Nhân Vật

Hồi ký của Khurusev - Cái chết của Stalin

Tháng hai 1953 Stalin đột ngột ốm. Việc này xảy ra như thế nào? Tất cả chúng tôi ở cạnh ông vào thứ bẩy. Việc này xảy ra sau
 
Ghi chú: do convert từ bản PDF,trong bản để đọc này các số trang nhảy vào trong chính văn (xoá chưa hết) và có thể có một vài chữ nhảy sai vị trí hoặc sai dấu v,v...Người đọc xem đến thì hiểu đó là số trang chứ không phải số trong câu văn của nguyên bản. Nguồn: www.tusachnghiencuu.org/pdf_files/HoiKy).
Chân thành cám ơn người dịch.


Ngạn Xuyên, Hà Nội

Cái chết của Stalin

Tháng hai 1953 Stalin đột ngột ốm. Việc này xảy ra như thế nào? Tất cả chúng tôi ở cạnh ông vào thứ bẩy. Việc này xảy ra sau Đại hội 19, khi Stalin còn “treo” số phận Mikoian và Molotov. Tại Plenum đầu tiên sau Đại hội, ông đề nghị thay thế Bộ chính trị, bằng Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng gồm 25 người và điểm tên nhiều người mới. Tôi và nhiều uỷ viên Bộ chính trị rất ngạc nhiên, cái danh sách ấy được lập ra như thế nào và ai lập? Chính Stalin cũng không biết những người đang giúp ông. Đến bây giờ tôi không biết thực chất. 

 

Hỏi Malenkov, ông trả lời rằng bản thân ông không biết. Theo tình thế ấy, Malenkov lẽ ra phải tham gia vào việc cải cách Đoàn chủ tịch, chọn người và lên danh sách, nhưng lại không được làm. Có thể tự tay Stalin
làm? Theo một số dấu hiệu, tôi giả thiết rằng Kaganovich giúp Stalin chọn cán bộ mới. Bên trong Đoàn chủ tịch, có một Văn phòng hẹp hoạt động. Đoàn chủ tịch thực tế cũng không tập hợp các vấn đề, mà tất cả các vấn đề lại do Văn phòng này giải quyết. Đây là Stalin nghĩ ra một công thức hoàn toàn không có trong điều lệ: không có Văn phòng nào như thế tìm thấy trong Điều lệ Đảng.
 
Stalin xây dựng Văn phòng Đoàn chủ tịch để làm gì? Hình như Stalin muốn lập tức tống cổ Molotov và Mikoian, và ông làm một Đoàn chủ tịch mở rộng, còn sau đó chọn vào Văn phòng một số nhân vật. Như ông nói, là để lãnh đạo linh hoạt. Và trong Đoàn Chủ tịch Văn phòng này không có Molotov, không có Mikoian, nghĩa là “treo” họ. Tôi tin rằng giá như Stalin sống lâu thêm một thời gian nữa, cuộc đời của cả hai Molotov và Mikoian sẽ kết thúc một cách thê thảm. Nói chung, ngay lập tức sau Đại hội Đảng 19, Stalin tiến hành chính sách cô lập Molotov và Mikoian, không mời họ đi đâu cả, không đến nhà nghỉ, không đến nhà riêng, không đến xem phim mà chúng tôi trước đó thường đi cùng với nhau.
 
Nhưng Vorosilov được bầu vào Văn phòng Đoàn chủ tịch. Khá thú vị, có lần chúng tôi ngồi ở chỗ Stalin vì một bản án kéo dài đã lâu, bỗng nhiên ông nói:
 
- Vorosilov chui vào Văn phòng như thế nào?
 
Chúng tôi không nhìn vào ông, mắt đang cụp xuống. Thứ nhất, vì câu nói “chui vào”? Sao mà Vorosilov có thể “chui vào”? Sau đó chúng tôi nói:
 
- Chính ông bổ nhiệm Vorosilov, và ông là được bầu.
 
Stalin không phát triển chủ đề này thêm nữa. Tuy nhiên tuyên bố của ông cũng hiểu được, vì Vorosilov trước Đại hội 19, chưa lôi cuốn vào công tác như một uỷ viên Bộ chính trị: ông không tham gia các phiên họp, không nhận tài liệu. Stalin nói với chúng tôi trong vòng hẹp rằng ông nghi Vorosilov là điệp viên Anh. Không tưởng tượng được, tất nhiên, sự ngu ngốc này. Nhưng ông có lần “nghi ngờ” Molotov. Tôi có mặt nhà nghỉ cuối tuần ở Stalin tại Novo Afon. Và bỗng nhiên trong đầu ông lởn vởn ý nghĩ rằng Molotov là điệp viên của đế quốc Mỹ, bán mình cho Mỹ, vì rằng năm 1945 sang Mỹ bàn về Liên Hiệp Quốc đi trên toa xe hoả đặc biệt sang trọng. Nghĩa là, có toa riêng, như thế là bị bán rồi! Chúng tôi giải thích là Molotov không thể nào có một toa xe riêng nào cả, ở Mỹ các toa xe thuộc về các hãng xe lửa tư nhân. Đấy, đầu óc mụ mị của Stalin trong những tháng cuối cùng của cuộc đời. 
 
Và có lần vào thứ bẩy ông gọi chúng tôi vào Kreml. Ông đích thân mời tôi, Malenkov, Beria và Bulganin. Chúng tôi đến. Ông nói:
 
- Chúng ta xem phim.
 
Chúng tôi xem. Sau đó ông lại nói:
 
- Đi thôi, chúng ta sẽ ăn ở một nhà nghỉ gần.
 
Chúng tôi đén đó, ăn tối. Bữa ăn kéo dài. Stalin gọi những bữa ăn tối như thế, một bữa ăn rất muộn là “bữa trưa”. Chúng tôi ăn xong, có lẽ, 5 hoặc 6 giờ sáng. Thời gian bình thường, khi kết thúc “bữa trưa”. Stalin rất vui vẻ, có mối thiện cảm rất tốt về tinh thần. Không ai chứng minh rằng có thể xảy ra một điều bất ngờ gì đó. Chúng tôi từ giã và ra về.
 
Chúng tôi ra chỗ treo áo, Stalin, như thường lệ, đi đến chỗ chúng tôi. Ông hay đùa, giơ tay, những ngón tay thọc vào bụng tôi, gọi Mikita. Khi nào ông có mối thiện cảm tốt về tinh thần, ông luôn luôn gọi tôi theo tiếng
Ukraina là Mikita. Chúng tôi cũng ra về trong tâm trạng tốt, vì rằng không xảy ra cái gì xấu trong bữa ăn, mà không phải bữa ăn nào cũng được kết thúc tốt đẹp như thế này. Chúng tôi ai nấy về nhà. Tôi chờ đợi, vì sáng mai là ngày nghỉ, Stalin nhất định gọi chúng tôi, vì thế cả ngày tôi không dám ăn, nghĩ có thể là ông lại mời sớm hơn? Sau đó tôi ăn qua loa. Không và vẫn không có chuông! Tôi không tin là ngày nghỉ có thể uổng phí thế này, điều gần như ít xảy ra. Nhưng không! Cũng đã muộn, tôi cởi quần áo, chui lên giường.
 
Malenkov bỗng nhiên gọi tôi:
 
- Một thằng nhóc ở chỗ Stalin (ông nói tên), nhân viên Cheka, vừa gọi đến cho tôi và họ băn khoăn nói rằng dường như một điều gì đó xảy ra với Stalin. Phải nhanh chóng đến đó. Tôi gọi cho anh và đã báo cho Beria và Bulganin. Đến thẳng đó nhé.
 
Lúc ấy, tôi cho gọi xe. Xe của tôi đang ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi mặc nhanh quần áo, đi ngay đến đó, mất chừng 15 phút. Chúng tôi đã quy ước với nhau là không đi vào chỗ Stalin, mà đến trực ban. Chúng tôi rẽ vào, hỏi:
 
- Có chuyện gì thế?
 
Họ trả lời: 
 
- Bình thường đồng chí Stalin vào thời gian 11 giờ, nhất định gọi mang trà cho ông. Có lúc thì ông đòi món ăn. Bây giờ không thấy điều này.
 
Chúng tôi cử đi bà Matrena Petrovna người đi thám thính, bà ta là người hầu phòng, một phụ nữ không còn trẻ và nhiều năm phục vụ ở chỗ Stalin, ít hiểu biết, nhưng là một phụ nữ trung thành với ông. Nhân viên Cheka nói với chúng tôi rằng họ cũng đã cử bà đến đó xem tình thình ra sao. Bà kể là đồng chí Stalin nằm ở trên sàn, ngủ, còn dưới ông có nước. Nhân viên Cheka đỡ ông dậy, đặt ông lên đi văng ở phòng làm việc
nhỏ. Ở ấy có một phòng làm việc nhỏ và một phòng làm việc lớn. Stalin nằm ở sàn phòng làm việc lớn. Tiếp theo họ đặt ông lên giường, đi qua phòng làm việc, nơi ông trượt ngã bị ướt. Khi đó họ kể cho chúng tôi cũng có lần xảy ra như thế như thế và bây giờ ông dường như đang ngủ, chúng tôi cho rằng không có lợi chúng tôi xuất hiện ở chỗ ông và ghi lại sự có mặt của mình, nhìn thấy ông ở đó trong tình thế không đẹp như thế này. Chúng tôi trở về nhà.
 
Một lúc sau, tôi lại nghe chuông. Một lần nữa, Malenkov gọi:
 
- Thằng nhóc ở chỗ đồng chí Stalin lại gọi điện nói rằng một điều gì đó với ông không phải như thế. Mặc dù Matrena Petrovna cũng nói rằng ông ngủ ngon, nhưng đây là một giấc ngủ không bình thường. Phải đến đó một lần nữa đi.
 
Chúng tôi thoả thuận rằng Malenkov gọi tất cả các uỷ viên Văn phòng, kể cả Vorosilov và Kaganovich là những người không có mặt trong bữa ăn và không có đến đến nhà nghỉ lần đầu. chúng tôi cũng thoả thuận gọi cả bác sỹ. Chúng tôi đến chỗ trực ban. Có mặt Kaganovich, Vorosilov, bác sỹ. Trong số bác sỹ, tôi nhớ tên giáo sư tim mạch nổi tiếng Lukomski.
 
Nhưng cùng với ông còn có cả những nhân viên y tế mà tôi không nhớ tên. Chúng tôi vào phòng. Stalin nằm trên đi văng. Chúng tôi nói với bác sỹ để họ bắt đầu công việc của mình và kiểm traл tình trạng đồng chí Stalin. Người đầu tiên là Lukomski, rất cẩn thận, và tôi hiểu ông. Ông sờ vào tay Stalin, như là sờ cục sắt nóng, thậm chí tay giật giật. Beria thô lỗ nói:
 
- Ông là bác sỹ, phải biết làm chứ?
 
Lukomski tuyên bố rằng tay phải Stalin không hoạt động, tê liệt chân trái, và không nói được. Tình huống thật nặng nề. Lúc ấy người ta lập tức rạch quần áo Stalin, mặc quần áo mới và đặt ông lên đi văng ở phòng lớn, nơi ông thường ngủ và có nhiều không khí hơn. Lúc đó chúng tôi quyết định 289 đặt trực ban bác sỹ bên cạnh với ông. Chúng tôi, các uỷ viên Văn phòng Đoàn chủ tịch, cũng phải thường xuyên trực. Sắp xếp như thế này: Beria và Malenkov hai người trực, Kaganovich và Vorosilov, tôi và Bulganin. Nhưng “chủ lực” là Malenkov và Beria. Họ họ trực sáng, chúng tôi với Bulganin trực đêm. Tôi rất lo lắng và, thú nhận rằng tôi tiếc là có thể mất Stalin, người đang nằm trạng thái nguy kịch. Bác sỹ nói rằng mắc chứng bệnh như thế này
hầu như không ai có thể quay lại làm việc. Người ta có thể còn sống nhưng không còn khả năng làm việc, có lẽ phần nhiều những căn bệnh như thế này không tiếp tục, mà kết thúc bằng thảm hoạ.
 
Chúng tôi thấy rằng Stalin nằm bất tỉnh: không biết ông ở trạng thái nào. Người ta cho ông ăn bằng từng thìa nước dùng và trà đường. Các bác sỹ đứng ở đó. Họ lấy nước tiểu của ông, ông vẫn nằm bất động. Tôi nhận xét rằng khi hút nước tiểu ông cố gắng như được che chở, cảm giác không lanh lợi. Nghĩa là, có biết một điều gì đó. Một hôm Stalin hơi tỉnh. Nét mặt ông thể hiện rõ điều này. Nhưng ông không thể nói, cất tay trái và bắt đầu chỉ lên trần, rằng chỉ xuống đất, chỉ vào tường. Môi ông mấp máy tựa như cười. Sau đó bắt đầu nắm tay chúng tôi. Tôi chìa tay mình cho ông và ông chìa tay trái, tay phải không cử động. Bằng việc nắm tay, ông truyền cảm giác của mình.
 
Lúc đó tôi nói:
 
- Ông biết, vì sao ông chìa tay cho chúng tôi? Trên tường treo một bức tranh, được cắt từ tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, in lại bức tranh của hoạ sỹ này. Trong bức tranh có một cô gái đang cho thiên thần nhỏ bú một chai sữa.
 
Nhưng chúng tôi cho đồng chí của Stalin ăn bằng thìa, và ông, có lẽ chỉ ngón tay lên bức tranh, mỉm cười: này, hãy xem, tôi trong trạng thái này cũng giống như những thiên thần nhỏ. Ngay khi Stalin trút hơi thở cuối cùng, Beria công nhiên sùng sục những hành động độc ác chống Stalin. Beria chửi rủa ông, và nhạo báng ông. Đơn giản là không thể nghe ông được! Cũng hay, vả lại, ngay lúc Stalin có được cảm giác và hiểu có thể khỏi bệnh, Beria sán lại ông, đặt tay lên đầu gối, lắc tay ông và bắt đầu hôn tay ông. Khi Stalin lại hôn mê và nhắm mắt, Beria cất bước và nhỏ ra sàn. Chân dung của Beria đấy! Quỷ quyệt thậm chí trong quan hệ với Stalin, người mà Beria từng như tán tụng và sùng bái.
 
Đến phiên trực của tôi với Bulganin. Chúng tôi vào ban ngày cùng với ông đến chỗ Stalin, khi có các giáo sư, và chúng tôi trực đêm. Tôi với 290 Bulganin khi đó là khá cởi mở hơn so với những người khác, tôi tin ý nghĩ
cởi mở nhất của ông và nói:
 
- Nicolai Aleksandrоvich, thấy chưa, bây giờ chúng ta ở trong tình thế là Stalin chẳng bao lâu sẽ chết. Ông chắc là không qua được đâu. Và bác sỹ nói rằng ông không thể sống được đâu. Anh biết, Beria nhắm chức vụ nào cho mình?
 
- Chức nào?
 
- Hắn sẽ lấy chức Bộ trưởng an ninh quốc gia (lúc ấy Bộ an ninh quốc gia và nội vụ đã tách ra). Chúng ta không thể còn cách nào thông qua việc này. Nếu Beria nhận Bộ an ninh quốc gia - điều này sẽ là bắt đầu sự kết thúc của chúng ta. Hắn sẽ lấy chức vụ này để tiêu diệt tất cả chúng ta. Và hắn sẽ làm điều này! Bulganin đồng ý với tôi. Và chúng tôi bàn bạc sẽ hành động như thế nào. Tôi nói với ông:
 
- Tôi sẽ nói chuyện với Malenkov. Tôi nghĩ rằng Malenkov cũng có ý nghĩ, ông cần phải hiểu phải một điều gì đó làm, nếu khác đi sẽ là thảm hoạ đối với Đảng.
 
Vấn đề này đụng chạm không những đối với chúng ta, mà còn tất cả đất nước, mặc dù và tất nhiên chúng ta không muốn rơi vào lưỡi dao của Beria. Sẽ quay lại thời kỳ 1937-1938, có thể thậm chí tệ hơn. Tôi còn một
ngờ vực: tôi không coi Beria là một người cộng sản và nghĩ rằng hắn đơn giản chui qua vao Đảng. У tôi lờ mờ nhận ra lời của Kaminski rằng hắn là điệp viên nước khác, đây là con sói đội lốt cừu, tạo tín nhiệm với Stalin và chiến chức vụ cao. Chính Stalin cũng kéo hắn. Tôi cảm thấy rằng có ngày chính Stalin lại sợ Beria.
Có một sự cố đụng đến tôi theo ý nghĩ tương tự, tôi muốn kể hết về nó. Có lần chúng tôi ngồi ở Stalin. Bỗng nhiên ông nhìn vào Beria và nói:
 
- Tại sao bây giờ tôi những người quanh hoàn toàn người Gruzia? Tại sao lại như vậy?
 
Beria nói:
 
- Đây là những người trung thành và được ông tin.
 
- Nhưng cớ gì, đây là những người Gruzia được tin và trung thành?
 
Chả lẽ người Nga không trung thành và không được tin cậy sao? Dẹp đi! 
 
Và thời điểm ấy người ta bỏ đi những người này. Beria có khả năng qua tay chân của mình làm với Stalin những gì mà hắn đã tiến hành với người khác theo chỉ thị của Stalin: tiêu diệt đầu độc và v.v... Vì thế Stalin, có lẽ (lập luận thay cho ông) cho rằng Beria có khả năng làm những điều như thế với ông. Nghĩa là, phải dẹp đám người hầu cận, qua đó Beria có thể thâm nhập vào buồng ngủ và nhà bếp. Nhưng vì tuổi tác đã già, Stalin không hiểu Dân uỷ an ninh quốc gia khi đó là Abakumov báo cáo ông mọi vấn đề sau khi Abakumov trình Beria và nhận những chỉ dẫn nói như thế nào cho Stalin. Stalin nghĩ rằng Abakumov sắp xếp những người mới và Abakumov làm điều này để Stalin sai bảo. Theo mặt này thì “vụ án mingrel” bị xổ tung.
 
Khi đó Stalin áp đặt quyết định (và nó được được công bố), rằng những người mingrel liên quan với Thổ nhĩ Kỳ trong số họ có những nhân vật nhắm hướng Thổ Nhĩ Kỳ. Tất nhiên chuyện vớ vẩn! Tôi cho rằng có xảy
ra một hành động của Stalin nhằm chống Beria, vì rằng Beria - là minggrel. Như thế, Stalin cũng chuẩn bị đòn chống Beria. Lúc đó nhiều người bị bắt, nhưng Beria khôn khéo quay lại: chui vào “con dao của Stalin” và Beria bắt đầu trấn áp những người mingrel. Những người nghèo tội nghiệp. Người ta lôi họ lên đoạn đầu đài như lôi những con cừu.
 
Có những sự thật chứng minh sự phản bội của Beria, về sự không tin cậy của Stalin đối với Beria. Như vậy, tôi đã nói tất cả với Bulganin, kết thúc buổi trực, và tôi về nhà. Muốn ngủ bù, vì rằng lâu không ngủ tại phiên trực. Bị mất ngủ và đau chân. Chỉ có chân chân đau, nhưng không ngủ được, nghe chuông. Malenkov
nói:
 
- Đến ngay, Stalin xấu đi rồi. Đi ngay thôi!
 
