Văn Học & Nghệ Thuật
Hỡi Anh Đi Đường Cái Quan
Tác giả: Thái Công Tụng
Con đường cái quan, chạy dài từ Bắc vô Nam, xuyên qua các đồng bằng duyên hải miền Trung, xuyên đèo, qua suối, với câu hát trữ tình và trêu ghẹo:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than đôi lời
Đi đâu vội lắm ai ơi
Công việc đã có chị tôi ở nhà
Miền Trung gồm những đồng bằng từ Thanh Hoá vào đến Bình Thuận, có nhiều dòng sông chảy qua. Các dòng sông miền Trung cũng rất đa dạng:
. khi ngắn vì phát xuất từ sườn Đông dãy Trường Sơn vốn không xa bờ biển
. khi dài vì phát nguyên từ đất Ai Lao ( hay có chảy qua đất Lào) và vì chảy qua các vùng có chế độ mưa
Cũng cùng một dòng sông nhưng có thể có nhiều tên khác
Nhiều dòng sông có tính cách lịch sử như sông Danh, sông Bến Hải vì chứng kiến sự phân chia đất nước. Có dòng sông chảy qua vùng có đá vôi ở thượng nguồn như sông Danh, sông Nhật Lệ, có sông chảy qua lưu vực đá phún xuất như sông Ba v.v .
Sông ngòi có khi hiền hoà trôi, đem phù sa về đồng bằng, tạo nên xóm làng trù phú yên vui nhưng có lúc giận dữ với nước lụt trôi về với dòng chảy mạnh cuốn trôi ra biển người và tài sản.
1. Những dòng sông chính tại các đồng bằng duyên hải miền Trung dọc con đường cái quan
1. Đồng bằng Thanh Hoá
Nhiều dòng sông chính ở đồng bằng này có duyên nợ với đất Lào vì sông Mã bắt nguồn từ tỉnh Lai Châu, xuôi về tỉnh Sơn La nhưng sau đó chảy sang Sầm Nưa đất Lào trên một đoạn đường dài hơn 50 km, trở lại vào đất Thanh Hoá, hội lưu với sông Chu rồi ra biển ở cửa Lạch Trào.
Sông Mã dài 512km, và có một lưu vực rộng 28 400km2. Một phần của trung lưu nàm trên đất Lào .Phía thượng lưu sông Mã có nhiều thác lón nhỏ cũng như những vực là những vũng nước sâu trong lòng sông. Sông Mã chảy qua nhiều khu vực có nhiều chế độ mưa khác nhau nên sự phân phối dòng chảy trong năm cũng khá phức tạp : nhiều thác, nhiều vực, và còn có đặc điểm là thường đổi dòng, đổi lạch, nhất là các đoạn phía trên có bãi cát ngầm thường di chuyển vị trí do sự thay đổi của dòng chảỵ. Nhờ Sông Mã nên sự trao đổi hàng hoá giữa miền xuôi và miền ngược rất dễ dàng và phương tiện chính là đò . Dọc sông Mã có sông nhánh như sông Lèn ở bên trái, sông Lò và sông Lường ở bên phải
Sông Chu, dài khoảng 300km, bắt nguồn từ đất Sầm Nưa trên Lào, chảy vào địa phận tỉnh Thanh Hoá ở huyện Thường Xuân và đổ vào sông Mã ở phía bắc thành phố.
Sông Mã cũng dễ lụt như sông Hồng nên cũng có hệ thống đê điều nhằm hạn chế lũ lụt
Đồng bằng này lại có đập Bái Thượng nên nước
2. đồng bằng Nghệ An
- sông Cả dài 600km, bắt nguồn từ cao nguyên XiêngKhouang trên Lào, chảy theo hướng TB – ĐN qua nhiều huyện của Nghệ An rồi đổ ra biển ở Cửa Hội. Đoạn hạ lưu có tên sông Lam. Một trong các chi lưu của sông Lam là sông Nghèn chảy theo hướng TB- ĐN trong các huyện Đức Thọ, Can Lộc và Thạch Hà và đổ ra Biển Đông ở Cửa Sót chỉ cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 10km phía Bắc. Diện tích lưu vực khoảng 27 200 km2, một phần lưu vực nằm trên đất Lào, chiếm khoảng 35% diện tích.
Sau khi sông Cả chạy qua Con Cuông, thì tiếp nhận nước từ bờ trái là sông Hiếu. Sông này bắt nguồn từ dãy núi Phu Hoat. Đập Đô Lương trên Sông Cả tưới được nhiều ruộng ở các vùng Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu .
Từ Đô Lương trở đi, sông Cả đi vào đồng bằng, lòng sông nhiều uốn khúc.
Cách cửa sông 30 km, gần Bến Thủy, sông Cả lại nhận thêm nước từ hai sông là Ngàn Sâu và Ngàn Phố.
Lưu vực sông Cả có diện tích 27 224 km2, trong đó 9 470 km2 thuộc vùng núi Ai Lao (Xieng Khoang và Sầm Nứa)
-Sông Cấm là con sông nhỏ chảy theo hướng N- B, qua chân núi Cấm ỏ huyện Nghi Lộc rồi ra biển ở Cửa Lò.
Đồng bằng Nghệ An gồm các phù sa cận đại lẫn các giải cát duyên hải như ở Diễn Châu, ở Cửa Lò và Nghi Lộc gần Vinh.. Đặc biệt tại Quỳnh Lưu có nhiều gia đình nuôi hươu lấy lộc nhung bán.
3. đồng bằng Hà Tĩnh
có giãy núi Trường Sơn chạy gần biển, đặc biệt có rặng núi Hồng Lĩnh (tên khác: Ngàn Hống) với 99 ngọn núi hình răng cưa sừng sững chọc trời, nhưng cũng có vài thung lủng rộng ở phiá trong như tại huyện Hương Khê giáp Lào. Câu ca dao:
Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Lam hết nước họ này hết quan
để nói về dòng họ gia đình khoa bảng cụ Nguyễn Du.
Có hai dòng sông quan trọng :
- Ngàn Sâu chảy qua thung lũng Hương Khê, chảy theo hướng N- B
-Ngàn Phố là sông bắt nguồn từ vùng biên giới Việt Lào thuộc huyện Hương Sơn. Trên thượng nguồn sông này có đập chắn ngang tạo ra hồ nhân tạo, hồ Kẻ Gỗ.
Hai sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố gặp nhau ở Linh Cảm rồi chảy vào Sông Lam để ra biển ở Cửa Hội. Tại đồng bằng này, các suối ở phía thượng nguồn có phương ngữ là ‘rào’ như ca dao sau đây :
Đến đây lạ bến lạ rào,
Hõi con chim hồng nhạn, ở phương nào tới đây
Kèo mai, nhớ núi chim bay
Ai nhớ chim muốn hỏi, biết thư bày ra sao ?
