Nhân Vật
Hồi ký của Khurusev - Cái chết của Stalin
![]() |
Ngạn Xuyên, Hà Nội
Cái chết của Stalin
Và tôi đề nghị:
Tôi nói với họ:
- Nếu xem xét Đảng ta những một Đảng dựa trên tập trung dân chủ,
thì chúng ta, những người những người lãnh đạo Đảng, không có quyền
không biết. Tôi, và nhiều người khác nằm trong tình thế là, tất nhiên, không
biết nhiều, vì rằng được đặt trong một chế độ, lúc đó anh chỉ biết người ta
giao cho anh cái gì, còn những cái khác anh không được nói, và đừng thọc
mũi tiếp điều này. Chúng tôi không chọc mũi. Nhưng không phải tất cả ở
trong tình thế như vậy. Một số trong chúng ta biết, một số thậm chí chấp
nhận tham gia giải quyết vấn đề này. Vì thế ở đây mức độ trách nhiệm cũng
khác nhau. Cá nhân tôi sẵn sàng là uỷ viên BCHTƯ Đảng từ Đại hội 17 và
uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 18 chịu phần trách nhiệm của mình, nếu Đảng
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm của ai lãnh đạo trong thời Stalin, khi sự
chuyên quyền hoành hành.
Họ là không đồng ý với tôi. Họ phản đối:
- Anh biết cái gì sẽ xảy ra không?
Lời đối đáp Vorosilov và Molotov đặc biệt the thé. Vorosilov chứng
minh rằng nói chung không cần làm điều này:
- Hừ, ai hỏi chúng ta cơ chứ? - ông lặp lại.
Tôi hỏi lại: 322
- Những tội ác có không? Chính chúng ta chứ không đợi ai khác, phải
nói rằng có. Khi nào người ta hỏi chúng ta, thì mới bắt đầu phán xét. Tôi
không muốn điều này và tôi không chịu trách nhiệm như thế.
Nhưng chẳng thể nào thống nhất ý kiến được, và tôi đã thấy rằng
không đạt được đúng quyết định từ các uỷ viên. Trong Đoàn chủ tịch của Đại
hội chúng tôi chưa đặt vấn đề này, chừng nào thoả thuận được nội bộ Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Lúc đó tôi đưa một đề nghị như sau:
- Đại hội Đảng cứ họp. Kỷ luật nội bộ Đảng cần có sự nhất quán của
lãnh đạo trong các uỷ viên BCHTƯ và uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, sẽ
không tác dụng trong thời gian Đại hội, bởi vì Đại hội có ý nghĩa cao nhất.
Bây giờ mỗi uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ và uỷ viên BCHTƯ, trong số
này và tôi phải làm báo cáo tổng kết, từng người có quyền phát biểu tại Đại
hội và trình bày quan điểm của mình, thậm chí nếu quan điểm này không phù
hợp với quan điểm báo cáo.
Tôi không nói rằng tôi sẽ thông báo về tài liệu của Uỷ ban điều tra.
Nhưng, hình như có ai phản đối, cho rằng tôi có thể phát biểu và trình bày
quan điểm của tôi động chạm đến việc bắt bớ, bắn giết. Bây giờ tôi không
nhớ sau đó những ai ủng hộ ủng hộ tôi. Tôi nghĩ rằng đây là Bulganin,
Pervukhin và Saburov. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ rằng, có thể,
Malenkov cũng ủng hộ tôi. Ông là bí thư BCHTƯ phụ trách nhân sự, vai trò
của ông trong việc này là khá tích cực. Ông, nói riêng, cũng giúp đỡ Stalin
điều động cất nhắc cán bộ, rồi sau đó tiêu diệt họ. Tôi không dám chắc cá
nhân ông khởi xướng đàn áp. Chưa chắc. Nhưng tại những vùng, khu vực,
mà Stalin cử Malenkov đến đó để chỉnh đốn hàng ngũ, thì hàng nghìn người
bị đàn áp và nhiều người trong số này bị xử tử. Tuy nhiên Malenkov có thể
bây giờ ủng hộ tôi.
Có ai đấy nảy ra sáng kiến:
- Vấn đề đặt ra thế này, hình như tốt hơn là làm thêm một bản báo
cáo.
Lúc ấy mọi người miễn cưỡng đồng ý. Tôi nói với họ:
- Thậm chí ở những ai thực hiện những tội ác, lần này đến lúc họ có
thể thú nhận, và họ cũng được khoan hồng, không phải biện minh. Nếu thậm
chí từ quan điểm xem xét vấn đề báo cáo sự lạm quyền mà Stalin thực hiện,
thì có thể làm được ngay bây giờ, tại Đại hội 20. Để đến Đại hội 21 thì sẽ 323
muộn, nếu chúng ta còn kịp sống đến lúc đó và đòi hỏi những vấn đề trước
đây thì chẳng cần nữa. Vì thế tốt nhất làm bản báo cáo thứ hai từ bây giờ.
Khi đó nảy sinh vấn đề ai phải làm báo cáo. Tôi đề nghị Pospelov, và
lập luận đề nghị của mình là ở chỗ Pospelov nghiên cứu vấn đề này với tư
cách Chủ tịch Uỷ ban và viết tài liệu để chúng tôi sử dụng nó. Vì thế ông
không phải mất thời gian chuẩn bị: ông có thể chuyển các tài liệu này vào
báo cáo và đọc nó tại Đại hội. Những người khác (tôi không nhớ là ai) phản
đối và đề nghị là tôi làm luôn báo cáo này. Đối với tôi là bất tiện: vì trong
báo cáo tổng kết tôi không nói một lời nào về điều này, còn sau đó tôi lại làm
thêm báo cáo thứ hai? Và tôi từ chối. Nhưng họ phản đối tôi:
- Nếu bây giờ không phải là anh phát biểu, mà là Pospelov, cũng là
một trong những bí thư BCHTƯ, thì phát sinh vấn đề: Vì sao Khrusev trong
báo cáo tổng kết không nói tý gì về điều này, mà Pospelov lại phát biểu một
vấn đề quan trọng để tranh luận? Không thể Khrusev không biết tài liệu của
Pospelov hoặc không coi trọng sự cần thiết của vấn đề. Nghĩa là, về vấn đề
này có sự bất đồng trong lãnh đạo? Mà Pospelov phát biểu chỉ với ý kiến
riêng?
Luận cứ này cứ lằng nhằng mãi, cuối cùng tôi phải đồng ý. Quyết
định rằng tôi sẽ phát biểu tài liệu của Uỷ ban cùng với báo cáo. Chúng tôi tổ
chức phiên họp kín trong thời gian tranh luận về tổng kết của BCHTƯ, ở đó
tôi cũng làm bản báo cáo thứ hai.
Đại hội nghe tôi một cách im lặng. Như người ta nói có thể nghe được
tiếng ruồi bay. Mọi người đều quá bất ngờ. Cần, tất nhiên, biết rằng các đại
biểu đã sửng sốt về những câu chuyện về sự độc ác được thực hiện đối với
những người từng có công lao, những bolsevich lão thành và những người
trẻ. Bao nhiêu người lương thiện từng được điều động đến khác nhau của đất
nước đã bị giết! Đây là một thảm khốc cho Đảng và cho các đại biểu tham dự
Đại hội. Báo cáo tại Đại hội 20 ĐCSLX về sự lạm quyền của Stalin đã ra đời
như thế.
Tôi xem rằng vấn đề được đưa ra hoàn toàn đúng lúc và kịp thời.
Không những không hối hận, những một số người nghĩ, mà còn thoải mái
trong lòng rằng đã chộp đứng thời điểm và đã cố làm để bản báo cáo này
được làm. Tất cả việc này có thể đưa đến hướng khác, mọi người còn bị sốc
là còn nhiều người cũng bị giam cầm nhe trước đây trong các nhà tù và trại
cải tạo. Năm 1953 chúng tôi đã có giả thiết về vai trò Beria dường như, Beria 324
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lạm quyền thực hiện thời Stalinе. Điều này
cũng gây sốc. Chúng khi đó tôi không cách nào gột khỏi ý nghĩ Stalin -
người bạn của mọi người, bố đẻ nhân dân, thiên tài và vân vân... Không thể
ngay lập tức hình dung rằng Stalin - kẻ sát nhân và tên hung đồ. Vì thế sau
bản án cho Beria chúng tôi lại luẩn quẩn trong giả thiết mà chúng tôi xây
dựng nên có lợi minh oan cho Stalin: Ông Trời không có lỗi, mà lỗi ở kẻ
nịnh bợ, kẻ báo cáo sai cho Trời, vì vậy Trời mới giáng mưa đá, sấm sét và
các tai hoạ khác. Nhân dân bị khổ sở không phải vì Trời muốn thế, mà do tên
nịnh nọt Nicolai, Ilia Prosok, Beria và vân vân... Và bây giờ có lần có người
đặt câu hỏi:
- Liệu có cần phải kể về Stalin không?
Đây hoàn toàn không phải là những người đồng phạm của Stalin
trong tội ác, mà thực chất họ là những người quen thói sợ Stalin, và bây giờ
họ khó xử. Thông thường các vị lão thành đặt các vấn đề như thế. Họ đã
sống với quá khứ, họ khó từ bỏ nổi những hiểu biết trước đây và luận cứ của
thời Stalin. Đây cũng một trong những khuyết điểm giáo dục Đảng viên. Tất
cả các phương pháp giáo dục trong Đảng, Stalin làm nó thích ứng với mình,
với hoạt động của mình: sự tuân lệnh không bàn cãi, sự tín nhiệm tuyệt đối.