Tôi gọi xe. Quả là, Stalin ở trong trạng thái xấu. Những người khác lục tục kéo đến. Mọi người thấy rằng Stalin đang chết. Các bác sỹ nói với chúng tôi rằng ông bắt đầu hấp hối. Ông ngừng thở. Làm thở nhân tạo cho ông. Xuất hiện một người đàn ông to cao, bắt đầu nén bóp ngực ông, thực hiện thao tác để giúp ông thở. Tôi thú thực rằng toi rất thương Stalin, anh ta làm ông đau. Và tôi nói:
 
- Nghe đây, thôi đi. Người ta chết rồi. Anh còn muốn cái gì nữa?
 
Không thể làm ông sống lại được.
 
Stalin chết, nhưng chính là đau lòng nhìn người ta làm đau ông. Hô hấp nhân tạo ngừng lại. Ngay khi Stalin chết, Beria ngay lập tức vào xe của mình từ “nhà nghỉ gần” và chạy vụt về Moskva. Chúng tôi quyết định gọi đến đây tất cả các uỷ viên Văn phòng hoặc, nếu được, tất cả các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng. Chính xác tôi không nhớ. Trong lúc họ chưa đến, Malenkov đi đi lại lại trong phòng, vẻ, lo lắng. Tôi quyết định nói chuyện với ông:
 
- Egor, tôi nói - tôi phải nói chuyện với anh.
 
- Về cái gì? - Malenkov lạnh lùng hỏi lại.
 
- Stalin chết. Chúng ta sẽ sống tiếp như thế nào?
 
- Nói gì bây giờ? Triệu tập mọi người lại, chúng tôi sẽ nói. Để làm điều này, chúng ta triệu tập nhau lại.
Dường như đây là câu trả lời phô diễn. Nhưng tôi hiểu theo nghĩa khác, hiểu rằng mọi vấn đề đã được Malenkov với Beria dự kiến, và đã được thảo luận từ lâu. 
 
- Thôi được - tôi trả lời - sau này chúng ta sẽ nói chuyện.
 
Mọi người tụ hợp. Họ cũng nhìn thấy Stalin đã chết. Cả Svetlana cũng đến. Tôi gặp cô. Khi gặp, cô rất bồn chồn và khóc, không thể thể kìm được. Tôi thật sự thương Stalin, các con của ông, từ đáy lòng tôi than khóc cái chết của ông, lo lắng cho tương lai đất nước, cho Đảng. Cảm thấy rằng bây giờ Beria bắt đầu chỉ huy tất cả mọi người. Tiếp tục bắt đầu cái vòng được chuẩn bị bởi những tên đao phủ, những tên sát nhân này. Và có sự phân bố “ghế”. Beria đề nghị bổ nhiệm Malenkov làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, và Malenkov thôi chức vụ Bí thư BCHTƯ Đảng. Malenkov đề nghị chuẩn y phó thứ nhất của mình là Beria và chia đôi hai Bộ, thành Bộ an ninh quốc gia và Bộ nội vụ, trong Bộ nội vụ, Beria bổ nhiệm Bộ trưởng. Tôi im
lặng. Bulganin cũng inm lặng. Lúc ấy tôi sợ rằng Bulganin nhảy ra không đúng lúc, vì rằng không được lộ diện sớm quá. Tôi cũng thấy tâm trạng của những người còn lại. Nếu như tôi và Bulganin nói rằng chúng tôi chống, thì bằng đa số phiếu họ sẽ buộc tội chúng tôi là người phá hoại tổ chức, là khi xác Stalin chưa nguội mà chúng tôi đấu đá giành chức vụ. Vâng, tất cả xảy ra theo hướng này hướng, như tôi nghĩ trước. 
 
Molotov cũng bổ nhiệm phó thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Kaganovich - là phó. Vorosilov đề nghị bầu Chủ tịch Đoàn chủ tịch xô viết tối cao Liên Xô, cách chức Svernik. Beria thể hiện rất láo xược với Svernik: nói rằng dân trong nước nói chung không ai biết ông. Tôi thấy lộ diện chi tiết kế hoạch của Beria, biến Vorosilov thành người soạn thảo các quyết định mà Beria làm, khi cối xay thịt của hắn bắt đầu làm việc. Beria đề nghị tôi thôi chức Bí thư Thành uỷ Moskva để tôi tập trung những hoạt động của mình vào công tác BCHTƯ Đảng. Chúng tôi tiến hành cả những bổ nhiệm khác. Đưa ra nghi lễ chôn cất và nghi thức thông báo nhân dân về cái chết của Stalin. Như thế chúng tôi, những người thừa kế của Stalin khởi đầu hoạt động độc lập của mình điều khiển Liên Xô.
 
Có một thoả thuận: hai người lập chương trình nghị sự phiên họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ - Malenkov và Khrusevу. Malenkov chủ toạ phiên họp, nhưng tôi chỉ nhận tham gia lập chương trình nghị sự. Beria vơ lấy nhiều quyền lực, sự trơ trẽn của ông tăng lên. Lúc đó xảy ra va chạm đầu tiên của các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ với Beria và Malenkov. Đoàn chủ tịch, về thành phần bị thay đổi. Chúng tôi quay trở lại nhóm hẹp các uỷ viên, còn Văn phòng do Stalin lập ra tại Plenum sau Đại hội 19, chúng tôi huỷ bỏ. Beria và Malenkov đề nghị bãi bỏ một nghị quyết từ thời Stalinе về xây dựng CNXH ở CHDC Đức. Họ đọc tài liệu cần thiết, nhưng không đưa cho nó vào tay chúng tôi, mặc dù ở Beria có văn bản viết. Beria đọc nó nhân danh bản thân và Malenkov. Molotov phát biểu đầu tiên. Ông kiên quyết chống lại đề nghị đó và lập luận rất hay tại sao ông phản đối. Tôi mừng là Molotov phát biểu dũng cảm và có căn cứ. Ông nói rằng chúng tôi không thể
làm việc này; rằng đây là một sự bỏ vị trí; rằng từ bỏ xây dựng CNXH ở CHDC Đức - nghĩa là làm mất phương hướng sức mạnh của Đảng ở phương Đông và không những ở Đông Đức, mà còn thủ tiêu triển vọng, rằng đây là đầu hàng trước người Mỹ.

 

Tôi hoàn toàn đồng ý với Molotov và ngay lập tức cũng phát biểu, ủng hộ Molotov. Sau tôi nói với Bulganin đang ngồi bên cạnh tôi. Sau đó các uỷ viên còn lại của Đoàn chủ tịch phát biểu. Và Pervukhin, và Saburov, và Kaganovich phát biểu chống đề nghị của Beria - Malenkov đối với CHDC Đức. Lúc đó Beria với Malenkov rút tài liệu của mình. Chúng tôi thậm chí bỏ phiếu và không chép vào biên bản kết quả thảo luận. Tựa như vấn đề chưa hề có. Lúc ấy là mánh khoé, thủ đoạn. 
 
Chúng tôi ra về sau phiên họp, nhưng về mặt tinh thần vẫn nóng bỏng. Làm sao có thể đưa một đề nghị về vấn đề quan trọng như thế này? Tôi cho rằng đây là quan điểm chống cộng. Chúng tôi hiểu, tất nhiên, Beria sử dụng Malenkov, còn Malenkov, như con bê, theo đuôi với Beria trong việc này. Kết thúc phiên họp, bộ ba ra về từ phòng họp - Malenkov, Beria và tôi. Nhưng không tranh cãi gì cả. Ngay hôm đó tôi gặp Molotov, và ông nói với tôi:
 
- Tôi rất hài lòng, ông có quan điểm như vậy. Tôi, thừa nhận, tôi bất ngờ, vì rằng tôi thấy ông luôn luôn với bộ ba này và cho rằng ông cũng có cùng quan điểm thống nhất với Malenkov và Beria, tôi nghĩ rằng Khrusev, có lẽ, biết trước vấn đề này. Rõ ràng ông có quan điểm vững chắc, làm tôi rất hài lòng. Và ông đề nghị tôi gọi ông là “anh”. Phần mình, tôi nói rằng cũng hài lòng rằng Viacheslav Mikhailovich có quan điểm đúng như thế.
 
Một thời gian sau, Bulganin gọi cho tôi:
 
- Người ta vẫn chưa gọi điện cho anh à?
 
Tôi lập tức hiểu ý định của ông mà không cần giải thích thêm:
 
- Không, người ta đã không gọi điện. Cũng sẽ không gọi điện cho tôi.
 
- Còn tôi người ta cũng đã gọi.
 
- Và anh trả lời gì?
 
- Họ nói rằng tôi nghĩ thêm một lần nữa: liệu tôi có muốn giữ chức Bộ trưởng quốc phòng?
 
- Ai gọi điện cho anh?
 
- Ban đầu một người, sau đó người kia. Cả hai đã gọi.
 
- Không, họ không gọi tôi, vì họ biết rằng chuông của họ có thể làm hại họ.
 
Sau đó, từ phía Beria quan hệ với tôi vẻ bề ngoài tựa như không thay đổi. Nhưng tôi hiểu rằng đấy chỉ là mánh khoé của “dân châu Á”. Trong thuật ngữ này, chúng tôi sự đóng góp vào tư duy là con người nghĩ một đằng nói một nẻo “nói dzậy những không phải dzậy”. Tôi hiểu rằng Beria tiến 295 hành chính sách hai mặt, chơi với tôi, làm tôi yên tâm, còn hắn chờ thời điểm sẽ trấn áp tôi trước tiên, khi có thời gian thích.
 
Tại phiên họp Beria đưa đề nghị như thế này:
 
- Bởi vì ở nhiều người bị kết án hoặc bị đi đày đã kết thúc thời hạn tù hoặc đi đày và họ cần được quay về nhơi họ cư trú trước đây, tôi đề nghị chấp nhận quyết định là không ai có quyền quay về nếu thiếu quyết định của Bộ trưởng Bộ nội vụ và phải sống trong khu vực, mà Bộ nội vụ nói trước.
 
Tôi nổi giận và phát biểu chống, nói:
 
- Tôi thẳng thừng phản đối, đây là sự chuyên quyền. Sự chuyên quyền trước đây từng hoành hành. Những người này bị bắt bởi An ninh quốc gia, tiến hành điều tra cũng là An ninh quốc gia và kết án cũng là An ninh quốc gia. “Bộ ba”, được xây dựng trong An ninh quốc gia, tạo ra cái gì mà họ muốn. Không điều tra viên, không công tố viên, không toà - chẳng có cái gì cả, đơn giản là tón người ta và giết. Giờ đây những người đã quá hạn bị trừng phạt thậm chí theo kết án của “bộ ba”, lại bị tước bỏ tất cả, vẫn còn là phạm nhân, và chỗ cư trú của họ lại do Bộ nội vụ đưa ra. Điều này là không được. Những người khác ủng hộ tôi. Beria lại khôn khéo rút đề nghị của mình. Malenkov ghi biên bản, và vấn đề này, một lần nữa, không có trong biên bản.
 
Có những tín hiệu khá nghiêm trọng từ phía Beria. Sau đó Beria lại đưa ra một đề nghị có vẻ tự do: thay đổi những quyết định (thay số quyết định và thời gian), dự tính trước các vụ bắt bớ và kết án những người bị “bộ
ba” bắt thời hạn đến 20 tù hoặc lưu đày. Beria đề nghị giảm thời hạn xuống dưới 10 năm. Tỏ ra là một đề nghị nhân hậu. Nhưng tôi hiểu đúng Beria và nói:
 
- Tôi thẳng thừng chống điều này, vì rằng phải xem xét lại tất cả hệ thống bắt bớ, toà và thực tế điều tra. Đấy là sự chuyên quyền. Nhưng vấn đề, khép tội 20 hoặc 10 năm tù, không có giá trị nào cả, vì rằng có thể ban đầu khép tội 10 năm, sau này thêm 10 năm nữa và lại thêm 10 năm nữa. Có những việc như thế. Chúng tôi có những tài liệu, nêu rõ các phương pháp tương tự đã được thi hành. Vì thế tôi thẳng thừng chống. Và Beria lại rút đề nghị của mình. Như thế tôi tích cực phát biểu chống Beria về hai vấn đề. Vấn đề đầu tiên là ủng hộ lời phát biểu Molotov, vấn đề thứ hai, những người khác ủng 296 hộ tôi. Như thế, tôi không còn nghi ngờ, Beria bây giờ hiểu đúng về tôi và cũng hoạch định những “biện pháp” của mình, vì rằng ông không thể giảng
hoà với ai cản đường ông. Điều kiện công việc xảy ra như thế. Sau đó Beria có một đề nghị, như nhử mồi? Có lần chúng tôi đi, dạo chơi, và Beria nói ý nghĩ của mình:
 
- Tất cả chúng ta đi dưới một bầu trời, như đã nói trong thời kỳ cũ, chúng tôi đang già đi, mọi thứ có thể xảy ra ở mỗi một người trong chúng ta, chúng ta còn có gia đình. Phải nghĩ về tuổi già, và về gia đình của mình. Tôi đề nghị xây dựng những nhà nghỉ cho quan chức mà những nhà nghỉ này được nhà nước chuyển thành sở hữu riêng cho những ai xây dựng chúng. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên cách suy nghĩ này. Nó hoàn toàn gắn liền
với kiểu cách Beria. Và tôi tin tất cả điều này được nói nhằm mục đích khiêu khích. Nhưng Beria tiếp tục:
 
- Tôi đề nghị xây dựng những nhà nghỉ này không phải ở ngoại ô Moskva, mà là ở Sukhumi. Ái chà, thành phố này đẹp như thế nào!
 
Và Beria tả thành phố đẹp lạ lùng như thế nào. 
 
- Nhưng tôi đề nghị xây dựng không phải ở ngoại ô Sukhumi. Tại sao cứ phải ra khỏi thành phố? Phải giải phóng một khoảnh đất rộng ở trung tâm thành phố, làm một công viên, trồng đào. Và Beria bắt đầu bốc lên, nào là trồng ở đó loại đào gì, nho nào. Sau đó Beria tiếp tục phát triển ý nghĩ của mình. Beria có tính toán kỹ càng: cán bộ nào cần, nhân viên nào cần. Ông ta đặt tất cả lên bàn chân trần và rộng lớn. 
 
- Dự án và xây dựng do Bộ nội vụ tiến hành. Trước hết theo tôi, phải xây dựng cho Egor (nghĩa là cho Malenkov), sau đó là anh, Molotov, Vorosilov, và sau đó là những người khác. Tôi im lặng nghe, chừng nào chưa phản đối. Sau đó tôi nói:
 
- Cần phải nghĩ đã.
 
Kết thúc cuộc nói chuyện, bộ ba đến nhà nghỉ. Hai người ngồi chung một xe. Đến gần chỗ rẽ vào đại lộ Rulevsk. Ở đó tôi với Malenkov phải đi tiếp tiếp sang trái, còn Beria - đi thẳng. Tôi ngồi với Malenkov trong một xe.
 
Tôi nói với ông:
 
- Anh xem thế nào? Đây có phải là khiêu khích đơn thuần không.
 
- Vì sao mà anh dây vào những lời của ông ấy nhỉ?
 
- Tôi nhìn xuyên qua nó, đây là khiêu khích. Chẳng có lẽ có thể làm như thế? Bây giờ không phản đối được, cứ để ông ta chúi mũi vào chuyện này và nghĩ rằng, mưu đồ của ông không ai hiểu. 
 
Và Beria bắt đầu thúc đẩy ý tưởng của mình. Cho người làm thiết kế. Khi thiết kế xong, mời chúng tôi xem thiết kế và đề nghị bắt đầu xây dựng. Báo cáo về vấn đề này là một kiến trúc sư nổi tiếng. Bây giờ đồng chí này là người chỉ huy xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Tôi biết ông từ trước chiến tranh và ở các sự kiện trong chiến tranh. Beria coi ông là nhân vật gần gũi, hoặc ông làm việc ở chỗ Beria và thực hiện cái gì mà Beria nói. Sau cuộc gặp gỡ này, tôi nói Malenkov:
 
- Lấy đi. Beria có nhà nghỉ. Ông nói với chúng tôi là cho người ta xây dựng, nhưng ông ấy không xây dựng cho mình. Mà xây cho anh, và làm điều này để làm mất uy tín anh đấy.
 
- Không, không, anh nói gì thế!
 
Đối với tôi sự thật là Beria đề nghị xây dựng nhà nghỉ riêng dứt khoát ở Sukhumi. Trong đồ án có địa điểm được hoạch định, nơi nhà nghỉ của Malenkov sẽ được xây cất. Theo kế hoạch, thấy trước là việc đuổi một số lượng người dân ra khỏi chỗ họ đang sống ở đó. Bộ trưởng báo cáo cho chúng tôi rằng phải đuổi một lượng lớn dân và việc xây dựng như thế quả thật là một tai hoạ. Người ta nói đùa, ở đó bao nhiêu nhà riêng của họ, bao thế hệ sinh sống ở đó từ lâu, và bỗng nhiên lại đuổi họ đi?
 
Beria giải thích là đã được chọn để Malenkov từ nhà nghỉ của mình có thể nhìn thấy Biển Đen quan sát được Thổ Nhĩ Kỳ. Beria thậm chí đùa:
 
- Bờ Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngang chân trời, rất đẹp.
 
Nhưng khi mọi người ra về và chúng tôi còn lại chỉ hai người với nhau, tôi nói với Malenkov:
 
- Chẳng lẽ anh không hiểu Beria muốn gì? Ông ấy muốn tàn sát, quẳng người ta đi, phá huỷ những tổ ấm của họ và xây dựng một cung điện ở đó cho anh. Tất cả sẽ có hàng rào vây quanh. Bắt đầu căm tức sôi sục trong thành phố. Mọi người sẽ chú ý rằng cái này xây cho ai? Và khi tất cả xong, anh đến đó, và mọi người nhìn thấy trong xe là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô; tất cả những việc tàn phá, đuổi dân hoá ra được làm vì anh. Sự 298 phẫn nộ xuất hiện không những chỉ ở Sukhumi, mà bó còn sang các nơi khác. Nhưng Beria cần điều này. Anh khi đó lại tự yêu cầu từ chức. Malenkov lưỡng lự. Beria cũng nói về nhà nghỉ với cả Molotov. Tôi không nghĩ rằng Molotov làm như thế, nhưng Molotov bỗng nhiên đồng ý. Ông nói rằng cứ
xây cho ông nhưng không phải ở Kavkaz, mà ở ngoại ô Moskva. Tôi ngạc nhiên. Tôi nghĩ là Molotov nổi cáu và phản đối. Tôi không biết điều này xảy ra như thế nào. 
 
Như vậy không ai tỏ ra tích cực chống, cỗ máy bắt đầu chạy. Thiết kế xong, Beria xem. Sau công việc, chúng tôi tới gặp Beria, và ông chỉ cho tôi bản thiết kế nhà nghỉ của tôi.
 
- Ôi, xin nghe nhé, căn nhà tốt làm sao, đẹp thế nào.
 
