Tham Khảo
Hoa Kỳ có sẵn sàng đi tới chiến tranh về biển Đông?
Ông chủ Exxon đã cho thấy trước rằng ông có thể đẩy Bắc Kinh tới giới hạn –nhưng với tư cách Ngoại trưởng, phần may rủi sẽ cao hơn nhiều.
Ông chủ Exxon đã cho thấy trước rằng ông có thể đẩy Bắc Kinh tới giới hạn –nhưng với tư cách Ngoại trưởng, phần may rủi sẽ cao hơn nhiều.
Rex Tillerson, cựu giám đốc Exxon, đã không có được chỗ nào mà ông đối
xử tốt với Trung Quốc (TQ). Khi Bắc Kinh đã cố ép buộc công ty của ông
phải từ bỏ một dự án tìm kiếm thăm dò ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam
vào năm 2008, ExxonMobil đã giơ ngón tay [giữa] chế nhạo họ. BP,
Chevron, ConocoPhillips, và một số công ty khác chịu thua trước áp lực
của TQ. ExxonMobil vẫn còn ở đó, khoan theo giấy phép của Việt Nam trên
vùng biển mà TQ cũng tuyên bố chủ quyền.
Liệu Tillerson sẽ làm như vậy, đại diện cho Hoa Kỳ? Hôm thứ Tư, Bộ trưởng Ngoại giao – chỉ định – dường như đã sẵn sàng giơ ngón tay lần nữa với TQ. Ông kêu gọi chính phủ Trump sắp đến không cho TQ tiếp cận 7 căn cứ đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở phần phía nam của biển Đông.
Trả lời câu hỏi về việc liệu ông sẽ ủng hộ một tư thế quyết liệt hơn ở biển Đông, ông đã nói trong buổi điều trần chuẩn nhận của Thượng viện, “Chúng ta sẽ phải gửi cho TQ một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, việc xây dựng đảo phải ngừng lại và, thứ hai, việc tiếp cận tới các đảo này cũng sẽ không được cho phép”. Cộng đồng quan sát chính sách châu Á trố mắt kinh ngạc.
Các tác động rất rõ ràng. Cách duy nhất mà Hoa Kỳ có thể chặn việc TQ tiếp cận các căn cứ đảo hiện có của họ là triển khai tàu chiến và đe dọa sử dụng vũ lực. Liệu Tillerson thực sự sẵn sằng chấp nhận nguy cơ xung đột thẳng thừng giữa hai siêu cường về số phận của 7 rạn đá này không?
Hầu hết các nhà quan sát đang cho rằng ông lỡ lời. Việc trao đổi xảy ra sau phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại khoảng 5 giờ . Một phút trước đó, Tillerson đã nói $5 nghìn tỷ hàng hoá đi qua biển Đông mỗi ngày – ông muốn nói là $5 nghìn tỷ một năm. Tất cả chúng ta đều mắc lỗi lầm. Nhưng nếu điều ông đã nói quả là điều ông muốn nói?
Từ các hình ảnh vệ tinh do Asia Maritime Transparency Initiative của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế công bố, chúng ta biết rằng TQ đã ngưng xây dựng đảo tại quần đảo Trường Sa – tranh chấp toàn bộ hoặc một phần giữa TQ (cả hai nước Trung Hoa), Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei. Các căn cứ vẫn đang được hoàn tất, nhưng việc đấp đất hình thành mặt đảo đã xong. Tuy nhiên, vẫn có một nghi ngờ mạnh mẽ rằng ý định cuối cùng của TQ là xây dựng một căn cứ khổng lồ trên bãi cạn Scarborough, phía đông bắc của quần đảo Trường Sa. Rạn san hô này dưới sự kiểm soát vững chắc của Philippines cho đến khi Hoa Kỳ đóng cửa căn cứ của mình ở nước này vào những năm đầu thập niên 1990. Kể từ tháng 4 năm 2012, tàu của TQ đã phụ trách. Thượng nghị sĩ John McCain tin rằng TQ “có ý định chiếm đoạt và bồi đắp bãi cạn Scarborough như vị trí quân sự thứ ba trong tam giác ảnh hưởng ở biển Đông”. Kết hợp với các căn cứ của TQ hiện có trong quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một tam giác như vậy sẽ làm cho việc TQ kiểm soát con đường thủy chiến lược này dễ hơn đáng kể.
Các báo cáo và tin đồn từ Washington cho rằng vào đầu năm 2016, Hoa Kỳ đã nói rõ cho TQ rằng họ đã sẵn sàng để ngăn chặn bằng vũ lực, bất kỳ nỗ lực xây dựng đảo nào trên bãi cạn này. Hoa Kỳ đã triển khai tàu và máy bay đến biển Đông và các căn cứ ở Philippines để hậu thuẫn cho lời dọa đó. Như vậy, Tillerson có thể chỉ đơn giản nói rằng ông muốn chiến lược này sẽ tiếp tục – ngăn bất kỳ việc xây dựng đảo nào ở bãi cạn Scarborough qua việc không cho các tàu xây dựng tiếp cận nó.
Nhưng có lẽ ông quả muốn nói là Hoa Kỳ nên không cho tiếp cận 7 đảo nhân tạo hiện có. James Kraska, giáo sư về luật quốc tế tại trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ, đã điều trần trước Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện rằng, làm như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Trong phát biểu, ông nói Hoa Kỳ “có thể và cần thách thức quyền của TQ truy cập vào các đảo nhân tạo của họ như là một biện pháp đối phó hợp pháp trong luật pháp quốc tế, để buộc TQ tuân thủ các nghĩa vụ của họ trong Công ước Luật biển và luật tập tục quốc tế”. Kraska nói, đây là cơ sở của chính sách về các đại dương năm 1983 của Tổng thống Ronald Reagan.
