần cuối 1969 nhằm hai mục đích
chính:
-Thúc đẩy đàm phán tại Ba Lê tiến nhanh hơn, nhượng bộ Hà Nội cho rút quân không điều kiện.
-Xoa dịu dư luận chống đối trong nước
Nhưng ông nhận định cả hai mục tiêu trên đều không đạt được, trước
hết tại cuộc hòa đàm phía Hà Nội không hề thay đổi lập trường. Yêu cầu
của họ vẫn y như cũ, giống như những lời khắc trong đá: Mỹ rút quân
không điều kiện, loại bỏ Thiệu, lập chính phủ Liên hiệp, cắt viện trợ
VNCH… Sở dĩ địch cứng đầu vì họ nắm được cái tẩy của Hành pháp Mỹ đang
bị Quốc hội và người dân chống đối mạnh.
Việc Mỹ rút quân để xoa dịu dư luận trong nước cũng hoàn toàn thất
bại, tại Mỹ phong trào chống đối vẫn lên cao, người dân không bao giờ
vừa ý. Sau này chính Nixon phải công nhận trong hồi ký (No More
Vietnạms) mặc dù đã đem lại hòa bình (1-1973) lấy tù binh, đưa quân về
nước nhưng phong trào phản chiến vẫn ngoan cố tiếp tục chống đối mạnh,
hết chống chiến tranh họ chuyển sang vụ Watergate.
Nhậm chức năm 1969, Nixon vừa phải tiến hành cuộc chiến tại Đông
Dương, đương đầu với CSBV ngoan cố tại bàn Hội nghị, nhất là phải xoa
dịu Quốc hội và phong trào phản chiến. Nixon tứ bề thọ địch, phải chống
đỡ tại mặt trận ngoại quốc cũng như đối chọi với mặt trận tại đất nhà mà
mặt trận này xem ra còn khốc liệt hơn: Quốc hội thù nghịch chống đối,
đảng đối lập Dân chủ nay bắt tay với phong trào phản chiến chống lại
Hành pháp Cộng hòa ngày một rộng lớn. Thật là khôi hài, một nền Hành
pháp, một chính phủ phải năn nỉ Quốc hội, xoa dịu người dân, đương đầu
với chính tình hình trong nước, một chính phủ không có thực quyền như
thế thử hỏi còn làm được gì?
Kissinger chỉ trích chương trình rút quân của Nixon cho là sẽ làm sụp
đổ miền nam vì họ không đủ sức chống lại cuộc xâm lăng mấy năm sau. Tác
giả Walter Isaacson trong cuốn Kissinger a Biography (trang 234-241) có
đề cập nhiều về chương trình này, mà theo Walter do Bộ trưởng quốc
phòng Laird đề nghị, Nixon chấp nhận, Kissinger chống đối nhưng không
can ngăn được Nixon. Kissinger phản đối rút quân vì cho rằng nó sẽ làm
mất thế mạnh tại bàn Hội nghị, tại đây có sự bất đồng ý kiến giữa các
nhà lãnh đạo Hành Pháp. Laird đặt tên chương trình này là Việt Nam hóa
chiến tranh (Vietnamization) mà Walter Isaacson cho là nghe thì lịch sự
nhưng tàn nhẫn, vô cảm, độc ác. Kế hoạch rút khỏi Việt Nam sinh ra một
học thuyết mới: Thuyết Nixon (The Nixon doctrine) chủ trương không can
thiệp vào nước khác (Interventionism) mà đứng biệt lập (Isolationism).
Các nhà học giả Mỹ về chiến tranh VN cho rằng các danh từ hoa mỹ như
Việt nam hóa chiến tranh, học thuyết Nixon chẳng qua chỉ là rút quân bỏ
chạy trá hình.
Mặc dù phản đối chương trình này cho là sẽ nguy hại tới an ninh miền
nam VN nhưng Kissinger không đưa ra một phương án cụ thể nào khả dĩ thay
thế rút quân mà ông chỉ nói cần làm mạnh vào năm 1970, có nghĩa là oanh
tạc mạnh CSBV bằng B-52 để lấy lợi thế. Các phụ tá của Kissinger đã
nghiên cứu một kế hoạch quân sự: phong tỏa Hải phòng, oanh tạc các cơ sở
quân sự Bắc Việt trong 4 ngày… để buộc CS đàm phán nghiêm chỉnh nhưng
chính ông không dám đề nghị kế hoạch táo bạo này lên Nixon.
Trong phần kết luận chương này, Kissinger bi quan không tin tưởng vào
kế hoạch, bằng giọng chán chường thất vọng, ông lấy làm tiếc đã không
can ngăn được Tổng thống và Nội các khi họ đã lựa chọn giải pháp tàn
nhẫn này. Kissinger nói ông đã tiên đoán trước sự thất bại của chương
trình (rút): tại Ba Lê đối phương vẫn cứng đầu không chịu đàm phán, tại
mặt trận đất nhà bọn phản chiến ngày càng ngoan cố, leo thang chống đối,
cuối cùng miền nam VN sụp đổ vì không đủ lực lượng gánh vác toàn bộ
chiến trường. Henry nói.
“Một khi tiến hành (rút) không quay lại, tôi biết là nó có thể là một
con đường dài bi thảm và có thể đưa tới thất bại – mà tôi đã nhiều lần
trình bầy sơ lược những những nguy hiểm của nó với Tổng thống (Nixon)”
Kissinger đã đặt cho Chương VIII này cái tên “cường điệu” Viêt Nam
Hấp Hối để lên án sự sai lầm trầm trọng và nguy hại của kế hoạch, dù sao
đây cũng chỉ là quan điểm riêng của tác giả về chương trình này.