Tôi nói với ông:
 
- Đúng, tôi rất thích.
 
- Cứ cầm bản thiết kế về nhà.
 
Tôi mang bản thiết kế về nhà và, thú thực là không biết nhét nó vào đâu. Vợ tôi, Nina Petrovna, nói với tôi:
 
- Anh có cái gì đấy?
 
Tôi thú thực với bà. Vợ tôi nổi giận:
 
- Bậy bạ quá chừng!
 
Tôi không giải thích một điều gì cho Nina Petrovna và chỉ nói:
 
- Thôi mà, chúng ta xếp nó lại, nói chuyện sau.
 
Như vậy, vụ việc xoay vần. Beria đẩy mạnh xây dựng, nhưng trước khi ông bị bắt thực chất cũng chưa làm được gì cả. Khi ông bị bắt, chúng tôi lập tức bãi bỏ tất cả. Nhưng bản thiết kế nhà nghỉ, thời gian dài lăn đi lăn lại ở đâu đó trong nhà tôi. Lúc đó Beria tăng cường những hoạt động điên cuồng can thiệp vào sinh hoạt các tổ chức Đảng. Beria chế tạo tài liệu về tình hình công việc trong lãnh đạo Ukrainaе. Đòn đầu tiên mà ong nghĩ ra là quyết định giáng vào tổ chức Đảng Ukraina. Tôi nghĩ ông triển khai vụ này để lôi người của tôi. Ông chuẩn bị những tài liệu cần thiết thông qua Bộ nội vụ CHXHCN Ukraina và bắt đầu lôi kéo tỉnh trưởng công an trong việc chuẩn bị vụ việc. Tỉnh trưởng công an ở Lvov Strokach. Giờ đã chết. Đó là một người cộng sản chân chính và một quân nhân tốt. Trước chiến tranh ông là trung tá, tư lệnh biên phòng. Trong thời gian chiến tranh là tham mưu trưởng du kích Ukraina và luôn luôn báo cáo tôi về tình hình tại vùng lãnh thổ bị kẻ thù chiếm đóng. Tôi thấy ông là người trung thực và đứng đắn. Sau chiến tranh ông được bổ nhiệm toàn quyền Bộ nội vụ tỉnh Lvov, nơi bọn chống đốinhoạt động.
 
Sau này chúng tôi biết rằng khi đó Bộ trưởng Bộ nội vụ Ukraina yêu cầu cầu ông thu thập những tài liệu tư liệu bôi nhọ thanh danh các cán bộ Đảng, thì Strokach nói rằng đây không phải là việc của ông, mà là Bí thư tỉnh uỷ, cứ gọi đến đó. Lúc đó Beria gọi cho Strokach và nói rằng nếu ông cứ làm theo ý mình, thì sẽ bị biến thành bụi ở trại tập trung. Nhưng năm 1953, chúng tôi ban đầu chẳng biết một cái gì cả, mặc dù cảm thấy rằng đang có cuộc tấn công vào Đảng, bắt nói phải khuất phục Bộ nội vụ. Chúng tôi bàn cãi tại BCHTƯ ĐCSLX về bản danh sách của Beria về cán bộ lãnh đạo Ukraina. Do đó, thông qua quyết định cách chức Melnikov khỏi chức vụ Bí thư BCHTƯ ĐCS Ukraina, thay vào đó Kirichenko. Ý tưởng Beria là ở chỗ các
cán bộ địa phương, dân tộc Ukraina dường như không đưa vào ban lãnh đạo, không điều động họ, và đề nghị đưa Korneychuk vào Đoàn chủ tịch BCHTƯ ĐCS Ukraina. Việc này được làm tại Plenum. Sau khi Beria bị bắt, các đồng chí kể cho tôi nghe Plenum tiến hành ra sao. Korheychuk hiểu không đúng,
vì sao những ứng cử viên của ông không được điều động, và bắt đầu đấu khẩu, nói lung tung có lợi cho Beria. Ông không sáng trí, vì Beria đã nói như thế.
 
Bản danh sách sau của Beria động đến những người Baltic, sau đó Belorussia. Và cũng cùng một hướngh. Bản đề nghị của Beria chẳng có gì không đúng. BCHTƯ ĐCSLX và chính Beria trước đó đã có lớp học điều động cán bộ dân tộc. Và chúng tôi quyết định rằng ở nước cộng hoà chức vụ Bí thư thứ nhất BCHTƯ phải là người địa phương, không phải là người Nga được cử từ Moskva. Nói chung Beria có xu hướng bài Nga. Ông tuyên truyền rằng tại nơi có nhiều người Nga thì phải phong tỏa họ. Tất cả mọi người cũng hiểu và bắt đầu đả kích không những người Nga, mà còn những cán bộ dân tộc không đấu tranh với “thế lực” Nga. Điều này xảy ra tại nhiều tổ chức Đảng nước cộng hoà tự trị.
 
Tôi nhiều lần nói với Malenkov: 
 
- Chẳng lẽ anh không nhìn thất sự việc sẽ nhân rộng đi đâu à? Chúng ta đang đi đến thảm họa. Beria thu nhặt dao đâm chúng tôi.
 
Malenkov nói với tôi:
 
- Ừ, làm gì? Tôi nhìn thấy, nhưng làm sao tham gia?
 
Tôi nói với ông:
 
- Phải chống cự, mặc dù trong hình thức thế này: anh nhìn thấy các vấn đề mà Beria đưa ra, thường mang xu hướng chống đảng. Không được chấp nhận chúng, mà phản đối chúng.
 
- Anh muốn tôi còn lại một mình hay sao? Nhưng tôi không muốn.
 
- Tại sao anh nghĩ chỉ còn mình anh, nếu anh bắt đầu phản đối? Anh và tôi - cũng hai người. Bulganin, tôi tin, cũng nghĩ như vậy, vì rằng tôi đôi lần trao đổi với ông những suy nghĩ. Những người khác cũng cùng đi với
chúng tôi, nếu chúng tôi phản đối lập luận, từ quan điểm. Bản thân anh không có khả năng nói được ai. Ngay khi Beria đưa đề nghị ra, anh nhanh chóng ủng hộ ông ta, tuyên bố: đúng, đây là đề nghị đúng, tôi “đồng ý”, ai “chống”? Và lập tức anh cho bỏ phiếu. Nhưng anh phải tạo khả năng cho người khác phát biểu, bằng cách ghìm mình, đừng nhảy vọt ra và anh thấy không phải một người nghĩ đâu. Tôi tin tưởng rằng nhiều người không đồng ý về hàng loạt vấn đề với Beria”.


Và tôi đề nghị:

- Chúng ta lập chương trình nghị sự. Đưa các vấn đề các gai góc mà theo quan điểm của chúng ta, Beria đưa ra là không đúng, và chúng ta bắt đầu phản đối ông ta. Tôi tin tưởng rằng chúng tôi huy động được cũng uỷ
viên Đoàn chủ tịch, và không chấp nhận cách giải quyết của Beria. Malenkov cuối cùng cũng phải đồng ý. Tôi, thề rằng, cũng ngạc nhiên và vui lòng. Chúng tôi cùng lập chương trình nghị sự các phiên họp Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Bây giờ tôi không nhớ, khi đó các vấn đề đưa ra như thế nào, vì lâu quá rồi. Tại cuộc họp chúng tôi phát biểu lập luận “chống” về mọi vấn đề. Những người khác cũng ủng hộ chúng tôi, và ý đồ của Beria không được thông qua. Liền tù tì nhiều phiên họp. Ngay sau việc này, Malenkov tìm thấy niềm tin là, té ra, với Beria có thể đấu tranh hoàn toàn bằng phương pháp Đảng, Malenkov tỏ ra cũng có ảnh hưởng của mình giải quyết vấn đề và phủ quyết những đề nghị, mà theo quan điểm của chúng tôi, là có hại cho Đảng và đất nước.
 
Chúng tôi thấy rằng Beria bắt đầu đẩy mạnh các sự kiện. Ông cảm thấy mình đứng trên các uỷ viên Đoàn chủ tịch, lên mặt và thậm chí vẻ bề ngoài biểu thị sự lấn át của mình. Chúng tôi trải qua thời điểm rất tốt nghuy hiểm. Tôi cho rằng cần phải nhanh tay, và nói với Malenkov rằng cần phải nói chuyện với các uỷ viên Đoàn chủ tịch về lý do này. Hình như tại cuộc họp không thể làm thế được, mà phải mặt đối mặt nói chuyện với từng người một để hiểu ý nghĩ về những vấn đề cụ thể đối xử với Beria. Với Bulganin tôi đã nói vấn đề này từ trước đây và biết ý kiến của ông. Ông đứng ở trên cao trí và hiểu rõ sự nguy hiểm, đang đe dọa Đảng và tất cả chúng ta từ phía Beria. Malenkov cũng đồng ý:
 
- Đúng, phải hành động.
 
Chúng tôi thỏa thuận rằng trước tiên tôi phải tới gặp và nói chuyện với Vorosilov. Có một Uỷ ban nào đấy trong đó phải có sự tham gia của tôi và Vorosilov. Tôi quyết định dùng tình tiết này, gọi Klimentу Efremovichу và nói rằng muốn gặp ông nói chuyện về vấn đề gì đó. Vorosilov trả lời ông muốn bây giờ đi cùng với tôi đến BCHTƯ.
 
- Không - tôi nói - tôi đề nghị ông tiếp tôi, tôi tự thân đến ông.
 
Nhưng ông vật nài là ông phải đi. Cuối cùng tôi nài nỉ theo ý mình. Chúng tôi quy ước với Malenkov là sau khi nói chuyện với Vorosilov (trước bữa ăn trưa) tôi quay về nhà, ghé vào Malenkov, và chúng tôi ăn trưa cùng với nhau. Khi đó, tôi và Malenkov sống ở cùng một số nhà, cùng cửa ra vào, chỉ khác là tôi ở tầng cao hơn. Tôi đi đến gặp Vorosilov tại Xô viết tối cao, nhưng tôi không đạt được cái điều mà tôi đã tính. Ngay khi tôi mở cửa và bước qua ngưỡng cửa phòng làm việc của ông, ông đang lớn giọng tán tụng Beria:
 
- Hân hạnh cho chúng tôi, đồng chí Khrusev, chúng tôi có một người tuyệt vời Larenti Pavlovich, đây là một con người xuất chúng!
 
Tôi nói với ông:
 
- Có thể, anh đừng phí công nói như thế nữa, anh đang thổi phồng tư cách ông ta phải không?
 
Nhưng tôi cũng không thể nói với ông về Beria như tôi nghĩ. Sự đánh giá là hoàn toàn ngược lại, và tôi bằng ý kiến của mình đặt Vorosilov vào tình thế khó xử; Ông có thể không đồng ý với tôi đơn giản vì tự ái: khi tôi vừa mới vào, ông đang ca tụng Beria, nhưng sau này lập tức chuyển sang quan điểm của tôi là đi đến sự cần thiết phải loại bỏ Beria. Và tôi quẳng lại cho ông những lời về vấn đề, mà chúng tôi thoả thuận một cách chính thức qua điện thoại: về vấn đề vớ vẩn nào đấy. Và bây giờ tôi quay về ăn trưa, như đã quy ước với Malenkov. Tôi kể cho Malenkov rằng tôi không nhận được cái gì cả, rằng tôi không thể nói chuyện với Vorosilov, như đã nghĩ. Tôi nghĩ rằng Vorosilov có thể, nói như thế để đề phòng người ta nghe trộm, và
nói điều đó để cho bọn “tai mắt” của Beria. Mặt khác, ông cũng coi tôi là người gần với Beria, vì rằng thường thấy chúng tôi bên nhau: Beria, Malenkov và tôi. Nghĩa là, ông nói điều này đối với Beria, ông cũng chứng minh bầu không khí, buộc mọi người phải chấp nhận tính cách và ôm lấy tội lỗi trong óc chống lại lương tri của mình.
 
Chúng tôi thoả thuận với Malenkov là tiếp đây, tôi sẽ nói chuyện với Molotov. Molotov khi đó là Bộ trưởng Bộ ngoại giao. Trước đây ông thường gọi điện cho tôi, nói rằng muốn cùng tôi gặp BCHTƯ và nói chuyện về các vấn đề cán bộ Bộ Ngoại Giao. Tôi lợi dụng cuộc gọi của ông và nói:
 
- Anh muốn gặp tôi phải không? Tôi sẵn sàng. Nếu có thể, anh đến chỗ tôi, tôi ta sẽ nói chuyện với về chuyện cán bộ.
 
Nhưng khi ông đến, tôi nói với ông:
 
- Chúng ta nói chuyện về cán bộ, nhưng không phải về cán bộ của Bộ ngoại giao đâu.
 
Và tôi bắt đầu kể cho Molotov đánh giá của tôi về vai trò của Beria. Tôi nói có sự nguy hiểm như thế nào bây giờ đe doạ Đảng nếu không ngăn chặn Beria đang thực hiện quá trình làm đổ sự lãnh đạo của Đảng. Molotov, hình như bản thân cũng nghĩ nhiều về điều này. Ông không thể không nghĩ, vì rằng bản thân ông biết tất cả và thấy dự giống nhau hơn từ khi Stalin còn sống. Khi Molotov còn được Stalin tin ở Stalin, tôi chính tai đã nghe, ông phát biểu rất mạnh như thế nào chống Beria, nhưng khi không còn Stalinе, Beria có phương pháp khiêu khích. Nếu Beria đưa một đề nghị nào đấy, mà Stalin phát biểu chống, thì Beria quay bề người nào đó đang ngồi:
 
- Đấy, anh cứ đề nghị mãi? Cái này chưa có lợi!
 
Như thế Beria không ít lần chỉ vào Molotov, và Molotov phản ưng rất rất mãnh liệt.
 
Vì vậy, ngay khi tôi bàn mưu với Molotov, ông hoàn toàn đồng ý với tôi.
 
- Đúng, đúng, nhưng tôi muốn hỏi: thế ý Malenkov ra sao?
 
- Tôi nói chuyện lúc này với anh nhân danh và Malenkov, và Bulganin. Malenkov, Bulganin và tôi cũng trao đổi ý kiến về vấn đề này.
 
- Đúng, Các ông hiểu vấn đề này. Tôi hoàn toàn đồng ý và ủng hộ ông. Nhưng ông làm tiếp cái gì và việc này dẫn đến đâu?
 
- Trước hết cần cách chức Beria khỏi chức vụ uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Bộ trưởng Bộ nội vụ.
 
Nhưng Molotov nói rằng điều này không đủ:
 
- Beria rất nguy hiểm, và tôi cho rằng phải dùng những biện pháp cực đoan hơn.
 
- Có thể giữ ông ta để điều tra?
 
Tôi nói “giữ” vì rằng chúng tôi không có những chứng cớ để buộc tội trực tiếp Beria. Tôi có thể nghĩ rằng ông là điệp viên của Musavist, nhưng chỉ Kaminski nói về điều này. Và những bằng chứng như thế không cách nào kiểm tra được, nhưng tôi chưa nghe thấy có sự kết án vụ này. Có thể là thật và cũng có thể là không đúng, tuy nhiên tôi tin Kaminski, vì rằng ông là người đứng đắn và hoàn toàn vì Đảng. Nhưng tính cách khiêu khích của Beria, tất cả chúng tôi dựa trên sự linh cảm. Nhưng không thể bắt người theo
linh cảm. Vì thế tôi nói rằng phải giữ Beria “để kiểm tra”. Điều này thì đúng là có thể.
 
Như vậy, tôi thoả thuận được với Molotov, còn sau đó tôi kể tất cả cho Malenkov và Bulganinу. Và chúng tôi quyết định, cần đẩy nhanh công việc, vì rằng chúng tôi có thể bị nghe trộm hoặc ai đó vô tình sảy miệng, những bằng chứng về những bước đi của chúng tôi lọt tới tai Beria, và Beria bắt chúng tôi một cách đơn giản. Lúc đó chúng tôi quy ước tôi cần phải nói chuyện với Saburov, cũng là uỷ viên Đoàn chủ tịch. Saburov rất nhanh trả lời tôi:
 
- Tôi hoàn toàn đồng ý.
 
Và cũng hỏi:
 
- Thế còn Malenkov?
 
Về điều này những ai dự mưu với tôi đều cũng hỏi như thế.
 
Kaganovich trong thời gian ấy không có mặt ở Moskva, ông ở bận thu mua gỗ, ông kiểm tra công việc ở đó chạy ra sao. Khi Kaganovich quay về, tôi đề nghị ông rẽ vào BCHTƯ. Ông đến buổi chiều, và chúng tôi ngồi với ông rất lâu. Ông tỷ mỷ kể cho tôi về Siberi, về thu mua thu mua gỗ. Tôi không cắt lời ông, mặc dù trong đầu tôi hoàn toàn nghĩ những chuyện khác. Tôi tỏ ra lễ độ, chiến thuật, chờ khi câu chuyện của ông cạn hết.
 
Khi thấy thời cơ đến, tôi nói:
 
- Những điều anh kể cũng hay đấy. Giờ đây tôi muốn nói hết với ông rằng chúng tôi đang làm gì.
 
Kaganovich lập tức vểnh tai nghe:
 
- Thế ai “đồng ý”?
 
Ông đặt vấn đề như thế, thăm dò, tương quan lực lượng. Tôi nói rằng Malenkov, Bulganin, Molotov và Saburov đồng ý, như thế, nói riêng, và không có ông thì chúng tôi cũng có số đông. Lúc đó Kaganovich tuyên bố:
 
- Tôi cũng “đồng ý”, tất nhiên, “đồng ý”, nhưng tôi đơn giản chỉ hỏi thế thôi.
 
Nhưng tôi hiểu đúng ông, và ông hiểu tôi. Sau đó hỏi:
 
- Thế còn Vorosilov?
 
Và tôi kể cho ông, tôi nhận thấy mình không tháo vát với Vorosilov.
 
- Ông nói với với anh như thế à?
 
- Đúng, ông ta ca tụng Beria.
 
Kaganovich chửi rủa Vorosilov, nhưng không độc ác:
 
- Thằng cáo già. Ông ấy không nói thật với anh đâu. Chính ông ấy nói với tôi thật sự là không thể sống tiếp được với Beria, rằng Beria là người rất nguy hiểm, rằng Beria có thể tìm và tiêu diệt tất cả chúng ta.
 
- Thế thì cần phải nói chuyện với ông ta hội đàm một lần nữa. Có thể Malenkov nói chuyện với ông ta được không? Tốt hơn, tôi không nên quay lại nói chuyện với ông nữa để không đặt ông ta vào tình thế khó xử.
 
Cả hai chúng tôi đồng ý.
 
Kaganovich hỏi:
 
- Còn Mikoian?
 
- Với Mikoian, về vấn đề này tôi vẫn còn chưa nói, vì có vấn đề phức
tạp.
 
Tất cả chúng tôi biết những người Kavkaz như Mikoian và Beria có những quan hệ tốt nhất, họ luôn luôn không rời nhau nửa bước. Và tôi kể đã nói chuyện với Mikoian, hình như phải gác lại muộn hơn. Về các cuộc nói chuyện mới, tôi thông báo cho Malenkov, và ông cũng đồng ý trong tình hình hiện tại, tốt hơn là nói cho Vorosilov biết. Giờ đây còn Pervukhin.
 