Nói cách khác, Washington có thể làm cho việc tiếp cận của TQ đối với các căn cứ đó tùy thuộc vào điều kiện Bắc Kinh đồng ý tuân thủ các phán quyết được Tòa Trọng tài quốc tế đưa ra hồi tháng 6 năm 2016. Thật ra, TQ sẽ phải chấp nhận rằng, họ không có quyền điều tiết việc đi lại hoặc kiểm soát các tài nguyên khoáng sản ngoài khu vực cho phép theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Chẳng hạn, TQ sẽ phải đồng ý để cho Philippines khoan khí đốt ở bãi Cỏ Rong (Reed Bank), cách căn cứ khổng lồ của TQ ở đá Vành Khăn (Mischief Reef) khoảng 60 hải lý; kiềm chế đội tàu đánh cá TQ gây ra các xung đột gần quần đảo Natuna của Indonesia; và, trên hết, từ bỏ mọi nỗ lực ngăn chặn tàu hải quân Mỹ đi ngang qua, tập luyện, hoặc thu thập thông tin tình báo ở biển Đông.
Chiến lược phong tỏa này sẽ ăn khớp với những gợi ý khác mà chúng tôi đã nghe từ phe Trump về chiến lược đối với TQ trong tương lai. Hồi tháng 11, hai cố vấn của Trump, Alexander Gray và Peter Navarro, vạch ra một chiến lược “hòa bình thông qua sức mạnh” trên tạp chí Foreign Policy. James Woolsey, người lúc đó mô tả mình như một cố vấn cao cấp cho Donald Trump, đề nghị một “cuộc mặc cả lớn, trong đó Mỹ chấp nhận cấu trúc chính trị và xã hội của TQ và cam kết không phá vỡ nó theo bất kỳ cách nào để đổi lấy cam kết của TQ không thách thức nguyên trạng (status quo) ở châu Á”. Về mặt logic, tôn trọng nguyên trạng có lẽ sẽ đòi hỏi một cam kết không chiếm thêm rạn đá mới nào hoặc triển khai lực lượng quân sự mới đến các căn cứ hiện có.
Trong một thời gian nào đó, những đảng viên Cộng hòa cao cấp như McCain và Dan Sullivan đã thúc giục Hoa Kỳ phải giành thế chủ động ở biển Đông hơn là chỉ đơn thuần phản ứng lại các hành động của TQ. Cũng có thể là Tillerson được báo về sự xuất hiện của một chiến lược như vậy. Thay vì chờ đợi một sự khiêu khích, chúng ta có thể thấy một nỗ lực để đẩy lùi các bước dấn tới gần đây của TQ và áp lực Bắc Kinh phải chấp nhận rằng những quy tắc UNCLOS áp dụng cho mọi nơi ở biển Đông.
TQ và hầu hết các nước khác sẽ không nhìn điều này theo cách đó (trừ khi Washington giải thích những gì đang xảy ra một cách cực kỳ cẩn thận). Có rất nhiều rủi ro để xem xét. TQ có thể buộc Washington phải ngữa bài và kích động một cuộc đối đầu. Tàu có thể bị chìm, nhiều mạng sống bị mất, và cuộc khủng hoảng sẽ lan sang thương mại và mọi lĩnh vực khác của chính sách quốc tế. Một nhà theo dõi chặt chẽ các diễn biến ở biển Đông, giáo sư Julian Ku của Trường Luật Đại học Hofstra, lưu ý rằng dù điều đó có thể là hợp pháp, chiến lược này “sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh”.
Một rủi ro khác là Hoa Kỳ có thể bị mất sự ủng hộ của các đồng minh, đối tác và bạn bè ở Đông Nam Á và bên ngoài. Không ai muốn xung đột – họ cần Hoa Kỳ và TQ thân thiện với nhau để họ có thể phát triển trong hòa bình. Mặc dù hầu hết đều tìm kiếm một sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ để đối phó với những bước tiến của TQ, họ không muốn bị buộc phải chọn phe. Hoa Kỳ sẽ có nguy cơ bị thấy là đạo đức giả: từ lâu đã cổ vũ cho mục tiêu tự do hàng hải trong khu vực, họ lại cố ý hạn chế nó [ở các đảo nhân tạo], dù có những quan tâm lớn hơn về tự do hàng hải.
Cuối cùng, luôn có nguy cơ rằng, với nguồn lực hải quân dàn trải mỏng ra trên khắp thế giới và chính phủ các nước trong khu vực không muốn cấp quyền ra vào các cảng và căn cứ hậu cần vì các lý do chính trị, Hoa Kỳ có thể sẽ thấy khó để thực thi chính sách trước lực lượng Hải quân trọn vẹn của quân đội TQ (PLAN). Một khi đã tuyên bố thì bất cứ việc để đi qua lọt phong tỏa nào sẽ là thảm họa đối với danh tiếng của một siêu cường. Tư lệnh Lực lượng Hải quân Mỹ mới đây cho rằng PLAN “không thể tìm cách chui ra khỏi một túi giấy ướt”. Tuy nhiên, các nhà phân tích khác, như Lyle Goldstein của Viện Nghiên cứu Hàng hải TQ, đã cảnh báo về khả năng gia tăng tên lửa chống tàu bè của TQ trong thời gian nào đó. Nếu cả hai phía của một cuộc đối đầu tiềm năng đều tin rằng họ có thể thắng thì khả năng xung đột gia tăng một cách nguy hiểm.
Cho đến nay các phản ứng chính thức của TQ với ý kiến của Tillerson là nhẹ một cách đáng lưu ý. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra một điểm đồng ý “với ông Tillerson tại điểm mà ông nhận ra những bất đồng, nhưng lợi ích và nhất trí cũng hoà quyện với nhau”. Hiện giờ Bắc Kinh dường như giữ vị thế “chờ xem” đối với chính phủ Trump. Họ để cho tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) cảnh báo: “Nếu Washington có kế hoạch tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biển Đông, bất kỳ hình thức nào nhằm ngăn chặn TQ tiếp cận đối với các đảo, sẽ là ngu ngốc.”