Quí vị có thể tham khảo thêm trong cuốn sách nổi tiêng Kissinger a
Biography (từ trang 234 tới 241) của Walter Isaacson nói về đề tài này.
Và tôi xin lược dịch Chương VIII, The Agony of Vietnam trong White House Years, từ trang 226 tới 311.
Trọng Đạt
_______
Việt Nam Hấp Hối
Kissinger nói tôi không thể viết về Việt Nam mà không đau lòng. Khi
chúng tôi tới nhận nhiệm sở (vào Bạch Ốc), hơn nửa triệu quân Mỹ đang
chiến đấu cách xa nước Mỹ mười ngàn dặm. Chúng tôi chưa nghĩ tới việc
rút quân, 31,000 người đã chết, năm 1969 uy tín và niềm tin vào cuộc
chiến đã bị hủy hoại, cuộc chiến tranh của chúng ta không công khai và
không được Quốc Hội, người dân, truyền thông ủng hộ. Năm 1969 người dân
chống đối dữ dội, ngày càng tăng hơn, họ gồm bốn thành phần: Những người
yêu hòa bình không muốn Mỹ tham gia cuộc bắn giết; nhóm thực tiễn không
thấy kết quả tốt; nhóm biệt lập không muốn Mỹ can thiệp; nhóm lý tưởng
kết án cuộc chiến dã man.
Hành pháp Nixon vào Tòa Bạch ốc, những người (Dân chủ) đã gây ra cuộc
tham chiến tại VN, mới đầu họ trung lập sau quay ra chống đối. Họ buộc
Nixon có trách nhiệm về cuộc chiến mà ông chỉ thừa hưởng, họ tấn công
ông ta nhân danh những giải pháp mà chính họ đã không thực hiện khi còn
cầm quyền.
Một siêu cường chấm dứt chiến tranh bỏ một nước nhỏ cho bọn bạo chúa là
thiếu đạo đức và còn phương hại tới bang giao quốc tế. Người Mỹ muốn
chấm dứt chiến tranh, qua thăm dò và qua bầu cử cho thấy họ coi mục đích
cuộc chiến là đáng trân trọng, họ không muốn Mỹ bị thua nhục nhã. Chính
phủ phải quan tâm kính trọng những gia đình có con chết cho đất nước
(US) và họ không muốn những hy sinh ấy là vô ích
Tôi nghĩ chiến tranh VN là một sự ngây thơ về lý tưởng, đất nước phải mắc nợ những hy sinh của những thanh niên Mỹ.
Tôi sa vào chỗ sa lầy
Cuộc chiến VN là do Bắc Việt muốn chiếm miền Nam bằng vũ lực, Trung Cộng
điều khiển cuộc chiến này. Walt Rostow, Giám đốc nghiên cứu chính sách
Bộ ngoại giao nói người Pháp có mấy trăm ngàn quân ở Đông Dương thất
bại, họ không có lực lượng lưu động như Mỹ. Việc lật đổ chính phủ Ngô
Đình Diệm làm mất niềm tin các nước Đông Nam Á, mặc dù sau đó thắng về
quân sự nhưng không bù lại những thất bại chính trị. Trước 1963 địch chỉ
đánh du kích nhưng sau khi đảo chính Ngô Đình Diệm chúng mới đánh chính
qui. Năm 1965 Kissinger nói ông nằm trong số đám đông thầm lặng ủng hộ
chính phủ Johnson đưa quân vào chống lại CS Hà Nội xâm lăng miền nam VN.
Cabot Lodge mời ông sang thăm VN tháng 10 -1965 hai tuần và tháng
7-1966 trong mười ngày, và vài ngày tháng 10- 1966. Kissinger nhận dịnh
ta không thể thắng được vì địch có căn cứ hậu cần bên Lào, Miên. Chúng
ta oanh tạc Bắc Việt đưa tới chống đối trên thế giới rất nản chí và sau
này nó là yếu tố quyết định.
Thiệt hại nhân mạng lính Mỹ tạo lên ý kiến chống đối chính trong nước,
tôi nghĩ trong một cuộc nội chiến, thắng lợi về quân sự sẽ vô nghĩa trừ
khi đưa tới một thực tế chính trị còn tồn tại sau khi ta rút đi. Thương
thuyết chỉ có được nếu Hà Nội nhận thấy họ sẽ mất ảnh hưởng chính trị
nhiều đối với dân miền nam (VN) khi cuộc chiến kéo dài. Bắc Việt và Việt
Cộng chiến đấu trên địa diện quen thuộc, họ chỉ cần kéo dài cho tới khi
Hoa Kỳ chán nản cuộc chiến. Thử thách của chúng ta là chiến đấu đồng
thời tăng sức mạnh cho miền Nam sống được khi không có ta, nói khác đi
là ta rảnh nợ. Nguyên tắc du kích chiến là nếu họ không thua tức là
thắng, (nguyên tắc) quân chính qui nếu không thắng là thua. Chúng ta
chiến đấu bằng quân sự với một kẻ thù lẩn trốn, địch tranh thủ chính trị
với một khối dân cố định, quân chính qui BV đưa lực lượng ta vào chỗ
mất ý nghĩa chính trị, còn Việt Cộng phá các vùng nông thôn VNCH.