Malenkov nói:
 
- Với Pervukhin, tôi muốn tự đến bàn bạc.
 
- Lưu ý rằng Pervukhin là người phức tạp, tôi biết ông ta.
 
- Nhưng cả tôi cũng biết ông ấy.
 
- Thôi được, xin cứ việc!
 
 Malenkov mời Pervukhin đến gặp và sau đó gọi cho tôi:
-
 Tôi gặp Pervukhin, kể hết với ông ta tất cả, nhưng Pervukhin trả lời rằng còn suy nghĩ. Điều này rất nguy hiểm. Tôi phải thông báo điều này để giục ông ta nhanh hơn. Không biết, điều này có thể kết thúc như thế nào.
 
Tôi gọi cho Pervukhin. Ông đến với tôi, và tôi hết cho ông nghe một cách thẳng thắn. Mikhail Georgy trả lời:
 
- Nếu như Malenkov nói tất cả với tôi như thế này, như anh nói, tôi đâu có những vấn đề như thế. Tôi hoàn toàn đồng ý và xem rằng không còn lối thoát khác.
 
Tôi không biết Malenkov nói với Pervukhin như thế nào, nhưng kết thúc như thế. Như thế, chúng tôi đã bàn bạc công việc với tất cả uỷ viên Đoàn chủ tịch, trừ Vorosilov và Mikoian. Tôi và Malenkov quyết định bắt đầu hành động trong ngày họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Tại cuộc họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi luôn luôn có mặt: vì biên bản đã ghi là tôi phải tham gia những phiên họp như thế. Tại những phiên họp này vắng mặt Vorosilov. Vì thế chúng tôi quyết định, mời Vorosilov tham dự phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Khi mọi người đến đông đủ, thay bằng phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, là phiên họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ. Chúng tôi quy ước, ngay trước phiên họp này tôi nói chuyện với Mikoian, còn Malenkov nói với Vorosilov.
 
Sáng sớm hôm ấy, tôi ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi gọi cho Mikoian và mời ông rẽ qua tôi, đi cùng tôi cùng tới phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Mikoian đến, và ở đó tôi tiến hành hội đàm. Cuộc hội đàm rất dài. Tôi nhớ rằng chúng tôi nói chuyện khoảng hai tiếng đồng hồ, nói hết và tỷ mỷ, còn sau đó lại hai ba lần đôi lần quay lại những chuyện đã bàn rồi. Vị thế của Mikoian là thế này: Beria quả là có tư cách xấu, nhưng ông không tuyệt vọng, trong thành phần tập thể có thể làm được việc. Đó là một vị trí hoàn toàn đặc biệt, không phải ai trong số chúng tôi có thể giữ được. Tạm thời kết thúc đàm phán, thời gian còn lại chỉ kịp có mặt tại phiên họp. Tôi ngồi chung xe với nhau và đi vào Kreml. Trước đó Malenkov cũng nói chuyện với Vorosilov.
 
- Thế nào? Ông ta vẫn như trước đây khen ngợi Beria à?
 
- Khi tôi vừa mới lắp bắp vài lời về dự định của chúng tôi, Klim (tên gọi thân mật của Vorosilov) ôm quàng lấy tôi, hôn và khóc. Thật thế không, tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng Malenkov nói dối chẳng để làm gì.
 
Sau đó nảy sinh sinh vấn đề thảo luận bắt giữ Beria. Nhưng ai là người bắt Beria? Đội bảo vệ của chúng tôi lại dưới quyền cá nhân Beria. Trong thời gian họp uỷ viên Đoàn chủ tịch, đội bảo vệ ngồi ở phòng bên
cạnh. Ngay khi chúng tôi đưa ra vấn đề này, Beria sẽ ra lệnh cho đội bảo vệ bắt chính chúng tôi. Lúc đó chúng tôi thoả thuận gọi các tướng lĩnh. Chúngm tôi quy ước là tôi nhận trách nhiệm đi mời các tướng lĩnh. Thế là tôi làm như thế, mời Moskalenko và những người khác, tất cả là năm người. Sau đó Malenkov với Bulganin nới rộng vòng của họ và mời thêm cả Zukov. Do vậy chúng tôi có 11 nguyên soái và tướng. Chúng tôi thoả thuận rằng các tướng lĩnh sẽ chờ đợi ở phòng riêng, còn khi nào Malenkov báo cho biết biết, thì họ
đi vào gian phòng đang diễn ra phiên họp, và sẽ bắt Beria.
 
Và thế là phiên họp khai mạc. Vorosilov với tư cách Chủ tịch Đoànchủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, đương nhiên, không thể có mặt tại phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Vì thế sự xuất hiện của ông tựa như khó hiểu. Và Malenkov, khai mạc phiên họp, lập tức đặt vấn đề:
 
- Chúng ta thảo luận công tác Đảng. Có những vấn đề cần phải thảo luận ngay, trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ. 
 
Tất cả đồng ý. Như đã thoả thuận từ trước, tôi xin phép Malenkov được nói và đề nghị thảo luận vấn đề Beria. Beria ngồi bên phải. Beria giật mình, cầm lấy tay tôi, nhìn vào tôi và nói:
 
- Anh nói gì thế, Nikita? Anh định giở trò gì?
 
Tôi nói với Beria:
 
- Thì anh cứ nghe đã, ngay đây tôi muốn nói hết với anh.
 
Thế là tôi nói. Tại Plenum BCHTƯ trước chiến tranh, khi thảo luận tình hình công việc trong Đảng, có lời phát biểu của Kaminski, Dân uỷ y tế Liên Xô. Ông lên diễn đàn và tuyên bố:
 
- Tôi muốn nói rằng khi tôi làm việc ở Baku, có tin đồn dai dẳng lan đi trong số những người cộng sản rằng Beria làm việc trong cơ quan phản gián Musavist. Tôi muốn nói về điều này, để Đảng biết và kiểm tra điều này. Phiên họp khi đó kết thúc, và không ai phát biểu thêm nữa về vấn đề đã nêu, bản thân Beria cũng không cải chính, mặc dù có mặt. Sau đó nghỉ ăn trưa. Sau bữa ăn Plenum tiếp tục, nhưng Kaminski không đến, và không ai biết vì sao. Lúc đó điều này là đúng luật. Nhiều uỷ viên BCHTƯ, có mặt tại một phiên họp, người phiên không đến, bị rơi vào “kẻ thù nhân dân” và bị bắt. Số phận đã rơi vào Kaminski.
 
Tôi biết Kaminski, khi tôi là bí thư Bauman, sau đó Kraskaia Presnia, thành uỷ Moskva và đặc biệtgần gũi với ông khi ông được bầu bí thư đảng uỷ Moskva đầu 1932. Kaminski chơi thân với Mikhain Mikhailovich, một cán bộ triển vọng. Tôi rất kính trọng ông và cũng đánh bạn với ông. Đương nhiên, tôi xây dựng tình hữu nghị với Kaminski. Vì thế tôi tin rằng Grisa - là người đứng đắn. Ông là người đặc biệt trong sạch và có đạo đức. Tuy nhiên, mặc dù không ai tại Plenum cho một lời giải thích nào cả về việc số phận Kaminski, ông như chìm vào nước. Bị chìm không chỉ Kaminski. Hàng trăm, hàng nghìn người mất tích. Sau đó người ta tuyên bố rằng họ là “kẻ thù nhân dân”, vâng tôi đã nói không phải về mỗi người. Từ lâu, trong đầu tôi lẩn quẩn ý nghĩ: Vì sao, khi Kaminski tuyên bố như thế, không ai có lời giải thích xem ông nói đúng hoặc không đúng, điều này có hay không có - không biết..
 
Sau đó tôi kể và những hoạt động gần đây của Beria, từ sau khi Stalin chết, trong quan hệ các tổ chức Đảng - Ukraina, Belarussia và những nước 308 khác. Trong các thư của mình Beria đặt các vấn đề (thư này còn nằm trong lưu trữ) về mối quan hệ tương hỗ trong việc lãnh đạo các nước cộng hoà dân tộc, đặc biệt trong sự lãnh đạo của các cơ quan Cheka, và đề nghị điều động các cán bộ dân tộc. Điều này đúng, đường lối như thế luôn luôn rồn tại trong Đảng. Nhưng Beria đặt vấn đề này theo hướng bài Nga trong việc bồi dưỡng,
điều động và lựa chọn cán bộ. Ông muốn cột chặt các dân tộc và tập hợp họ chống người Nga. Luôn luôn tất cả các kẻ thù ĐCS luôn luôn tính đến cuộc đấu tranh giữa các dân tộc, và Beria cũng bắt đầu từ điều này.
 
Sau đó tôi kể về đề nghị cuối cùng của Beria - về việc từ bỏ xây dựng CNXH ở CHDC Đức - và đề nghị đối với những người bị kết án bị trừng phạt biệt xứ, khi Beria đề nghị không cho phép họ quay về chỗ cư trú, mà quyền quyết định nơi ở của họ do Bộ nội vụ làm, nghĩa là do bản thân Beria. Lúc ấy sự chuyên quyền về luật pháp! Tôi nói cả về đề nghị và Beria thay bằng giải quyết tận gố vấn đề việc bắt người và kết án họ dưới thời Stalinе, giảm thời hạn cực đại những người bị kết ăn bởi cơ quan Bộ Nội vụ từ 20 xuống 10 năm. 
 
Thoáng nhìn, đề nghị này tựa như tự do, còn theo thực chất là họp pháp hoá những gì đang tồn tại. Khép tội 20 năm hoặc 10 năm, tình thế vẫn không thay đổi. Tới 10 năm, và, nếu cần, Beria cho thêm 10 năm, còn
sau đó lại 10 năm, chừng nào người ta còn chưa chết. Và tôi kết thúc:
 
- Do những theo dõi những hoạt động của Beria tôi có ấn tượng rằng ông ta nói chung không phải là một người cộng sản, mà làm kẻ hám lợi, chui vào đảng vì động cơ hám lợi. Ông làm những việc để đề cao mình và không thể chấp nhận được. Không tưởng tượng được một người trung thực có thể
làm việc vì mình.
 
Sau tôi, Bulganin tiếp lời. Tôi và ông từ khi Stalin còn sống đã có cùng một ý kiến về Beria. Ông cũng phát biểu trong tinh thần như thế. Và những người khác thể hiện tính nguyên tắc, trừ Mikoian. Mikoian phát biểu
cuối cùng. Ông phát biểu (tôi không còn nhớ chi tiết lời của ông): lặp lại cái điều đã nói với tôi, khi tôi và ông bàn bạc trước phiên họp, tuyên bố rằng Beria có thể tính đến sự phê bình, rằng ông không mất tuyệt vọng, trong một tập thể ông có khả năng ích lợi.
 
Khi tất cả phát biểu hết, Malenkov, với tư cách Chủ tịch phải tổng kết và làm văn bản quyết định. Nhưng ông lúng túng, và phiên họp chấm dứt ở diễn giả cuối cùng. Phiên họp ngừng lại ít phút
 
Tôi thấy vấn đề như thế đã chất đống lên rồi, và đề nghị Malenkov để ông chuyển lời của tôi vào bản dự thảo. Như chúng tôi đã quy ước với nhau, tôi đề nghị Plenum quyết định vấn đề cách chức Beria (Đoàn chủ tịch BCHTƯ làm điều này) khỏi tất cả các chức vụ mà ông giữ. Malenkov vẫn còn bối rối và thậm chí không đưa đề nghị của tôi ra bỏ phiếu, mà lập tức ấn nút bí mật gọi các tướng lĩnh. Người đầu tiên vào là Zukov, sau ông là Moskalenko và những người khác. Zukov khi đó thứ trưởng Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô. Lúc ấy giữa tôi và Zukov còn tồn tại mối quan hệ tốt, mặc dù ông trong thời kỳ đầu không được tính trong số tướng lĩnh giúp đỡ chúng tôi xử lý Beria.
 
Vì sao chúng tôi lôi kéo các tướng lĩnh. Cũng có những suy tính được nêu ra, nếu chúng tôi quyết định giữ Beria, ai dám chắc Beria không gọi các Chekist, bảo vệ, những người này đang dưới quyền ông, và ông ra lệnh cho họ cô lập chúng tôi? Chúng tôi không có lực lượng, vì rằng ở Kreml có một lượng lớn người của Beria được vũ trang và huấn luyện kỹ càng. Vì thế chúng tôi quyết định lấy các tướng lĩnh quân đội vào việc.
Đầu tiên, chúng tôi trao lệnh cho Moskalenko và 5 tướng bắt Beria. Moskalenko cùng các đồng chí của mình có vũ khí, mà họ cùng vũ khí đó được Bulganin chở vào Kreml. Khi các tướng lĩnh vào Kreml, đã trao vũ khí cho trực ban. Ngay trước phiên họp phiên họp, nhóm Moskalenko được bổ xung thêm nguyên soái Zukov và một số người khác. Và tiến vào phòng họp khoảng 10 người hoặc hơn. Malenkov nói nhẹ nhàng, đề nghị với Zukov:
 
- Tôi đề nghị ông, thay mặt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giữ Beria.
 
Zukov ra lệnh cho Beria:
 
- Giơ tay lên!
 
Moskalenko và những người khác lột vũ khí, cho là Beria có thể gây khiêu khích. Beria kéo mạnh về phía mình chiếc cặp đang nằm ở bậu cửa sổ, sau lưng ông ta. Tôi tóm tay Beria để ông không thể sử dụng súng, nếu súng nằm trong cặp. Sau đó kiểm tra: không có súng trong túi, cũng như trong cặp. Beria đơn giản có phản xạ thôi. Beria bị tống giam vào một gian phòng nhỏ, cạnh văn phòng làm việc Malenkov của trong dinh Hội đồng Bộ trưởng. Và chúng tôi quyết định, sáng mai hoặc sang ngày kia, càng nhanh càng tốt, triệu tập Plenum BCHTƯ Đảng, xử lý vấn đề Beria. Đồng thời cách chức Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên Xô, vì rằng ông không được chúng tôi tin cậy, và chúng tôi nghi ngờ, liệu ông có tiến hành điều tra một cách khách quan không. Viện trưởng Viện kiểm sát mới được bổ nhiệm là Rudenko và được trao quyền tiến hành điều tra vụ Beria. Như vậy, Beria bị bắt. Nhưng đư hắn đi đâu? Chúng tôi không thể tin đội bảo vệ của Bộ nội vụ, vì rằng đây là cơ quan của Beria, với tay chân của Beria. Lúc đó thứ trưởng Bộ nội vụ Kruglov và, hình như, Serov.
 
Tôi ít biết về Kruglov, còn Serov tôi biết rõ hơn và tin ông. Tôi cho rằng Serov là một người trung thực. Nếu có một cái gì đấy làm ông thay đổi, cũng mọi nhân viên Cheka khác, thì ông cũng là nạn nhân của cùng một chính sách chung do Stalin tiến hành. Vì thế tôi đề nghị trao quyền giữ Beria cho chính Serov. Nhưng các đồng chí khác suy nghĩ rằng dù sao chăng nữa phải thận trọng hơn - tất cả chúng tôi không ai tin Kruglov cả. Rồi chúng tôi thoả thuận rằng tốt nhất là trao vụ này tư lệnh quân đoàn phòng không, quân khu Moskva Moskalenko. Moskalenko nhận Beria, cho người của mình vây quanh và giải Beria về chỉ huy sở của mình, trong một cái hầm chống bom.
 
Tôi thấy ông làm tất cả những gì cần thiết. Phiên họp này kết thúc. Ngay khi phiên họp kết thúc, Bulganin đến gặp tôi:
 
- Anh hãy nghe tay đội trưởng bảo vệ của tôi kể.
 
Viên đội trưởng này đến chỗ tôi, kể:
 
- Tôi biết vừa mới bắt Beria, và tôi muốn nói với ông Beria hiếp đứa cháu gái của tôi, học sinh lớp 7. Hơn một năm trước đây bà của nó đã chết, còn vợ tôi vì đột quỵ và nằm ở bệnh viện. Cô bé ở nhà một mình. Một lần vào buổi chiều nó chạy đi mua bánh mỳ thì qua đúng ngôi nhà mà Beria ở. Ở đó, cháu gặp một người đàn ông già đang nhìn chăm chăm vào nó. Cháu khiếp sợ. Sau đó, một nhân viên Cheka gọi cháu và dẫn cháu vào nhà Beria. Beria ngồi ăn cơm chiều cùng với cháu, đề nghị uống rượu chúc Stalin. Cháu
từ chối, nhưng ông ta cứ nài nỉ phải uống vì Stalin. Cháu đồng ý, rồi uống, còn sau đó cháu thiếp đi và ông ta hiếp cháu.
 
Tôi trả lời người này:
 
- Tất cả những gì ông kể, công tố viên sẽ điều tra”.
 
Sau đó người ta đưa chúng tôi một danh sách trong đó có họ tên hơn 100 phụ nữ. Tay chân của Beria dẫn họ tới Beria. Nhưng việc tiếp khách ở chỗ Beria tất cả mọi người đều theo một cách: tất cả những ai vào nhà Beria lần đầu tiên, ông đều mời ăn và đề nghị uống rượu vì sức khoẻ của Stalin. Trong rượu vang ông bỏ sẵn thuốc ngủ. Sau đó ông làm với họ cái gì mà ông muốn. Khi Beria bị cách ly, ông xin bút và giấy. Chúng tôi bàn bạc và quyết định cứ đưa cho ông: biết đâu trong lòng ông thức tỉnh một khát vọng chân thật để ông nó những gì ông ấy biết là chúng tôi buộc tội ông. Và ông bắt đầuviết. Ban đầu, thư cho Malenkov:
 
- Egor, anh thật đáng khinh, tôi biết anh, chúng ta là bạn nhau, sao anh lại tin Khrusev? Ông ta xúi giục anh làm điều này... và vân vân.
 
Với tôi ông cũng có một bức thư, trong đó viết rằng ông là một người trung thực. Ông gửi một số thư như thế: Malenkov băn khoăn khi đọc những thư này. Sau đó Malenkov bắt đầu lo lắng rằng ông và Beria cùng đưa ra ý tưởng từ bỏ xây dựng CNXH ở Đông Đức, và ông sợ rằng vụ việc nhằm chống Beria, xoay sang chống ông. Nhưng chúng tôi nói với ông rằng bây giờ chưa phán xét vấn đề này. Vấn đề Beria còn sâu rộng hơn nhiều so với vấn đề Đức.
 