Năm 2008, các quan chức TQ đã đe dọa ExxonMobil sẽ chịu những hậu quả đau đớn nếu theo đuổi các dự án của họ với Việt Nam. (Tôi có nêu chuyện này trong chương 5, cuốn sách của tôi năm 2014). Nhưng công ty này đã mạnh tay, nhất là việc xuất khẩu khí đốt từ khu vực Sakhalin của Nga mà TQ đã rất muốn truy cập. Tillerson đã giữ vững thần kinh, buộc TQ phải ngữa bài, và đã thắng. Liệu ông sẽ làm điều đó một lần nữa không?
Cựu lãnh đạo ExxonMobil, Rex Tillerson ra điều trần trước Thượng viện Mỹ hôm 11-1-2017 cho chức Ngoại trưởng Mỹ. Ảnh: SAUL LOEB/AFP/Getty Images. |
Liệu Tillerson sẽ làm như vậy, đại diện cho Hoa Kỳ? Hôm thứ Tư, Bộ trưởng Ngoại giao – chỉ định – dường như đã sẵn sàng giơ ngón tay lần nữa với TQ. Ông kêu gọi chính phủ Trump sắp đến không cho TQ tiếp cận 7 căn cứ đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở phần phía nam của biển Đông.
Trả lời câu hỏi về việc liệu ông sẽ ủng hộ một tư thế quyết liệt hơn ở biển Đông, ông đã nói trong buổi điều trần chuẩn nhận của Thượng viện, “Chúng ta sẽ phải gửi cho TQ một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, việc xây dựng đảo phải ngừng lại và, thứ hai, việc tiếp cận tới các đảo này cũng sẽ không được cho phép”. Cộng đồng quan sát chính sách châu Á trố mắt kinh ngạc.
Các tác động rất rõ ràng. Cách duy nhất mà Hoa Kỳ có thể chặn việc TQ tiếp cận các căn cứ đảo hiện có của họ là triển khai tàu chiến và đe dọa sử dụng vũ lực. Liệu Tillerson thực sự sẵn sằng chấp nhận nguy cơ xung đột thẳng thừng giữa hai siêu cường về số phận của 7 rạn đá này không?
Hầu hết các nhà quan sát đang cho rằng ông lỡ lời. Việc trao đổi xảy ra sau phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại khoảng 5 giờ . Một phút trước đó, Tillerson đã nói $5 nghìn tỷ hàng hoá đi qua biển Đông mỗi ngày – ông muốn nói là $5 nghìn tỷ một năm. Tất cả chúng ta đều mắc lỗi lầm. Nhưng nếu điều ông đã nói quả là điều ông muốn nói?
Từ các hình ảnh vệ tinh do Asia Maritime Transparency Initiative của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế công bố, chúng ta biết rằng TQ đã ngưng xây dựng đảo tại quần đảo Trường Sa – tranh chấp toàn bộ hoặc một phần giữa TQ (cả hai nước Trung Hoa), Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei. Các căn cứ vẫn đang được hoàn tất, nhưng việc đấp đất hình thành mặt đảo đã xong. Tuy nhiên, vẫn có một nghi ngờ mạnh mẽ rằng ý định cuối cùng của TQ là xây dựng một căn cứ khổng lồ trên bãi cạn Scarborough, phía đông bắc của quần đảo Trường Sa. Rạn san hô này dưới sự kiểm soát vững chắc của Philippines cho đến khi Hoa Kỳ đóng cửa căn cứ của mình ở nước này vào những năm đầu thập niên 1990. Kể từ tháng 4 năm 2012, tàu của TQ đã phụ trách. Thượng nghị sĩ John McCain tin rằng TQ “có ý định chiếm đoạt và bồi đắp bãi cạn Scarborough như vị trí quân sự thứ ba trong tam giác ảnh hưởng ở biển Đông”. Kết hợp với các căn cứ của TQ hiện có trong quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một tam giác như vậy sẽ làm cho việc TQ kiểm soát con đường thủy chiến lược này dễ hơn đáng kể.
Các báo cáo và tin đồn từ Washington cho rằng vào đầu năm 2016, Hoa Kỳ đã nói rõ cho TQ rằng họ đã sẵn sàng để ngăn chặn bằng vũ lực, bất kỳ nỗ lực xây dựng đảo nào trên bãi cạn này. Hoa Kỳ đã triển khai tàu và máy bay đến biển Đông và các căn cứ ở Philippines để hậu thuẫn cho lời dọa đó. Như vậy, Tillerson có thể chỉ đơn giản nói rằng ông muốn chiến lược này sẽ tiếp tục – ngăn bất kỳ việc xây dựng đảo nào ở bãi cạn Scarborough qua việc không cho các tàu xây dựng tiếp cận nó.
Nhưng có lẽ ông quả muốn nói là Hoa Kỳ nên không cho tiếp cận 7 đảo nhân tạo hiện có. James Kraska, giáo sư về luật quốc tế tại trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ, đã điều trần trước Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện rằng, làm như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Trong phát biểu, ông nói Hoa Kỳ “có thể và cần thách thức quyền của TQ truy cập vào các đảo nhân tạo của họ như là một biện pháp đối phó hợp pháp trong luật pháp quốc tế, để buộc TQ tuân thủ các nghĩa vụ của họ trong Công ước Luật biển và luật tập tục quốc tế”. Kraska nói, đây là cơ sở của chính sách về các đại dương năm 1983 của Tổng thống Ronald Reagan.
Nói cách khác, Washington có thể làm cho việc tiếp cận của TQ đối với các căn cứ đó tùy thuộc vào điều kiện Bắc Kinh đồng ý tuân thủ các phán quyết được Tòa Trọng tài quốc tế đưa ra hồi tháng 6 năm 2016. Thật ra, TQ sẽ phải chấp nhận rằng, họ không có quyền điều tiết việc đi lại hoặc kiểm soát các tài nguyên khoáng sản ngoài khu vực cho phép theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Chẳng hạn, TQ sẽ phải đồng ý để cho Philippines khoan khí đốt ở bãi Cỏ Rong (Reed Bank), cách căn cứ khổng lồ của TQ ở đá Vành Khăn (Mischief Reef) khoảng 60 hải lý; kiềm chế đội tàu đánh cá TQ gây ra các xung đột gần quần đảo Natuna của Indonesia; và, trên hết, từ bỏ mọi nỗ lực ngăn chặn tàu hải quân Mỹ đi ngang qua, tập luyện, hoặc thu thập thông tin tình báo ở biển Đông.