4. đồng bằng Quảng Bình
-Sông Gianh, có tên khác là Rào Nậy, Linh Giang dài 155 km, bắt nguồn từ rặng núi đá vôi Giăng Màn (có hình thù kéo dài liên tục nên có tên Giăng Màn) ở biên giới Việt Lào, chảy theo hướng TB – ĐN qua các huyện Tuyên Hoá, Quảng Trạch rồi đổ ra biển ở cửa cùng tên.
-Sông Nhật Lệ, còn có tên khác là Đại Giang chảy trong huyện Bố Trạch và Quảng Ninh rồi đổ ra cửa cùng tên ở cách Đồng Hới khoảng 3 km về phía ĐB.
Tiếng hát ngư ông giữa dòng Nhật Lệ
Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Khúc thượng nguồn của sông Nhật Lệ, trong huyện Bố Trạch có tên là sông Sa Lung. Có phụ lưu lớn bên phía phải (hữu ngạn) là sông Trạm ( Kiến Giang). Bền bờ sông Nhật Lệ có di tích lũy Thầy, do Đào Duy Từ xây dựng năm 1631.
Trong đồng bằng, có một phá lớn gọi là phá Hạc Hải, nhiều thủy sản, nằm cách Đồng Hới khoảng 27km về phía Nam.
5. đồng bằng Quảng Trị
-Sông Bến Hải chỉ dài khoảng 60 km, chảy ra Biển Đông ở Cửa Tùng, có cầu Hiền Lương là nơi phân chia hai miền Nam Bắc, nằm ở vĩ tuyến 17, theo hiệp định Geneve 1954
-Sông Thạch Hãn bắt đầu từ sườn Đông dãy Truờng Sơn chảy về biển qua các địa danh Cà Lu, Ba Lòng, thành phố Quảng Trị rồi hợp với sông Cam Lộ. Sông này chảy qua vùng đất huyện Cam Lộ, chảy qua thị xã Đông Hà , đổ vào sông Thạch Hãn, rồi đổ ra Cửa Việt.
Cách thị xã Quảng Trị 4km phía Bắc có địa danh Ái Tử được nhắc nhở qua ca dao :
Mẹ thương con, qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa Hạ, biết mấy Thu cho gặp chàng
6. đồng bằng Thừa Thiên
Từ ngoài vào, phải kể:
-Sông Ô Lâu ở địa phận huyện Quảng Điền .
-Sông Bồ là phụ lưu bên trái của sông Hương, bắt nguồn từ vùng núi A Lưới, chảy theo hướng TB – ĐN rồi đổ vào sông Hương ở huyện Phú Vang.
-Sông Hương bắt đầu từ vùng núi huyện Nam Đông, chảy qua huyện Hương Thủy và thành phố Huế, rồi đổ ra phía N phá Tam Giang. Do hai nhánh Tả trạch và Hữu trạch hợp lại ở Ngã Ba Tuần trước khi vào đồng bằng .
Cả ba con sông trên đều chảy vào phá Tam Giang là một phá rất dài vì chiều dài là 30 km và rộng từ 1 đến 6 km. Ở phía Nam, phá ăn thông với các đầm: Thanh Lam, Hà Trung, Thủy Tú, Cầu Hai và trước trận lụt lịch sử 1999, có hai cửa ăn thông ra Biển Đông là Thuận An và Tư Hiền.
- Hai con sông Nong và Truồi phát xuất từ núi Truồi và đổ vào đầm Cầu Hai.
Đầm Cầu Hai, toả rộng dưới chân núi Bạch Mã (1444m) ngắn và rộng, thông thương với đầm (‘phá’) Tam Giang và đổ ra biển ở cửa Tư Hiền. Nhìn vào bản đồ, phá Tam Giang tương tự như một dòng sông, còn đầm Cầu Hai giống như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu Hai, Tam Giang này, qua các trận lũ lụt cuối năm 1999, đã có thêm nhiều cửa biển nữa. Riêng phá Tam Giang-Cầu Hai này đã chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên và 30% dân số Thừa Thiên sống quanh vùng phá-đầm này. Phá Tam Giang đã trở thành bất hủ với câu ca dao:
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
7. đồng bằng Quảng Nam
.-Sông Hàn (tên khác : sông Cẩm Lệ, sông Hà Thân ..tùy theo từng khúc khi chảy qua các địa phương khác nhau) chảy qua thành phố Đà Nẳng rồi đổ ra Vủng Hàn.
-Đứng bên đất Hàn,
Ngó qua Hà Thanh, xanh như tàu lá
Đứng bên Hà Thanh
Ngó qua bên Hàn, phố xá nghênh ngang
-Em đứng nơi cửa sông Hàn
Ngó sang bãi biển Tiên Sa
Ngũ Hành Sơn ở trên
Mủi Sơn Trà ngoài khơi
Nghe chuông chùa Non Nưóc
Em nhớ mấy lời thề ước
Anh làm sao cho duyên nợ đuợc vuông tròn
Kèo lòng người xứ Quảng mỏi mòn đợi trông
.-Sông Thu Bồn dài 205 km và lưu vực rộng 10 496 km2. Sông Thu Bồn còn có một phụ lưu khác, gọi là sông Cái (tên khác: sông Chợ Củi), cũng bắt nguồn vùng biên giới Việt-Lào, nối với sông Thu Bồn ở huyện Đại Lộc. Sông Cái lại có một phụ lưu bên phải ở khúc thượng nguồn tên là Sông Bung, chảy theo hướng TN- ĐB trong huyện Giằng
Sông Thu nước chảy đôi dòng,
Đèn khêu hai ngọn anh trông ngọn nào ?
Muốn tắm mát lên ngọn sông đào,
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Một phụ lưu lớn phía phải sông Thu Bồn có tên là sông Tranh, bắt nguồn từ miền núi huyện Trà Mi, chảy từ Nam lên phía Bắc qua các huyện Hiệp Đức, vùng mỏ than An Hoà Nông Sơn.
Sông Thu Bồn chảy qua Hội An để đổ ra Cửa Đại (Đại Chiêm). Hội An trước kia nằm sát biển, nay đã lùi sâu vào trong đất liền. Nhờ một nông nghiệp phong phú ở đồng bằng Quảng Nam nên vào thế kỷ 17, qua cảng Hội An, các thương gia người Hoa, người Nhật đã mua và xuất cảng nhiều sản phẩm như tơ lụa, đường, quế, tiêu v.v.
Nối sông Tam Kỳ với sông Thu Bồn là một sông nhỏ ( ‘Trường giang’), chảy song song với bờ biển và đây là tàn tích của một phá nưóc mặn xưa kia càng ngày bị bồi lấp, nằm dọc bờ biển tỉnh Quảng Nam.