Khi Rudenko bắt đầu thẩm vấn Beria, thì chúng tôi ngỡ ngàng thấy một con người tàn ác, khốn nạn, không có một cái gì thiêng liêng cả. Ở Beria không hề có chủ nghĩa cộng sản, và nói chung không có bộ mặt đạo đức con người. Nhưng quả là về tội ác của Beria khu vựcc gì để nói, vì ông làm chết bao nhiêu người lương thiện! Sau khi bắt Beria được một thời gian, lại có vấn đề về Merkulov, từng, là Thanh tra nhà nước Liên Xô. Tôi, thú thực rằng, trước đây tôi kính trọng Merkulov và coi ông là người của Đảng. Ông là con người có văn hoá và nói chung tôi quý ông. Vì thế tôi nói các đồng chí của mình:
 
- Có một sự kiện, Merkulov là trợ lý của Beria ở Gruzia, còn chưa đủ chứng minh rằng ông là đồng bọn của Beria. Có thể dù sao đi nữa, điều này không phải thế? Chính Beria giữ rất chức vụ cao và chính hắn chọn người cho mình, mà không phải ngược lại. Người ta tin Beria và làm việc với ông ta. Vì thế không thể coi những ai làm việc làm việc với Beria, như là những cộng sự gây những tội ác. Chúng ta gọi Merkulov, nói chuyện với ông. Có thể, ông thậm chí giúp đỡ chúng ta tốt hơn trong việc phán xét Beria.
 
Và chúng tôi quy ước rằng tôi gọi ông đến BCHTƯ Đảng. Tôi gọi Merkulov, nói rằng Beria bị bắt, rằng đang tiến hành điều tra.
 
- Ông nhiều năm làm việc với Beria, liệu có thể giúp đỡ BCHTƯ.
 
- Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể.
 
Và tôi đề nghị Merkulov: 
 
- Hãy trình bằng văn bản tất cả những gì cần thu thập.
 
Sau bao nhiêu ngày trời, ông mới viết một bức thư dày, tất nhiên, vẫn nằm ở lưu trữ. Nhưng bức thư này chẳng giúp chúng tôi một cái gì cả. Ở đó chỉ là những ấn tượng chung chung, suy lý, tựa như tác phẩm nào đó. Merkulov viết một cái gì đó, kể cả bài hát, và thói quen sáng tác. Khi tôi gửi tài liệu này cho Rudenko, thì ông nói thẳng rằng phải bắt Merkulov, vì rằng điều tra vụ Beria mà không bắt Merkulov thì sẽ công việc sẽ bị cản trở và không làm đày đủ.
 
BCHTƯ Đảng quyết định bắt Merkulov. Tôi đau lòng, thấy rõ rằng mình phí công tin ông. Merkulov có liên quan với Beria trong những tội ác như thế, và chính ông phải ngồi trên ghế bị cáo và cùng trách nhiệm với Beria. Trong lời nói cuối cùng, khi bị kết án trước toà, Merkulov nguyền rủa cái ngày giờ, khi gặp với Beria. Ông nói rằng Beria đã đưa ông tới toà. Từ Đại hội 19 đến Đại hội 20 ĐCSLX
 
Ngay sau khi kết thúc Đại hội 19 ĐCSLX, nảy sinh việc thay thế Bộ chính trị BCHTƯ Đảng trước đây bằng một cái tên gọi mới - Đoàn chủ tịch BCHTƯ ĐCSLX, Stalin đã hình thành những hội đồng rộng rãi gồm nhiều thành viên về các lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế té ra là những hội đồng này chẳng có khả năng làm việc, mặc dù tôi xem rằng nếu có sự lãnh đạo thích đáng lãnh đạo thì nó cũng giải quyết nhiệm vụ cụ thể mà quyền hạn chủ yếu - hội đồng này đưa ra những dự thảo, thì họ đóng một vai trò tích cực.

 

Nhưng họ không thể làm nổi vai trò đó, vì rằng nó được trình cho chính họ, và không hề có một kế hoạch nào cả để lãnh đạo những hội đồng này, và các vấn đề đặt ra trước đây với họ vẫn không giải nghĩa được. Các vấn đề đang được suy nghĩ. Tóm lại, một người có dụng cụ của mình thích dùng lúc nào
thì dùng. Không có ai lãnh đạo cả. 
 
Rồi Stalin chết. Tôi rất trải qua nặng nề về cái chết của ông. Nếu nói chân thật, thì tôi chịu đựng không phải vì tôi có mối ràng buộc với Stalin, mặc dù nói chung tôi cũng ràng buộc với ông. Đơn giản là ông đã già, và
không tránh khỏi cái chết luôn cặp kè với ông. Đối với tôi dó là quy luật bi thảm của tự nhiên: mọi người sinh ra và chết đi, phải coi trọng điều này. Stalin ở độ tuổi như thế, không thể tránh khỏi cái chết. Nôi lo lắng trước tiên của tôi là thành phần Đoàn chủ tịch vẫn tồn tại sau khi Stalin chết, và vai trò đặc biệt của nó đang nằm trong tay Beria và được ông ta củng cố: vai trò này đang báo trước, theo đánh giá của tôi, có một công việc lớn và là một bất ngờ lớn, tôi thậm chí nói rằng hậu quả thảm khốc. Vì thế tôi than khóc Stalin như
một lực lượng duy nhất hiện thực đoàn kết. Mặc dù lực lượng này thường được sử dụng rất lung tung và không phải luôn luôn đi theo hướng cần thiết, nhưng tất cả sức lực của Stalin là nhằm đến sự vững mạnh và phát triển sự nghiệp CNXH, sự vững mạnh thành quả của cách mạng tháng Mười. Điều này tôi không nghi ngờ. Ông đã thi hành cách thức dã man trong hành động, nhưng khi đó tôi còn chưa biết, sự xấu xa của ông là hoàn toàn vô căn cứ đến nhường nào, từ quan điểm của những người bị bắt và bị tử hình một cách vô cớ.
 
Tất nhiên ở tôi, cũng như mọi người khác thoáng hiện một ngờ vực:
 
- Thế này là thế nào? Trong số những người bị bắt hoặc bị tù hầu như không có ai quay lại và hầu như họ không đúng?
 
Trong cuộc sống không cần phải có như thế. Những nghi ngờ phát sinh đều có căn cứ, như phải theo chuẩn mực đúng trong ý nghĩ. Nhưng Stalin - là Stalin. Uy tín của ông rất lớn, và tôi không nghĩ rằng con người
này về nguyên tắc có khả năng cố ý lạm dụng quyền lực. Beria, khi Stalin chết, lại vào đúng chỗ đó. Ông thay đổi hẳn, trẻ ra, ăn nói thô lỗ, vui vẻ lên, đứng ở thi hài Stalin đặt trong quan tài chưa đến giờ chôn. Beria cho rằng thời của ông đã đến. Bây giờ không còn thế lực nào có thể kiềm chế ông, mà thế lực đó ông cần tính đến. Giờ đây ông có thể làm tất cả những gì ông xem là cần thiết. Malenkov? Malenkov không bao giờ giữ vị trí riêng, ông không có vai trò đặc biệt. Ông luôn luôn là người đầu sai. Stalin trong các cuộc nói chuyện hẹp đã nói một cách tương đối hình ảnh về Malenkov:
 
- Đây là một thợ viết. Ông ta viết nghị quyết rất nhanh, không phải luôn luôn một mình mà con tổ chức mọi người. Điều này ông làm nhanh hơn và tốt hơn những người khác, nhưng ông không có khả năng suy nghĩ và
sáng kiến độc lập. Đúng, Malenkov, theo tôi, cũng không có tham vọng trực tiếp cho điều này. Năm năm trước khi Stalin mất, tôi có mặt ở Sochi theo lời mời của Stalin, tôi có một lần nói với Malenkov, nhắc ông nên lưu tâm rằng ông có chỗ đứng của mình và không phải là dường cột trong quan hệ Beria, còn Beria nhạo báng ông. Lúc đó Malenkov nói với tôi là ông biết điều này, nhưng ông có khả năng để làm đúng công việc và thoát khỏi điều này. Ông cho rằng ông cùng với Beria là có lợi cho cá nhân ông. Vả lại, quả là đúng
như vậy. Ông ủng hộ Beria, còn Beria ủng hộ Malenkov. Vì thế Stalin đánh giá cao hoạt động của Malenkov, mặc dù ông phê phán mạnh về khả năng của Malenkov trong lãnh đạo. Bulganin?
 
Bulganin rất thận trọng với Beria, và khi tôi với ông nói về vấn đề này, thì ông phát biểu nhận xét tiêu cực đối với Beria, ông đồng ý với tôi. Với ý nghĩ như thế, tôi đứng cạnh thi hài Stalin. Trước đây tôi đã kể
về hoạt động của chúng tôi sau khi Stalin chết và về việc bắt Beria và tôi không bây giờ không lặp lại nữa. Nhưng sau khi bắt Beria và điều tra thì khám phá được những thôi thúc bí mật che dấu chúng tôi, những thôi thúc này trước đây đẻ ra sự lạm quyền lớn biết nhường nào dẫn đến cái chết của nhiều người lương thiện. Đối với tôi, nói riêng, ấn tượng mạnh nhất là cái chết Kedrov, cha của viện sỹ triết học Kedrov. Cá nhân tôi không biết Kedrov cha. Ông là một chính khách lớn, một trong những nhà lãnh đạo bộ đội Liên Xô ở miền Bắc, trong những năm nội chiến ông là người tổ chức phòng thủ chống bọn can thiệp ở đó. Và tôi có nhu cầu phải vén bức rèm để biết, dù cuộc điều tra đang làm, tại sao xảy ra các vụ bắt bớ, tất cả bao nhiêu người bắt, tài liệu gốc về việc bắt giam và điều tra về các vụ bắt giam này như thế nào? Tôi đặt vấn đề này tại cuộc họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ và đề nghị được phân xử rõ ràng. Các vấn đề này đặc biệt làm tôi lo lắng vì rằng chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ về tiến hành Đại hội 20.
 
Tất nhiên chúng tôi cùng Vorosilov, Molotov, Kaganovich không bỏ cuộc đấu tranh để mở toang những thôi thúc bí mật. Tôi còn nhớ chính xác quan điểm của Mikoian. Hình như, Mikoian không tích cực, nhưng không
cản trở quá trình phanh phui sự bất công. Tóm lại, dần dần tất cả đều đồng ý rằng cần phải tiến hành phanh phui vụ việc. Một Uỷ ban điều tra được thành lập, đứng đầu là Pospelov. Trước đó, tôi mời Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên Xô Rudenko (là Viện trưởng Viện kiểm sát đã xem xét nhiều và kiểm tra các tài liệu này) và hỏi ông:
 
- Đồng chí Rudenko, theo những bản án công khai thập niên 30 những điều buộc tội là căn cứ, thì mang chúng trình cho Bukharinу, Rykov, Syrsov, Lominadze, Krestinski và những người khác, trong BCH TƯ, các uỷ viên Ban tổ chức và Bộ chính trị? Có bao nhiêu những tài liệu có căn cứ?
 
Rudenko nói rằng từ quan điểm chuẩn mực luật pháp thì chẳng có một số liệu nào cả để buộc tội những người này. Tất cả chỉ dựa trên những lời thú nhận có tính cá nhân, mà những lời thú nhận đó có được bằng cách đánh đập và hành hạ người ta về tinh thần và thể xác, cho nên không thể là cơ sở để kết án người ta.
Khi đó đặt trước tôi một vấn đề: điều này có thể xảy ra không? Mọi người biết về vai trò của Stalin, cá nhân ông, quá trình hoạt động cách mạng của ông, công lao của ông trước đất nước và những phẩm chất mà Đảng ghi nhận. Ông có đầy đủ cơ sở để có vai trò đặc biệt, vì rằng ông thực tế đã tách khỏi những người gần mình và biết tổ chức công việc, và thông minh. Ông quả là đứng cao hơn người khác. Và thậm chí bây giờ, dù tôi không khoan nhượng những phương pháp hành động của ông, sự lạm quyền của ông, tôi cũng phải thừa nhận điều này. Tuy nhiên, nếu như bây giờ, chẳng hạn, ông vẫn còn sống và tiến hành bỏ phiếu về vấn đề trách nhiệm của ông vì hành vi ấy, thì tôi vẫn có quân điểm là phải xử ông. Nhưng cần phải đánh giá ông. Con người này không đơn giản đến với chúng tôi bằng gươm và chiếm được trái tim khối óc chúng tôi. Không, ông trong cuộc sống ông thể hiện sự lấn át của mình, tài năng lãnh đạo đất nước, kỹ năng cai trị mọi người, cho họ những phẩn cách vững chắc, cần thiết cho người lãnh đạo ở quy mô lớn. Tất cả những gì liên quan tới cá nhân của Stalin, có cái xấu, cái tốt, cái đúng, và dã man, không để hết vào đâu. Phải xem xét tất cả các mặt của con người phức tạp này. Tôi nói nhiều ở đây phía tối đơn giản vì rằng mặt tâng bốc ông là quá đủ rồi. Điều chủ yếu - có những kết luận cần thiết và để những sự việc tương tự không lặp lại trong tương lai. Ở đây bao gồm tất cả các thư của tôi. Bất cứ việc nghiên cứu nào về quá khứ cần phải phục vụ cho hiện tại và tương lai.
 
Mở rộng một hướng song song. Những người lứa tuổi tôi nhớ lại việc ca tụng Stalin dần dần tăng lên, và mọi người đều biết sự tụng ca này được rót hết cỡ. Stalin thông minh! Stalin thiên tài! Tôi cũng chưa nói về những từ văn vẻ khác: nào là bố để nhân dân, và vân vân. Tất cả điều này hiện nay vang lên tại Trung Quốc người ta nói và viết về Mao. Tôi xem phim Trung Quốc. Tôi thấy chúng không hiếm trên TV. Tất cả các buổi tiếp khách được Mao nhân bản từ Stalin. Hãy mở mắt và nghe những lời phát biểu của người  Trung Quốc về Mao Trạch Đông. Nếu thay thế “Mao” bằng “Stalin”, thì nhận được quá khứ. Đúng là những “màn kịch” tương xứng đã từng được tổ  chức ở chúng ta. Tôi xem đó là hiện diện tính nhu nhược của Stalin. Nhưng,
hình như sự việc không những chỉ ở tính nhu nhược. Hình như những người này, Stalin và Mao Trạch Đông, trong vấn đề này về nguyên tắc rất giống nhau. Họ coi điều này là cần thiết để giữ uy tín của họ được trên cao và không những bắt mọi người chịu mình, mà còn bắt họ phải sợ hãi.
 
Và dù sao chăng nữa có vấn đề: Vì sao điều này lại xảy ra? Nhiều người mà tôi tiếp xúc, hỏi:
 
- Tai sao Stalin, một người thông minh, có thể làm thế?
 
Tôi không ít lần, khi quay lại vấn đề này, tìm câu trả lời cho mình. Và tôi có câu câu trả lời duy nhất, tôi nghĩ rằng ông đúng. Để hiểu căn nguyên sự lạm quyền, giết người sai trái, tính tàn bạo của Stalin, phải quay về chúc thư của Lenin. Lenin, khi ông viết chúc thư, rõ ràng đã thấy trước, Stalin có thể đưa Đảng đến điều đó, nếu Stalin còn nằm trong ban lãnh đạo sẽ chiếm chức vụ Tổng Bí thư BCHTƯ. Lenin viết rằng phải loại bỏ Stalin khỏi chức vụ này, mặc dù Stalin cũng có những phẩm chất để làm lãnh đạo. Nhưng ông thô lỗ và có khả năng lạm dụng quyền lực, vì thế ông không thể giữ được. Lenin đề nghị thay thế Stalin bằng một người chan hoà hơn, biết lắng nghe hơn, kiên nhẫn hơn đối với đồng chí trong Đảng và không lạm dụng chức vụ
cao của mình. Tôi cho rằng đây là nhận xét chính xác. Cuộc sống đã hoàn toàn xác nhận tư tưởng của Lenin. BCHTƯ Đảng không đi theo lời Lenin, không rút ra những kết luận thích hợp và bị thất bại. Không những BCHTƯ, mà toàn Đảng đã vị Stalin lạm quyền trừng phạt, giết Đảng viên và cốt cán ngoài Đảng. Trong những hoạt động này của Stalin, thấy được một con người bệnh hoạn. Đã xảy ra thảm hoạ với Đảng và tất cả nhân dân chúng tôi.
 
Tài liệu của Uỷ ban Pospelov mà chúng tôi lập trước ngưỡng cửa Đại hội 20 ĐCSLX, đối với nhiều người trong chúng ta là hoàn toàn bất ngờ. Tôi nói về ban thân tôi, ở mức độ nào đấy và về Malenkov, Bulganin, Pervukhin, Saburov, và các đồng chí khác. Đồng thời tôi xem rằng Mikoian trong thâm tâm phải rất sẵn sàng có thể bóc trần các sự thật dạng này được soi sáng trong thư của Pospelov. Tôi không cả quyết Mikoian biết tất cả! Dù sao chăng nữa thời gian dài Mikoian gần Stalin hơn tất cả chúng ta, và nhiều người làm việc với ông, được ông tin và được ông kính trọng, cũng đã bị giết. Anastas Ivanovich là người thông minh sắc sảo, biết cách thông báo sự 317 thật, tôi nghĩ rằng nếu ông không biết tất cả, thì tôi dự đoán cho rằng vẫn còn ít chứng cớ về các vụ bắt bớ giam cầm và đặc biệt là các vụ hành quyết, được tiến hành trong thời gian Stalin cầm quyền. Tôi có cơ sở nghĩ như vậy, nói riêng, cuộc mạn đàm của tôi với Anastas Ivanovich, khi ông kể cho tôi nghe về buổi nói chuyện của ông với Ordzonikidze ngay đêm hôm trước cái chết của ông ta. Khi đó tôi là uỷ viên Ban lễ tang Sergo, Chủ tịch Ban lễ tang là Avel Safronovich Enukidze giải thích rằng Sergo chết đột ngột do vỡ tim. Tất nhiên ông giải thích rằng Stalin ra lệnh như thế. Sau này, có lần tôi ở văn phòng của Stalin và hoàn toàn ngẫu nhiên khen ngợi Sergo. Điều này gây ra một ấn tượng xấu, không ai phản đối tôi, nhưng tất cả lặng thinh, im lặng một lúc. Sau đó Malenkov giải thích cho tôi rằng Sergo bị bắn. Tất nhiên khi Sergo chết, Malenkov cũng không biết gì cả về điều này, bởi vì khi đó ông còn chưa gần Stalin bằng tôi. Nhưng trong thời gian chiến tranh vệ quốc ông biết về điều này trong một lần nói chuyện ngẫu nhiên ở Stalin. 
 
Sau khi Stalin chết, Mikoian cũng kể rằng Ordzonikidze bị bắn hôm chủ nhật, nhưng đêm thứ bẩy, họ còn đi bộ quanh Kreml và nói chuyện. Trong cuộc hội đàm ấy, Sergo nhận xét rằng không thể tiếp tục sống: chiến đấu với Stalin thì ông không thể, mà chịu đựng thì ông đã làm, không còn sức. Vì sao chúng tôi xây dựng Uỷ ban của Pospelov? Tôi lập luận như thế này: chúng tôi đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Đại hội Đảng đầu tiên sau khi Stalin chết. Tại Đại hội này chúng tôi cần phải nhận trách nhiệm về lãnh đạo Đảng và đất nước. Để làm việc này phải biết chính xác cái gì được làm trước đây và bằng cái gì mà Stalin đưa ra những quyết định về vấn đề này khác.
 