Chiến lược phong tỏa này sẽ ăn khớp với những gợi ý khác mà chúng tôi đã nghe từ phe Trump về chiến lược đối với TQ trong tương lai. Hồi tháng 11, hai cố vấn của Trump, Alexander Gray và Peter Navarro, vạch ra một chiến lược “hòa bình thông qua sức mạnh” trên tạp chí Foreign Policy. James Woolsey, người lúc đó mô tả mình như một cố vấn cao cấp cho Donald Trump, đề nghị một “cuộc mặc cả lớn, trong đó Mỹ chấp nhận cấu trúc chính trị và xã hội của TQ và cam kết không phá vỡ nó theo bất kỳ cách nào để đổi lấy cam kết của TQ không thách thức nguyên trạng (status quo) ở châu Á”. Về mặt logic, tôn trọng nguyên trạng có lẽ sẽ đòi hỏi một cam kết không chiếm thêm rạn đá mới nào hoặc triển khai lực lượng quân sự mới đến các căn cứ hiện có.
Trong một thời gian nào đó, những đảng viên Cộng hòa cao cấp như McCain và Dan Sullivan đã thúc giục Hoa Kỳ phải giành thế chủ động ở biển Đông hơn là chỉ đơn thuần phản ứng lại các hành động của TQ. Cũng có thể là Tillerson được báo về sự xuất hiện của một chiến lược như vậy. Thay vì chờ đợi một sự khiêu khích, chúng ta có thể thấy một nỗ lực để đẩy lùi các bước dấn tới gần đây của TQ và áp lực Bắc Kinh phải chấp nhận rằng những quy tắc UNCLOS áp dụng cho mọi nơi ở biển Đông.
TQ và hầu hết các nước khác sẽ không nhìn điều này theo cách đó (trừ khi Washington giải thích những gì đang xảy ra một cách cực kỳ cẩn thận). Có rất nhiều rủi ro để xem xét. TQ có thể buộc Washington phải ngữa bài và kích động một cuộc đối đầu. Tàu có thể bị chìm, nhiều mạng sống bị mất, và cuộc khủng hoảng sẽ lan sang thương mại và mọi lĩnh vực khác của chính sách quốc tế. Một nhà theo dõi chặt chẽ các diễn biến ở biển Đông, giáo sư Julian Ku của Trường Luật Đại học Hofstra, lưu ý rằng dù điều đó có thể là hợp pháp, chiến lược này “sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh”.
Một rủi ro khác là Hoa Kỳ có thể bị mất sự ủng hộ của các đồng minh, đối tác và bạn bè ở Đông Nam Á và bên ngoài. Không ai muốn xung đột – họ cần Hoa Kỳ và TQ thân thiện với nhau để họ có thể phát triển trong hòa bình. Mặc dù hầu hết đều tìm kiếm một sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ để đối phó với những bước tiến của TQ, họ không muốn bị buộc phải chọn phe. Hoa Kỳ sẽ có nguy cơ bị thấy là đạo đức giả: từ lâu đã cổ vũ cho mục tiêu tự do hàng hải trong khu vực, họ lại cố ý hạn chế nó [ở các đảo nhân tạo], dù có những quan tâm lớn hơn về tự do hàng hải.
Cuối cùng, luôn có nguy cơ rằng, với nguồn lực hải quân dàn trải mỏng ra trên khắp thế giới và chính phủ các nước trong khu vực không muốn cấp quyền ra vào các cảng và căn cứ hậu cần vì các lý do chính trị, Hoa Kỳ có thể sẽ thấy khó để thực thi chính sách trước lực lượng Hải quân trọn vẹn của quân đội TQ (PLAN). Một khi đã tuyên bố thì bất cứ việc để đi qua lọt phong tỏa nào sẽ là thảm họa đối với danh tiếng của một siêu cường. Tư lệnh Lực lượng Hải quân Mỹ mới đây cho rằng PLAN “không thể tìm cách chui ra khỏi một túi giấy ướt”. Tuy nhiên, các nhà phân tích khác, như Lyle Goldstein của Viện Nghiên cứu Hàng hải TQ, đã cảnh báo về khả năng gia tăng tên lửa chống tàu bè của TQ trong thời gian nào đó. Nếu cả hai phía của một cuộc đối đầu tiềm năng đều tin rằng họ có thể thắng thì khả năng xung đột gia tăng một cách nguy hiểm.
Cho đến nay các phản ứng chính thức của TQ với ý kiến của Tillerson là nhẹ một cách đáng lưu ý. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra một điểm đồng ý “với ông Tillerson tại điểm mà ông nhận ra những bất đồng, nhưng lợi ích và nhất trí cũng hoà quyện với nhau”. Hiện giờ Bắc Kinh dường như giữ vị thế “chờ xem” đối với chính phủ Trump. Họ để cho tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) cảnh báo: “Nếu Washington có kế hoạch tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biển Đông, bất kỳ hình thức nào nhằm ngăn chặn TQ tiếp cận đối với các đảo, sẽ là ngu ngốc.”
Năm 2008, các quan chức TQ đã đe dọa ExxonMobil sẽ chịu những hậu quả đau đớn nếu theo đuổi các dự án của họ với Việt Nam. (Tôi có nêu chuyện này trong chương 5, cuốn sách của tôi năm 2014). Nhưng công ty này đã mạnh tay, nhất là việc xuất khẩu khí đốt từ khu vực Sakhalin của Nga mà TQ đã rất muốn truy cập. Tillerson đã giữ vững thần kinh, buộc TQ phải ngữa bài, và đã thắng. Liệu ông sẽ làm điều đó một lần nữa không?
Bill Hayton - Foreign Policy
Dịch giả: Song Phan
(Ba Sàm)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Hoa Kỳ có sẵn sàng đi tới chiến tranh về biển Đông?
Ông chủ Exxon đã cho thấy trước rằng ông có thể đẩy Bắc Kinh tới giới hạn –nhưng với tư cách Ngoại trưởng, phần may rủi sẽ cao hơn nhiều.