8. đồng bằng Quảng Ngãi
-Sông Trà Bồng chảy trong huyện cùng tên, qua thị trấn Châu Ổ, huyện lị huyện Bình Sơn rồi đổ ra cửa Sa Kì ở vũng Dung Quất:
Đi ngang lên mũi Sa Kỳ
Ngó ra lao Ré, xiết chi nỗi sầu
Lao Ré trong ca dao là Cù Lao Ré, còn gọi là đảo Lý Sơn ỏ ven bờ biển Quảng Ngãi
-Sông Trà Khúc ( còn có tên khác là sông Thạch Nham) dài 120 km, phát nguyên vùng núi phía TN tỉnh Quảng Ngãi và Cao Nguyên, chảy theo hướng TN – ĐB qua thị xã Quảng Ngãi và đổ ra biển ở cửa Cổ Lủy. Trên sông này có đập thủy nông Thạch Nham xây vào thời đệ nhất Cọng Hoà năm 1959
Ai về Thiên Ấn sông Trà
Có thương thì hãy ghé nhà thăm em
-Sông Vệ bắt nguồn ở phía TN huyện Ba Tơ, chảy theo hướng TN- ĐB qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa trong tỉnh Quảng Ngãi, rồi đổ ra cửa Cổ Lủy ở phía Đ thị xã Quảng Ngãi.
-sông Trà Cầu là một sông nhỏ, bắt nguồn từ vùng Ba Tơ, chảy qua huyện Đức Phổ rồi ra cửa biển cùng tên .
9. đồng bằng Bình Định có nhiều đồng bằng nhỏ (Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát) với tổng diện tích chừng 1 550 km2, nhưng chỉ có đồng bằng Qui Nhơn là rộng nhất vì chiếm đến 500km2;
Từ ngoài vào, phải kể :
- Sông An Lão bắt nguồn từ vùng núi huyện Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi
Nước Ba Tơ chảy vô Bình Định
Nhắn bạn chung tình tránh nịnh, chớ theo
và chảy từ Bắc xuống Nam qua các huyện An Lão, Hoài Ân tỉnh Bình Định và hợp với sông Lại (Lại Giang) ở gần thị trấn huyện lị huyện Hoài Nhơn trước khi đổ ra biển
Nước Lại Giang mênh mang mùa nắng
Dòng sông Côn lai láng mùa mưa
Đã cam tháng đợi năm chờ
Duyên em đục chịu, trông nhờ quản bao
-sông Trúc chỉ là một sông nhỏ chảy từ đầm Trà Ổ ra biển ở huyện Phù Mỹ.
-Sông Côn dài hơn sông trên, phát nguyên từ khối núi Ngọc Rô ở huyện Kon Plong tỉnh Kontum, đoạn thượng lưu là sông Dak Cron Bung, đoạn trung lưu, chảy vào huyện Tây Sơn có tên sông Hà Giao, đoạn hạ lưu chia ra nhiều chi lưu, đổ ra vịnh Quy Nhơn.
Vài ca dao có địa danh thuộc Bình Định như sau:
-Anh về Đập Đá , Gò Găng
Để em kéo vải sáng trăng một mình
-Tam Quan đất tốt trồng dừa
Nam thanh nữ tú cho vừa ý anh
10. đồng bằng Tuy Hoà do Sông Ba bồi đắp. Đây là một con sông lớn và dài gần 400km, bắt nguồn từ cao nguyên Kontum, chảy qua các tỉnh Pleiku và Phú Yên rồi ra biển ỏ Tuy Hoà . Đoạn hạ lưu, từ chỗ hợp lưu với sông Hinh ỏ Củng Sơn, chảy ra biển, gọi là sông Đà Rằng, có đập Đồng Cam . Lưu vực rất rộng ( 13800km2); với một lưu vực rộng lớn như thế cọng thêm hệ thống dẫn nước của đập Đồng Cam tưới các cánh đồng phù sa phì nhiêu, tạo một nền nông nghiệp phát đạt.:
Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hoà tốt trâu
Bên phải sông Ba có một nhánh gọi là sông Hinh hợp với sông Ba ở Củng Sơn, huyện lỵ của huyện Sơn Hoà. Trên sông có trạm thủy điện Sông Hinh, công suất 66 MW
Trong đồng bằng Phú Yên cũng có một đầm lớn rộng 1500ha, có sò huyết, tục gọi đầm Ô Loan.
11. đồng bằng Khánh Hoà hay Nha Trang chỉ gồm hai đồng bằng chính là đồng bằng Ninh Hoà (100km2) và đồng bằng Nha Trang (135 km2), ngoài ra toàn các đồng bằng nho nhỏ. Giữa mũi Đèo Cả đến mũi Dinh (Padaran), bờ biển có nhiều bãi rất đẹp như bãi biển Đại Lãnh phía bắc Ninh Hoà và nhiều hòn đảo nhỏ ngày nay đã dính liền vào bờ biển bởi những giải duyên hải từ Bắc đến Nam.
Sông Cái chảy qua thành phố Nha Trang :
-Anh muốn tìm nguồn nước trong
Nên đi ngược dòng sông Cái
Hay vì bị bùa ngải
Nên anh phải bỏ bãi, lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
(Thác Ngựa là một trong các thác nguy hiểm ở thượng nguồn sông Nha Trang)
-Thơm Vạn Giã thơm đà qúa ngọt
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hỡi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình
Quản bao lên thác xuống ghềnh
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương
-Phải chi Sông Cái có cầu
Thiếp qua, thiếp giải cơn sầu chàng nghe
Ai làm chén nọ xa ve
Mùa xuân thiếp đợi, mùa hè chàng trông
Biết là có đặng hay không
Đó chờ, đây đợi uổng công hai đàng
12. đồng bằng Ninh Thuận. Vùng này có tiếng nắng thừa mưa thiếu, khô hạn . Sông Phan Rang, còn gọi sông Cái có đập Nha Trinh , ngày nay nhờ nước xả của đập thủy điện Danhim trên Dalat, nên lượng nước sử dụng cho sự tưới ruộng được nhiều hơn. Phía Đông Bắc thị xã Phan Rang, có đầm Nại rộng 700 ha .
Tại đồng bằng Phan Rang, mùa nắng hiện tượng bốc hơi xảy ra rất mạnh, do sự mao dẫn, các mầu bọt trắng đục đùn lên mặt đất. Đó là đất cà giang, nhiều cacbonat natri, dân địa phương thiếu xabông dùng chất đó kỳ cọ khi tắm
13. đồng bằng Bình Thuận
Từ mũi Dinh đến Phan Thiết, giãy núi Trường Sơn ở xa bỡ biển hơn, do đó các đồng bằng rộng hơn nhưng lại khô hạn: vũ lượng hàng năm nhỏ hơn 600mm và số ngày mưa ít hơn 80. Nhờ khô hạn, sự bốc hơi nước mạnh nên có nhiều ruộng muối như ở Cà Ná.