Đặc biệt điều này can hệ tớ những người bị bắt. Vấn đề đặt ra là: họ bị tù vì cái gì? Và cái gì tiếp theo đến với họ? Khi đó trong các trại cải tạo có đến hàng triệu người. Đấy là con số 3 năm sau khi Stalin chết. Trong năm này chúng tôi không thể cắt đứt với quá khứ, không thể có đủ lòng dũng cảm, tìm thấy nhu cầu nội tại hé mở bức màn che và nhìn vào cái gì đằng sau bức bình phong? Cái gì ẩn sau bức màn này, cái gì xảy ra dưới thời Stalinе? Điều này nghĩa là các vụ bắt bớ vô tận, xét xử, độc đoán, bắn giết? Chúng tôi cảm thấy
ngượng bởi hoạt động của mình dưới sự lãnh đạo của Stalin và mà vẫn chưa thoát khỏi áp lực này sau khi ông chết, mặc dù cũng không thể hình dung rằng các xử bắn lại có thể tỏ ra là vô căn, nói theo ngôn ngữ luật, tội ác chồng chất. Nhưng chính là như thế! Stalin đã thực hiện những tội ác hình sự, loại tội ác này bị trừng phạt tại bất cứ quốc gia, trừ những quốc gia chẳng có luật pháp nào cả. Tình hình có hai mặt: Stalin chết, chúng tôi chôn cất ông, còn những người vô tội vẫn đi đày trong các trại tập trung... Tiếp theo, mọi lại trở lại bình thường? Tiếp tục chính sách cũ và tất cả những gì được làm dưới thời Stalinе, lại được hoan nghênh? 
 
Thậm chí các vụ bắt bớ không đúng và hành quyết? Những người đã bị giết với cái mác “kẻ thù nhân dân”, không ai nghĩ đến minh oan. Tôi cho rằng Molotov, Vorosilov và Kaganovich là nguồn thông tin lớn nhất về quy mô thực và nguyên nhân các vụ đàn áp dưới thời Stalin. Tôi cho rằng Stalin trao đổi ý kiến với họ về con số này. Mặc dù Kaganovich, có lẽ, chưa biết hết cặn kẽ tất cả. Chưa gì Stalin chia sẻ với ông một cách cởi
mở. Nịnh bợ đến như thế, là Kaganovich, ông có thể phanh thây cha đẻ của mình nếu như Stalin chỉ trong nháy mắt nói là điều này là cần thiết cho lợi ích của sự nghiệp Stalin. Stalin cũng không cần lôi kéo Kaganovich: chính con người này hơn ai hết gào to lên rằng cần phải làm ở đâu, không cần phải làm ở đâu, bò rách đầu gối quỵ luỵ trước Stalin, bằng cách bắt người bên phải bên trái và vạch mặt “kẻ thù”.
 
Khi ông vào Dân uỷ, thì triển khai ngay ở đó một lực lượng đầy đủ. Sau một cơn điên dài săn lùng “kẻ thù nhân dân” chúng tôi cũng không thể quẳng được gánh nặng tinh thần của những những việc làm từ trước đó cho đến 1956, tất cả đã vẫn còn tin vào cái giả thiết mà Stalin dựng lên, rằng trong nước chúng tôi bị bao vây bởi “kẻ thù nhân dân” và phải chiến đấu với họ, bảo vệ cách mạng. Chúng tôi vẫn như trước đây nằm ở
quan điểm nặng nề đấu tranh giai cấp, như là được dựa trên học thuyết và được Stalin thực thi. Nhưng khi chúng tôi đi đến quyết định thành lập Uỷ ban kiểm tra và Uỷ ban này cung cấp những tài liệu của mình, những tài liệu này đã được làm một cách bí mật. Sau đó, tại Đại hội 20, báo cáo của tôi được lãnh đạo theo tài liệu của Uỷ ban này. Bản báo cáo được copy gửi cho toàn bộ các cơ sở Đảng và thi hành những biện pháp, để các tài liệu sau khi đọc xong được thu hồi về.
 
Chúng tôi phân phát chúng cho các ĐCS anh em để biết. Trong số này, có Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Ở Ba Lan đúng lúc đó người lãnh đạo đảng là Berut chết. Sau khi ông chết, ở Ba Lan nổi lên một làn sóng, và tài liệu nói trên rơi vào tay những người Ba Lan không ưa Liên Xô. Họ sử dụng tài liệu này vào mục đích của mình và nhân bản nó. Người ta thậm chí nói với tôi rằng những người Ba Lan đã bán rẻ những tài liệu này. Báo cáo của Khrusev, làm trong phiên họp kín Đại hội 20 ĐCSLX, được đánh giá là không đắt. Đơn giản người ta có thể mua nó ở chợ trời, kể cả những người từ khắp các nước trên thế giới. Như thế tài liệu này đã được lưu hành. Tôi nhớ, ncác nhà báo phỏng vấn tôi rằng tôi có thể nói theo lý do này được không? Tôi trả lời tôi không biết những tài liệu như thế và cứ để tình báo Mỹ trả lời vấn đề này. Nhưng tôi phải trả lời thế nào, nếu phải nói ra bí mật?
 
Như vậy, chúng tôi sát Đại hội thường kỳ của Đảng. Tôi từ chối báo cáo tổng kết và cho rằng lần này chúng tôi làm lãnh đạo tập thể, nên báo cáo tổng kết không nhất thiết là bí thư BCHTƯ phải làm. Vì thế tại phiên họp thường kỳ Đoàn chủ tịch BCHTƯ tôi đề nghị quyết định ai sẽ làm báo cáo tổng kết. Tất cả mọi người, trong số này có cả Molotov (ông là người nhiều tuổi nhất trong số chúng tôi và có nhiều cơ sở hợp với vai trò người báo cáo), đồng thanh cử tôi làm báo cáo. Hình như về theo suy nghĩ hình thức, thì thường Bí thứ thứ nhất BCHTƯ đóng vai trò báo cáo tổng kết. Nếu để người khác báo cáo, thì có thể gây ra phức tạp. Sau khi Stalin chết trong số chúng tôi không có ai được coi là người lãnh đạo sáng giá. Có nhiều người cũng
muốn đứng lên phất cờ, nhưng chưa có một người nào vượt trội cả. Vì thế người ta trao việc làm báo cáo cho tôi. Nhưng khi ấy một số người, trong số này có Vorosilov và Kaganovich, phản đối việc nói ra trên Đại hội điều gì đấy về sự đàn áp phi pháp dưới thời Stalin.
 
Tôi chuẩn bị báo cáo. Bản báo cáo tổng kết được thảo luận tại Plenum BCHTƯ và được tán thành. Bản báo cáo là thành quả của sáng tạo tập thể, tập hợp các sức lực của BCHTƯ, của các viện nghiên cứu khoa học và một loạt các cơ quan khác, và cả những nhân vật cuốn hút vào việc hình thành báo cáo tổng kết. Đại hội khai mạc. Báo cáo đã sẵn sàng. Triển khai các tranh luận. Đại hội tiến hành tốt đẹp. đối với chúng tôi, tất nhiên, là một thử thách. Đại hội sẽ ra sao sau khi Stalin chết? Nhưng tất cả các phát biểu đều hoan nghênh đường lối BCHTƯ, không cảm thấy một sự đối lập nào cả, không thấy những dấu hiệu của cơn bão tố nào cả. Tôi cũng luôn lo lắng, dù rằng Đại hội tiến hành trôi chảy, báo cáo được hoan nghênh. Tuy nhiên tôi
cũng chưa bằng lòng. Một ý nghĩ dày vò tôi:
 
- Rồi Đại hội bế mạc, sẽ phải ra, và đây là hình thức thôi. Nhưng cái gì tiếp? Trong lương tri chúng tôi vẫn đọng lại hàng trăm người bị giết oan, kể cả hai phần ba uỷ viên BCHTƯ được bầu tại Đại hội 17. Ít ai còn nguyên 320 vẹn, hầu như tất cả các cốt cán chẳng đã bị bắn hoặc bị đàn áp. Hiếm có ai gặp may để còn sống. Làm gì bây giờ?
 
Tài liệu của Uỷ ban của Pospelov nhói óc tôi. Cuối cùng tôi thu hết sức lực và trong một lần nghỉ giải lao, trong gian phòng Đoàn chủ tịch BCHTƯ chỉ có một số uỷ viên, lại đặt vấn đề:
 
- Thưa đồng chí, tài liệu của Pospelov ra sao đây? Làm gì với những người bị bắt và bị giết từ quá khứ? Đại hội bế mạc, và chúng tôi ra về, mà không nói được lời của mình? Chính vì chúng tôi cũng biết rằng những
người bị sự đàn áp là oan uổng, không phải là “kẻ thù nhân dân”.
 
Đây là những người lương thiện, trung thành với Đảng, cách mạng, sự nghiệp Lenin xây dựng CNXH ở Liên Xô. Họ sẽ từ nơi bị đầy ải trở về. Chúng tôi đâm ra không giữ họ ở chỗ đó nữa Phải nghĩ xem làm thế nào để họ quay về một cách danh dự.
 
Chúng tôi trước đó vẫn chưa thông qua quyết định xem xét việc này và việc thả những người bị kết tội oan về nhà. Ngay khi tôi nói xong, mọi người lập tức quẳng vào mặt tôi. Đặc biệt Vorosilov:
 
- Anh làm gì thế? Chẳng lẽ thế này ư? Chẳng có lẽ có thể nói hết điều này tại Đại hội? Điều này làm hỏng uy tín của Đảng ta, đất nước ta như thế nào? Anh phải giữ bí mật về điều này chứ. Và khi đó người ta sẽ khiếu kiện chúng tôi. Chúng tôi sẽ nói gì về vai trò cá nhân của chúng tôi?
 
Cả Kaganovich rất bực tức, và cùng một quan điểm như thế. Đó là quan điểm không có tính Đảng sâu sắc mà là ích kỷ. Đây là sự phủi trách nhiệm và nếu tội các còn sờ sờ ra đó thì phải ỉm đi, che giấu đi.
 
Tôi nói với họ:
 
- Điều này là không thể, thậm chí nếu lập luận từ quan điểm của các ông. Không thể ỉm đi được. Người ta phải ra khỏi nhà tù, về nơi chôn rau cắt rốn, kể lại cho họ hàng, người thân và bạn bè, đồng chí, cho toàn quốc và toàn Đảng, biết rằng những người vẫn còn sống từng bị đàn áp oan uổng. Những người ngồi tù 15 năm, có ai đó còn bị hơn nhiều, hoàn toàn chưa là gì. Tất cả những điều buộc tội họ chỉ là chuyện bịa đặt. Không thể im được.
 
Sau đó tôi đề nghị suy nghĩ: tiến hành Đại hội đầu tiên sau khi Stalin chết. Tôi cho rằng chính trên Đại hội chúng tôi cần thành tâm nói hết tất cả sự thật về đời sống và hoạt động của Đảng và của BCHTƯ trong thời gian tổng kết. Chúng tôi bây giờ tổng kết từ thời kỳ sau khi Stalin chết, nhưng các uỷ viên BCHTƯ phải nói như thế nào trong thời kỳ Stalin. Chúng tôi đã lãnh đạo đất nước cùng với Stalin. Khi Đảng biết sự thật từ những người bị kết tội oan trước đây, họ nói với chúng tôi: Hãy cho biết điều này là như thế nào? Đại hội 20 họp, và ở đó người ta chẳng kể cho chúng ta cả. Và chúng tôi không có khả năng trả lời. Chả lẽ nói rằng chúng tôi không biết gì hết, sé là lừa dối: chính là chúng bây giờ biết tất cả sự thật, về sự đàn áp vô căn cứ, sự chuyên quyền của Stalin.
 
Những phản ứng quật lại cũng rất mãnh liệt. Vorosilov và Kaganovich lặp lại bất tận:
 
- Người ta buộc chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Đảng có quyền buộc chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi ở trong ban lãnh đạo, và nếu chúng tôi không biết tất cả sự thật, đấy là tai hoạ của chúng tôi, nhưng chúng tôi chịu trách nhiệm tất cả.