Ông chủ Exxon đã cho thấy trước rằng ông có thể đẩy Bắc Kinh tới giới hạn –nhưng với tư cách Ngoại trưởng, phần may rủi sẽ cao hơn nhiều.
Rex Tillerson, cựu giám đốc Exxon, đã không có được chỗ nào mà ông đối
xử tốt với Trung Quốc (TQ). Khi Bắc Kinh đã cố ép buộc công ty của ông
phải từ bỏ một dự án tìm kiếm thăm dò ở vùng biển ngoài khơi Việt Nam
vào năm 2008, ExxonMobil đã giơ ngón tay [giữa] chế nhạo họ. BP,
Chevron, ConocoPhillips, và một số công ty khác chịu thua trước áp lực
của TQ. ExxonMobil vẫn còn ở đó, khoan theo giấy phép của Việt Nam trên
vùng biển mà TQ cũng tuyên bố chủ quyền.
Liệu Tillerson sẽ làm như vậy, đại diện cho Hoa Kỳ? Hôm thứ Tư, Bộ trưởng Ngoại giao – chỉ định – dường như đã sẵn sàng giơ ngón tay lần nữa với TQ. Ông kêu gọi chính phủ Trump sắp đến không cho TQ tiếp cận 7 căn cứ đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở phần phía nam của biển Đông.
Trả lời câu hỏi về việc liệu ông sẽ ủng hộ một tư thế quyết liệt hơn ở biển Đông, ông đã nói trong buổi điều trần chuẩn nhận của Thượng viện, “Chúng ta sẽ phải gửi cho TQ một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, việc xây dựng đảo phải ngừng lại và, thứ hai, việc tiếp cận tới các đảo này cũng sẽ không được cho phép”. Cộng đồng quan sát chính sách châu Á trố mắt kinh ngạc.
Các tác động rất rõ ràng. Cách duy nhất mà Hoa Kỳ có thể chặn việc TQ tiếp cận các căn cứ đảo hiện có của họ là triển khai tàu chiến và đe dọa sử dụng vũ lực. Liệu Tillerson thực sự sẵn sằng chấp nhận nguy cơ xung đột thẳng thừng giữa hai siêu cường về số phận của 7 rạn đá này không?
Hầu hết các nhà quan sát đang cho rằng ông lỡ lời. Việc trao đổi xảy ra sau phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại khoảng 5 giờ . Một phút trước đó, Tillerson đã nói $5 nghìn tỷ hàng hoá đi qua biển Đông mỗi ngày – ông muốn nói là $5 nghìn tỷ một năm. Tất cả chúng ta đều mắc lỗi lầm. Nhưng nếu điều ông đã nói quả là điều ông muốn nói?
Từ các hình ảnh vệ tinh do Asia Maritime Transparency Initiative của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế công bố, chúng ta biết rằng TQ đã ngưng xây dựng đảo tại quần đảo Trường Sa – tranh chấp toàn bộ hoặc một phần giữa TQ (cả hai nước Trung Hoa), Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei. Các căn cứ vẫn đang được hoàn tất, nhưng việc đấp đất hình thành mặt đảo đã xong. Tuy nhiên, vẫn có một nghi ngờ mạnh mẽ rằng ý định cuối cùng của TQ là xây dựng một căn cứ khổng lồ trên bãi cạn Scarborough, phía đông bắc của quần đảo Trường Sa. Rạn san hô này dưới sự kiểm soát vững chắc của Philippines cho đến khi Hoa Kỳ đóng cửa căn cứ của mình ở nước này vào những năm đầu thập niên 1990. Kể từ tháng 4 năm 2012, tàu của TQ đã phụ trách. Thượng nghị sĩ John McCain tin rằng TQ “có ý định chiếm đoạt và bồi đắp bãi cạn Scarborough như vị trí quân sự thứ ba trong tam giác ảnh hưởng ở biển Đông”. Kết hợp với các căn cứ của TQ hiện có trong quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một tam giác như vậy sẽ làm cho việc TQ kiểm soát con đường thủy chiến lược này dễ hơn đáng kể.
Các báo cáo và tin đồn từ Washington cho rằng vào đầu năm 2016, Hoa Kỳ đã nói rõ cho TQ rằng họ đã sẵn sàng để ngăn chặn bằng vũ lực, bất kỳ nỗ lực xây dựng đảo nào trên bãi cạn này. Hoa Kỳ đã triển khai tàu và máy bay đến biển Đông và các căn cứ ở Philippines để hậu thuẫn cho lời dọa đó. Như vậy, Tillerson có thể chỉ đơn giản nói rằng ông muốn chiến lược này sẽ tiếp tục – ngăn bất kỳ việc xây dựng đảo nào ở bãi cạn Scarborough qua việc không cho các tàu xây dựng tiếp cận nó.
Nhưng có lẽ ông quả muốn nói là Hoa Kỳ nên không cho tiếp cận 7 đảo nhân tạo hiện có. James Kraska, giáo sư về luật quốc tế tại trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ, đã điều trần trước Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện rằng, làm như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Trong phát biểu, ông nói Hoa Kỳ “có thể và cần thách thức quyền của TQ truy cập vào các đảo nhân tạo của họ như là một biện pháp đối phó hợp pháp trong luật pháp quốc tế, để buộc TQ tuân thủ các nghĩa vụ của họ trong Công ước Luật biển và luật tập tục quốc tế”. Kraska nói, đây là cơ sở của chính sách về các đại dương năm 1983 của Tổng thống Ronald Reagan.