Kissinger viếng Vĩnh Long tháng 10-1965, ông tỉnh trưởng cho biết 80%
yên ổn, khi thăm VN tháng 7-1966, ông tỉnh trưởng Vĩnh Long nói an ninh
tiến bộ nhiều, nay 70%.
Giữa tháng 7 tới tháng 10-1967, chính phủ Johnson nhờ Kissinger làm
trung gian hòa giải, ông mang lời nhắn nhờ hai nhà trí thức Pháp mà ông
quen. Một người trong đó quen thân Hồ Chí Minh từ 1940, đã cho Hồ Chí
Minh ở nhờ khi sang Pháp thương thuyết, hai người (Pháp) tới Hà Nội gặp
Hồ Chí Minh. Vài tháng sau Kissinger gặp họ ở Paris, cố gắng này thất
bại nhưng nó là bước đầu cho cuộc hòa đàm một năm sau.
Cuối năm 1968 Kissinger nhận định:
-Kế hoạch quân sự không thể thắng
-Miền Nam phải đoàn kết.
-Hoa Kỳ bớt gia tăng trách nhiệm điều khiển cuộc chiến cho VNCH.
-Hà Nội cứng rắn, ta phải thực hiện những giải pháp đơn phương
Tháng 1-1969, Kissinger không đồng ý cho rút quân đơn phương về Mỹ.
Chúng ta Chiến Đấu ra sao
Những lời công khích, kể cả của Dân chủ làm như chính Nixon là người đã
tham chiến can thiệp vào VN. Khi Nixon vào tòa Bạch Ốc, hơn một nửa
triệu quân Mỹ, thực ra con số còn tiếp tục tăng lên tới đỉnh cao là
549,500 người vào tháng 4-1969 do Chính phủ trước hoạch định như vậy
(thực sự tháng 4-1969 là 543,000 người). Chiến phí là 30 tỷ cho tài khóa
1969, thiệt hại trung bình 200 người (Mỹ) một tuần từ nửa năm sau 1968
(thời Johnson), tổng cộng có 14,592 người (Mỹ) chết tại mặt trận năm
1968. Số lính Mỹ bị giết từ 1961 tới 20-1- 1969 tổng cộng là 31,000
người, phía VNCH khoảng 90,000 người tử trận. Cuộc chiến bế tắc, ta
thắng trận Mậu Thân (tháng 2-1968) nhưng người dân Mỹ không ủng hộ cuộc
chiến khiến phải ngưng oanh tạc (cuối tháng 10-1968) nhiều áp lực bắt ta
phải rút quân. Quân đội VNCH năm 1968 là 826,000 người tăng nhiều so
với năm trước (1967 là 743,000 người). Họ được trang bị nhiều hơn nhưng
trách nhiệm nặng nề: canh gác một biên giới dài hơn 600 dặm (1,000 km)
và bảo đảm an ninh cho đất nước. Việt Cộng bị thiệt hại nhưng nay hầu
như quân chính qui Bắc Việt đảm nhiệm vai chính, không còn chiến tranh
nhân dân. Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng thống năm 1967, tòa Đại sứ
Mỹ tại Sài Gòn ước lượng 65% dân toàn quốc, 81% miền quê chịu ảnh hưởng
của CS. Tình trạng miền quê không tiến gì hơn năm 1966 khi Kissinger qua
thăm VN, CSBV đánh Mỹ để gây tổn thất, VC thì quấy phá VNCH. Giữa năm
1968, Tướng Creighton Abrams thay Tướng Westmoreland, ông thay đổi chiến
lược, thay vì tấn công CSBV, ông lo bảo vệ người dân, quân Mỹ lo bảo vệ
các thành phố lớn.
Ngày 1-11-1968, Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc và Hà Nội ngầm không tấn công
các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng. Từ nhiều năm qua, các giới chức
quân sự than phiền các nhà lãnh đạo dân sự kìm hãm họ, nhưng khi Nixon
hỏi họ về chiến lược mới thì họ nói tái oanh tạc Bắc Việt (mà đã bỏ từ
31-10-1968). Chỉ thị mới của Nixon là ông không muốn mâu thuẫn với Chính
phủ Sài Gòn và không muốn để Hà Nội phá vỡ cơ cấu chính trị của VNCH.
Văn thư nghiên cứu của Hội đồng an ninh quốc gia (HĐANQG) đòi hỏi các
Bộ, phủ trả lời những câu hỏi. Những người tương đối lạc quan như
Bunker, Abram, McCain cho là CSBV yếu thế nên phải đàm phán, ta thuận
lợi nhưng Ngũ giác đài, CIA bi quan cho là phải thảo luận rút quân về
nước.
Bắc Việt tấn công và cuộc oanh tạc bên Miên
CSBV gia tăng xâm nhập khi Nixon lên làm TT, ngày 24-11-1968, Bộ trưởng
quốc phòng nói có thể sẽ oanh tạc trở lại, khi nhiệm kỳ mới bắt đầu ,
chính phủ hy vọng đất nước đoàn kết để đạt đàm phán trong danh dự. Điều
không may là khó mà oanh tạc Bắc Việt trở lại. Kissinger, Laird (Bộ
trưởng quốc phòng), Tướng Wheeler (TMT liên quân) họp bàn tại Ngũ giác
đài để bảo vệ miền nam VN, Wheeler nói quân Mỹ nay đã được đưa tới VN
rất nhiều, ta cần đánh khu Phi quân sự hay oanh tạc Bắc Việt trở lại.