Tôi nói với họ:
- Nếu xem xét Đảng ta những một Đảng dựa trên tập trung dân chủ,
thì chúng ta, những người những người lãnh đạo Đảng, không có quyền
không biết. Tôi, và nhiều người khác nằm trong tình thế là, tất nhiên, không
biết nhiều, vì rằng được đặt trong một chế độ, lúc đó anh chỉ biết người ta
giao cho anh cái gì, còn những cái khác anh không được nói, và đừng thọc
mũi tiếp điều này. Chúng tôi không chọc mũi. Nhưng không phải tất cả ở
trong tình thế như vậy. Một số trong chúng ta biết, một số thậm chí chấp
nhận tham gia giải quyết vấn đề này. Vì thế ở đây mức độ trách nhiệm cũng
khác nhau. Cá nhân tôi sẵn sàng là uỷ viên BCHTƯ Đảng từ Đại hội 17 và
uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 18 chịu phần trách nhiệm của mình, nếu Đảng
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm của ai lãnh đạo trong thời Stalin, khi sự
chuyên quyền hoành hành.
Họ là không đồng ý với tôi. Họ phản đối:
- Anh biết cái gì sẽ xảy ra không?
Lời đối đáp Vorosilov và Molotov đặc biệt the thé. Vorosilov chứng
minh rằng nói chung không cần làm điều này:
- Hừ, ai hỏi chúng ta cơ chứ? - ông lặp lại.
Tôi hỏi lại: 322
- Những tội ác có không? Chính chúng ta chứ không đợi ai khác, phải
nói rằng có. Khi nào người ta hỏi chúng ta, thì mới bắt đầu phán xét. Tôi
không muốn điều này và tôi không chịu trách nhiệm như thế.
Nhưng chẳng thể nào thống nhất ý kiến được, và tôi đã thấy rằng
không đạt được đúng quyết định từ các uỷ viên. Trong Đoàn chủ tịch của Đại
hội chúng tôi chưa đặt vấn đề này, chừng nào thoả thuận được nội bộ Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Lúc đó tôi đưa một đề nghị như sau:
- Đại hội Đảng cứ họp. Kỷ luật nội bộ Đảng cần có sự nhất quán của
lãnh đạo trong các uỷ viên BCHTƯ và uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, sẽ
không tác dụng trong thời gian Đại hội, bởi vì Đại hội có ý nghĩa cao nhất.
Bây giờ mỗi uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ và uỷ viên BCHTƯ, trong số
này và tôi phải làm báo cáo tổng kết, từng người có quyền phát biểu tại Đại
hội và trình bày quan điểm của mình, thậm chí nếu quan điểm này không phù
hợp với quan điểm báo cáo.
Tôi không nói rằng tôi sẽ thông báo về tài liệu của Uỷ ban điều tra.
Nhưng, hình như có ai phản đối, cho rằng tôi có thể phát biểu và trình bày
quan điểm của tôi động chạm đến việc bắt bớ, bắn giết. Bây giờ tôi không
nhớ sau đó những ai ủng hộ ủng hộ tôi. Tôi nghĩ rằng đây là Bulganin,
Pervukhin và Saburov. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ rằng, có thể,
Malenkov cũng ủng hộ tôi. Ông là bí thư BCHTƯ phụ trách nhân sự, vai trò
của ông trong việc này là khá tích cực. Ông, nói riêng, cũng giúp đỡ Stalin
điều động cất nhắc cán bộ, rồi sau đó tiêu diệt họ. Tôi không dám chắc cá
nhân ông khởi xướng đàn áp. Chưa chắc. Nhưng tại những vùng, khu vực,
mà Stalin cử Malenkov đến đó để chỉnh đốn hàng ngũ, thì hàng nghìn người
bị đàn áp và nhiều người trong số này bị xử tử. Tuy nhiên Malenkov có thể
bây giờ ủng hộ tôi.
Có ai đấy nảy ra sáng kiến:
- Vấn đề đặt ra thế này, hình như tốt hơn là làm thêm một bản báo
cáo.
Lúc ấy mọi người miễn cưỡng đồng ý. Tôi nói với họ:
- Thậm chí ở những ai thực hiện những tội ác, lần này đến lúc họ có
thể thú nhận, và họ cũng được khoan hồng, không phải biện minh. Nếu thậm
chí từ quan điểm xem xét vấn đề báo cáo sự lạm quyền mà Stalin thực hiện,
thì có thể làm được ngay bây giờ, tại Đại hội 20. Để đến Đại hội 21 thì sẽ 323
muộn, nếu chúng ta còn kịp sống đến lúc đó và đòi hỏi những vấn đề trước
đây thì chẳng cần nữa. Vì thế tốt nhất làm bản báo cáo thứ hai từ bây giờ.
Khi đó nảy sinh vấn đề ai phải làm báo cáo. Tôi đề nghị Pospelov, và
lập luận đề nghị của mình là ở chỗ Pospelov nghiên cứu vấn đề này với tư
cách Chủ tịch Uỷ ban và viết tài liệu để chúng tôi sử dụng nó. Vì thế ông
không phải mất thời gian chuẩn bị: ông có thể chuyển các tài liệu này vào
báo cáo và đọc nó tại Đại hội. Những người khác (tôi không nhớ là ai) phản
đối và đề nghị là tôi làm luôn báo cáo này. Đối với tôi là bất tiện: vì trong
báo cáo tổng kết tôi không nói một lời nào về điều này, còn sau đó tôi lại làm
thêm báo cáo thứ hai? Và tôi từ chối. Nhưng họ phản đối tôi:
- Nếu bây giờ không phải là anh phát biểu, mà là Pospelov, cũng là
một trong những bí thư BCHTƯ, thì phát sinh vấn đề: Vì sao Khrusev trong
báo cáo tổng kết không nói tý gì về điều này, mà Pospelov lại phát biểu một
vấn đề quan trọng để tranh luận? Không thể Khrusev không biết tài liệu của
Pospelov hoặc không coi trọng sự cần thiết của vấn đề. Nghĩa là, về vấn đề
này có sự bất đồng trong lãnh đạo? Mà Pospelov phát biểu chỉ với ý kiến
riêng?
Luận cứ này cứ lằng nhằng mãi, cuối cùng tôi phải đồng ý. Quyết
định rằng tôi sẽ phát biểu tài liệu của Uỷ ban cùng với báo cáo. Chúng tôi tổ
chức phiên họp kín trong thời gian tranh luận về tổng kết của BCHTƯ, ở đó
tôi cũng làm bản báo cáo thứ hai.
Đại hội nghe tôi một cách im lặng. Như người ta nói có thể nghe được
tiếng ruồi bay. Mọi người đều quá bất ngờ. Cần, tất nhiên, biết rằng các đại
biểu đã sửng sốt về những câu chuyện về sự độc ác được thực hiện đối với
những người từng có công lao, những bolsevich lão thành và những người
trẻ. Bao nhiêu người lương thiện từng được điều động đến khác nhau của đất
nước đã bị giết! Đây là một thảm khốc cho Đảng và cho các đại biểu tham dự
Đại hội. Báo cáo tại Đại hội 20 ĐCSLX về sự lạm quyền của Stalin đã ra đời
như thế.
Tôi xem rằng vấn đề được đưa ra hoàn toàn đúng lúc và kịp thời.
Không những không hối hận, những một số người nghĩ, mà còn thoải mái
trong lòng rằng đã chộp đứng thời điểm và đã cố làm để bản báo cáo này
được làm. Tất cả việc này có thể đưa đến hướng khác, mọi người còn bị sốc
là còn nhiều người cũng bị giam cầm nhe trước đây trong các nhà tù và trại
cải tạo. Năm 1953 chúng tôi đã có giả thiết về vai trò Beria dường như, Beria 324
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lạm quyền thực hiện thời Stalinе. Điều này
cũng gây sốc. Chúng khi đó tôi không cách nào gột khỏi ý nghĩ Stalin -
người bạn của mọi người, bố đẻ nhân dân, thiên tài và vân vân... Không thể
ngay lập tức hình dung rằng Stalin - kẻ sát nhân và tên hung đồ. Vì thế sau
bản án cho Beria chúng tôi lại luẩn quẩn trong giả thiết mà chúng tôi xây
dựng nên có lợi minh oan cho Stalin: Ông Trời không có lỗi, mà lỗi ở kẻ
nịnh bợ, kẻ báo cáo sai cho Trời, vì vậy Trời mới giáng mưa đá, sấm sét và
các tai hoạ khác. Nhân dân bị khổ sở không phải vì Trời muốn thế, mà do tên
nịnh nọt Nicolai, Ilia Prosok, Beria và vân vân... Và bây giờ có lần có người
đặt câu hỏi:
- Liệu có cần phải kể về Stalin không?
Đây hoàn toàn không phải là những người đồng phạm của Stalin
trong tội ác, mà thực chất họ là những người quen thói sợ Stalin, và bây giờ
họ khó xử. Thông thường các vị lão thành đặt các vấn đề như thế. Họ đã
sống với quá khứ, họ khó từ bỏ nổi những hiểu biết trước đây và luận cứ của
thời Stalin. Đây cũng một trong những khuyết điểm giáo dục Đảng viên. Tất
cả các phương pháp giáo dục trong Đảng, Stalin làm nó thích ứng với mình,
với hoạt động của mình: sự tuân lệnh không bàn cãi, sự tín nhiệm tuyệt đối.
Trong thời gian chiến tranh có chết chóc mà không nghi ngờ, tất nhiên,
nhưng sau này luôn luôn quay ngoắt theo hướng ngược lại, vì rằng một
người tin anh mà không bàn luận, khi biết, sự tín nhiệm của anh ta bị lừa, họ
sẽ là kẻ thù của anh. Điều này rất nguy hiểm. Tôi luôn luôn đã đứng, hơn nữa
bây giờ tôi đang đứng vì sự thật, vì sự đúng đắn tuyệt đối trước Đảng, Đoàn
thanh niên và tất cả nhân dân. Có một kết luận là chỉ có nguồn gốc bất tận
sức mạnh của Đảng mới có thể chiếm được sự tín nhiệm nhân dân. Người ta
biết rằng Đảng đã lừa quần chúng đông đảo, Đảng đến đường cùng.
Bây giờ tôi thường nghe đài. Radio - đó là người bạn đồng hành của
tôi trong thời gian dạo chơi. Từ radio tôi nhận cả thông tin, cả sự thoả mãn.
Tôi yêu âm nhạc, yêu dân ca. Nhạc hiện đại cũng làm tôi thích. Nhưng, tôi
cảm thấy, hình như con người độ tôi có xu hướng sống lại tời trai trẻ. Đặc
biệt trong tâm trạng tốt, tôi vừa đi bộ, nghe giọng hát của Ludmina Zykina,
ca sĩ mà tôi yêu thích, và nghe cả những buổi truyền khác. Các buổi truyền
thanh rất nhiều, đa phần là tốt, nhưng cũng gặp cả những những chuyện
nhảm nhí, chỉ có làm bẩn chương trình phát sóng thôi. 325
Một lần tôi nghe đọc một trong các chương cuối tiểu thuyết “Họ chiến
đấu vì tổ quốc” của Solokhov. Mikhail Aleksandrоvich tin bởi sự sáng tác
của mình: chuyện thời Stalin lạm quyền, ông trấn áp những cán bộ lương
thiện, được Lenin giáo dục, Solokhov tả về cuộc nói chuyện của hai ông
đánh cá. Họ ngồi và chuyện trò. Người này hỏi người kia:
- Nên hiểu đồng chí của Stalin như thế nào nhỉ? Người ta nói rằng ông
bỏ sót. Nhưng bao nhiêu người bị tội, bao nhiêu người bị hành quyết! Có thể
Stalin phạm vào điều này không?
- Đúng, khó hiểu - người kia trả lời.
Lúc đó người đầu tiên lại hỏi:
- Thế không phải Beria chính là người có lỗi à? Chính ông báo cáo tất
cả cho Stalin?
Và câu trả lời:
- Đúng, tất cả là do Beria.
Mikhail Aleksandrоvich - một người thông minh và nhà văn giỏi. Sự
thật việc ông lại bám vào cách hiểu biết tương tự theo truyền thống của
chẳng và nhân dân, trong khi bao nhiêu người chết bởi tay Stalin, tất nhiên,
không tô hồng cho ông. Lúc ấy cốt lõi là thế này: Beria không dựng Ezov,
mà từ trước đây, dựng Yagoda. Tất cả bọn họ tiếp theo chân nhau vào màn
kịch. Một “nhân vật”, được Stalin dựng lên, sẽ được thay thế bằng nhân vật
khác, và đây cũng là logic đối với Stalin. Stalin dùng tay người khác để giết
những người lương thiện và ông biết rằng họ là những người trong sạch
trước nhân dân và trước Đảng. Những người chết chỉ vì rằng ông ông sợ họ
và không tin họ. Sau đó, phải dần dần loại bỏ một đồ tể và thay bằng một đồ
thứ hai. Cứ như thế ba thê đội tiễu phạt: trước tiên Yagoda, sau đó Ezov, sau
đó Beria.
Đến Beria, thì điều này chấm dứt. Nói đúng ra, không phải chính
Beria, mà do cái chết của Stalin. Beria đứng trước toà án nhân dân như một
tội phạm. Nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn về cái chết Stalin, thậm
chí khi mọi người biết rõ nhiều sau phiên toà xử Beria, vẫn còn đưa cho
Đảng và nhân dân những lời giải thích không đúng, tất cả đổ bớt sang đầu
Beria. Đối với chúng tôi, Beria tỏ là tiện lợi cho hình ảnh này. Chúng ta đã
làm tất cả để bào chữa cho Stalin, dù chúng ta che chở được tên tội phạm, tên
giết người, vì chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi sự ngưỡng mộ Stalin. 326
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy sự dối trá, khi tôi đến Nam Tư và
hội đàm và Tito và đồng chí khác. Khi chúng tôi đụng chạm vấn đề này và
đổ cho Beria, họ cười và đáp lại một cách nhạo báng. Điều này làm chúng tôi
ức, và chúng tôi, để bảo vệ Stalin, đã cãi nhau rất to, thậm chí suýt đến đổ vỡ
to. Sau đó tôi công khai phát biểu bảo vệ Stalin và chống Nam Tư. Bây giờ
tất cả rõ ràng là không đúng, lúc ấy tôi ở quan điểm của một người chưa
nhận thức được cần vạch mặt đến cùng những tội ác của Stalin, sao cho các
phương pháp hành xử tương tự không bao giờ có thể quay về Đảng ta nữa.
Người, quả là muốn thiết lập kỷ luật của Lenin trong Đảng ta, mình không
phải kỷ luật của Stalin, phải làm hết sức lực để phanh phui Stalin và sự kết
án các phương pháp Stalin. Cần phải minh oan những người lương thiện
trong số những người chưa được minh oan, và phanh phui những sự phi pháp
được tạo ra trước đây, để thậm chí bóng ma của những phương pháp như thế
không thể đội mồ sống lại.
Tôi sửng sốt bởi một số tướng lĩnh lớn quân đội trong hồi lý của mình
muốn minh oan cho Stalin và cho ông là người cha nhân dân, đã chứng minh
rằng nếu không có ông thì chúng tôi không chiến thắng và rơi vào ách phát
xít. Đây là lý luận ngu ngốc, mù quáng. Ngay bây giờ, khi không có Stalin,
chúng tôi vẫn bị rơi vào ảnh hưởng của Đức, Anh, Mỹ hay sao? Không,
không bao giờ. Nhân dân đưa ra những người lãnh đạo mới và có khả năng
bảo vệ mình như từng có trong quá khứ. Sự phi lý của những bàn luận như
thế không cần thiết trong những bằng chứng riêng.
Tôi nhớ, tại một hội nghị, một chỉ huy quân sự, nhân ca ngợi Stalin,
cũng tôn vinh cả Bliukher. Những người khác, tuy ca ngợi Stalin, cũng tôn
vinh Tukhachevski. Đồng chí, phải ăn nói có trước có sau! Không thể đặt kẻ
giết người và nạn nhân lên một bệ. Bliukher là ai? Anh hùng nội chiến, có
bẩm sinh quân sự, thợ nguội, nằm trong hàng ngũ tướng lĩnh lớn. Ông đã
nhận huân chương Cờ Đỏ №1. Bliukher là số một. Sau đó, là một trong số
những chỉ huy quân sự tốt nhất của Liên Xô được cử sang Trung Quốc làm
cố vấn quân sự cho Tôn Trung Sơn. Và bỗng nhiên ông bị bắn! Không thể
nói cùng một lúc về Stalin và Bliukher, mà lờ đi nguyên nhân cái chết
Bliukher. Không thể nhắm mắt cho rằng chẳng ai nhìn thấy gì cả. Sự xấu xa
tương tự có thể chỉ gây ra mất lòng tin.
Tôi có lần ở Bulgari, một trong những bài phát biểu tôi dẫn lời của
Puskin, trong tác phẩm của ông có nói về cuộc nói chuyện giữa Mozart và
Salere. Mozart không hề nghi ngờ rằng Salere chuẩn bị đầu độc mình, nói: 327
- Thiên tài và tội ác không thể là một.
Đúng vậy! Với Stalin cũng vậy. Không thể ghép thiên tài và sát nhân
vào cùng một bộ mặt. Không thể gắn hàng nghìn nạn nhân với những kẻ sát
nhân, mà không có sự giải thích về vụ việc Stalin. Không thể trên một bệ đặt
hai bức tượng. Tội ác do Stalin gây ra!
Theo lối nghĩ như thế - có câu hỏi khác. Một số người tranh luận như
thế này: điều này được làm không phải nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, mà là
lo cho dân. Thật mọi rợ! Lo cho dân, thế mà lại giết những đứa con tốt nhất
của họ! Logic khá ngu đần. Sự thật, tìm những luận cứ để biện bạch cho kẻ
giết người, luôn luôn là phức tạp.
Trong báo cáo của tôi tại Đại hội 20, không nói gì iên quan tới những
vụ án công khai thập niên 30, trong đó có mặt đại diện Đảng cộng sản anh
em. Lúc đó người ta kết án Rykov, Bukharin, những lãnh tụ khác của nhân
dân. Họ xứng đáng để được gọi là lãnh tụ. Chẳng hạn, Rykov. Sau khi Lenin
qua đời, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Liên Xô, có công lao to
trước Đảng, trước nhân dân và xứng đáng lãnh đạo Chính quyền xô viết.
Nhưng người ta kết án và bắn ông. Còn Bukharin? Bukharin là trong những
yêu quý Đảng. Thế hệ Đảng viên lão thành РĐCS(b) từng học theo cuốn
sách của ông Khoa học Mác Lênnin. Bukharin nhiều năm là chủ bút báo Sự
Thật. Lenin gọi ông thân mật là “Bukhric của chúng ta”. Hoặc Zinovev và
Kamenov. Trong cách mạng tháng Mười 1917 họ có sai lầm. Điều này ai
cũng biết, nhưng những cái khác cũng nên biết. Zinovev và Kamenov được
Lenin đưa vào Bộ chính trị BCHTƯ Đảng và ngang hàng các vị lãnh đạo
khác Khi Chính phủ xô viết chuyển về Moskva, Zinovev còn ở Petrograd.
Ông được tin tưởng giao lãnh đạo cái nôi cách mạng và đã nâng ngọn cờ
khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Kamenov được Moskva tin tưởng. Ông là,
nói riêng, là Chủ tịch Mossoviet. Lenin vc quan hệ với ông sau những sai
lầm người ta đã tha thứ cho ông.
Có lần tôi nghe đài nói là: Lenin trao một cái gì đó cho Lomov.
Nhưng Lomov ở đâu nhỉ? Tôi biết rõ Lomov, không ít lần tiếp xúc với ông,
khi làm việc tại Donbass, từ sau nội chiến. Lúc đó ông lãnh đạo khai thác
than tại Donbass. Tôi thường có mặt tại các buổi họp của ông, hoặc ở
Kharkov, nơi trụ sở chính của ông. Đó là một người rất được kính trọng
trong Đảng с thâm niên bí mật trước cách mạng. Lomov đâu rồi? Ông bị bắn,
không còn Lomov nữa. Tôi nói về Kedrovе, Tukhachevski, Egorov, 328
Bliukher, và những người khác. Có thể lập một quyển sách dày thống kê chỉ
những họ tên những tướng lĩnh, Các nhà lãnh đạo Đảng, Đoàn thanh niên,
kinh tế, ngoại giao, khoa học. Tất cả đều là những người lương thiện. Họ là
nạn nhân của Stalin, nạn nhân sự chuyên quyền.
Vấn đề những vụ án công khai thập niên 30 cũng cũng có hai mặt.
Chúng tôi lại sợ nói đến tận cùng, mặc dù không gây ra nghi ngờ nào, rằng
những người này không có tội, họ là nạn nhân sự chuyên quyền. Tại các vụ
án xử công khai, có mặt những người lãnh đạo đảng anh em, mà chính họ sau
này đã chứng minh tại nước họ đây là những bản án chính đáng. Chúng tôi
không muốn làm mất uy tín về những tuyên bố của họ, và hoãn lại việc minh
oan cho Bukharin, Zinovev, Rykov và những người khác đồng chí trong một
thời hạn chưa định được. Tôi nghĩ rằng đúng là cần phải nói đến cùng. Cái
kim trong bọc cũng phải lòi ra.! Thành công chủ yếu Đại hội 20 - là nó bắt
đầu quá trình làm trong sạch Đảng và đưa Đảng trở lại chuẩn mực sinh hoạt,
mà Lenin và những đứa con thân yêu nhất của đất nước đã làm vì nó.
Một phần những người bị kết án sai đã được tha, ngay khi Stalin chết.
Beria khi đặt vấn đề này, điều chỉnh nó, đưa ra một đề nghị thích hợp, và
chúng tôi đồng ý với ông. Nhưng té ra là những người được tha lại là tội
phạm hình sự: giết người, trấn lột, bọn vô lại và đểu cáng. Khi bọn này quay
về nơi ở cũ, thì tái diễn những cảnh trộm cắp, cướp giật và giết người. Nhân
dân ca thán rằng người ta thả bọn trộm cắp và giết người và họ làm bẩn sự
nghiệp của mình. Trước đó Beria bị vạch mặt và kết án. Vì thế chính chúng
tôi phải đưa cho nhân dân những chỉ thị. Bản thân chúng tôi cũng thấy đây là
việc làm không đúng, mặc dù thông qua đề nghị của Beria, nhưng quyết định
lại do Chính phủ và BCHTƯ thông qua, như vậy tất cả chúng tôi chịu trách
nhiệm về việc này. Bao nhiêu đối tượng này được thả, tôi khó nói được, tuy
nhiên trong mọi trường hợp cũng là một đội quân lớn.
Những người bị kết án về chính trị và những người bị lưu đày vẫn còn
nằm trong các nhà tù và các trại tập trung. Beria thậm chí đề nghị thông qua
luật trao quyền cho Bộ nội vụ, nghĩa là Beria, có quyền xem xét là thả ai cho
ai sau khi hết thời hạn trừng phạt. Như tôi đã kể, tôi đã thẳng cánh phản đối
như thế nào, và mọi người ủng hộ tôi. Do đó, Beria rút đề nghị này. Số phận
tất cả những người tù chính trị ra sao, khi Viện trưởng Viện Kiểm sát
Rudenko trình tôi về sự vô tội của họ, tôi hỏi ông: 329
- Sao lại thế? Chính tôi đã nghe, họ thú nhận tội mình người ta buộc
cho họ cơ mà.
Rudenko cười:
- Đó là nghệ thuật của người điều tra và người xử. Hình như những
con người này bị dồn đến trạng thái, chỉ có một cách duy nhất để kết thúc
sớm những đau khổ và nhục nhã - là tự thú nhận, bước sau đó là cái chết”.
Sau Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các ĐCS, đặc biệt Pháp và Ý bắt
đầu xúc động. Cũng dễ hiểu rằng đó là những Đảng vô sản, đông quần
chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Torez và
Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người
bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này
cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng
có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh
được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan, lan sang Hungary. Sau khi
người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền BCHTƯ
ĐCSLX, đến Warsawa, tham dự Plenum BCHTƯ Đảng công nhân thống
nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc
tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất
sóng gió, các uỷ viên BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ
không hài lòng với Liên Xô. Những người trong BCHTƯ Đảng Ba Lan, thân
với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì,
nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy
nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.
Tại Plenum, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công
nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với
Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này.
Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và
thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu
làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:
- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?
Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này: 330
- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông
bị buộc tội gì.
- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?
Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được.
Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhanski, cả Loga-
Sovinski, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không
thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị
lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng
không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.
Sau một thời gian, Okhab dẫn đầu Đoàn đại biểu đến Trung Quốc.
Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó
Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:
- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở
Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba
Lan.
Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo
ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi
ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng
Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành.
Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức,
qua Ba Lan. Nhưng sự kiện ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những
nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để
đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết
định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba
Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó
tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như
Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng
sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalinе, khi chúng tôi
mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp
đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều
này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng
chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết định
nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoian, Bulganin
và một số người khác. 331
Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka,
những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ
lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở
mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở
Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc
của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ
phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:
- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí
thư BCHTƯ. Ông đi mà hỏi người khác.
Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài
lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh
đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền
rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng
chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như
trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.
Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng
tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông
cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và
mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian
ngắn, thì làn sóng không hài lòng sẽ bị bớt đi và tình hình trở lại bình
thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi,
có hai ĐCS, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều
người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì
Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do
Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những
người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên
Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới
một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng
tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô
với Ba Lan. Ông nói:
- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không
có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại
các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị
không thay đổi và liên minh. 332
Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để
tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:
- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở để không tin Gomumka.
Ông được bầu Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan.
Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của
Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không
phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã
nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.
Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm
chúng tôi rất lo ngại.
Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng
giềng. Thời kỳ đó, vấn đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của
chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản.
Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người,
chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư
bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm
của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách
mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô
mác “Fiat”.
Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản
không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ
lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi
mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc
hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản
làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí
hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật
với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.
Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở
phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng
chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi đã bán hát minh cho Mỹ.
Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ.
Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị
buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của
Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất
chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về 333
điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản
người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi
đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế
của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-
Degia:
- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!
Ông nói:
- Cầm lấy đi.
Cầm lấy đi... với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” -
một khoảng cách rất xa.
Nói chung lãnh đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc đẩy nhanh nền công
nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá
trước đây đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn,
nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất
nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí đốt, rừng, bánh mỳ. Các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani
xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho
thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy
thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa
mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều
muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận
Rumani.
Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán
cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của
chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:
- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp
được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn và bán thịt
thăn hun khói cho Mỹ.
Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:
- Đúng.
- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người
Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng
được, biến thành thịt và bán thịt đi. 334
- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.
Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa
cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán
này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng
chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để
giúp đỡ những người bạn?
Bao nhiêu lần, đôi khi, chúng tôi đồng ý kế hoạch, nhưng sau đó
Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:
- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.
Người ta đến.
- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với
hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp
chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.
Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được
điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà
chua Bulgari. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgari quen
nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ
hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ
kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại
cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ
bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgari - nước
trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi
chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.
Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích.
Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa.
Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ.
Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ
tiêu thụ thịt. Năm 1964 ở CHDC Đức 75 kg đầu người một năm, ở Tiệp
Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và
thấp hơn là Bulgari - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:
- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng
tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho
CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước 335
ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông
có lo cho chúng tôi không?
Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh
hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn
Tây Đức. Chỉ riêng điều đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía
chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.
Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương
tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây Đức phải trả cho họ, còn
CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua đời,
chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể
chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh
tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên
Xô ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm được điều này. Và
chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản
nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và
kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh
thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than
cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba
Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra
điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng
than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm
yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ
Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc
trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và
điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những
người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.
Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của
họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những
thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ
cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán
cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản
xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin
gọi cho tôi:
- Gotwald ở đây, ông đến đi. 336
Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald
uống say (ông có nhược điểm này) và nói:
- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng
chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không
lấy tiền đâu. Khi người của các ông ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn
thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông
không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô,
chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là
của chung.
Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì
chúng tôi tiếp tục ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người
Digan được được hỏi:
- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?
Người Digan trả lời:
- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.
Lại còn một vấn đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ
nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi
nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô.
Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả
thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải.
Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì
cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe
tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi
nói với người Tiệp:
- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả.
Đây là sự cần thiết bắt buộc.
Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi,
chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng
thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa
dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa.
Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước
bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulius, còn Ulbrich bằng 337
loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng
tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:
- Hôm nay không có ăn đâu nhé.
- Vì sao?
- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.
Một lần ông đến và nói:
- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.
Nhưng tôi trả lời:
- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.
Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra
hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:
- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?
- Không, tôi vào trại tù binh.
- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?
- Người Nga.
Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:
- Tống cổ mẹ nó đi!
Luôn luôn người Nga, lại người Nga... Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy
được thúc đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga đem cho,
người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.
Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta
công khai xung độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn đề biên giới giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong
lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng
bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc,
chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ
đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân
cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung
Quốc. Malinovski, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức
chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường
như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn. 338
Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn
vùng đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân
Trung Quốc sống ở đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người
chăn thả súc vật đến đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung
Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên
Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân
vân... Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng
Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp
người Trung Quốc. Lúc ấy cuộc xung đột thực chất không phải là vấn đề
biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.
Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran
chúng tôi vẫn chưa có một đường biên giới xác định rõ ràng từ thời Sa
hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một
số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát
sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firiuza ở Turmenia. Khi Sa
hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firiuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không
biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firiuza. Trong thời kỳ xô viết,
người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firiuza,
chúng tôi nói cho họ:
- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại
làng Firiuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển
khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn
sàng đổi làng Firiuza, nhường một làng khác cho các ông?
Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với
láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?
Bắc Kinh nói:
- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên
giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không
bình đẳng ký với Sa hoàng.
Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp ước không bình
đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ
những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp ước tương tự.
Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời
Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có 339
thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói
chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách
khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary,
không có tranh cãi về biên giới nhưng ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn
người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng đất này. Vì sao? Người
Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy
người Ukraina kên núi, chiếm vùng đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ đòi
Cadrar vùng đất này?
Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam
Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng
Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa
của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở
đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ
trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới
giữa Albani và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albani sống ở Nam Tư nhiều
hơn tại chính Albani, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những
người Albani sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người
Albani và họ không về Albani. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm
chính trị thông minh hơn.
Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính
khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên.
Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những
người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm.
Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư BCHTƯ Đảng, một
công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập ĐCS Albani, còn
Hodga đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan điểm xây dựng liên
minh Albani với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy,
có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều
này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?
Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là
gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào?
Thiên đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên đường. Đấy
không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa
thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở
toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở
biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin, 340
những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác
lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu
người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình... Vì sao
chúng tôi phải sợ điều này?
Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại
sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến
Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người
bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalinе, chồng bị bắn, em bị bắn và
em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ
hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách
mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người
Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới
chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn
còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại.
Vì lẽ gì? Giải thích:
- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.
Nói chung chúng tôi khó đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành
nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến
dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị
tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm
những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc
Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng
tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu
xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm
chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn
xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp được tập thể hoá
không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ
đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan
thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất
đóng góp.
Tôi không bao giờ là người bài Do thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và
làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do
Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc ở nhà máy với một người Do thái,
Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp
một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày. 341
Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và
người nào cũng được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và
Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống
thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối
quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp
tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng
thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần
phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân
Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông
đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel
không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.
Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người
khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày
đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ
huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó
còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một
lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc
đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel
xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm
trước đó, có một người già, thành lập đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát
Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những
người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên
Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ
tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà
sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga
giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người
Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi
cũng xấu đi.
Về Albani
Tôi muốn bây giờ được dừng lại ở những quan hệ với Chính phủ
Albani và với Đảng lao động Albani. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không
có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albani, giữa Đảng
cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albani. Họ đáng ra phải là ở giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albani mạnh
lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của
họ. Nhân dân Albani thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và 342
họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và
phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, ĐCS Nam Tư có sự giúp đỡ lớn
lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều
này là đương nhiên, vì rằng ĐCS Nam Tư được tổ chức tốt hơn và giàu
truyền thống cách mạng hơn. ĐCS Albani, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần
giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến
đấu của mình Vukvanovich đến Albani, để tổ chức Đảng lao động.
Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito được
Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện
cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albani cần xuất phát từ
việc Albani sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất
nhiên Albani không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang
Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối
với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt đầu xây
dựng một cung điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi đã thấy chỗ này.
Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả.
Ghép Albani vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về
xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với
Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.
Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và
Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện,
do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng
tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất
cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà ĐCS Nam Tư
dưới sự lãnh đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống ĐCS Liên Xô.
Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó
tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường
như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương
ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị ĐCS toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ
ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả
được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.
Sau khi Stalin chết, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với
Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề
này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những
hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những 343
người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận.
Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành
cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó
khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về
hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế
cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và
trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười.
Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp
ông rất ít.
Tôi gặp Tito cũng ở chỗ Stalin. Tôi có lần ở Moskva, Stalin nói rằng
Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự
vui mừng mong đợi: Họ sẽ đến đấy! Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này
tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước
qua Kiev, và đề nghị:
- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.
Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến
Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành
phố, pháo đài, đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao đổi.
Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động BCHTƯ
ĐCS(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.
Thời ấy, chúng tôi sống bởi lý tưởng khi hình thành một nước xã hội
chủ nghĩa mới, thì đồng thời cần hình thành sự lãnh đạo nào đáy của họ
không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh
tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới
của những nước cộng hoà như thế. Với điều này, tất cả chúng tôi được nuôi
dưỡng. Vì thế chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy với từng nhân dân
tham gia trên con đường xây dựng CNXH, hơn thế nữa ĐCS của họ. Chúng
tôi đã làm cho từng nhân dân và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các
cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của
mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây
là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.
Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn
công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta đặt tôi là tiến hành bí mật gửi nhiều
người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ, đến
Bulgari. Những người tổ chức việc gửi người đi báo cáo tôi, có một binh 344
đoàn đấy được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự,
nhưng trong valy chẳng họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng
chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi
không thể nói được. Hơn nữa, từ chính Stalin nói chung tôi không nghe về
điều này, nhưng người ta báo cáo tôi những người thực hiện chiến dịch này,
họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng
của họ là tâm trạng của những người xâm lược:
- Đưa cho họ người của chúng ta! Thế là họ được gửi đi và chẳng bao
lâu bắt đầu thấy hiệu ứng.
Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.
Vì sao tôi bây giờ chú ý mạnh đến Nam Tư, mặc dù đang nói về
Albani? Vì rằng những vấn đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao
chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không
phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về
chính trị và biết thời gian ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi
ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo ĐCS LX, nhưng không
tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.
Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và
những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói
ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung
quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay
họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov
trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.
Những người này học ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các ĐCS, trong số này, tất
nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối
quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không
muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn
nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoian. Ông cho rằng phải thực hiện những
bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không đồng ý với tôi. Mây mù
che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến
Nam Tư?
Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần,
bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa
đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa; 345
rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc.
Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình
nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên
minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự
này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều
này đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực đổ
xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ đổ vào tất cả chúng tôi, và
không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.
Vì vậy tôi đề nghị:
- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa
học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản
chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố
nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?
Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó
có chủ bút báo “Sự Thật” Sepilov. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng
Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây
dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không
có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân
hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm
trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông
trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái
như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế
Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani.
Hungary, Bulgari, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.
Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albani
tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ
ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết
định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam
Tư, để đặt con đường đầu tiên đi tới đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực
lượng cách mạng, thái độ của Albani đã làm hỏng việc của chúng tôi.
Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan
hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các ĐCS anh em. Tôi không nhớ
bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất
kiên trì cố đạt được điều này. Albani không đồng ý. Những người lãnh đạo
Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng 346
minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ
không phải là những người cộng sản. tất cả điều này được phát biểu với
giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và,
khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng
kèn kẹt.
Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng
suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có
lợi cho cả Albani, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ
vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albani sống ở Nam Tư, và mặc dù
các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có
lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albani nhiều hơn
số người Albani ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc
biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albani buộc phải đồng
ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có
lối thoát khác.
Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi
bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối
quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả
những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ
không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm
những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính
sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albani. Trong
thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ:
làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở
đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những
người Albani hiểu chúng tôi tốt hơn.
Từ phía Albani, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em
không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ
bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ
cũ đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc để giúp đỡ
Albani. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ư đãi, còn
Albani, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói
chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albani: cung cấp
cho họ đồng phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải trả
tiền. 347
Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu
không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành
động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình
thành. Nhưng Albani có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi
xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình
thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân
đội của mình hoặc xây dựng cho Albani quân đội riêng của mình? Đương
nhiên, Albani có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây
một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ
chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để
xây dựng theo khả năng quân đội Albani đông người, nhưng, tất nhiên,
không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albani. Điều này cần thiết là
quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến
đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albani nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa
kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albani trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi
quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết
cần Albani.
Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản
chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự.
Với vị trí của mình, Albani đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở
Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albani là chúng tôi kéo cả tàu
ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Quyết định bố trí ở đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả đấm
tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế, đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi cũng muốn chuyển cho Albani. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albani với đày đủ phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo, và, xây dựng đội ngũ sĩ quan chỉ huy Albani đối với tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này. Bước đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như thế chúng tôi đối với người bạn Albani. Đoàn đại biểu Albani đến gặp chúng tôi đôi lần đứng đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albaniе.