Nói cách khác, Washington có thể làm cho việc tiếp cận của TQ đối với các căn cứ đó tùy thuộc vào điều kiện Bắc Kinh đồng ý tuân thủ các phán quyết được Tòa Trọng tài quốc tế đưa ra hồi tháng 6 năm 2016. Thật ra, TQ sẽ phải chấp nhận rằng, họ không có quyền điều tiết việc đi lại hoặc kiểm soát các tài nguyên khoáng sản ngoài khu vực cho phép theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Chẳng hạn, TQ sẽ phải đồng ý để cho Philippines khoan khí đốt ở bãi Cỏ Rong (Reed Bank), cách căn cứ khổng lồ của TQ ở đá Vành Khăn (Mischief Reef) khoảng 60 hải lý; kiềm chế đội tàu đánh cá TQ gây ra các xung đột gần quần đảo Natuna của Indonesia; và, trên hết, từ bỏ mọi nỗ lực ngăn chặn tàu hải quân Mỹ đi ngang qua, tập luyện, hoặc thu thập thông tin tình báo ở biển Đông.
Chiến lược phong tỏa này sẽ ăn khớp với những gợi ý khác mà chúng tôi đã nghe từ phe Trump về chiến lược đối với TQ trong tương lai. Hồi tháng 11, hai cố vấn của Trump, Alexander Gray và Peter Navarro, vạch ra một chiến lược “hòa bình thông qua sức mạnh” trên tạp chí Foreign Policy. James Woolsey, người lúc đó mô tả mình như một cố vấn cao cấp cho Donald Trump, đề nghị một “cuộc mặc cả lớn, trong đó Mỹ chấp nhận cấu trúc chính trị và xã hội của TQ và cam kết không phá vỡ nó theo bất kỳ cách nào để đổi lấy cam kết của TQ không thách thức nguyên trạng (status quo) ở châu Á”. Về mặt logic, tôn trọng nguyên trạng có lẽ sẽ đòi hỏi một cam kết không chiếm thêm rạn đá mới nào hoặc triển khai lực lượng quân sự mới đến các căn cứ hiện có.
Trong một thời gian nào đó, những đảng viên Cộng hòa cao cấp như McCain và Dan Sullivan đã thúc giục Hoa Kỳ phải giành thế chủ động ở biển Đông hơn là chỉ đơn thuần phản ứng lại các hành động của TQ. Cũng có thể là Tillerson được báo về sự xuất hiện của một chiến lược như vậy. Thay vì chờ đợi một sự khiêu khích, chúng ta có thể thấy một nỗ lực để đẩy lùi các bước dấn tới gần đây của TQ và áp lực Bắc Kinh phải chấp nhận rằng những quy tắc UNCLOS áp dụng cho mọi nơi ở biển Đông.
TQ và hầu hết các nước khác sẽ không nhìn điều này theo cách đó (trừ khi Washington giải thích những gì đang xảy ra một cách cực kỳ cẩn thận). Có rất nhiều rủi ro để xem xét. TQ có thể buộc Washington phải ngữa bài và kích động một cuộc đối đầu. Tàu có thể bị chìm, nhiều mạng sống bị mất, và cuộc khủng hoảng sẽ lan sang thương mại và mọi lĩnh vực khác của chính sách quốc tế. Một nhà theo dõi chặt chẽ các diễn biến ở biển Đông, giáo sư Julian Ku của Trường Luật Đại học Hofstra, lưu ý rằng dù điều đó có thể là hợp pháp, chiến lược này “sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh”.
Một rủi ro khác là Hoa Kỳ có thể bị mất sự ủng hộ của các đồng minh, đối tác và bạn bè ở Đông Nam Á và bên ngoài. Không ai muốn xung đột – họ cần Hoa Kỳ và TQ thân thiện với nhau để họ có thể phát triển trong hòa bình. Mặc dù hầu hết đều tìm kiếm một sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ để đối phó với những bước tiến của TQ, họ không muốn bị buộc phải chọn phe. Hoa Kỳ sẽ có nguy cơ bị thấy là đạo đức giả: từ lâu đã cổ vũ cho mục tiêu tự do hàng hải trong khu vực, họ lại cố ý hạn chế nó [ở các đảo nhân tạo], dù có những quan tâm lớn hơn về tự do hàng hải.
Cuối cùng, luôn có nguy cơ rằng, với nguồn lực hải quân dàn trải mỏng ra trên khắp thế giới và chính phủ các nước trong khu vực không muốn cấp quyền ra vào các cảng và căn cứ hậu cần vì các lý do chính trị, Hoa Kỳ có thể sẽ thấy khó để thực thi chính sách trước lực lượng Hải quân trọn vẹn của quân đội TQ (PLAN). Một khi đã tuyên bố thì bất cứ việc để đi qua lọt phong tỏa nào sẽ là thảm họa đối với danh tiếng của một siêu cường. Tư lệnh Lực lượng Hải quân Mỹ mới đây cho rằng PLAN “không thể tìm cách chui ra khỏi một túi giấy ướt”. Tuy nhiên, các nhà phân tích khác, như Lyle Goldstein của Viện Nghiên cứu Hàng hải TQ, đã cảnh báo về khả năng gia tăng tên lửa chống tàu bè của TQ trong thời gian nào đó. Nếu cả hai phía của một cuộc đối đầu tiềm năng đều tin rằng họ có thể thắng thì khả năng xung đột gia tăng một cách nguy hiểm.
Cho đến nay các phản ứng chính thức của TQ với ý kiến của Tillerson là nhẹ một cách đáng lưu ý. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra một điểm đồng ý “với ông Tillerson tại điểm mà ông nhận ra những bất đồng, nhưng lợi ích và nhất trí cũng hoà quyện với nhau”. Hiện giờ Bắc Kinh dường như giữ vị thế “chờ xem” đối với chính phủ Trump. Họ để cho tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) cảnh báo: “Nếu Washington có kế hoạch tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biển Đông, bất kỳ hình thức nào nhằm ngăn chặn TQ tiếp cận đối với các đảo, sẽ là ngu ngốc.”
Năm 2008, các quan chức TQ đã đe dọa ExxonMobil sẽ chịu những hậu quả đau đớn nếu theo đuổi các dự án của họ với Việt Nam. (Tôi có nêu chuyện này trong chương 5, cuốn sách của tôi năm 2014). Nhưng công ty này đã mạnh tay, nhất là việc xuất khẩu khí đốt từ khu vực Sakhalin của Nga mà TQ đã rất muốn truy cập. Tillerson đã giữ vững thần kinh, buộc TQ phải ngữa bài, và đã thắng. Liệu ông sẽ làm điều đó một lần nữa không?