Cuộc họp đưa tới việc oanh tạc căn cứ CSBV tại Miên, đó không phải là
khiêu chiến mà là cách tránh oanh tạc Bắc Việt và để ngăn chặn những
cuộc tấn công địch gây thiệt hại cho Mỹ 400 người chết một tuần.
Những người xét lại cho rằng Chính phủ Nixon tấn công một nước trung
lập. Trong bốn năm qua, bốn sư đoàn Bắc Việt đã hoạt động dọc theo biên
giới Miên-Việt, chúng tấn công VNCH rồi rút về bên kia biên giới, có thể
oanh tạc vùng này được vì không có dân, chỉ có CSBV tấn công giết VNCH
và Mỹ rồi tháo chạy về biên giới. Trước hết Tướng Wheeler đề nghị tái
oanh tạc căn cứ Bắc Việt tại biên giới Miên, ngày 9-2 Tướng Abram ở Sài
Gòn điện tín về cho Wheeler nói Bộ chỉ huy CS toàn miền nam ở bên kia
biên giới. Abrams xin oanh tạc bằng B-52, Đại sứ Bunker ủng hộ ý kiến
này trong một điện tín của ông gửi Bộ ngoại giao.
TT Nixon gửi ghi chú cho Kissinger nói chúng ta cần phá hủy hậu cần CSBV
tại biên giới Miên. Tướng Wheeler cho biết các kiện hàng hóa quân sự
được đưa vào cảng Sihanoukville. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn cho biết từ
tháng 10-1967 tới tháng 9-1968 có hàng chục nghìn tấn hàng quân sự đã
qua cảng Sihanoukville, còn CIA và Bộ ngoại giao cho là vũ khí qua đường
mòn Hồ Chí Minh rất nhiều cho CSBV tại miền nam VN. Những người chủ
trương đánh sang Miên nhấn mạnh hải cảng Sihanoukville, những người
chống thì đánh giá thấp. Sau khi đánh sang Miên xong năm 1970, hàng vũ
khí do tầu thủy chở tới đây nhiều rất xa so với dự đoán.
Ngày 18-2, nhận được báo cáo từ Sài Gòn, Kissinger trình lên Tổng thống
rằng Tướng Abrams xác nhận không có dân trong vùng ta định oanh tạc. Khi
Nixon hoãn lại cuộc tấn công vào vùng căn cứ địa của địch định thương
thuyết, Bắc Việt bèn tấn công lớn khiến tuần đầu Mỹ thiệt mạng 453
người, tuần thứ hai 336 người , tuần thứ ba 351 người, phía VNCH mỗi
tuần trung bình 500 người chết một tuần. Trận đánh diễn ra một ngày
trước khi Nixon đi ngoại quốc làm nhục ông tân Tổng thống, chủ đích của
Bắc Việt là giết người Mỹ để gây ảnh hưởng phản chiến. Nixon nghe báo
cáo trận đánh rồi nuôi ý định đánh trả địch, từ nhiều năm trước ông luôn
chỉ trích TT Johnson tiền nhiệm trả đũa yếu quá, nhưng nếu (Nixon) trả
đũa sẽ bị chống đối tại Ân châu. Phản ứng duy nhất của Tòa Bạch Ốc là
Kissinger gọi cho Đại Sứ Nga nói nếu Bắc Việt tiếp tục tấn công Mỹ sẽ
trả đũa. Trong khi trên đường đi từ Mỹ tới Bỉ ngày 23-2 bỗng nhiên Nixon
ra lệnh oanh tạc căn cứ địa CS tại Miên, Kissinger biết là Nixon quyết
định một mình trên không trung nên ông đánh điện khuyên TT hoãn lại 48
giờ.
Phụ tá Haig, Haldeman và Kissinger bay tới Bỉ rồi cùng họp nhau trên Air
Force One bàn luận về cuộc oanh tạc, sẽ oanh tạc trong phạm vi cách
biên giới năm dặm và không tuyên bố trước, nếu chính phủ Miên phản đối
thì Mỹ sẽ bồi thường thiệt hại. Haig và các chuyên viên Ngũ Giác Đài trở
về Mỹ thuyết trình cho Bộ trưởng Laird nghe, ông này đánh điện từ Hoa
Thịnh Đốn cho biết không thể giữ kín cuộc oanh tạc, báo chí sẽ đề cập,
người dân sẽ chống đối.. và ông đề nghị ta tạm hoãn tới khi địch tấn
công rõ ràng. Kissinger cho rằng việc ngưng ném bom tháng 10-1968 (thời
Johnson) coi như thất bại, ông ta đồng ý với Laird về oanh tạc trả đũa
tại Miên, nếu không có phản ứng với cuộc tấn công xỏ lá của CSBV thì coi
như không thể thương thuyết tốt đẹp.
Hà Nội thấy Nixon bị dư luận chống đối không dám làm gì nên họ sẽ cưa
Nixon như đã từng cưa Johnson. Kissinger nghĩ khó mà mở cuộc tấn công
khi Tổng thống đi Âu châu vì sẽ bị chống đối và đã khuyên Nixon, hôm sau
tại Bonn Tổng thống bỏ kế hoạch này. Báo New York times ngày 9-3 trách
tân Chính phủ đang nghiên cứu kế hoạch tấn công gây hấn CSBV. Ngày 4-3
TT họp báo nói nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng tức là yếu thế. Ta sẽ
không tha cho những tiếp tục vi phạm những cái đã ngầm thỏa thuận, không
tha cho những cuộc tấn công gây tổn thất cho Mỹ trong khi chúng ta đang
tìm hòa bình tại Paris.