Trong thời gian chiến tranh có chết chóc mà không nghi ngờ, tất nhiên,
nhưng sau này luôn luôn quay ngoắt theo hướng ngược lại, vì rằng một
người tin anh mà không bàn luận, khi biết, sự tín nhiệm của anh ta bị lừa, họ
sẽ là kẻ thù của anh. Điều này rất nguy hiểm. Tôi luôn luôn đã đứng, hơn nữa
bây giờ tôi đang đứng vì sự thật, vì sự đúng đắn tuyệt đối trước Đảng, Đoàn
thanh niên và tất cả nhân dân. Có một kết luận là chỉ có nguồn gốc bất tận
sức mạnh của Đảng mới có thể chiếm được sự tín nhiệm nhân dân. Người ta
biết rằng Đảng đã lừa quần chúng đông đảo, Đảng đến đường cùng.
Bây giờ tôi thường nghe đài. Radio - đó là người bạn đồng hành của
tôi trong thời gian dạo chơi. Từ radio tôi nhận cả thông tin, cả sự thoả mãn.
Tôi yêu âm nhạc, yêu dân ca. Nhạc hiện đại cũng làm tôi thích. Nhưng, tôi
cảm thấy, hình như con người độ tôi có xu hướng sống lại tời trai trẻ. Đặc
biệt trong tâm trạng tốt, tôi vừa đi bộ, nghe giọng hát của Ludmina Zykina,
ca sĩ mà tôi yêu thích, và nghe cả những buổi truyền khác. Các buổi truyền
thanh rất nhiều, đa phần là tốt, nhưng cũng gặp cả những những chuyện
nhảm nhí, chỉ có làm bẩn chương trình phát sóng thôi. 325
Một lần tôi nghe đọc một trong các chương cuối tiểu thuyết “Họ chiến
đấu vì tổ quốc” của Solokhov. Mikhail Aleksandrоvich tin bởi sự sáng tác
của mình: chuyện thời Stalin lạm quyền, ông trấn áp những cán bộ lương
thiện, được Lenin giáo dục, Solokhov tả về cuộc nói chuyện của hai ông
đánh cá. Họ ngồi và chuyện trò. Người này hỏi người kia:
- Nên hiểu đồng chí của Stalin như thế nào nhỉ? Người ta nói rằng ông
bỏ sót. Nhưng bao nhiêu người bị tội, bao nhiêu người bị hành quyết! Có thể
Stalin phạm vào điều này không?
- Đúng, khó hiểu - người kia trả lời.
Lúc đó người đầu tiên lại hỏi:
- Thế không phải Beria chính là người có lỗi à? Chính ông báo cáo tất
cả cho Stalin?
Và câu trả lời:
- Đúng, tất cả là do Beria.
Mikhail Aleksandrоvich - một người thông minh và nhà văn giỏi. Sự
thật việc ông lại bám vào cách hiểu biết tương tự theo truyền thống của
chẳng và nhân dân, trong khi bao nhiêu người chết bởi tay Stalin, tất nhiên,
không tô hồng cho ông. Lúc ấy cốt lõi là thế này: Beria không dựng Ezov,
mà từ trước đây, dựng Yagoda. Tất cả bọn họ tiếp theo chân nhau vào màn
kịch. Một “nhân vật”, được Stalin dựng lên, sẽ được thay thế bằng nhân vật
khác, và đây cũng là logic đối với Stalin. Stalin dùng tay người khác để giết
những người lương thiện và ông biết rằng họ là những người trong sạch
trước nhân dân và trước Đảng. Những người chết chỉ vì rằng ông ông sợ họ
và không tin họ. Sau đó, phải dần dần loại bỏ một đồ tể và thay bằng một đồ
thứ hai. Cứ như thế ba thê đội tiễu phạt: trước tiên Yagoda, sau đó Ezov, sau
đó Beria.
Đến Beria, thì điều này chấm dứt. Nói đúng ra, không phải chính
Beria, mà do cái chết của Stalin. Beria đứng trước toà án nhân dân như một
tội phạm. Nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn về cái chết Stalin, thậm
chí khi mọi người biết rõ nhiều sau phiên toà xử Beria, vẫn còn đưa cho
Đảng và nhân dân những lời giải thích không đúng, tất cả đổ bớt sang đầu
Beria. Đối với chúng tôi, Beria tỏ là tiện lợi cho hình ảnh này. Chúng ta đã
làm tất cả để bào chữa cho Stalin, dù chúng ta che chở được tên tội phạm, tên
giết người, vì chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi sự ngưỡng mộ Stalin. 326
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy sự dối trá, khi tôi đến Nam Tư và
hội đàm và Tito và đồng chí khác. Khi chúng tôi đụng chạm vấn đề này và
đổ cho Beria, họ cười và đáp lại một cách nhạo báng. Điều này làm chúng tôi
ức, và chúng tôi, để bảo vệ Stalin, đã cãi nhau rất to, thậm chí suýt đến đổ vỡ
to. Sau đó tôi công khai phát biểu bảo vệ Stalin và chống Nam Tư. Bây giờ
tất cả rõ ràng là không đúng, lúc ấy tôi ở quan điểm của một người chưa
nhận thức được cần vạch mặt đến cùng những tội ác của Stalin, sao cho các
phương pháp hành xử tương tự không bao giờ có thể quay về Đảng ta nữa.
Người, quả là muốn thiết lập kỷ luật của Lenin trong Đảng ta, mình không
phải kỷ luật của Stalin, phải làm hết sức lực để phanh phui Stalin và sự kết
án các phương pháp Stalin. Cần phải minh oan những người lương thiện
trong số những người chưa được minh oan, và phanh phui những sự phi pháp
được tạo ra trước đây, để thậm chí bóng ma của những phương pháp như thế
không thể đội mồ sống lại.
Tôi sửng sốt bởi một số tướng lĩnh lớn quân đội trong hồi lý của mình
muốn minh oan cho Stalin và cho ông là người cha nhân dân, đã chứng minh
rằng nếu không có ông thì chúng tôi không chiến thắng và rơi vào ách phát
xít. Đây là lý luận ngu ngốc, mù quáng. Ngay bây giờ, khi không có Stalin,
chúng tôi vẫn bị rơi vào ảnh hưởng của Đức, Anh, Mỹ hay sao? Không,
không bao giờ. Nhân dân đưa ra những người lãnh đạo mới và có khả năng
bảo vệ mình như từng có trong quá khứ. Sự phi lý của những bàn luận như
thế không cần thiết trong những bằng chứng riêng.
Tôi nhớ, tại một hội nghị, một chỉ huy quân sự, nhân ca ngợi Stalin,
cũng tôn vinh cả Bliukher. Những người khác, tuy ca ngợi Stalin, cũng tôn
vinh Tukhachevski. Đồng chí, phải ăn nói có trước có sau! Không thể đặt kẻ
giết người và nạn nhân lên một bệ. Bliukher là ai? Anh hùng nội chiến, có
bẩm sinh quân sự, thợ nguội, nằm trong hàng ngũ tướng lĩnh lớn. Ông đã
nhận huân chương Cờ Đỏ №1. Bliukher là số một. Sau đó, là một trong số
những chỉ huy quân sự tốt nhất của Liên Xô được cử sang Trung Quốc làm
cố vấn quân sự cho Tôn Trung Sơn. Và bỗng nhiên ông bị bắn! Không thể
nói cùng một lúc về Stalin và Bliukher, mà lờ đi nguyên nhân cái chết
Bliukher. Không thể nhắm mắt cho rằng chẳng ai nhìn thấy gì cả. Sự xấu xa
tương tự có thể chỉ gây ra mất lòng tin.
Tôi có lần ở Bulgari, một trong những bài phát biểu tôi dẫn lời của
Puskin, trong tác phẩm của ông có nói về cuộc nói chuyện giữa Mozart và
Salere. Mozart không hề nghi ngờ rằng Salere chuẩn bị đầu độc mình, nói: 327
- Thiên tài và tội ác không thể là một.
Đúng vậy! Với Stalin cũng vậy. Không thể ghép thiên tài và sát nhân
vào cùng một bộ mặt. Không thể gắn hàng nghìn nạn nhân với những kẻ sát
nhân, mà không có sự giải thích về vụ việc Stalin. Không thể trên một bệ đặt
hai bức tượng. Tội ác do Stalin gây ra!
Theo lối nghĩ như thế - có câu hỏi khác. Một số người tranh luận như
thế này: điều này được làm không phải nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, mà là
lo cho dân. Thật mọi rợ! Lo cho dân, thế mà lại giết những đứa con tốt nhất
của họ! Logic khá ngu đần. Sự thật, tìm những luận cứ để biện bạch cho kẻ
giết người, luôn luôn là phức tạp.
Trong báo cáo của tôi tại Đại hội 20, không nói gì iên quan tới những
vụ án công khai thập niên 30, trong đó có mặt đại diện Đảng cộng sản anh
em. Lúc đó người ta kết án Rykov, Bukharin, những lãnh tụ khác của nhân
dân. Họ xứng đáng để được gọi là lãnh tụ. Chẳng hạn, Rykov. Sau khi Lenin
qua đời, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Liên Xô, có công lao to
trước Đảng, trước nhân dân và xứng đáng lãnh đạo Chính quyền xô viết.
Nhưng người ta kết án và bắn ông. Còn Bukharin? Bukharin là trong những
yêu quý Đảng. Thế hệ Đảng viên lão thành РĐCS(b) từng học theo cuốn
sách của ông Khoa học Mác Lênnin. Bukharin nhiều năm là chủ bút báo Sự
Thật. Lenin gọi ông thân mật là “Bukhric của chúng ta”. Hoặc Zinovev và
Kamenov. Trong cách mạng tháng Mười 1917 họ có sai lầm. Điều này ai
cũng biết, nhưng những cái khác cũng nên biết. Zinovev và Kamenov được
Lenin đưa vào Bộ chính trị BCHTƯ Đảng và ngang hàng các vị lãnh đạo
khác Khi Chính phủ xô viết chuyển về Moskva, Zinovev còn ở Petrograd.