Cựu lãnh đạo ExxonMobil, Rex Tillerson ra điều trần trước Thượng viện Mỹ hôm 11-1-2017 cho chức Ngoại trưởng Mỹ. Ảnh: SAUL LOEB/AFP/Getty Images. |
Liệu Tillerson sẽ làm như vậy, đại diện cho Hoa Kỳ? Hôm thứ Tư, Bộ trưởng Ngoại giao – chỉ định – dường như đã sẵn sàng giơ ngón tay lần nữa với TQ. Ông kêu gọi chính phủ Trump sắp đến không cho TQ tiếp cận 7 căn cứ đảo nhân tạo mà họ xây dựng ở phần phía nam của biển Đông.
Trả lời câu hỏi về việc liệu ông sẽ ủng hộ một tư thế quyết liệt hơn ở biển Đông, ông đã nói trong buổi điều trần chuẩn nhận của Thượng viện, “Chúng ta sẽ phải gửi cho TQ một tín hiệu rõ ràng rằng, thứ nhất, việc xây dựng đảo phải ngừng lại và, thứ hai, việc tiếp cận tới các đảo này cũng sẽ không được cho phép”. Cộng đồng quan sát chính sách châu Á trố mắt kinh ngạc.
Các tác động rất rõ ràng. Cách duy nhất mà Hoa Kỳ có thể chặn việc TQ tiếp cận các căn cứ đảo hiện có của họ là triển khai tàu chiến và đe dọa sử dụng vũ lực. Liệu Tillerson thực sự sẵn sằng chấp nhận nguy cơ xung đột thẳng thừng giữa hai siêu cường về số phận của 7 rạn đá này không?
Hầu hết các nhà quan sát đang cho rằng ông lỡ lời. Việc trao đổi xảy ra sau phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại khoảng 5 giờ . Một phút trước đó, Tillerson đã nói $5 nghìn tỷ hàng hoá đi qua biển Đông mỗi ngày – ông muốn nói là $5 nghìn tỷ một năm. Tất cả chúng ta đều mắc lỗi lầm. Nhưng nếu điều ông đã nói quả là điều ông muốn nói?
Từ các hình ảnh vệ tinh do Asia Maritime Transparency Initiative của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế công bố, chúng ta biết rằng TQ đã ngưng xây dựng đảo tại quần đảo Trường Sa – tranh chấp toàn bộ hoặc một phần giữa TQ (cả hai nước Trung Hoa), Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Brunei. Các căn cứ vẫn đang được hoàn tất, nhưng việc đấp đất hình thành mặt đảo đã xong. Tuy nhiên, vẫn có một nghi ngờ mạnh mẽ rằng ý định cuối cùng của TQ là xây dựng một căn cứ khổng lồ trên bãi cạn Scarborough, phía đông bắc của quần đảo Trường Sa. Rạn san hô này dưới sự kiểm soát vững chắc của Philippines cho đến khi Hoa Kỳ đóng cửa căn cứ của mình ở nước này vào những năm đầu thập niên 1990. Kể từ tháng 4 năm 2012, tàu của TQ đã phụ trách. Thượng nghị sĩ John McCain tin rằng TQ “có ý định chiếm đoạt và bồi đắp bãi cạn Scarborough như vị trí quân sự thứ ba trong tam giác ảnh hưởng ở biển Đông”. Kết hợp với các căn cứ của TQ hiện có trong quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, một tam giác như vậy sẽ làm cho việc TQ kiểm soát con đường thủy chiến lược này dễ hơn đáng kể.
Các báo cáo và tin đồn từ Washington cho rằng vào đầu năm 2016, Hoa Kỳ đã nói rõ cho TQ rằng họ đã sẵn sàng để ngăn chặn bằng vũ lực, bất kỳ nỗ lực xây dựng đảo nào trên bãi cạn này. Hoa Kỳ đã triển khai tàu và máy bay đến biển Đông và các căn cứ ở Philippines để hậu thuẫn cho lời dọa đó. Như vậy, Tillerson có thể chỉ đơn giản nói rằng ông muốn chiến lược này sẽ tiếp tục – ngăn bất kỳ việc xây dựng đảo nào ở bãi cạn Scarborough qua việc không cho các tàu xây dựng tiếp cận nó.
Nhưng có lẽ ông quả muốn nói là Hoa Kỳ nên không cho tiếp cận 7 đảo nhân tạo hiện có. James Kraska, giáo sư về luật quốc tế tại trường Cao đẳng Hải chiến Mỹ, đã điều trần trước Ủy Ban Quân Sự Hạ Viện rằng, làm như vậy là hoàn toàn hợp pháp. Trong phát biểu, ông nói Hoa Kỳ “có thể và cần thách thức quyền của TQ truy cập vào các đảo nhân tạo của họ như là một biện pháp đối phó hợp pháp trong luật pháp quốc tế, để buộc TQ tuân thủ các nghĩa vụ của họ trong Công ước Luật biển và luật tập tục quốc tế”. Kraska nói, đây là cơ sở của chính sách về các đại dương năm 1983 của Tổng thống Ronald Reagan.
Nói cách khác, Washington có thể làm cho việc tiếp cận của TQ đối với các căn cứ đó tùy thuộc vào điều kiện Bắc Kinh đồng ý tuân thủ các phán quyết được Tòa Trọng tài quốc tế đưa ra hồi tháng 6 năm 2016. Thật ra, TQ sẽ phải chấp nhận rằng, họ không có quyền điều tiết việc đi lại hoặc kiểm soát các tài nguyên khoáng sản ngoài khu vực cho phép theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển (UNCLOS). Chẳng hạn, TQ sẽ phải đồng ý để cho Philippines khoan khí đốt ở bãi Cỏ Rong (Reed Bank), cách căn cứ khổng lồ của TQ ở đá Vành Khăn (Mischief Reef) khoảng 60 hải lý; kiềm chế đội tàu đánh cá TQ gây ra các xung đột gần quần đảo Natuna của Indonesia; và, trên hết, từ bỏ mọi nỗ lực ngăn chặn tàu hải quân Mỹ đi ngang qua, tập luyện, hoặc thu thập thông tin tình báo ở biển Đông.