Ngày 4-3 Kissinger trình Tổng thống văn thư của Laird, ông chống đề nghị
oanh tạc miền Bắc của Bộ TM liên quân mà ủng hộ oanh tạc biên giới
Miên. Nixon nghe theo và ra lệnh oanh tạc Miên ngày 9-3. Ngày 7-3 Rogers
(Bộ trưởng ngoại giao) phản đối vì vấn đề hòa đàm nên Nixon lại thôi,
ông không muốn tấn công Bắc Việt nhưng phải tấn công một chỗ nào đó.
Ngày 14-3 ông trả lời trong cuộc phỏng vấn nay tổn thất nhân mạng Mỹ
giảm từ 400 người một tuần xuống còn 300 nhưng vẫn còn cao, ta không cần
cảnh cáo địch, nếu tổn thất nhiều hơn ta sẽ trả đũa. Hôm sau chúng pháo
kích Sài Gòn 5 quả, tổng cộng có 32 cuộc tấn công VNCH trong hai tuần
đầu tháng 3. Trưa hôm địch pháo kích Sài Gòn, Kissinger nhận được điện
thoại của TT, ông ra lệnh oanh tạc căn cứ địch tại biên giới Miên.
Lệnh chưa được thi hành, Kissinger đề nghị Nixon nên hỏi ý kiến các cố
vấn để tránh chống đối, trong phiên họp ở phòng Bầu dục Tòa Bạch ốc,
Kissinger cho biết có thể địch sẽ làm mạnh hơn, dân Mỹ sẽ chống đối. Tại
phiên họp ngày 16-3 tại phòng Bầu dục gồm Rogers, Laird, Wheeler, lần
đầu tiên Nixon gặp một quyết định cụ thẻ mang tính quốc tế (có liên quan
Miên). Laird, Wheeler ủng hộ mạnh, Rogers (Bộ trưởng ngoại giao) chống
đối vì sợ dư luận trong nước. Nixon có quyền đánh CSBV vì chúng vi phạm
nền trung lập của Miên, Rogers sợ Quốc hội chống đối, Laird và Wheeler
đề nghị TT giữ quyết định, sau cùng Rogers đồng ý cho oanh tạc Bộ chỉ
huy CSBV (tại biên giới Miên)
Sau phiên họp, TMT Liên quân Wheeler đề nghị oanh tạc quân Bắc Việt vi
phạm Khu phi quân sự nhưng lời đề nghị không được chấp thuận. Ngày 18-3,
B-52 ném bom căn cứ CSBV 353 cách biên giới 5 dặm. Tháng 4-1969 Nixon
lại cho oanh tạc vì Hà Nội và Nam Vang không phản đối và vì kết quả tốt
ngoài sự mong đợi, đánh trúng các kho dầu, đạn dược gây 73 tiếng nổ phụ
tại đây. Nixon hoãn lại cuộc oanh tạc vì Rogers và Laird phản đối mạnh,
ông đã chứng tỏ cho Hà Nội biết mình không bị tê liệt.
Tháng 5-1969 Nixon cho oanh tạc dẫy căn cứ dọc biên giới, sau đó cuộc
tấn công được tiến hành đều đặn. Sau này năm 1974 Ủy ban tư pháp Hạ viện
đã kết án TT Nixon về cuộc oanh tạc này vì đã dấu nhẹm Quốc hội.
Kissinger nói những lời kết án này là sai vì chúng nằm sát biên giới, cả
CSBV và chính phủ Miên không hề tố cáo có thường dân bị giết. Cuộc oanh
tạc kéo dài tới tháng 5-1970 khi Mỹ oanh tạc để yểm trợ quân đội Mỹ và
VNCH mở cuộc hành quân sang Miên tấn công các căn cứ CSBV. Những báo cáo
về cuộc oanh tạc đều đã được trình Tổng thống. Tháng 12-1969 và tháng
2-1970 Nixon hỏi về những thất bại của nó, Laird báo cáo cho biết Tướng
Abrams, Đại sứ Bunker ở Sài Gòn quả quyết cuộc oanh tạc biên giới Miên
rất hiệu quả. Abrams đánh giá nó rất tốt đã tiêu hủy hậu cần, kho hàng,
ngăn chận các cuộc tấn công đe dọa Sài Gòn, Laird cho tiếptục oanh tạc.
Hà Nội không phản đối cuộc oanh tạc, tại cuộc Hòa đàm Paris, ngày 22-3
họ đồng ý mật đàm (đi đêm) theo lời yêu cầu của Mỹ. Sihanouk không phản
đối và cho là cuộc tấn công không liên hệ tới ông vì tại những đia điểm
oanh tạc này không có dân Miên mà chỉ có quân Bắc Việt. Sihanouk là ông
vua thừa kế, được người dân ủng hộ, ông đã giành độc lập, là người cần
thiết của đất nước, ông trung lập hóa Miên năm 1965 và đoạn giao với Mỹ.