Ông được tin tưởng giao lãnh đạo cái nôi cách mạng và đã nâng ngọn cờ
khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Kamenov được Moskva tin tưởng. Ông là,
nói riêng, là Chủ tịch Mossoviet. Lenin vc quan hệ với ông sau những sai
lầm người ta đã tha thứ cho ông.
Có lần tôi nghe đài nói là: Lenin trao một cái gì đó cho Lomov.
Nhưng Lomov ở đâu nhỉ? Tôi biết rõ Lomov, không ít lần tiếp xúc với ông,
khi làm việc tại Donbass, từ sau nội chiến. Lúc đó ông lãnh đạo khai thác
than tại Donbass. Tôi thường có mặt tại các buổi họp của ông, hoặc ở
Kharkov, nơi trụ sở chính của ông. Đó là một người rất được kính trọng
trong Đảng с thâm niên bí mật trước cách mạng. Lomov đâu rồi? Ông bị bắn,
không còn Lomov nữa. Tôi nói về Kedrovе, Tukhachevski, Egorov, 328
Bliukher, và những người khác. Có thể lập một quyển sách dày thống kê chỉ
những họ tên những tướng lĩnh, Các nhà lãnh đạo Đảng, Đoàn thanh niên,
kinh tế, ngoại giao, khoa học. Tất cả đều là những người lương thiện. Họ là
nạn nhân của Stalin, nạn nhân sự chuyên quyền.
Vấn đề những vụ án công khai thập niên 30 cũng cũng có hai mặt.
Chúng tôi lại sợ nói đến tận cùng, mặc dù không gây ra nghi ngờ nào, rằng
những người này không có tội, họ là nạn nhân sự chuyên quyền. Tại các vụ
án xử công khai, có mặt những người lãnh đạo đảng anh em, mà chính họ sau
này đã chứng minh tại nước họ đây là những bản án chính đáng. Chúng tôi
không muốn làm mất uy tín về những tuyên bố của họ, và hoãn lại việc minh
oan cho Bukharin, Zinovev, Rykov và những người khác đồng chí trong một
thời hạn chưa định được. Tôi nghĩ rằng đúng là cần phải nói đến cùng. Cái
kim trong bọc cũng phải lòi ra.! Thành công chủ yếu Đại hội 20 - là nó bắt
đầu quá trình làm trong sạch Đảng và đưa Đảng trở lại chuẩn mực sinh hoạt,
mà Lenin và những đứa con thân yêu nhất của đất nước đã làm vì nó.
Một phần những người bị kết án sai đã được tha, ngay khi Stalin chết.
Beria khi đặt vấn đề này, điều chỉnh nó, đưa ra một đề nghị thích hợp, và
chúng tôi đồng ý với ông. Nhưng té ra là những người được tha lại là tội
phạm hình sự: giết người, trấn lột, bọn vô lại và đểu cáng. Khi bọn này quay
về nơi ở cũ, thì tái diễn những cảnh trộm cắp, cướp giật và giết người. Nhân
dân ca thán rằng người ta thả bọn trộm cắp và giết người và họ làm bẩn sự
nghiệp của mình. Trước đó Beria bị vạch mặt và kết án. Vì thế chính chúng
tôi phải đưa cho nhân dân những chỉ thị. Bản thân chúng tôi cũng thấy đây là
việc làm không đúng, mặc dù thông qua đề nghị của Beria, nhưng quyết định
lại do Chính phủ và BCHTƯ thông qua, như vậy tất cả chúng tôi chịu trách
nhiệm về việc này. Bao nhiêu đối tượng này được thả, tôi khó nói được, tuy
nhiên trong mọi trường hợp cũng là một đội quân lớn.
Những người bị kết án về chính trị và những người bị lưu đày vẫn còn
nằm trong các nhà tù và các trại tập trung. Beria thậm chí đề nghị thông qua
luật trao quyền cho Bộ nội vụ, nghĩa là Beria, có quyền xem xét là thả ai cho
ai sau khi hết thời hạn trừng phạt. Như tôi đã kể, tôi đã thẳng cánh phản đối
như thế nào, và mọi người ủng hộ tôi. Do đó, Beria rút đề nghị này. Số phận
tất cả những người tù chính trị ra sao, khi Viện trưởng Viện Kiểm sát
Rudenko trình tôi về sự vô tội của họ, tôi hỏi ông: 329
- Sao lại thế? Chính tôi đã nghe, họ thú nhận tội mình người ta buộc
cho họ cơ mà.
Rudenko cười:
- Đó là nghệ thuật của người điều tra và người xử. Hình như những
con người này bị dồn đến trạng thái, chỉ có một cách duy nhất để kết thúc
sớm những đau khổ và nhục nhã - là tự thú nhận, bước sau đó là cái chết”.
Sau Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các ĐCS, đặc biệt Pháp và Ý bắt
đầu xúc động. Cũng dễ hiểu rằng đó là những Đảng vô sản, đông quần
chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Torez và
Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người
bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này
cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng
có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh
được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan, lan sang Hungary. Sau khi
người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền BCHTƯ
ĐCSLX, đến Warsawa, tham dự Plenum BCHTƯ Đảng công nhân thống
nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc
tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất
sóng gió, các uỷ viên BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ
không hài lòng với Liên Xô. Những người trong BCHTƯ Đảng Ba Lan, thân
với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì,
nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy
nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.
Tại Plenum, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công
nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với
Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này.
Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và
thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu
làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:
- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?
Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này: 330
- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông
bị buộc tội gì.
- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?
Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được.
Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhanski, cả Loga-
Sovinski, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không
thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị
lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng
không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.
Sau một thời gian, Okhab dẫn đầu Đoàn đại biểu đến Trung Quốc.
Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó
Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:
- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở
Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba
Lan.
Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo
ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi
ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng
Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành.
Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức,
qua Ba Lan. Nhưng sự kiện ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những
nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để
đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết
định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba
Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó
tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như
Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng
sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalinе, khi chúng tôi
mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp
đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều
này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng
chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết định
nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoian, Bulganin
và một số người khác. 331
Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka,
những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ
lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở
mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở
Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc
của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ
phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:
- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí
thư BCHTƯ. Ông đi mà hỏi người khác.
Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài
lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh
đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền
rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng
chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như
trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.
Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng
tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông
cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và
mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian
ngắn, thì làn sóng không hài lòng sẽ bị bớt đi và tình hình trở lại bình
thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi,
có hai ĐCS, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều
người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì
Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do
Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những
người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên
Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới
một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng
tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô
với Ba Lan. Ông nói:
- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không
có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại
các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị
không thay đổi và liên minh. 332
Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để
tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:
- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở để không tin Gomumka.
Ông được bầu Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan.
Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của
Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không
phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã
nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.
Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm
chúng tôi rất lo ngại.
Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng
giềng. Thời kỳ đó, vấn đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của
chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản.
Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người,
chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư
bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm
của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách
mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô
mác “Fiat”.
Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản
không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ
lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi
mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc
hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản
làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí
hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật
với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.
Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở
phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng
chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi đã bán hát minh cho Mỹ.
Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ.
Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị
buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của
Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất
chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về 333
điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản
người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi
đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế
của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-
Degia:
- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!
Ông nói:
- Cầm lấy đi.
Cầm lấy đi... với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” -
một khoảng cách rất xa.
Nói chung lãnh đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc đẩy nhanh nền công
nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá
trước đây đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn,
nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất
nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí đốt, rừng, bánh mỳ. Các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani
xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho
thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy
thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa
mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều
muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận
Rumani.
Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán
cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của
chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:
- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp
được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn và bán thịt
thăn hun khói cho Mỹ.
Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:
- Đúng.
- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người
Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng
được, biến thành thịt và bán thịt đi. 334
- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.
Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa
cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán
này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng
chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để
giúp đỡ những người bạn?
Bao nhiêu lần, đôi khi, chúng tôi đồng ý kế hoạch, nhưng sau đó
Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:
- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.
Người ta đến.
- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với
hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp
chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.
Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được
điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà
chua Bulgari. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgari quen
nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ
hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ
kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại
cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ
bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgari - nước
trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi
chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.
Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích.
Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa.
Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ.
Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ
tiêu thụ thịt. Năm 1964 ở CHDC Đức 75 kg đầu người một năm, ở Tiệp
Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và
thấp hơn là Bulgari - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:
- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng
tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho
CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước 335
ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông
có lo cho chúng tôi không?
Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh
hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn
Tây Đức. Chỉ riêng điều đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía
chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.
Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương
tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây Đức phải trả cho họ, còn
CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua đời,
chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể
chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh
tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên
Xô ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm được điều này. Và
chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản
nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và
kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh
thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than
cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba
Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra
điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng
than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm
yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ
Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc
trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và
điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những
người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.
Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của
họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những
thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ
cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán
cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản
xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin
gọi cho tôi:
- Gotwald ở đây, ông đến đi. 336
Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald
uống say (ông có nhược điểm này) và nói:
- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng
chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không
lấy tiền đâu. Khi người của các ông ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn
thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông
không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô,
chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là
của chung.
Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì
chúng tôi tiếp tục ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người
Digan được được hỏi:
- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?
Người Digan trả lời:
- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.
Lại còn một vấn đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ
nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi
nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô.
Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả
thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải.
Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì
cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe
tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi
nói với người Tiệp:
- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả.
Đây là sự cần thiết bắt buộc.
Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi,
chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng
thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa
dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa.
Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước
bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulius, còn Ulbrich bằng 337
loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng
tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:
- Hôm nay không có ăn đâu nhé.