Chiến lược phong tỏa này sẽ ăn khớp với những gợi ý khác mà chúng tôi đã nghe từ phe Trump về chiến lược đối với TQ trong tương lai. Hồi tháng 11, hai cố vấn của Trump, Alexander Gray và Peter Navarro, vạch ra một chiến lược “hòa bình thông qua sức mạnh” trên tạp chí Foreign Policy. James Woolsey, người lúc đó mô tả mình như một cố vấn cao cấp cho Donald Trump, đề nghị một “cuộc mặc cả lớn, trong đó Mỹ chấp nhận cấu trúc chính trị và xã hội của TQ và cam kết không phá vỡ nó theo bất kỳ cách nào để đổi lấy cam kết của TQ không thách thức nguyên trạng (status quo) ở châu Á”. Về mặt logic, tôn trọng nguyên trạng có lẽ sẽ đòi hỏi một cam kết không chiếm thêm rạn đá mới nào hoặc triển khai lực lượng quân sự mới đến các căn cứ hiện có.
Trong một thời gian nào đó, những đảng viên Cộng hòa cao cấp như McCain và Dan Sullivan đã thúc giục Hoa Kỳ phải giành thế chủ động ở biển Đông hơn là chỉ đơn thuần phản ứng lại các hành động của TQ. Cũng có thể là Tillerson được báo về sự xuất hiện của một chiến lược như vậy. Thay vì chờ đợi một sự khiêu khích, chúng ta có thể thấy một nỗ lực để đẩy lùi các bước dấn tới gần đây của TQ và áp lực Bắc Kinh phải chấp nhận rằng những quy tắc UNCLOS áp dụng cho mọi nơi ở biển Đông.
TQ và hầu hết các nước khác sẽ không nhìn điều này theo cách đó (trừ khi Washington giải thích những gì đang xảy ra một cách cực kỳ cẩn thận). Có rất nhiều rủi ro để xem xét. TQ có thể buộc Washington phải ngữa bài và kích động một cuộc đối đầu. Tàu có thể bị chìm, nhiều mạng sống bị mất, và cuộc khủng hoảng sẽ lan sang thương mại và mọi lĩnh vực khác của chính sách quốc tế. Một nhà theo dõi chặt chẽ các diễn biến ở biển Đông, giáo sư Julian Ku của Trường Luật Đại học Hofstra, lưu ý rằng dù điều đó có thể là hợp pháp, chiến lược này “sẽ bắt đầu một cuộc chiến tranh”.
Một rủi ro khác là Hoa Kỳ có thể bị mất sự ủng hộ của các đồng minh, đối tác và bạn bè ở Đông Nam Á và bên ngoài. Không ai muốn xung đột – họ cần Hoa Kỳ và TQ thân thiện với nhau để họ có thể phát triển trong hòa bình. Mặc dù hầu hết đều tìm kiếm một sự hiện diện mạnh mẽ của Hoa Kỳ để đối phó với những bước tiến của TQ, họ không muốn bị buộc phải chọn phe. Hoa Kỳ sẽ có nguy cơ bị thấy là đạo đức giả: từ lâu đã cổ vũ cho mục tiêu tự do hàng hải trong khu vực, họ lại cố ý hạn chế nó [ở các đảo nhân tạo], dù có những quan tâm lớn hơn về tự do hàng hải.
Cuối cùng, luôn có nguy cơ rằng, với nguồn lực hải quân dàn trải mỏng ra trên khắp thế giới và chính phủ các nước trong khu vực không muốn cấp quyền ra vào các cảng và căn cứ hậu cần vì các lý do chính trị, Hoa Kỳ có thể sẽ thấy khó để thực thi chính sách trước lực lượng Hải quân trọn vẹn của quân đội TQ (PLAN). Một khi đã tuyên bố thì bất cứ việc để đi qua lọt phong tỏa nào sẽ là thảm họa đối với danh tiếng của một siêu cường. Tư lệnh Lực lượng Hải quân Mỹ mới đây cho rằng PLAN “không thể tìm cách chui ra khỏi một túi giấy ướt”. Tuy nhiên, các nhà phân tích khác, như Lyle Goldstein của Viện Nghiên cứu Hàng hải TQ, đã cảnh báo về khả năng gia tăng tên lửa chống tàu bè của TQ trong thời gian nào đó. Nếu cả hai phía của một cuộc đối đầu tiềm năng đều tin rằng họ có thể thắng thì khả năng xung đột gia tăng một cách nguy hiểm.
Cho đến nay các phản ứng chính thức của TQ với ý kiến của Tillerson là nhẹ một cách đáng lưu ý. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao đưa ra một điểm đồng ý “với ông Tillerson tại điểm mà ông nhận ra những bất đồng, nhưng lợi ích và nhất trí cũng hoà quyện với nhau”. Hiện giờ Bắc Kinh dường như giữ vị thế “chờ xem” đối với chính phủ Trump. Họ để cho tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) cảnh báo: “Nếu Washington có kế hoạch tiến hành một cuộc chiến tranh quy mô lớn ở biển Đông, bất kỳ hình thức nào nhằm ngăn chặn TQ tiếp cận đối với các đảo, sẽ là ngu ngốc.”
Năm 2008, các quan chức TQ đã đe dọa ExxonMobil sẽ chịu những hậu quả đau đớn nếu theo đuổi các dự án của họ với Việt Nam. (Tôi có nêu chuyện này trong chương 5, cuốn sách của tôi năm 2014). Nhưng công ty này đã mạnh tay, nhất là việc xuất khẩu khí đốt từ khu vực Sakhalin của Nga mà TQ đã rất muốn truy cập. Tillerson đã giữ vững thần kinh, buộc TQ phải ngữa bài, và đã thắng. Liệu ông sẽ làm điều đó một lần nữa không?
Bill Hayton - Foreign Policy
Dịch giả: Song Phan
(Ba Sàm)