Nếu kể bắt đầu từ ngoài vào, ta có sông Lòng Sông, chảy qua huyện Tuy Phong,rồi đến sông Lủy với sông Mao, một sông nhánh bên trái của sông Lủy, đổ ra cửa Phan Rí..
Sông Mường Mán chảy qua Phan Thiết
Quần đảo Phú Qúy ngoài khơi Bình Thuận
14. Lưu vực và ảnh hưởng rừng trên lưu vực
Lưu vực sông là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nưóc nuôi dưỡng. Các dòng sông miền Trung có lưu vực nhỏ, chỉ trừ sông Mã, sông Cả , sông Thu Bồn và sông Ba . Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán
Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối Rừng bảo vệ đất trên các triền lưu vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực có rừng che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng điều tiết to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn đến những kết qủa tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hạn tiếp diễn, xói mòn triền dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ
Để dễ bề so sánh, sông Hồng dài 1126 km và có lưu vực toàn thể là 168 700 km2 trong đó chiều dài chảy trong nước là 556 km và lưu vực trong nước là 86 500 km2; sông Mekong có lưu vực toàn thể rất rộng: 795 000km2, trong đó chỉ có 71 000km2 là nằm trong nước.
15. Công dụng của các dòng sông
Trong các tài nguyên thiên nhiên, sông ngòi là một tài nguyên vô giá vì đảm nhận nhiều chức năng, cung cấp cho con người những dịch vụ tối cần cho cuộc sống.
Sông ngòi giữ nhiều chức năng quan trọng như:
.cung cấp nước sinh hoạt
.nước dùng trong các kỹ nghệ: mía đường, xi măng, giấy
.đem từng lớp lớp phù sa về giúp cho nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi
.nuôi trồng thủy sản ở mọi môi trường: thủy sản nước ngọt, thủy sản nước lợ và nước mặn
. vận tải ghe thuyền chuyên chở phẩm vật từ miền xuôi lên miền ngược và đem sản phẩm miền núi xuống đồng bằng:
Ai về nhắn với họ nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
. hồ chứa nước tại các vùng cao vừa sản xuất điện năng, vừa công dụng tưới nước và điều hoà dòng chảy
16. Sông nước trong văn học dân gian
Sông ngòi luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của Lý Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh đều lấy sông làm nguồn cảm hứng. Riêng văn học dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hoá bằng ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều loại hò ra đời với nội dung rất phong phú, phản ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v. Cùng với mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm truờng. Văn học dân gian được phong phú thêm với những hò Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v.
Dòng sông ở Huế với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô hậy, đẩy nôốc là những thể hò dân gian trên sông nước. Tiếng hò của mối tình ngang trái:
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !
Câu hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Tình yêu chân thật, tình yêu không son phấn là những đề tài trong các câu hò dân gian:
Thiên sanh nhân, hà nhân vô lộc
Địa sanh thảo, hà thảo vô căn
Một mình em ngồi dựa lòng thuyền, dưới nưóc trên trăng
Biết cùng ai trao duyên gửi phận, cho được bằng thế gian
Hò khoan có cả hò trên vạn, hò dưới nước. Hò khoan cũng được gọi với nhiều tên như hò đối đáp, hò chào mừng. Nhiều loại hò có tính cách chơi chữ dân gian và lối chơi chữ của nhà nho rất thông dụng:
Cá có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết có không mà công khó anh ơi ..
Hoặc:
Gái Xuân em đi chợ Hạ
Mua con cá Thu về chợ hãy đang Đông
Ai nói với anh em đã có chồng
Tức mình em đổ cá xuống sông em về
Hoặc:
Người Kim mã cưõi con Ngựa vàng,
Đất Phù Long rồng nổi, thời chàng đói chi
Người con trai cũng đối lại:
Người Thanh Thủy gặp khách Nước Trong,
Hoành Sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa ?
Hò có nhiều loại tùy động tác như hò rời bến, hò đò xuôi, hò mắc cạn v.v.Nhạc điệu tùy lúc. Hò đò xuôi khi thuận buồm xuôi gió với nhạc điệu dài đều; hò mắc cạn thì khi dứt một câu hò thì trai đò phải đồng lên tiếng ‘vác’ đồng thời đem hết sức vác thuyền và cứ dứt một câu hò, thuyền nhích được một đoạn
Những câu hò, câu hát cũng dùng sông để ví von, so sánh:
-Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển, anh mới đành bỏ em .
-Cây đa cũ, bến dò xưa,
Người thương có nghĩa, nắng mưa ta vẫn chờ
-Nào khi mô, em nói với anh :
Sông cạn, mà tình không cạn,
Vàng mòn, mà nghĩa chẳng mòn
Nay chừ nước lại xa non,
Đêm năm canh tơ tưởng, héo hon ruột tằm
-Muời hai bến nước là duyên
Em cũng muốn bến hiền thuyền đậu
Nhưng em trách cho hai bên phụ mẫu
Làm cho hai đứa không nên thất nên gia
Xa cách này bởi tại mẹ cha
Làm cho nên nỗi bướm hoa lìa cành
http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/anh-ng-ci-quan.html
Bàn ra tán vào (0)
Hỡi Anh Đi Đường Cái Quan
Tác giả: Thái Công Tụng
Con đường cái quan, chạy dài từ Bắc vô Nam, xuyên qua các đồng bằng duyên hải miền Trung, xuyên đèo, qua suối, với câu hát trữ tình và trêu ghẹo:
Hỡi anh đi đường cái quan
Dừng chân đứng lại em than đôi lời
Đi đâu vội lắm ai ơi
Công việc đã có chị tôi ở nhà
Miền Trung gồm những đồng bằng từ Thanh Hoá vào đến Bình Thuận, có nhiều dòng sông chảy qua. Các dòng sông miền Trung cũng rất đa dạng:
. khi ngắn vì phát xuất từ sườn Đông dãy Trường Sơn vốn không xa bờ biển
. khi dài vì phát nguyên từ đất Ai Lao ( hay có chảy qua đất Lào) và vì chảy qua các vùng có chế độ mưa
Cũng cùng một dòng sông nhưng có thể có nhiều tên khác
Nhiều dòng sông có tính cách lịch sử như sông Danh, sông Bến Hải vì chứng kiến sự phân chia đất nước. Có dòng sông chảy qua vùng có đá vôi ở thượng nguồn như sông Danh, sông Nhật Lệ, có sông chảy qua lưu vực đá phún xuất như sông Ba v.v .