Hà Nội khuyến khích giúp đỡ Khmer đỏ, Sihanouk đã tuyên án tử hình
khiếm diện lãnh đạo CS Miên. Kissinger ủng hộ mạnh ý kiến của Rogers
khuyên Tổng thống tháng 2-1969 cố thân thiện với Sihanouk và rồi Mỹ mở
lại tòa Đại Sứ. Từ ngày 10-1-1968 thời chính phủ Johnson, Sihanouk đã
nói với Bowles đặc phái viên Tổng thống
“Chúng tôi không muốn bọn VN ở Miên, nếu các ông đánh Việt Cộng trong
vùng Miên chúng tôi sẽ không chống đối, các ông giải phóng chúng tôi
khỏi bọn VC, mong các ông đuổi chúng khỏi nước tôi”
Ngày 13-5-1969, khoảng hai tháng sau cuộc oanh tạc, Sihanouk họp báo
tuyên bố không phản đối vì tại đây không có thường dân, không xác định
được có ai thiệt mạng, không mất một con bò, đó chỉ là chuyện giữa Mỹ và
VC. Ngày 22-8-1969, Sihanouk cũng nói như vậy với Thượng nghị sĩ
Mansfield, người Khmer không phản đối Mỹ khi họ chỉ đánh VC và ông yêu
cầu họ đừng gây thiệt hại cho người dân Miên. Ngày 31-7, chỉ sau bốn
tháng rưỡi oanh tạc căn cứ địa Bắc Việt tại biên giới Miên, Sihanouk
nồng nhiệt mời TT Nixon sang thăm Khmer, liên hệ tốt đẹp cho tới khi ông
bị lật đổ.
Oanh tạc Miên chỉ là hành động tự vệ tối thiểu vì CSBV đã chiếm đóng
Miên bốn năm, chúng lập căn cứ, đánh giết Mỹ chết 400 người một tuần.
Cuộc oanh tạc được giữ kín vì có thể khiến Bắc Việt trả đũa và chính phủ
Miên yêu cầu ngưng oanh tạc. Bắc Việt không dám lên tiếng vì nó sẽ để
lộ việc họ chiếm đóng trái phép tại Miên, cuộc oanh tạc đã cứu nhiều
lính Mỹ và VNCH. Tờ New York times ngày 26-3 và 27-4 và Washington Post
ngày 27-4 tiết lộ cuộc oanh tạc của B-52 tại Miên, cuộc oanh tạc này đã
đưa chiến tranh vào xứ Chùa tháp. Năm sau Sihanouk bị lật đổ, CSBV công
khai chiếm các thành phố lớn, cô lập Nam Vang và lật đổ chính phủ sau.
Cuộc oanh tạc nảy đã được Tòa Đại Sứ Mỹ kiểm soát kỹ lưỡng nhằm tránh
thiệt hại tối đa cho người dân Miên, cuộc oanh tạc cũng không bị Miên,
CSBV, Nga, Trung Cộng phản đối.
Ngoại giao tìm hòa bình
Dư luận phản chiến buộc chính phủ đàm phán, cổ võ nhượng bộ. Thượng nghị sĩ Robert Kennedy trong cuộc tranh cử năm 1968 đề nghị.
-Ngưng ném bom Bắc Việt
-Quốc tế giám sat.
-Giảm kế hoạch tìm và diệt địch.
-Thương thuyết với Mặt trân GP (VC)
-Bảo đảm tổng tuyển cử tại miền nam VN.
Sau khi Robert Kennedy bị ám sát, ba người lãnh đạo phản chiến Dân Chủ là McGovern, McCarthy và Edward Kennedy cùng chủ trương.
-Ngưng ném bom không điều kiện
-Đàm phán rút quân Mỹ và CSBV
-Khuyên VNCH và MTGP hòa giải
-Giảm các cuộc tấn công của Mỹ tại miền nam VN.
Những đề nghị này bị phản đối trong cuộc họp của Dân Chủ vì nhu nhược quá.
Harriman, đại diện Mỹ tại hòa đàm Paris 1968-69 dưới thời Johnson cho
rằng giải pháp quân sự không thuận lợi vì nó sẽ khiến Trung Cộng can
thiệp nên cần phải thương thuyết, ông đề nghị Mỹ và Bắc Việt phải rút
khỏi miền nam VN. Khác với mong đợi của TT Johnson, ngày 3-11-1968, tức
hai ngày sau khi Johnson ngưng oanh tạc, CSBV lại đòi thêm nhiều hơn như
lật đổ chính phủ Sài Gòn. Tân TT Nixon phải đương đầu với đường lối
ngoại giao điên khùng của CSBV. Căn bản vấn đề, CS coi cuộc chiến là
sinh tử, họ không cho Hòa đàm Paris là một công cụ hòa bình nhưng là
dụng cụ của cuộc chiến tranh chính trị. Chúng là vũ khí để gây ảnh hương
làm tiêu hao người Mỹ về tâm lý, chia rẽ tách rời Mỹ và VNCH, chia rẽ ý
kiến người dân cho họ biết rằng Hành pháp Mỹ điên, không tưởng. Họ
không muốn có tiến bộ hòa đàm, muốn đi đêm vì không muốn cho người ta
thấy có tiến bộ Hội nghị. Mỗi khi họ giải quyết một vấn đề thì họ cố làm
ảnh hưởng dư luận Mỹ, cuộc chiến Mỹ bị người dân, truyền thông chỉ
trích vì họ thấy Bắc Việt có vẻ biết điều nhất là đối với những người
chống hay chửi chính phủ. CSBV xâm lăng VNCH, Miên, Lào, không tuyên
chiến, vi phạm hiệp định Genève trung lập Lào 1962.