- Vì sao?
- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.
Một lần ông đến và nói:
- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.
Nhưng tôi trả lời:
- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.
Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra
hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:
- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?
- Không, tôi vào trại tù binh.
- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?
- Người Nga.
Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:
- Tống cổ mẹ nó đi!
Luôn luôn người Nga, lại người Nga... Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy
được thúc đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga đem cho,
người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.
Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta
công khai xung độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn đề biên giới giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong
lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng
bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc,
chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ
đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân
cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung
Quốc. Malinovski, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức
chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường
như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn. 338
Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn
vùng đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân
Trung Quốc sống ở đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người
chăn thả súc vật đến đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung
Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên
Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân
vân... Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng
Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp
người Trung Quốc. Lúc ấy cuộc xung đột thực chất không phải là vấn đề
biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.
Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran
chúng tôi vẫn chưa có một đường biên giới xác định rõ ràng từ thời Sa
hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một
số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát
sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firiuza ở Turmenia. Khi Sa
hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firiuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không
biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firiuza. Trong thời kỳ xô viết,
người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firiuza,
chúng tôi nói cho họ:
- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại
làng Firiuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển
khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn
sàng đổi làng Firiuza, nhường một làng khác cho các ông?
Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với
láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?
Bắc Kinh nói:
- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên
giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không
bình đẳng ký với Sa hoàng.
Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp ước không bình
đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ
những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp ước tương tự.
Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời
Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có 339
thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói
chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách
khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary,
không có tranh cãi về biên giới nhưng ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn
người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng đất này. Vì sao? Người
Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy
người Ukraina kên núi, chiếm vùng đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ đòi
Cadrar vùng đất này?
Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam
Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng
Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa
của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở
đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ
trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới
giữa Albani và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albani sống ở Nam Tư nhiều
hơn tại chính Albani, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những
người Albani sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người
Albani và họ không về Albani. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm
chính trị thông minh hơn.
Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính
khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên.
Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những
người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm.
Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư BCHTƯ Đảng, một
công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập ĐCS Albani, còn
Hodga đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan điểm xây dựng liên
minh Albani với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy,
có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều
này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?
Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là
gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào?
Thiên đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên đường. Đấy
không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa
thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở
toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở
biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin, 340
những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác
lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu
người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình... Vì sao
chúng tôi phải sợ điều này?
Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại
sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến
Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người
bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalinе, chồng bị bắn, em bị bắn và
em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ
hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách
mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người
Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới
chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn
còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại.
Vì lẽ gì? Giải thích:
- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.
Nói chung chúng tôi khó đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành
nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến
dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị
tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm
những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc
Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng
tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu
xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm
chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn
xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp được tập thể hoá
không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ
đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan
thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất
đóng góp.
Tôi không bao giờ là người bài Do thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và
làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do
Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc ở nhà máy với một người Do thái,
Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp
một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày. 341
Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và
người nào cũng được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và
Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống
thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối
quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp
tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng
thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần
phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân
Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông
đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel
không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.
Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người
khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày
đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ
huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó
còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một
lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc
đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel
xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm
trước đó, có một người già, thành lập đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát
Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những
người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên
Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ
tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà
sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga
giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người
Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi
cũng xấu đi.
Về Albani
Tôi muốn bây giờ được dừng lại ở những quan hệ với Chính phủ
Albani và với Đảng lao động Albani. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không
có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albani, giữa Đảng
cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albani. Họ đáng ra phải là ở giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albani mạnh
lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của
họ. Nhân dân Albani thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và 342
họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và
phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, ĐCS Nam Tư có sự giúp đỡ lớn
lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều
này là đương nhiên, vì rằng ĐCS Nam Tư được tổ chức tốt hơn và giàu
truyền thống cách mạng hơn. ĐCS Albani, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần
giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến
đấu của mình Vukvanovich đến Albani, để tổ chức Đảng lao động.
Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito được
Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện
cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albani cần xuất phát từ
việc Albani sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất
nhiên Albani không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang
Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối
với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt đầu xây
dựng một cung điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi đã thấy chỗ này.
Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả.
Ghép Albani vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về
xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với
Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.
Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và
Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện,
do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng
tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất
cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà ĐCS Nam Tư
dưới sự lãnh đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống ĐCS Liên Xô.
Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó
tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường
như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương
ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị ĐCS toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ
ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả
được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.
Sau khi Stalin chết, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với
Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề
này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những
hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những 343
người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận.
Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành
cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó
khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về
hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế
cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và
trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười.
Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp
ông rất ít.
Tôi gặp Tito cũng ở chỗ Stalin. Tôi có lần ở Moskva, Stalin nói rằng
Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự
vui mừng mong đợi: Họ sẽ đến đấy! Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này
tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước
qua Kiev, và đề nghị:
- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.
Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến
Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành
phố, pháo đài, đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao đổi.
Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động BCHTƯ
ĐCS(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.
Thời ấy, chúng tôi sống bởi lý tưởng khi hình thành một nước xã hội
chủ nghĩa mới, thì đồng thời cần hình thành sự lãnh đạo nào đáy của họ
không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh
tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới
của những nước cộng hoà như thế. Với điều này, tất cả chúng tôi được nuôi
dưỡng. Vì thế chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy với từng nhân dân
tham gia trên con đường xây dựng CNXH, hơn thế nữa ĐCS của họ. Chúng
tôi đã làm cho từng nhân dân và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các
cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của
mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây
là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.
Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn
công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta đặt tôi là tiến hành bí mật gửi nhiều
người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ, đến
Bulgari. Những người tổ chức việc gửi người đi báo cáo tôi, có một binh 344
đoàn đấy được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự,
nhưng trong valy chẳng họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng
chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi
không thể nói được. Hơn nữa, từ chính Stalin nói chung tôi không nghe về
điều này, nhưng người ta báo cáo tôi những người thực hiện chiến dịch này,
họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng
của họ là tâm trạng của những người xâm lược:
- Đưa cho họ người của chúng ta! Thế là họ được gửi đi và chẳng bao
lâu bắt đầu thấy hiệu ứng.
Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.
Vì sao tôi bây giờ chú ý mạnh đến Nam Tư, mặc dù đang nói về
Albani? Vì rằng những vấn đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao
chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không
phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về
chính trị và biết thời gian ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi
ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo ĐCS LX, nhưng không
tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.
Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và
những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói
ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung
quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay
họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov
trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.
Những người này học ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các ĐCS, trong số này, tất
nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối
quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không
muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn
nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoian. Ông cho rằng phải thực hiện những
bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không đồng ý với tôi. Mây mù
che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến
Nam Tư?
Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần,
bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa
đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa; 345
rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc.
Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình
nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên
minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự
này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều
này đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực đổ
xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ đổ vào tất cả chúng tôi, và
không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.
Vì vậy tôi đề nghị:
- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa
học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản
chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố
nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?
Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó
có chủ bút báo “Sự Thật” Sepilov. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng
Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây
dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không
có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân
hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm
trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông
trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái
như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế
Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani.
Hungary, Bulgari, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.
Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albani
tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ
ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết
định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam
Tư, để đặt con đường đầu tiên đi tới đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực
lượng cách mạng, thái độ của Albani đã làm hỏng việc của chúng tôi.
Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan
hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các ĐCS anh em. Tôi không nhớ
bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất
kiên trì cố đạt được điều này. Albani không đồng ý. Những người lãnh đạo
Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng 346
minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ
không phải là những người cộng sản. tất cả điều này được phát biểu với
giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và,
khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng
kèn kẹt.
Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng
suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có
lợi cho cả Albani, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ
vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albani sống ở Nam Tư, và mặc dù
các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có
lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albani nhiều hơn
số người Albani ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc
biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albani buộc phải đồng
ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có
lối thoát khác.
Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi
bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối
quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả
những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ
không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm
những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính
sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albani. Trong
thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ:
làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở
đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những
người Albani hiểu chúng tôi tốt hơn.
Từ phía Albani, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em
không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ
bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ
cũ đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc để giúp đỡ
Albani. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ư đãi, còn
Albani, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói
chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albani: cung cấp
cho họ đồng phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải trả
tiền. 347
Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu
không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành
động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình
thành. Nhưng Albani có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi
xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình
thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân
đội của mình hoặc xây dựng cho Albani quân đội riêng của mình? Đương
nhiên, Albani có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây
một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ
chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để
xây dựng theo khả năng quân đội Albani đông người, nhưng, tất nhiên,
không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albani. Điều này cần thiết là
quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến
đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albani nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa
kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albani trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi
quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết
cần Albani.
Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản
chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự.
Với vị trí của mình, Albani đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở
Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albani là chúng tôi kéo cả tàu
ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Quyết định bố trí ở đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả đấm
tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế, đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi cũng muốn chuyển cho Albani. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albani với đày đủ phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo, và, xây dựng đội ngũ sĩ quan chỉ huy Albani đối với tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này. Bước đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như thế chúng tôi đối với người bạn Albani. Đoàn đại biểu Albani đến gặp chúng tôi đôi lần đứng đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albaniе.
Những người Albani nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albani. Trước khi đi, chúng tôi báo cho những người bạn Albani rằng chúng tôi không muốn khi chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những người lãnh đạo của họ. Trong thời gian ấy, Albani giữ những quan hệ rất căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí.