Sông ngòi có khi hiền hoà trôi, đem phù sa về đồng bằng, tạo nên xóm làng trù phú yên vui nhưng có lúc giận dữ với nước lụt trôi về với dòng chảy mạnh cuốn trôi ra biển người và tài sản.
1. Những dòng sông chính tại các đồng bằng duyên hải miền Trung dọc con đường cái quan
1. Đồng bằng Thanh Hoá
Nhiều dòng sông chính ở đồng bằng này có duyên nợ với đất Lào vì sông Mã bắt nguồn từ tỉnh Lai Châu, xuôi về tỉnh Sơn La nhưng sau đó chảy sang Sầm Nưa đất Lào trên một đoạn đường dài hơn 50 km, trở lại vào đất Thanh Hoá, hội lưu với sông Chu rồi ra biển ở cửa Lạch Trào.
Sông Mã dài 512km, và có một lưu vực rộng 28 400km2. Một phần của trung lưu nàm trên đất Lào .Phía thượng lưu sông Mã có nhiều thác lón nhỏ cũng như những vực là những vũng nước sâu trong lòng sông. Sông Mã chảy qua nhiều khu vực có nhiều chế độ mưa khác nhau nên sự phân phối dòng chảy trong năm cũng khá phức tạp : nhiều thác, nhiều vực, và còn có đặc điểm là thường đổi dòng, đổi lạch, nhất là các đoạn phía trên có bãi cát ngầm thường di chuyển vị trí do sự thay đổi của dòng chảỵ. Nhờ Sông Mã nên sự trao đổi hàng hoá giữa miền xuôi và miền ngược rất dễ dàng và phương tiện chính là đò . Dọc sông Mã có sông nhánh như sông Lèn ở bên trái, sông Lò và sông Lường ở bên phải
Sông Chu, dài khoảng 300km, bắt nguồn từ đất Sầm Nưa trên Lào, chảy vào địa phận tỉnh Thanh Hoá ở huyện Thường Xuân và đổ vào sông Mã ở phía bắc thành phố.
Sông Mã cũng dễ lụt như sông Hồng nên cũng có hệ thống đê điều nhằm hạn chế lũ lụt
Đồng bằng này lại có đập Bái Thượng nên nước
2. đồng bằng Nghệ An
- sông Cả dài 600km, bắt nguồn từ cao nguyên XiêngKhouang trên Lào, chảy theo hướng TB – ĐN qua nhiều huyện của Nghệ An rồi đổ ra biển ở Cửa Hội. Đoạn hạ lưu có tên sông Lam. Một trong các chi lưu của sông Lam là sông Nghèn chảy theo hướng TB- ĐN trong các huyện Đức Thọ, Can Lộc và Thạch Hà và đổ ra Biển Đông ở Cửa Sót chỉ cách thị xã Hà Tĩnh khoảng 10km phía Bắc. Diện tích lưu vực khoảng 27 200 km2, một phần lưu vực nằm trên đất Lào, chiếm khoảng 35% diện tích.
Sau khi sông Cả chạy qua Con Cuông, thì tiếp nhận nước từ bờ trái là sông Hiếu. Sông này bắt nguồn từ dãy núi Phu Hoat. Đập Đô Lương trên Sông Cả tưới được nhiều ruộng ở các vùng Yên Thành, Diễn Châu, Quỳnh Lưu .
Từ Đô Lương trở đi, sông Cả đi vào đồng bằng, lòng sông nhiều uốn khúc.
Cách cửa sông 30 km, gần Bến Thủy, sông Cả lại nhận thêm nước từ hai sông là Ngàn Sâu và Ngàn Phố.
Lưu vực sông Cả có diện tích 27 224 km2, trong đó 9 470 km2 thuộc vùng núi Ai Lao (Xieng Khoang và Sầm Nứa)
-Sông Cấm là con sông nhỏ chảy theo hướng N- B, qua chân núi Cấm ỏ huyện Nghi Lộc rồi ra biển ở Cửa Lò.
Đồng bằng Nghệ An gồm các phù sa cận đại lẫn các giải cát duyên hải như ở Diễn Châu, ở Cửa Lò và Nghi Lộc gần Vinh.. Đặc biệt tại Quỳnh Lưu có nhiều gia đình nuôi hươu lấy lộc nhung bán.
3. đồng bằng Hà Tĩnh
có giãy núi Trường Sơn chạy gần biển, đặc biệt có rặng núi Hồng Lĩnh (tên khác: Ngàn Hống) với 99 ngọn núi hình răng cưa sừng sững chọc trời, nhưng cũng có vài thung lủng rộng ở phiá trong như tại huyện Hương Khê giáp Lào. Câu ca dao:
Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Lam hết nước họ này hết quan
để nói về dòng họ gia đình khoa bảng cụ Nguyễn Du.
Có hai dòng sông quan trọng :
- Ngàn Sâu chảy qua thung lũng Hương Khê, chảy theo hướng N- B
-Ngàn Phố là sông bắt nguồn từ vùng biên giới Việt Lào thuộc huyện Hương Sơn. Trên thượng nguồn sông này có đập chắn ngang tạo ra hồ nhân tạo, hồ Kẻ Gỗ.
Hai sông Ngàn Sâu và Ngàn Phố gặp nhau ở Linh Cảm rồi chảy vào Sông Lam để ra biển ở Cửa Hội. Tại đồng bằng này, các suối ở phía thượng nguồn có phương ngữ là ‘rào’ như ca dao sau đây :
Đến đây lạ bến lạ rào,
Hõi con chim hồng nhạn, ở phương nào tới đây
Kèo mai, nhớ núi chim bay
Ai nhớ chim muốn hỏi, biết thư bày ra sao ?
4. đồng bằng Quảng Bình
-Sông Gianh, có tên khác là Rào Nậy, Linh Giang dài 155 km, bắt nguồn từ rặng núi đá vôi Giăng Màn (có hình thù kéo dài liên tục nên có tên Giăng Màn) ở biên giới Việt Lào, chảy theo hướng TB – ĐN qua các huyện Tuyên Hoá, Quảng Trạch rồi đổ ra biển ở cửa cùng tên.
-Sông Nhật Lệ, còn có tên khác là Đại Giang chảy trong huyện Bố Trạch và Quảng Ninh rồi đổ ra cửa cùng tên ở cách Đồng Hới khoảng 3 km về phía ĐB.
Tiếng hát ngư ông giữa dòng Nhật Lệ
Tiếng kêu đàn nhạn trên áng Hoành Sơn
Khúc thượng nguồn của sông Nhật Lệ, trong huyện Bố Trạch có tên là sông Sa Lung. Có phụ lưu lớn bên phía phải (hữu ngạn) là sông Trạm ( Kiến Giang). Bền bờ sông Nhật Lệ có di tích lũy Thầy, do Đào Duy Từ xây dựng năm 1631.