Khi Hà Nội sẵn sàng ký kết (tháng 10-1972) mà trước đây họ chỉ gây rối
khéo léo. Trước búa phản chiến và đe Hà Nội, Tổng thống rất nghi ngờ,
ông không tin là đàm phán có thể tốt nếu tình hình quân sự không thay
đồi nhiều. Nixon cho rằng địch chịu tìm hòa bình vì không còn đường nào
khác, nói chung ông chọn chính sách dùng áp lực mạnh tối đa, ông chỉ
muốn đàm phán khi đã thắng về quân sự. Rogers thì muốn tránh chống đối
trong nước,
Laird vừa nghi ngờ đàm phán vừa nghi ngờ cả chiến thắng quân sự. Ông này
muốn ta phải rút khỏi VN trước khi bị chống đối, nhưng ông lại muốn làm
như vậy mà không đưa tới sụp đổ miền nam VN và cổ võ Việt Nam hóa chiến
tranh. Laird quả quyết rút quân là tốt nhất, đó là mối quan tâm hàng
đầu của ông. Kissinger lại hy vọng ở đàm phán sẽ có kết quả tốt trong
vòng một năm và ông không hy vọng vào rút quân.
Tổng thống tiền nhiệm Johnson đã để mất cơ hội chiến thắng, nếu ta tiếp
tục cuộc chiến VC sẽ không thích mà chúng thích thương thuyết. Thảo luận
về rút song phương (cả Mỹ và CSBV) trở nên vô ích, Bắc Việt không muốn
rút mà ta muốn rút đơn phương. Thảo luận hai bên cùng rút ta sẽ để lại
bao nhiêu? Các ý kiến cho 100,000 phụ lực quân nhưng vấn đề bị đảo lộn
vì biến cố vì người dân (tức Mậu Thân). Bộ ngoại giao và phái bộ tại Ba
Lê thảo luận Mỹ ngưng oanh tạc, tấn công, pháo kích. Bộ Tư lệnh (US) tại
Sài Gòn, Bộ TM liên quân (tại Mỹ) phản đối vì nếu nhượng bộ chúng sẽ
lập căn cứ mạnh. Một vấn đề đáng nói là Hà Nội không bao giờ chịu xuống
thang, họ không muốn ngưng bắn mà chỉ muốn chiến thắng bằng quân sự.
Đương đầu với CS ngoan cố Nixon muốn đàm phán với áp lực nhưng không
bằng triển khai chiến lược quân sự. Tháng một, tháng hai phái đoàn Paris
đòi hỏi Mỹ phải họp mật, cuộc họp ngày 22-3 Hà Nội đòi Mỹ phải rút
không điều kiện và lật đổ Thiệu, Kỳ. Các Bộ đều muốn đàm phán, Rogers
thảo luận với Đại sứ Nga Dobrynin ngày 8-3, ông nói muốn đề cập cả chính
trị và quân sự cùng lúc. TT Nixon không muốn đàm phán bí mật khi Sài
Gòn bị pháo kích.
Rogers muốn đi đêm ngay với Hà Nội, ông đề nghị mật đàm cả VNCH, Mặt
trận GP, ông không đòi CS ngưng tấn công các nơi đông dân cư (như Sài
Gòn). Kissinger thất vọng ở lập trường Rogers, còn Nixon thì không mưốn
ra lệnh cho người cấp dưới trừ khi những người này bất đồng ý kiến với
ông. Nội các Nixon không đồng ý với nhau, trong nhóm làm việc của ông
không đoàn kết đã là nguyên do chính của Watergate. Nixon cử Kissinger
gặp Đại sứ Nga Dobrynin ngày 11-3 cho biết chỉ có mật đàm Mỹ- Bắc Việt
trước khi mở rộng ra cho cả VNCH và VC.
Laird chủ trương rút đơn phương, Ngũ giác đài thông báo giảm 10% phi vụ
B-52 bắt đầu từ 30-6 vì lý do ngân sách. Kissinger nói ông muốn để dành
chút tài sản (ý nói sức mạnh quân sự) để thương thuyết với Bắc Việt,
Kissinger chủ trương rút song phương trái với Laird. Một ký giả nói Hà
Nội coi đây là bước đầu của rút quân còn Sài Gòn cho rằng đây là dấu
hiệu giảm sự can thiệp vào miền Nam. TT Nixon tuyên bố giảm phi vụ B-52,
Kissinger nhận xét Hà Nội không bao giờ trả tiền cho cái quà mà họ bỏ
túi (tức không bao giờ đáp ứng thiện chí Mỹ). Với Hà Nội Mỹ đã mất vị
thế khi nhượng bộ rút đơn phương, trong nước Nixon giảm chống đối nhưng
cũng làm nản lòng những người ủng hộ cho kế hoạch để chiến thắng.
Kissinger nói những người này không hiểu rằng tiềp tục chiến đấu cho sự
rút lui trong danh dự là một điều hão huyền. Kissinger cho rằng hành
pháp không được sự ủng hộ của những người họ coi chiến tranh là một bài
học đạo đức cho nước Mỹ không hoàn hảo lắm.
Sứ mệnh của Vance
Kissinger nói ta bị bất lợi về thời thế, khi được cử làm Phụ tá an ninh
QG ông đề cử Cyrus Vance làm Thứ trưởng ngoại giao, Rogers (Bộ trương
ngoại giao) trong khi Vance không có ý kiến cũng không từ chối. McNamara
người xếp cũ của ông thúc dục làm. Thế rồi ông từ chức Phụ tá trưởng
phái đoàn Paris ngày 19-2-1969, TT Nixon gửi điện tín cám ơn. Trong cuộc
nói chuyện với Đại Sứ Nga Dobrynin, Kissinger nhấn mạnh về quan hệ
Nga-Mỹ hợp tác giải quyết cuộc chiến thì ông ta tránh trả lới và nói Nga
ảnh hưởng tới Hà Nội ít lắm. Phía Mỹ đáp lại Nga bằng cách trì hoãn
những thảo luận mà Nga quan tâm như: Vấn đề tài giảm binh bị, Trung
Đông, giao thương nhưng không đề nghị gì vế Sô viết đối với VN.