Nguyễn Học
(dịch từ bản tiếng Nga)
(Blog Ngô Đức Thọ )
Bàn ra tán vào (1)
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Hồi ký của Khurusev - Cái chết của Stalin
![]() |
Ngạn Xuyên, Hà Nội
Cái chết của Stalin
Và tôi đề nghị:
Tôi nói với họ:
- Nếu xem xét Đảng ta những một Đảng dựa trên tập trung dân chủ,
thì chúng ta, những người những người lãnh đạo Đảng, không có quyền
không biết. Tôi, và nhiều người khác nằm trong tình thế là, tất nhiên, không
biết nhiều, vì rằng được đặt trong một chế độ, lúc đó anh chỉ biết người ta
giao cho anh cái gì, còn những cái khác anh không được nói, và đừng thọc
mũi tiếp điều này. Chúng tôi không chọc mũi. Nhưng không phải tất cả ở
trong tình thế như vậy. Một số trong chúng ta biết, một số thậm chí chấp
nhận tham gia giải quyết vấn đề này. Vì thế ở đây mức độ trách nhiệm cũng
khác nhau. Cá nhân tôi sẵn sàng là uỷ viên BCHTƯ Đảng từ Đại hội 17 và
uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 18 chịu phần trách nhiệm của mình, nếu Đảng
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm của ai lãnh đạo trong thời Stalin, khi sự
chuyên quyền hoành hành.
Họ là không đồng ý với tôi. Họ phản đối:
- Anh biết cái gì sẽ xảy ra không?
Lời đối đáp Vorosilov và Molotov đặc biệt the thé. Vorosilov chứng
minh rằng nói chung không cần làm điều này:
- Hừ, ai hỏi chúng ta cơ chứ? - ông lặp lại.
Tôi hỏi lại: 322
- Những tội ác có không? Chính chúng ta chứ không đợi ai khác, phải
nói rằng có. Khi nào người ta hỏi chúng ta, thì mới bắt đầu phán xét. Tôi
không muốn điều này và tôi không chịu trách nhiệm như thế.
Nhưng chẳng thể nào thống nhất ý kiến được, và tôi đã thấy rằng
không đạt được đúng quyết định từ các uỷ viên. Trong Đoàn chủ tịch của Đại
hội chúng tôi chưa đặt vấn đề này, chừng nào thoả thuận được nội bộ Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Lúc đó tôi đưa một đề nghị như sau:
- Đại hội Đảng cứ họp. Kỷ luật nội bộ Đảng cần có sự nhất quán của
lãnh đạo trong các uỷ viên BCHTƯ và uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, sẽ
không tác dụng trong thời gian Đại hội, bởi vì Đại hội có ý nghĩa cao nhất.
Bây giờ mỗi uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ và uỷ viên BCHTƯ, trong số
này và tôi phải làm báo cáo tổng kết, từng người có quyền phát biểu tại Đại
hội và trình bày quan điểm của mình, thậm chí nếu quan điểm này không phù
hợp với quan điểm báo cáo.
Tôi không nói rằng tôi sẽ thông báo về tài liệu của Uỷ ban điều tra.
Nhưng, hình như có ai phản đối, cho rằng tôi có thể phát biểu và trình bày
quan điểm của tôi động chạm đến việc bắt bớ, bắn giết. Bây giờ tôi không
nhớ sau đó những ai ủng hộ ủng hộ tôi. Tôi nghĩ rằng đây là Bulganin,
Pervukhin và Saburov. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ rằng, có thể,
Malenkov cũng ủng hộ tôi. Ông là bí thư BCHTƯ phụ trách nhân sự, vai trò
của ông trong việc này là khá tích cực. Ông, nói riêng, cũng giúp đỡ Stalin
điều động cất nhắc cán bộ, rồi sau đó tiêu diệt họ. Tôi không dám chắc cá
nhân ông khởi xướng đàn áp. Chưa chắc. Nhưng tại những vùng, khu vực,
mà Stalin cử Malenkov đến đó để chỉnh đốn hàng ngũ, thì hàng nghìn người
bị đàn áp và nhiều người trong số này bị xử tử. Tuy nhiên Malenkov có thể
bây giờ ủng hộ tôi.
Có ai đấy nảy ra sáng kiến:
- Vấn đề đặt ra thế này, hình như tốt hơn là làm thêm một bản báo
cáo.
Lúc ấy mọi người miễn cưỡng đồng ý. Tôi nói với họ:
- Thậm chí ở những ai thực hiện những tội ác, lần này đến lúc họ có
thể thú nhận, và họ cũng được khoan hồng, không phải biện minh. Nếu thậm
chí từ quan điểm xem xét vấn đề báo cáo sự lạm quyền mà Stalin thực hiện,
thì có thể làm được ngay bây giờ, tại Đại hội 20. Để đến Đại hội 21 thì sẽ 323
muộn, nếu chúng ta còn kịp sống đến lúc đó và đòi hỏi những vấn đề trước
đây thì chẳng cần nữa. Vì thế tốt nhất làm bản báo cáo thứ hai từ bây giờ.
Khi đó nảy sinh vấn đề ai phải làm báo cáo. Tôi đề nghị Pospelov, và
lập luận đề nghị của mình là ở chỗ Pospelov nghiên cứu vấn đề này với tư
cách Chủ tịch Uỷ ban và viết tài liệu để chúng tôi sử dụng nó. Vì thế ông
không phải mất thời gian chuẩn bị: ông có thể chuyển các tài liệu này vào
báo cáo và đọc nó tại Đại hội. Những người khác (tôi không nhớ là ai) phản
đối và đề nghị là tôi làm luôn báo cáo này. Đối với tôi là bất tiện: vì trong
báo cáo tổng kết tôi không nói một lời nào về điều này, còn sau đó tôi lại làm
thêm báo cáo thứ hai? Và tôi từ chối. Nhưng họ phản đối tôi:
- Nếu bây giờ không phải là anh phát biểu, mà là Pospelov, cũng là
một trong những bí thư BCHTƯ, thì phát sinh vấn đề: Vì sao Khrusev trong
báo cáo tổng kết không nói tý gì về điều này, mà Pospelov lại phát biểu một
vấn đề quan trọng để tranh luận? Không thể Khrusev không biết tài liệu của
Pospelov hoặc không coi trọng sự cần thiết của vấn đề. Nghĩa là, về vấn đề
này có sự bất đồng trong lãnh đạo? Mà Pospelov phát biểu chỉ với ý kiến
riêng?
Luận cứ này cứ lằng nhằng mãi, cuối cùng tôi phải đồng ý. Quyết
định rằng tôi sẽ phát biểu tài liệu của Uỷ ban cùng với báo cáo. Chúng tôi tổ
chức phiên họp kín trong thời gian tranh luận về tổng kết của BCHTƯ, ở đó
tôi cũng làm bản báo cáo thứ hai.
Đại hội nghe tôi một cách im lặng. Như người ta nói có thể nghe được
tiếng ruồi bay. Mọi người đều quá bất ngờ. Cần, tất nhiên, biết rằng các đại
biểu đã sửng sốt về những câu chuyện về sự độc ác được thực hiện đối với
những người từng có công lao, những bolsevich lão thành và những người
trẻ. Bao nhiêu người lương thiện từng được điều động đến khác nhau của đất
nước đã bị giết! Đây là một thảm khốc cho Đảng và cho các đại biểu tham dự
Đại hội. Báo cáo tại Đại hội 20 ĐCSLX về sự lạm quyền của Stalin đã ra đời
như thế.
Tôi xem rằng vấn đề được đưa ra hoàn toàn đúng lúc và kịp thời.
Không những không hối hận, những một số người nghĩ, mà còn thoải mái
trong lòng rằng đã chộp đứng thời điểm và đã cố làm để bản báo cáo này
được làm. Tất cả việc này có thể đưa đến hướng khác, mọi người còn bị sốc
là còn nhiều người cũng bị giam cầm nhe trước đây trong các nhà tù và trại
cải tạo. Năm 1953 chúng tôi đã có giả thiết về vai trò Beria dường như, Beria 324
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lạm quyền thực hiện thời Stalinе. Điều này
cũng gây sốc. Chúng khi đó tôi không cách nào gột khỏi ý nghĩ Stalin -
người bạn của mọi người, bố đẻ nhân dân, thiên tài và vân vân... Không thể
ngay lập tức hình dung rằng Stalin - kẻ sát nhân và tên hung đồ. Vì thế sau
bản án cho Beria chúng tôi lại luẩn quẩn trong giả thiết mà chúng tôi xây
dựng nên có lợi minh oan cho Stalin: Ông Trời không có lỗi, mà lỗi ở kẻ
nịnh bợ, kẻ báo cáo sai cho Trời, vì vậy Trời mới giáng mưa đá, sấm sét và
các tai hoạ khác. Nhân dân bị khổ sở không phải vì Trời muốn thế, mà do tên
nịnh nọt Nicolai, Ilia Prosok, Beria và vân vân... Và bây giờ có lần có người
đặt câu hỏi:
- Liệu có cần phải kể về Stalin không?
Đây hoàn toàn không phải là những người đồng phạm của Stalin
trong tội ác, mà thực chất họ là những người quen thói sợ Stalin, và bây giờ
họ khó xử. Thông thường các vị lão thành đặt các vấn đề như thế. Họ đã
sống với quá khứ, họ khó từ bỏ nổi những hiểu biết trước đây và luận cứ của
thời Stalin. Đây cũng một trong những khuyết điểm giáo dục Đảng viên. Tất
cả các phương pháp giáo dục trong Đảng, Stalin làm nó thích ứng với mình,
với hoạt động của mình: sự tuân lệnh không bàn cãi, sự tín nhiệm tuyệt đối.