Trong đồng bằng, có một phá lớn gọi là phá Hạc Hải, nhiều thủy sản, nằm cách Đồng Hới khoảng 27km về phía Nam.
5. đồng bằng Quảng Trị
-Sông Bến Hải chỉ dài khoảng 60 km, chảy ra Biển Đông ở Cửa Tùng, có cầu Hiền Lương là nơi phân chia hai miền Nam Bắc, nằm ở vĩ tuyến 17, theo hiệp định Geneve 1954
-Sông Thạch Hãn bắt đầu từ sườn Đông dãy Truờng Sơn chảy về biển qua các địa danh Cà Lu, Ba Lòng, thành phố Quảng Trị rồi hợp với sông Cam Lộ. Sông này chảy qua vùng đất huyện Cam Lộ, chảy qua thị xã Đông Hà , đổ vào sông Thạch Hãn, rồi đổ ra Cửa Việt.
Cách thị xã Quảng Trị 4km phía Bắc có địa danh Ái Tử được nhắc nhở qua ca dao :
Mẹ thương con, qua cầu Ái Tử
Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu
Một mai bóng xế trăng lu
Con ve kêu mùa Hạ, biết mấy Thu cho gặp chàng
6. đồng bằng Thừa Thiên
Từ ngoài vào, phải kể:
-Sông Ô Lâu ở địa phận huyện Quảng Điền .
-Sông Bồ là phụ lưu bên trái của sông Hương, bắt nguồn từ vùng núi A Lưới, chảy theo hướng TB – ĐN rồi đổ vào sông Hương ở huyện Phú Vang.
-Sông Hương bắt đầu từ vùng núi huyện Nam Đông, chảy qua huyện Hương Thủy và thành phố Huế, rồi đổ ra phía N phá Tam Giang. Do hai nhánh Tả trạch và Hữu trạch hợp lại ở Ngã Ba Tuần trước khi vào đồng bằng .
Cả ba con sông trên đều chảy vào phá Tam Giang là một phá rất dài vì chiều dài là 30 km và rộng từ 1 đến 6 km. Ở phía Nam, phá ăn thông với các đầm: Thanh Lam, Hà Trung, Thủy Tú, Cầu Hai và trước trận lụt lịch sử 1999, có hai cửa ăn thông ra Biển Đông là Thuận An và Tư Hiền.
- Hai con sông Nong và Truồi phát xuất từ núi Truồi và đổ vào đầm Cầu Hai.
Đầm Cầu Hai, toả rộng dưới chân núi Bạch Mã (1444m) ngắn và rộng, thông thương với đầm (‘phá’) Tam Giang và đổ ra biển ở cửa Tư Hiền. Nhìn vào bản đồ, phá Tam Giang tương tự như một dòng sông, còn đầm Cầu Hai giống như một cái hồ lớn. Các đầm phá Cầu Hai, Tam Giang này, qua các trận lũ lụt cuối năm 1999, đã có thêm nhiều cửa biển nữa. Riêng phá Tam Giang-Cầu Hai này đã chiếm 1/3 diện tích toàn tỉnh Thừa Thiên và 30% dân số Thừa Thiên sống quanh vùng phá-đầm này. Phá Tam Giang đã trở thành bất hủ với câu ca dao:
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
7. đồng bằng Quảng Nam
.-Sông Hàn (tên khác : sông Cẩm Lệ, sông Hà Thân ..tùy theo từng khúc khi chảy qua các địa phương khác nhau) chảy qua thành phố Đà Nẳng rồi đổ ra Vủng Hàn.
-Đứng bên đất Hàn,
Ngó qua Hà Thanh, xanh như tàu lá
Đứng bên Hà Thanh
Ngó qua bên Hàn, phố xá nghênh ngang
-Em đứng nơi cửa sông Hàn
Ngó sang bãi biển Tiên Sa
Ngũ Hành Sơn ở trên
Mủi Sơn Trà ngoài khơi
Nghe chuông chùa Non Nưóc
Em nhớ mấy lời thề ước
Anh làm sao cho duyên nợ đuợc vuông tròn
Kèo lòng người xứ Quảng mỏi mòn đợi trông
.-Sông Thu Bồn dài 205 km và lưu vực rộng 10 496 km2. Sông Thu Bồn còn có một phụ lưu khác, gọi là sông Cái (tên khác: sông Chợ Củi), cũng bắt nguồn vùng biên giới Việt-Lào, nối với sông Thu Bồn ở huyện Đại Lộc. Sông Cái lại có một phụ lưu bên phải ở khúc thượng nguồn tên là Sông Bung, chảy theo hướng TN- ĐB trong huyện Giằng
Sông Thu nước chảy đôi dòng,
Đèn khêu hai ngọn anh trông ngọn nào ?
Muốn tắm mát lên ngọn sông đào,
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Một phụ lưu lớn phía phải sông Thu Bồn có tên là sông Tranh, bắt nguồn từ miền núi huyện Trà Mi, chảy từ Nam lên phía Bắc qua các huyện Hiệp Đức, vùng mỏ than An Hoà Nông Sơn.
Sông Thu Bồn chảy qua Hội An để đổ ra Cửa Đại (Đại Chiêm). Hội An trước kia nằm sát biển, nay đã lùi sâu vào trong đất liền. Nhờ một nông nghiệp phong phú ở đồng bằng Quảng Nam nên vào thế kỷ 17, qua cảng Hội An, các thương gia người Hoa, người Nhật đã mua và xuất cảng nhiều sản phẩm như tơ lụa, đường, quế, tiêu v.v.
Nối sông Tam Kỳ với sông Thu Bồn là một sông nhỏ ( ‘Trường giang’), chảy song song với bờ biển và đây là tàn tích của một phá nưóc mặn xưa kia càng ngày bị bồi lấp, nằm dọc bờ biển tỉnh Quảng Nam.
8. đồng bằng Quảng Ngãi
-Sông Trà Bồng chảy trong huyện cùng tên, qua thị trấn Châu Ổ, huyện lị huyện Bình Sơn rồi đổ ra cửa Sa Kì ở vũng Dung Quất:
Đi ngang lên mũi Sa Kỳ
Ngó ra lao Ré, xiết chi nỗi sầu
Lao Ré trong ca dao là Cù Lao Ré, còn gọi là đảo Lý Sơn ỏ ven bờ biển Quảng Ngãi
-Sông Trà Khúc ( còn có tên khác là sông Thạch Nham) dài 120 km, phát nguyên vùng núi phía TN tỉnh Quảng Ngãi và Cao Nguyên, chảy theo hướng TN – ĐB qua thị xã Quảng Ngãi và đổ ra biển ở cửa Cổ Lủy. Trên sông này có đập thủy nông Thạch Nham xây vào thời đệ nhất Cọng Hoà năm 1959
Ai về Thiên Ấn sông Trà
Có thương thì hãy ghé nhà thăm em
-Sông Vệ bắt nguồn ở phía TN huyện Ba Tơ, chảy theo hướng TN- ĐB qua các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa trong tỉnh Quảng Ngãi, rồi đổ ra cửa Cổ Lủy ở phía Đ thị xã Quảng Ngãi.