Kisinger gặp Vance ngày 18-3 để giải thích về việc cử ông ta đi Moscow:
đàm phán tài giảm binh bị và bí mật gặp đại diện Bắc Việt, Vance hỏi
nhiều chi tiết về sứ mệnh này ngày 3-4. Kissinger chính thức đề nghị sứ
mệnh của Vance lên TT Nixon sau khi chỉ ra những khó khăn tại hòa đàm
Paris. Hành pháp Mỹ cam đoan với người dân sẽ giải quyết cuộc chiến, Mỹ
cần phải tiếp tục áp lực quân sự (oanh tạc) để Hà Nội không đàm phán như
tại Bàn Môn Điếm (Cao Ly 1953), Hà Nội ngoan cố, cần có Nga tham dự.
Kissinger gặp Đại sứ Nga và cảnh cáo liên hệ Nga-Mỹ đang ở ngã tư trong
khi ấy Nixon muốn quan hệ này tiến bộ về mọi mặt, chiến tranh VN là một
trở ngại lớn. Để giải quyết vấn đề này TT đã gửi một phái đoàn cao cấp
tới Moscow do Vance đẫn đầu. Nixon đồng ý ngay về vấn đề tài giảm binh
bị, Vance được trao quyền thảo luận với đại diện Bắc Việt, Mỹ có thể đề
nghị ngưng bắn, rút đơn phương, hứa hẹn cho MTGP (VC) được tham gia
chính trị. TT Nixon cho 6 tuần để thương thuyết.
Kissinger nói với Nixon cần làm mạnh nêu không có kết quả, Hà Nội chỉ
muốn chiến thắng, không muốn ngưng bắn và chiếm đóng miền nam VN, họ
cũng không muốn bầu cử. Ngày 12-4-1969, Kissinger nói với Tổng thống về
cuộc họp với Đại sứ Nga ngày 14-4, ông chấp thuận. Kissinger gặp Đại sứ
Nga Dobrynin, ông này hỏi có phải Mỹ đặt điều kiện giải quyết vấn đề VN
sau đó mới bàn về Trung đông, liên quan kinh tế hai nước và tài giảm
binh bị? Kissinger trả lời nếu vấn đề VN xong thì dễ nói chuyện các vấn
đề khác nếu không sẽ tạo ra tình trạng phức tạp. Đại Sứ Nga nói Moscow
muốn thảo luận với Mỹ bất luận vấn đề VN ra sao, ông cũng nói Trung Cộng
muốn chia rẽ Nga-Mỹ. Ông ta nói thêm chiến tranh VN leo thang chỉ lợi
choTrung Cộng. Kissinger nói nếu vậy Nga phải hợp tác với Mỹ để tránh
những vấn đề phức tạp.
Phía Nga lặng thinh không trả lời gì, tháng 6 (69) Đại sứ Nga nói đề
nghị của Mỹ đã được chuyển cho Hà Nội nhưng không thấy kế quả. Ngày
22-12, Đại sứ Nga nói Moscow cố gắng quan tâm, Hà Nội từ chối đàm phán
trừ khi lập chính phủ Liên hiệp.
Nếu cho là Hà Nội giỏi đu giây giữa Nga-Tầu, lấy Moscow là nới quyết định đàm phán sẽ nguy hiểm.
Trở lại máy cối xay
Ngày 8-5, phía CSBV đưa ra chương trình mười điểm gồm những điểm chính
như: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, Mỹ phải rút hết quân vô điều kiện,
loại bỏ VNCH, Mỹ phải bồi thường chiến tranh, Miền nam VN phải Liên
hiệp…
Liên hiệp thực ra chỉ là để CS vào chính phủ Sài Gòn, chương trình Mười
điểm đòi hỏi Mỹ phải lật đổ VNCH, rút hết, Chính phủ liên hiệp chỉ là
lâm thời cho tới khi VNCH và VC thương thuyết. Khi CS chiếm miền nam
(1975), chúng không hề lập chính phủ liên hiệp mà Bắc Việt nắm hết. Đề
nghị của CS chỉ là một chiều và láo xược.
Ngày 25-4 Kissinger nhắc nhở TT Nixon về lời Xuân Thủy: “tại sao ông
Nixon không đưa ra một kế hoạch tìm hòa bình. Ngày 14-5 Nixon lên TV nói
ông duyệt lại bốn tháng từ khi nhậm chức Tổng thống như: Đã làm suy yếu
cuộc tấn công của địch, cải thiện bang giao với VNCH, và phát huy lập
trường đàm phán phía Mỹ. Nixon đề nghị Chương trình Tám điểm thể hiện
tiến bộ lớn trong cuộc đàm phán so với thời Johnson, ủng hộ việc rút
song phương. Mỹ đồng ý MTGP (tức VC) tham gia chính trị tại miền nam VN
bằng bầu cử có quốc tế giám sát. Nixon đặt lịch trình rút, ngưng bắn có
quốc tế giám sát.
(còn tiếp)
Tác giả: Henry Kissinger
Trọng Đạt lược dịch
(Ba Sàm)