Trong thời gian chiến tranh có chết chóc mà không nghi ngờ, tất nhiên,
nhưng sau này luôn luôn quay ngoắt theo hướng ngược lại, vì rằng một
người tin anh mà không bàn luận, khi biết, sự tín nhiệm của anh ta bị lừa, họ
sẽ là kẻ thù của anh. Điều này rất nguy hiểm. Tôi luôn luôn đã đứng, hơn nữa
bây giờ tôi đang đứng vì sự thật, vì sự đúng đắn tuyệt đối trước Đảng, Đoàn
thanh niên và tất cả nhân dân. Có một kết luận là chỉ có nguồn gốc bất tận
sức mạnh của Đảng mới có thể chiếm được sự tín nhiệm nhân dân. Người ta
biết rằng Đảng đã lừa quần chúng đông đảo, Đảng đến đường cùng.
Bây giờ tôi thường nghe đài. Radio - đó là người bạn đồng hành của
tôi trong thời gian dạo chơi. Từ radio tôi nhận cả thông tin, cả sự thoả mãn.
Tôi yêu âm nhạc, yêu dân ca. Nhạc hiện đại cũng làm tôi thích. Nhưng, tôi
cảm thấy, hình như con người độ tôi có xu hướng sống lại tời trai trẻ. Đặc
biệt trong tâm trạng tốt, tôi vừa đi bộ, nghe giọng hát của Ludmina Zykina,
ca sĩ mà tôi yêu thích, và nghe cả những buổi truyền khác. Các buổi truyền
thanh rất nhiều, đa phần là tốt, nhưng cũng gặp cả những những chuyện
nhảm nhí, chỉ có làm bẩn chương trình phát sóng thôi. 325
Một lần tôi nghe đọc một trong các chương cuối tiểu thuyết “Họ chiến
đấu vì tổ quốc” của Solokhov. Mikhail Aleksandrоvich tin bởi sự sáng tác
của mình: chuyện thời Stalin lạm quyền, ông trấn áp những cán bộ lương
thiện, được Lenin giáo dục, Solokhov tả về cuộc nói chuyện của hai ông
đánh cá. Họ ngồi và chuyện trò. Người này hỏi người kia:
- Nên hiểu đồng chí của Stalin như thế nào nhỉ? Người ta nói rằng ông
bỏ sót. Nhưng bao nhiêu người bị tội, bao nhiêu người bị hành quyết! Có thể
Stalin phạm vào điều này không?
- Đúng, khó hiểu - người kia trả lời.
Lúc đó người đầu tiên lại hỏi:
- Thế không phải Beria chính là người có lỗi à? Chính ông báo cáo tất
cả cho Stalin?
Và câu trả lời:
- Đúng, tất cả là do Beria.
Mikhail Aleksandrоvich - một người thông minh và nhà văn giỏi. Sự
thật việc ông lại bám vào cách hiểu biết tương tự theo truyền thống của
chẳng và nhân dân, trong khi bao nhiêu người chết bởi tay Stalin, tất nhiên,
không tô hồng cho ông. Lúc ấy cốt lõi là thế này: Beria không dựng Ezov,
mà từ trước đây, dựng Yagoda. Tất cả bọn họ tiếp theo chân nhau vào màn
kịch. Một “nhân vật”, được Stalin dựng lên, sẽ được thay thế bằng nhân vật
khác, và đây cũng là logic đối với Stalin. Stalin dùng tay người khác để giết
những người lương thiện và ông biết rằng họ là những người trong sạch
trước nhân dân và trước Đảng. Những người chết chỉ vì rằng ông ông sợ họ
và không tin họ. Sau đó, phải dần dần loại bỏ một đồ tể và thay bằng một đồ
thứ hai. Cứ như thế ba thê đội tiễu phạt: trước tiên Yagoda, sau đó Ezov, sau
đó Beria.
Đến Beria, thì điều này chấm dứt. Nói đúng ra, không phải chính
Beria, mà do cái chết của Stalin. Beria đứng trước toà án nhân dân như một
tội phạm. Nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn về cái chết Stalin, thậm
chí khi mọi người biết rõ nhiều sau phiên toà xử Beria, vẫn còn đưa cho
Đảng và nhân dân những lời giải thích không đúng, tất cả đổ bớt sang đầu
Beria. Đối với chúng tôi, Beria tỏ là tiện lợi cho hình ảnh này. Chúng ta đã
làm tất cả để bào chữa cho Stalin, dù chúng ta che chở được tên tội phạm, tên
giết người, vì chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi sự ngưỡng mộ Stalin. 326
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy sự dối trá, khi tôi đến Nam Tư và
hội đàm và Tito và đồng chí khác. Khi chúng tôi đụng chạm vấn đề này và
đổ cho Beria, họ cười và đáp lại một cách nhạo báng. Điều này làm chúng tôi
ức, và chúng tôi, để bảo vệ Stalin, đã cãi nhau rất to, thậm chí suýt đến đổ vỡ
to. Sau đó tôi công khai phát biểu bảo vệ Stalin và chống Nam Tư. Bây giờ
tất cả rõ ràng là không đúng, lúc ấy tôi ở quan điểm của một người chưa
nhận thức được cần vạch mặt đến cùng những tội ác của Stalin, sao cho các
phương pháp hành xử tương tự không bao giờ có thể quay về Đảng ta nữa.
Người, quả là muốn thiết lập kỷ luật của Lenin trong Đảng ta, mình không
phải kỷ luật của Stalin, phải làm hết sức lực để phanh phui Stalin và sự kết
án các phương pháp Stalin. Cần phải minh oan những người lương thiện
trong số những người chưa được minh oan, và phanh phui những sự phi pháp
được tạo ra trước đây, để thậm chí bóng ma của những phương pháp như thế
không thể đội mồ sống lại.
Tôi sửng sốt bởi một số tướng lĩnh lớn quân đội trong hồi lý của mình
muốn minh oan cho Stalin và cho ông là người cha nhân dân, đã chứng minh
rằng nếu không có ông thì chúng tôi không chiến thắng và rơi vào ách phát
xít. Đây là lý luận ngu ngốc, mù quáng. Ngay bây giờ, khi không có Stalin,
chúng tôi vẫn bị rơi vào ảnh hưởng của Đức, Anh, Mỹ hay sao? Không,
không bao giờ. Nhân dân đưa ra những người lãnh đạo mới và có khả năng
bảo vệ mình như từng có trong quá khứ. Sự phi lý của những bàn luận như
thế không cần thiết trong những bằng chứng riêng.
Tôi nhớ, tại một hội nghị, một chỉ huy quân sự, nhân ca ngợi Stalin,
cũng tôn vinh cả Bliukher. Những người khác, tuy ca ngợi Stalin, cũng tôn
vinh Tukhachevski. Đồng chí, phải ăn nói có trước có sau! Không thể đặt kẻ
giết người và nạn nhân lên một bệ. Bliukher là ai? Anh hùng nội chiến, có
bẩm sinh quân sự, thợ nguội, nằm trong hàng ngũ tướng lĩnh lớn. Ông đã
nhận huân chương Cờ Đỏ №1. Bliukher là số một. Sau đó, là một trong số
những chỉ huy quân sự tốt nhất của Liên Xô được cử sang Trung Quốc làm
cố vấn quân sự cho Tôn Trung Sơn. Và bỗng nhiên ông bị bắn! Không thể
nói cùng một lúc về Stalin và Bliukher, mà lờ đi nguyên nhân cái chết
Bliukher. Không thể nhắm mắt cho rằng chẳng ai nhìn thấy gì cả. Sự xấu xa
tương tự có thể chỉ gây ra mất lòng tin.
Tôi có lần ở Bulgari, một trong những bài phát biểu tôi dẫn lời của
Puskin, trong tác phẩm của ông có nói về cuộc nói chuyện giữa Mozart và
Salere. Mozart không hề nghi ngờ rằng Salere chuẩn bị đầu độc mình, nói: 327
- Thiên tài và tội ác không thể là một.
Đúng vậy! Với Stalin cũng vậy. Không thể ghép thiên tài và sát nhân
vào cùng một bộ mặt. Không thể gắn hàng nghìn nạn nhân với những kẻ sát
nhân, mà không có sự giải thích về vụ việc Stalin. Không thể trên một bệ đặt
hai bức tượng. Tội ác do Stalin gây ra!
Theo lối nghĩ như thế - có câu hỏi khác. Một số người tranh luận như
thế này: điều này được làm không phải nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, mà là
lo cho dân. Thật mọi rợ! Lo cho dân, thế mà lại giết những đứa con tốt nhất
của họ! Logic khá ngu đần. Sự thật, tìm những luận cứ để biện bạch cho kẻ
giết người, luôn luôn là phức tạp.
Trong báo cáo của tôi tại Đại hội 20, không nói gì iên quan tới những
vụ án công khai thập niên 30, trong đó có mặt đại diện Đảng cộng sản anh
em. Lúc đó người ta kết án Rykov, Bukharin, những lãnh tụ khác của nhân
dân. Họ xứng đáng để được gọi là lãnh tụ. Chẳng hạn, Rykov. Sau khi Lenin
qua đời, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Liên Xô, có công lao to
trước Đảng, trước nhân dân và xứng đáng lãnh đạo Chính quyền xô viết.
Nhưng người ta kết án và bắn ông. Còn Bukharin? Bukharin là trong những
yêu quý Đảng. Thế hệ Đảng viên lão thành РĐCS(b) từng học theo cuốn
sách của ông Khoa học Mác Lênnin. Bukharin nhiều năm là chủ bút báo Sự
Thật. Lenin gọi ông thân mật là “Bukhric của chúng ta”. Hoặc Zinovev và
Kamenov. Trong cách mạng tháng Mười 1917 họ có sai lầm. Điều này ai
cũng biết, nhưng những cái khác cũng nên biết. Zinovev và Kamenov được
Lenin đưa vào Bộ chính trị BCHTƯ Đảng và ngang hàng các vị lãnh đạo
khác Khi Chính phủ xô viết chuyển về Moskva, Zinovev còn ở Petrograd.