-sông Trà Cầu là một sông nhỏ, bắt nguồn từ vùng Ba Tơ, chảy qua huyện Đức Phổ rồi ra cửa biển cùng tên .
9. đồng bằng Bình Định có nhiều đồng bằng nhỏ (Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát) với tổng diện tích chừng 1 550 km2, nhưng chỉ có đồng bằng Qui Nhơn là rộng nhất vì chiếm đến 500km2;
Từ ngoài vào, phải kể :
- Sông An Lão bắt nguồn từ vùng núi huyện Ba Tơ tỉnh Quảng Ngãi
Nước Ba Tơ chảy vô Bình Định
Nhắn bạn chung tình tránh nịnh, chớ theo
và chảy từ Bắc xuống Nam qua các huyện An Lão, Hoài Ân tỉnh Bình Định và hợp với sông Lại (Lại Giang) ở gần thị trấn huyện lị huyện Hoài Nhơn trước khi đổ ra biển
Nước Lại Giang mênh mang mùa nắng
Dòng sông Côn lai láng mùa mưa
Đã cam tháng đợi năm chờ
Duyên em đục chịu, trông nhờ quản bao
-sông Trúc chỉ là một sông nhỏ chảy từ đầm Trà Ổ ra biển ở huyện Phù Mỹ.
-Sông Côn dài hơn sông trên, phát nguyên từ khối núi Ngọc Rô ở huyện Kon Plong tỉnh Kontum, đoạn thượng lưu là sông Dak Cron Bung, đoạn trung lưu, chảy vào huyện Tây Sơn có tên sông Hà Giao, đoạn hạ lưu chia ra nhiều chi lưu, đổ ra vịnh Quy Nhơn.
Vài ca dao có địa danh thuộc Bình Định như sau:
-Anh về Đập Đá , Gò Găng
Để em kéo vải sáng trăng một mình
-Tam Quan đất tốt trồng dừa
Nam thanh nữ tú cho vừa ý anh
10. đồng bằng Tuy Hoà do Sông Ba bồi đắp. Đây là một con sông lớn và dài gần 400km, bắt nguồn từ cao nguyên Kontum, chảy qua các tỉnh Pleiku và Phú Yên rồi ra biển ỏ Tuy Hoà . Đoạn hạ lưu, từ chỗ hợp lưu với sông Hinh ỏ Củng Sơn, chảy ra biển, gọi là sông Đà Rằng, có đập Đồng Cam . Lưu vực rất rộng ( 13800km2); với một lưu vực rộng lớn như thế cọng thêm hệ thống dẫn nước của đập Đồng Cam tưới các cánh đồng phù sa phì nhiêu, tạo một nền nông nghiệp phát đạt.:
Tiếng đồn Bình Định tốt nhà
Phú Yên tốt ruộng, Khánh Hoà tốt trâu
Bên phải sông Ba có một nhánh gọi là sông Hinh hợp với sông Ba ở Củng Sơn, huyện lỵ của huyện Sơn Hoà. Trên sông có trạm thủy điện Sông Hinh, công suất 66 MW
Trong đồng bằng Phú Yên cũng có một đầm lớn rộng 1500ha, có sò huyết, tục gọi đầm Ô Loan.
11. đồng bằng Khánh Hoà hay Nha Trang chỉ gồm hai đồng bằng chính là đồng bằng Ninh Hoà (100km2) và đồng bằng Nha Trang (135 km2), ngoài ra toàn các đồng bằng nho nhỏ. Giữa mũi Đèo Cả đến mũi Dinh (Padaran), bờ biển có nhiều bãi rất đẹp như bãi biển Đại Lãnh phía bắc Ninh Hoà và nhiều hòn đảo nhỏ ngày nay đã dính liền vào bờ biển bởi những giải duyên hải từ Bắc đến Nam.
Sông Cái chảy qua thành phố Nha Trang :
-Anh muốn tìm nguồn nước trong
Nên đi ngược dòng sông Cái
Hay vì bị bùa ngải
Nên anh phải bỏ bãi, lên nguồn?
Thuyền anh dù thuận gió đi luôn
Đến đầu Thác Ngựa cũng phải cuốn buồm trở lui
(Thác Ngựa là một trong các thác nguy hiểm ở thượng nguồn sông Nha Trang)
-Thơm Vạn Giã thơm đà qúa ngọt
Mía Phú Ân cái đọt cũng ngon
Hỡi người chưa vợ chưa con
Vào đây chung gánh nước non với mình
Quản bao lên thác xuống ghềnh
Mía ngon, thơm ngọt đượm tình quê hương
-Phải chi Sông Cái có cầu
Thiếp qua, thiếp giải cơn sầu chàng nghe
Ai làm chén nọ xa ve
Mùa xuân thiếp đợi, mùa hè chàng trông
Biết là có đặng hay không
Đó chờ, đây đợi uổng công hai đàng
12. đồng bằng Ninh Thuận. Vùng này có tiếng nắng thừa mưa thiếu, khô hạn . Sông Phan Rang, còn gọi sông Cái có đập Nha Trinh , ngày nay nhờ nước xả của đập thủy điện Danhim trên Dalat, nên lượng nước sử dụng cho sự tưới ruộng được nhiều hơn. Phía Đông Bắc thị xã Phan Rang, có đầm Nại rộng 700 ha .
Tại đồng bằng Phan Rang, mùa nắng hiện tượng bốc hơi xảy ra rất mạnh, do sự mao dẫn, các mầu bọt trắng đục đùn lên mặt đất. Đó là đất cà giang, nhiều cacbonat natri, dân địa phương thiếu xabông dùng chất đó kỳ cọ khi tắm
13. đồng bằng Bình Thuận
Từ mũi Dinh đến Phan Thiết, giãy núi Trường Sơn ở xa bỡ biển hơn, do đó các đồng bằng rộng hơn nhưng lại khô hạn: vũ lượng hàng năm nhỏ hơn 600mm và số ngày mưa ít hơn 80. Nhờ khô hạn, sự bốc hơi nước mạnh nên có nhiều ruộng muối như ở Cà Ná.
Nếu kể bắt đầu từ ngoài vào, ta có sông Lòng Sông, chảy qua huyện Tuy Phong,rồi đến sông Lủy với sông Mao, một sông nhánh bên trái của sông Lủy, đổ ra cửa Phan Rí..