Ông được tin tưởng giao lãnh đạo cái nôi cách mạng và đã nâng ngọn cờ
khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Kamenov được Moskva tin tưởng. Ông là,
nói riêng, là Chủ tịch Mossoviet. Lenin vc quan hệ với ông sau những sai
lầm người ta đã tha thứ cho ông.
Có lần tôi nghe đài nói là: Lenin trao một cái gì đó cho Lomov.
Nhưng Lomov ở đâu nhỉ? Tôi biết rõ Lomov, không ít lần tiếp xúc với ông,
khi làm việc tại Donbass, từ sau nội chiến. Lúc đó ông lãnh đạo khai thác
than tại Donbass. Tôi thường có mặt tại các buổi họp của ông, hoặc ở
Kharkov, nơi trụ sở chính của ông. Đó là một người rất được kính trọng
trong Đảng с thâm niên bí mật trước cách mạng. Lomov đâu rồi? Ông bị bắn,
không còn Lomov nữa. Tôi nói về Kedrovе, Tukhachevski, Egorov, 328
Bliukher, và những người khác. Có thể lập một quyển sách dày thống kê chỉ
những họ tên những tướng lĩnh, Các nhà lãnh đạo Đảng, Đoàn thanh niên,
kinh tế, ngoại giao, khoa học. Tất cả đều là những người lương thiện. Họ là
nạn nhân của Stalin, nạn nhân sự chuyên quyền.
Vấn đề những vụ án công khai thập niên 30 cũng cũng có hai mặt.
Chúng tôi lại sợ nói đến tận cùng, mặc dù không gây ra nghi ngờ nào, rằng
những người này không có tội, họ là nạn nhân sự chuyên quyền. Tại các vụ
án xử công khai, có mặt những người lãnh đạo đảng anh em, mà chính họ sau
này đã chứng minh tại nước họ đây là những bản án chính đáng. Chúng tôi
không muốn làm mất uy tín về những tuyên bố của họ, và hoãn lại việc minh
oan cho Bukharin, Zinovev, Rykov và những người khác đồng chí trong một
thời hạn chưa định được. Tôi nghĩ rằng đúng là cần phải nói đến cùng. Cái
kim trong bọc cũng phải lòi ra.! Thành công chủ yếu Đại hội 20 - là nó bắt
đầu quá trình làm trong sạch Đảng và đưa Đảng trở lại chuẩn mực sinh hoạt,
mà Lenin và những đứa con thân yêu nhất của đất nước đã làm vì nó.
Một phần những người bị kết án sai đã được tha, ngay khi Stalin chết.
Beria khi đặt vấn đề này, điều chỉnh nó, đưa ra một đề nghị thích hợp, và
chúng tôi đồng ý với ông. Nhưng té ra là những người được tha lại là tội
phạm hình sự: giết người, trấn lột, bọn vô lại và đểu cáng. Khi bọn này quay
về nơi ở cũ, thì tái diễn những cảnh trộm cắp, cướp giật và giết người. Nhân
dân ca thán rằng người ta thả bọn trộm cắp và giết người và họ làm bẩn sự
nghiệp của mình. Trước đó Beria bị vạch mặt và kết án. Vì thế chính chúng
tôi phải đưa cho nhân dân những chỉ thị. Bản thân chúng tôi cũng thấy đây là
việc làm không đúng, mặc dù thông qua đề nghị của Beria, nhưng quyết định
lại do Chính phủ và BCHTƯ thông qua, như vậy tất cả chúng tôi chịu trách
nhiệm về việc này. Bao nhiêu đối tượng này được thả, tôi khó nói được, tuy
nhiên trong mọi trường hợp cũng là một đội quân lớn.
Những người bị kết án về chính trị và những người bị lưu đày vẫn còn
nằm trong các nhà tù và các trại tập trung. Beria thậm chí đề nghị thông qua
luật trao quyền cho Bộ nội vụ, nghĩa là Beria, có quyền xem xét là thả ai cho
ai sau khi hết thời hạn trừng phạt. Như tôi đã kể, tôi đã thẳng cánh phản đối
như thế nào, và mọi người ủng hộ tôi. Do đó, Beria rút đề nghị này. Số phận
tất cả những người tù chính trị ra sao, khi Viện trưởng Viện Kiểm sát
Rudenko trình tôi về sự vô tội của họ, tôi hỏi ông: 329
- Sao lại thế? Chính tôi đã nghe, họ thú nhận tội mình người ta buộc
cho họ cơ mà.
Rudenko cười:
- Đó là nghệ thuật của người điều tra và người xử. Hình như những
con người này bị dồn đến trạng thái, chỉ có một cách duy nhất để kết thúc
sớm những đau khổ và nhục nhã - là tự thú nhận, bước sau đó là cái chết”.
Sau Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các ĐCS, đặc biệt Pháp và Ý bắt
đầu xúc động. Cũng dễ hiểu rằng đó là những Đảng vô sản, đông quần
chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Torez và
Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người
bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này
cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng
có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh
được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan, lan sang Hungary. Sau khi
người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền BCHTƯ
ĐCSLX, đến Warsawa, tham dự Plenum BCHTƯ Đảng công nhân thống
nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc
tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất
sóng gió, các uỷ viên BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ
không hài lòng với Liên Xô. Những người trong BCHTƯ Đảng Ba Lan, thân
với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì,
nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy
nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.
Tại Plenum, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công
nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với
Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này.
Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và
thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu
làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:
- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?
Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này: 330
- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông
bị buộc tội gì.
- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?
Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được.
Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhanski, cả Loga-
Sovinski, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không
thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị
lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng
không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.
Sau một thời gian, Okhab dẫn đầu Đoàn đại biểu đến Trung Quốc.
Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó
Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:
- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở
Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba
Lan.
Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo
ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi
ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng
Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành.
Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức,
qua Ba Lan. Nhưng sự kiện ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những
nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để
đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết
định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba
Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó
tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như
Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng
sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalinе, khi chúng tôi
mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp
đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều
này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng
chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết định
nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoian, Bulganin
và một số người khác. 331
Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka,
những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ
lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở
mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở
Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc
của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ
phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:
- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí
thư BCHTƯ. Ông đi mà hỏi người khác.
Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài
lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh
đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền
rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng
chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như
trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.
Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng
tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông
cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và
mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian
ngắn, thì làn sóng không hài lòng sẽ bị bớt đi và tình hình trở lại bình
thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi,
có hai ĐCS, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều
người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì
Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do
Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những
người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên
Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới
một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng
tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô
với Ba Lan. Ông nói:
- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không
có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại
các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị
không thay đổi và liên minh. 332
Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để
tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:
- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở để không tin Gomumka.
Ông được bầu Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan.
Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của
Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không
phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã
nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.
Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm
chúng tôi rất lo ngại.
Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng
giềng. Thời kỳ đó, vấn đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của
chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản.
Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người,
chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư
bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm
của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách
mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô
mác “Fiat”.
Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản
không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ
lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi
mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc
hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản
làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí
hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật
với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.
Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở
phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng
chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi đã bán hát minh cho Mỹ.
Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ.
Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị
buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của
Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất
chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về 333
điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản
người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi
đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế
của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-
Degia:
- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!
Ông nói:
- Cầm lấy đi.
Cầm lấy đi... với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” -
một khoảng cách rất xa.
Nói chung lãnh đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc đẩy nhanh nền công
nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá
trước đây đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn,
nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất
nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí đốt, rừng, bánh mỳ. Các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani
xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho
thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy
thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa
mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều
muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận
Rumani.
Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán
cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của
chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:
- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp
được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn và bán thịt
thăn hun khói cho Mỹ.
Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:
- Đúng.
- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người
Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng
được, biến thành thịt và bán thịt đi. 334
- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.
Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa
cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán
này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng
chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để
giúp đỡ những người bạn?
Bao nhiêu lần, đôi khi, chúng tôi đồng ý kế hoạch, nhưng sau đó
Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:
- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.
Người ta đến.
- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với
hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp
chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.
Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được
điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà
chua Bulgari. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgari quen
nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ
hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ
kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại
cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ
bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgari - nước
trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi
chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.
Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích.
Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa.
Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ.
Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ
tiêu thụ thịt. Năm 1964 ở CHDC Đức 75 kg đầu người một năm, ở Tiệp
Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và
thấp hơn là Bulgari - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:
- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng
tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho
CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước 335
ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông
có lo cho chúng tôi không?
Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh
hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn
Tây Đức. Chỉ riêng điều đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía
chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.
Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương
tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây Đức phải trả cho họ, còn
CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua đời,
chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể
chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh
tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên
Xô ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm được điều này. Và
chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản
nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và
kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh
thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than
cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba
Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra
điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng
than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm
yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ
Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc
trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và
điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những
người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.
Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của
họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những
thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ
cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán
cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản
xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin
gọi cho tôi:
- Gotwald ở đây, ông đến đi. 336
Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald
uống say (ông có nhược điểm này) và nói:
- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng
chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không
lấy tiền đâu. Khi người của các ông ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn
thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông
không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô,
chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là
của chung.
Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì
chúng tôi tiếp tục ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người
Digan được được hỏi:
- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?
Người Digan trả lời:
- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.
Lại còn một vấn đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ
nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi
nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô.
Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả
thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải.
Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì
cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe
tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi
nói với người Tiệp:
- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả.
Đây là sự cần thiết bắt buộc.
Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi,
chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng
thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa
dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa.
Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước
bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulius, còn Ulbrich bằng 337
loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng
tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:
- Hôm nay không có ăn đâu nhé.
- Vì sao?
- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.
Một lần ông đến và nói:
- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.
Nhưng tôi trả lời:
- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.
Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra
hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:
- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?
- Không, tôi vào trại tù binh.
- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?
- Người Nga.
Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:
- Tống cổ mẹ nó đi!
Luôn luôn người Nga, lại người Nga... Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy
được thúc đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga đem cho,
người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.
Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta
công khai xung độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn đề biên giới giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong
lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng
bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc,
chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ
đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân
cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung
Quốc. Malinovski, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức
chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường
như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn. 338
Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn
vùng đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân
Trung Quốc sống ở đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người
chăn thả súc vật đến đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung
Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên
Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân
vân... Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng
Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp
người Trung Quốc. Lúc ấy cuộc xung đột thực chất không phải là vấn đề
biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.
Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran
chúng tôi vẫn chưa có một đường biên giới xác định rõ ràng từ thời Sa
hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một
số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát
sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firiuza ở Turmenia. Khi Sa
hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firiuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không
biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firiuza. Trong thời kỳ xô viết,
người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firiuza,
chúng tôi nói cho họ:
- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại
làng Firiuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển
khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn
sàng đổi làng Firiuza, nhường một làng khác cho các ông?
Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với
láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?
Bắc Kinh nói:
- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên
giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không
bình đẳng ký với Sa hoàng.
Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp ước không bình
đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ
những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp ước tương tự.
Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời
Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có 339
thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói
chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách
khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary,
không có tranh cãi về biên giới nhưng ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn
người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng đất này. Vì sao? Người
Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy
người Ukraina kên núi, chiếm vùng đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ đòi
Cadrar vùng đất này?
Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam
Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng
Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa
của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở
đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ
trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới
giữa Albani và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albani sống ở Nam Tư nhiều
hơn tại chính Albani, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những
người Albani sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người
Albani và họ không về Albani. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm
chính trị thông minh hơn.
Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính
khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên.
Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những
người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm.
Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư BCHTƯ Đảng, một
công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập ĐCS Albani, còn
Hodga đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan điểm xây dựng liên
minh Albani với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy,
có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều
này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?
Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là
gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào?
Thiên đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên đường. Đấy
không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa
thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở
toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở
biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin, 340
những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác
lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu
người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình... Vì sao
chúng tôi phải sợ điều này?
Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại
sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến
Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người
bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalinе, chồng bị bắn, em bị bắn và
em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ
hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách
mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người
Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới
chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn
còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại.
Vì lẽ gì? Giải thích:
- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.
Nói chung chúng tôi khó đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành
nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến
dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị
tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm
những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc
Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng
tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu
xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm
chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn
xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp được tập thể hoá
không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ
đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan
thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất
đóng góp.
Tôi không bao giờ là người bài Do thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và
làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do
Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc ở nhà máy với một người Do thái,
Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp
một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày. 341
Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và
người nào cũng được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và
Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống
thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối
quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp
tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng
thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần
phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân
Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông
đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel
không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.
Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người
khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày
đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ
huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó
còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một
lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc
đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel
xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm
trước đó, có một người già, thành lập đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát
Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những
người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên
Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ
tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà
sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga
giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người
Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi
cũng xấu đi.
Về Albani
Tôi muốn bây giờ được dừng lại ở những quan hệ với Chính phủ
Albani và với Đảng lao động Albani. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không
có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albani, giữa Đảng
cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albani. Họ đáng ra phải là ở giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albani mạnh
lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của
họ. Nhân dân Albani thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và 342
họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và
phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, ĐCS Nam Tư có sự giúp đỡ lớn
lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều
này là đương nhiên, vì rằng ĐCS Nam Tư được tổ chức tốt hơn và giàu
truyền thống cách mạng hơn. ĐCS Albani, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần
giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến
đấu của mình Vukvanovich đến Albani, để tổ chức Đảng lao động.
Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito được
Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện
cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albani cần xuất phát từ
việc Albani sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất
nhiên Albani không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang
Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối
với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt đầu xây
dựng một cung điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi đã thấy chỗ này.
Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả.
Ghép Albani vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về
xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với
Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.
Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và
Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện,
do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng
tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất
cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà ĐCS Nam Tư
dưới sự lãnh đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống ĐCS Liên Xô.
Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó
tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường
như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương
ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị ĐCS toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ
ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả
được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.
Sau khi Stalin chết, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với
Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề
này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những
hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những 343
người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận.
Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành
cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó
khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về
hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế
cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và
trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười.
Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp
ông rất ít.
Tôi gặp Tito cũng ở chỗ Stalin. Tôi có lần ở Moskva, Stalin nói rằng
Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự
vui mừng mong đợi: Họ sẽ đến đấy! Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này
tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước
qua Kiev, và đề nghị:
- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.
Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến
Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành
phố, pháo đài, đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao đổi.
Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động BCHTƯ
ĐCS(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.
Thời ấy, chúng tôi sống bởi lý tưởng khi hình thành một nước xã hội
chủ nghĩa mới, thì đồng thời cần hình thành sự lãnh đạo nào đáy của họ
không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh
tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới
của những nước cộng hoà như thế. Với điều này, tất cả chúng tôi được nuôi
dưỡng. Vì thế chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy với từng nhân dân
tham gia trên con đường xây dựng CNXH, hơn thế nữa ĐCS của họ. Chúng
tôi đã làm cho từng nhân dân và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các
cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của
mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây
là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.
Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn
công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta đặt tôi là tiến hành bí mật gửi nhiều
người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ, đến
Bulgari. Những người tổ chức việc gửi người đi báo cáo tôi, có một binh 344
đoàn đấy được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự,
nhưng trong valy chẳng họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng
chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi
không thể nói được. Hơn nữa, từ chính Stalin nói chung tôi không nghe về
điều này, nhưng người ta báo cáo tôi những người thực hiện chiến dịch này,
họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng
của họ là tâm trạng của những người xâm lược:
- Đưa cho họ người của chúng ta! Thế là họ được gửi đi và chẳng bao
lâu bắt đầu thấy hiệu ứng.
Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.
Vì sao tôi bây giờ chú ý mạnh đến Nam Tư, mặc dù đang nói về
Albani? Vì rằng những vấn đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao
chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không
phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về
chính trị và biết thời gian ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi
ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo ĐCS LX, nhưng không
tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.
Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và
những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói
ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung
quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay
họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov
trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.
Những người này học ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các ĐCS, trong số này, tất
nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối
quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không
muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn
nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoian. Ông cho rằng phải thực hiện những
bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không đồng ý với tôi. Mây mù
che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến
Nam Tư?
Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần,
bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa
đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa; 345
rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc.
Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình
nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên
minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự
này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều
này đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực đổ
xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ đổ vào tất cả chúng tôi, và
không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.
Vì vậy tôi đề nghị:
- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa
học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản
chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố
nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?
Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó
có chủ bút báo “Sự Thật” Sepilov. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng
Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây
dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không
có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân
hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm
trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông
trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái
như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế
Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani.
Hungary, Bulgari, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.
Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albani
tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ
ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết
định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam
Tư, để đặt con đường đầu tiên đi tới đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực
lượng cách mạng, thái độ của Albani đã làm hỏng việc của chúng tôi.
Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan
hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các ĐCS anh em. Tôi không nhớ
bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất
kiên trì cố đạt được điều này. Albani không đồng ý. Những người lãnh đạo
Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng 346
minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ
không phải là những người cộng sản. tất cả điều này được phát biểu với
giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và,
khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng
kèn kẹt.
Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng
suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có
lợi cho cả Albani, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ
vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albani sống ở Nam Tư, và mặc dù
các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có
lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albani nhiều hơn
số người Albani ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc
biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albani buộc phải đồng
ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có
lối thoát khác.
Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi
bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối
quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả
những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ
không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm
những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính
sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albani. Trong
thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ:
làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở
đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những
người Albani hiểu chúng tôi tốt hơn.
Từ phía Albani, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em
không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ
bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ
cũ đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc để giúp đỡ
Albani. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ư đãi, còn
Albani, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói
chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albani: cung cấp
cho họ đồng phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải trả
tiền. 347
Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu
không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành
động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình
thành. Nhưng Albani có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi
xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình
thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân
đội của mình hoặc xây dựng cho Albani quân đội riêng của mình? Đương
nhiên, Albani có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây
một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ
chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để
xây dựng theo khả năng quân đội Albani đông người, nhưng, tất nhiên,
không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albani. Điều này cần thiết là
quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến
đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albani nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa
kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albani trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi
quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết
cần Albani.
Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản
chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự.
Với vị trí của mình, Albani đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở
Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albani là chúng tôi kéo cả tàu
ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Quyết định bố trí ở đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả đấm
tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế, đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi cũng muốn chuyển cho Albani. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albani với đày đủ phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo, và, xây dựng đội ngũ sĩ quan chỉ huy Albani đối với tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này. Bước đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như thế chúng tôi đối với người bạn Albani. Đoàn đại biểu Albani đến gặp chúng tôi đôi lần đứng đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albaniе.
Những người Albani nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albani. Trước khi đi, chúng tôi báo cho những người bạn Albani rằng chúng tôi không muốn khi chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những người lãnh đạo của họ. Trong thời gian ấy, Albani giữ những quan hệ rất căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí.
Nguyễn Học
(dịch từ bản tiếng Nga)
(Blog Ngô Đức Thọ )