Sông Mường Mán chảy qua Phan Thiết
Quần đảo Phú Qúy ngoài khơi Bình Thuận
14. Lưu vực và ảnh hưởng rừng trên lưu vực
Lưu vực sông là vùng lãnh thổ mà sông nhận được nưóc nuôi dưỡng. Các dòng sông miền Trung có lưu vực nhỏ, chỉ trừ sông Mã, sông Cả , sông Thu Bồn và sông Ba . Trong thủy lợi, diện tích lưu vực sông được tính từ nguồn đến vị trí công trình tính toán
Rừng có ảnh hưởng đến các yếu tố thủy văn trong lưu vực: rừng hạn chế dòng chảy mặt, chuyển nước mặt thành nước ngầm, nhờ vậy có tác dụng điều tiết nguồn nước sông suối Rừng bảo vệ đất trên các triền lưu vực, giúp chống xói mòn. Những lưu vực có rừng che phủ thì độ ẩm không khí tăng cao, làm tăng lượng nước rơi địa hình. Chính nhờ các khả năng điều tiết to lớn như vậy của rừng nên sự phá rừng bừa bãi trên lưu vực đã dẫn đến những kết qủa tai hại như lũ lụt xảy ra, hạn hạn tiếp diễn, xói mòn triền dốc, đem theo cả sỏi đá lẫn cát bùn làm nhiều hồ chứa nước dễ bị bít và cạn, phải nạo vét định kỳ
Để dễ bề so sánh, sông Hồng dài 1126 km và có lưu vực toàn thể là 168 700 km2 trong đó chiều dài chảy trong nước là 556 km và lưu vực trong nước là 86 500 km2; sông Mekong có lưu vực toàn thể rất rộng: 795 000km2, trong đó chỉ có 71 000km2 là nằm trong nước.
15. Công dụng của các dòng sông
Trong các tài nguyên thiên nhiên, sông ngòi là một tài nguyên vô giá vì đảm nhận nhiều chức năng, cung cấp cho con người những dịch vụ tối cần cho cuộc sống.
Sông ngòi giữ nhiều chức năng quan trọng như:
.cung cấp nước sinh hoạt
.nước dùng trong các kỹ nghệ: mía đường, xi măng, giấy
.đem từng lớp lớp phù sa về giúp cho nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi
.nuôi trồng thủy sản ở mọi môi trường: thủy sản nước ngọt, thủy sản nước lợ và nước mặn
. vận tải ghe thuyền chuyên chở phẩm vật từ miền xuôi lên miền ngược và đem sản phẩm miền núi xuống đồng bằng:
Ai về nhắn với họ nguồn
Mít non chở xuống, cá chuồn chở lên
. hồ chứa nước tại các vùng cao vừa sản xuất điện năng, vừa công dụng tưới nước và điều hoà dòng chảy
16. Sông nước trong văn học dân gian
Sông ngòi luôn luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ, văn, nhạc. Những bài thơ Đường của Lý Bạch, của Thôi Hiệu, bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, bản nhạc Dòng Sông Xanh đều lấy sông làm nguồn cảm hứng. Riêng văn học dân gian cũng có nhiều điệu hò trên sông nước. Vì sự vận chuyển hàng hoá bằng ghe thuyền đòi hỏi chèo chống khó nhọc nên để bớt vất vả khi chèo đò, nhiều loại hò ra đời với nội dung rất phong phú, phản ánh phong cảnh thiên nhiên, mối tình trai gái v.v. Cùng với mái chèo cất nhịp, những lời ca giàu tính chất trữ tình giúp cả khách lẫn trai chèo quên đi những nhọc nhằn, nỗi lạnh lẽo tịch mịch của đêm truờng. Văn học dân gian được phong phú thêm với những hò Huế, hò Quảng, hò sông Mã v.v.
Dòng sông ở Huế với nhiều điệu hò: mái nhì, mái đẩy, dô hậy, đẩy nôốc là những thể hò dân gian trên sông nước. Tiếng hò của mối tình ngang trái:
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Nước chảy ngược, con cá vượt lội ngang
Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại trẩy lên ngàn anh ơi !
Câu hò mái nhì gợi nhiều rung cảm do tình yêu đôi lứa:
Nước đầu cầu, khúc sâu khúc cạn
Chèo qua Ngọc Trản, đến mạn Kim Long
Sương sa gió thổi lạnh lùng
Sóng xao trăng lặn, gợi lòng nhớ thương
Tình yêu chân thật, tình yêu không son phấn là những đề tài trong các câu hò dân gian:
Thiên sanh nhân, hà nhân vô lộc
Địa sanh thảo, hà thảo vô căn
Một mình em ngồi dựa lòng thuyền, dưới nưóc trên trăng
Biết cùng ai trao duyên gửi phận, cho được bằng thế gian
Hò khoan có cả hò trên vạn, hò dưới nước. Hò khoan cũng được gọi với nhiều tên như hò đối đáp, hò chào mừng. Nhiều loại hò có tính cách chơi chữ dân gian và lối chơi chữ của nhà nho rất thông dụng:
Cá có đâu mà anh ngồi câu đó
Biết có không mà công khó anh ơi ..
Hoặc:
Gái Xuân em đi chợ Hạ
Mua con cá Thu về chợ hãy đang Đông
Ai nói với anh em đã có chồng
Tức mình em đổ cá xuống sông em về
Hoặc:
Người Kim mã cưõi con Ngựa vàng,
Đất Phù Long rồng nổi, thời chàng đói chi
Người con trai cũng đối lại:
Người Thanh Thủy gặp khách Nước Trong,
Hoành Sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa ?
Hò có nhiều loại tùy động tác như hò rời bến, hò đò xuôi, hò mắc cạn v.v.Nhạc điệu tùy lúc. Hò đò xuôi khi thuận buồm xuôi gió với nhạc điệu dài đều; hò mắc cạn thì khi dứt một câu hò thì trai đò phải đồng lên tiếng ‘vác’ đồng thời đem hết sức vác thuyền và cứ dứt một câu hò, thuyền nhích được một đoạn
Những câu hò, câu hát cũng dùng sông để ví von, so sánh:
-Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển, anh mới đành bỏ em .
-Cây đa cũ, bến dò xưa,
Người thương có nghĩa, nắng mưa ta vẫn chờ
-Nào khi mô, em nói với anh :
Sông cạn, mà tình không cạn,
Vàng mòn, mà nghĩa chẳng mòn
Nay chừ nước lại xa non,
Đêm năm canh tơ tưởng, héo hon ruột tằm
-Muời hai bến nước là duyên
Em cũng muốn bến hiền thuyền đậu
Nhưng em trách cho hai bên phụ mẫu
Làm cho hai đứa không nên thất nên gia
Xa cách này bởi tại mẹ cha
Làm cho nên nỗi bướm hoa lìa cành
http://www.gocnhinalan.com/bai-cua-khach/anh-ng-ci-quan.html