Những người Albani nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albani. Trước khi đi, chúng tôi báo cho những người bạn Albani rằng chúng tôi không muốn khi chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những người lãnh đạo của họ. Trong thời gian ấy, Albani giữ những quan hệ rất căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí.

Nguyễn Học
(dịch từ bản tiếng Nga)

(Blog Ngô Đức Thọ )

Bàn ra tán vào (1)

Binh Ngơ
Màng trinh sửa mất ngàn đô* Boy friends sái nhất “bác” Hồ sái hai* Chồng em bao chót lai rai* Anh trèo lên bụng chê hoài rộng ghê* Bởi vì “bác” đánh lia chia* Ðêm 3 ngày 7 còn gì thân em* Tấm drap trắng toát ướt nhèm* Gối chăn sốc sếch nhầu thêm qúa trời* Ngã ba sưng sướng thâm rồi* Bởi vì đường lưỡi “bác” chơi hàng ngày* Bốn lù “bác rất hăng say* Bí Thư Phú Trọng học ngay tức thì* Em Tòng Thị Phóng đê mê* Của chung cấp lớn luôn bề em cưng.

----------------------------------------------------------------------------------

Comment




  • Input symbols

Hồi ký của Khurusev - Cái chết của Stalin

Tháng hai 1953 Stalin đột ngột ốm. Việc này xảy ra như thế nào? Tất cả chúng tôi ở cạnh ông vào thứ bẩy. Việc này xảy ra sau
 
Ghi chú: do convert từ bản PDF,trong bản để đọc này các số trang nhảy vào trong chính văn (xoá chưa hết) và có thể có một vài chữ nhảy sai vị trí hoặc sai dấu v,v...Người đọc xem đến thì hiểu đó là số trang chứ không phải số trong câu văn của nguyên bản. Nguồn: www.tusachnghiencuu.org/pdf_files/HoiKy).
Chân thành cám ơn người dịch.


Ngạn Xuyên, Hà Nội

Cái chết của Stalin

Tháng hai 1953 Stalin đột ngột ốm. Việc này xảy ra như thế nào? Tất cả chúng tôi ở cạnh ông vào thứ bẩy. Việc này xảy ra sau Đại hội 19, khi Stalin còn “treo” số phận Mikoian và Molotov. Tại Plenum đầu tiên sau Đại hội, ông đề nghị thay thế Bộ chính trị, bằng Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng gồm 25 người và điểm tên nhiều người mới. Tôi và nhiều uỷ viên Bộ chính trị rất ngạc nhiên, cái danh sách ấy được lập ra như thế nào và ai lập? Chính Stalin cũng không biết những người đang giúp ông. Đến bây giờ tôi không biết thực chất. 

 

Hỏi Malenkov, ông trả lời rằng bản thân ông không biết. Theo tình thế ấy, Malenkov lẽ ra phải tham gia vào việc cải cách Đoàn chủ tịch, chọn người và lên danh sách, nhưng lại không được làm. Có thể tự tay Stalin
làm? Theo một số dấu hiệu, tôi giả thiết rằng Kaganovich giúp Stalin chọn cán bộ mới. Bên trong Đoàn chủ tịch, có một Văn phòng hẹp hoạt động. Đoàn chủ tịch thực tế cũng không tập hợp các vấn đề, mà tất cả các vấn đề lại do Văn phòng này giải quyết. Đây là Stalin nghĩ ra một công thức hoàn toàn không có trong điều lệ: không có Văn phòng nào như thế tìm thấy trong Điều lệ Đảng.
 
Stalin xây dựng Văn phòng Đoàn chủ tịch để làm gì? Hình như Stalin muốn lập tức tống cổ Molotov và Mikoian, và ông làm một Đoàn chủ tịch mở rộng, còn sau đó chọn vào Văn phòng một số nhân vật. Như ông nói, là để lãnh đạo linh hoạt. Và trong Đoàn Chủ tịch Văn phòng này không có Molotov, không có Mikoian, nghĩa là “treo” họ. Tôi tin rằng giá như Stalin sống lâu thêm một thời gian nữa, cuộc đời của cả hai Molotov và Mikoian sẽ kết thúc một cách thê thảm. Nói chung, ngay lập tức sau Đại hội Đảng 19, Stalin tiến hành chính sách cô lập Molotov và Mikoian, không mời họ đi đâu cả, không đến nhà nghỉ, không đến nhà riêng, không đến xem phim mà chúng tôi trước đó thường đi cùng với nhau.
 
Nhưng Vorosilov được bầu vào Văn phòng Đoàn chủ tịch. Khá thú vị, có lần chúng tôi ngồi ở chỗ Stalin vì một bản án kéo dài đã lâu, bỗng nhiên ông nói:
 
- Vorosilov chui vào Văn phòng như thế nào?
 
Chúng tôi không nhìn vào ông, mắt đang cụp xuống. Thứ nhất, vì câu nói “chui vào”? Sao mà Vorosilov có thể “chui vào”? Sau đó chúng tôi nói:
 
- Chính ông bổ nhiệm Vorosilov, và ông là được bầu.
 
Stalin không phát triển chủ đề này thêm nữa. Tuy nhiên tuyên bố của ông cũng hiểu được, vì Vorosilov trước Đại hội 19, chưa lôi cuốn vào công tác như một uỷ viên Bộ chính trị: ông không tham gia các phiên họp, không nhận tài liệu. Stalin nói với chúng tôi trong vòng hẹp rằng ông nghi Vorosilov là điệp viên Anh. Không tưởng tượng được, tất nhiên, sự ngu ngốc này. Nhưng ông có lần “nghi ngờ” Molotov. Tôi có mặt nhà nghỉ cuối tuần ở Stalin tại Novo Afon. Và bỗng nhiên trong đầu ông lởn vởn ý nghĩ rằng Molotov là điệp viên của đế quốc Mỹ, bán mình cho Mỹ, vì rằng năm 1945 sang Mỹ bàn về Liên Hiệp Quốc đi trên toa xe hoả đặc biệt sang trọng. Nghĩa là, có toa riêng, như thế là bị bán rồi! Chúng tôi giải thích là Molotov không thể nào có một toa xe riêng nào cả, ở Mỹ các toa xe thuộc về các hãng xe lửa tư nhân. Đấy, đầu óc mụ mị của Stalin trong những tháng cuối cùng của cuộc đời. 
 
Và có lần vào thứ bẩy ông gọi chúng tôi vào Kreml. Ông đích thân mời tôi, Malenkov, Beria và Bulganin. Chúng tôi đến. Ông nói:
 
- Chúng ta xem phim.
 
Chúng tôi xem. Sau đó ông lại nói:
 
- Đi thôi, chúng ta sẽ ăn ở một nhà nghỉ gần.
 
Chúng tôi đén đó, ăn tối. Bữa ăn kéo dài. Stalin gọi những bữa ăn tối như thế, một bữa ăn rất muộn là “bữa trưa”. Chúng tôi ăn xong, có lẽ, 5 hoặc 6 giờ sáng. Thời gian bình thường, khi kết thúc “bữa trưa”. Stalin rất vui vẻ, có mối thiện cảm rất tốt về tinh thần. Không ai chứng minh rằng có thể xảy ra một điều bất ngờ gì đó. Chúng tôi từ giã và ra về.
 
Chúng tôi ra chỗ treo áo, Stalin, như thường lệ, đi đến chỗ chúng tôi. Ông hay đùa, giơ tay, những ngón tay thọc vào bụng tôi, gọi Mikita. Khi nào ông có mối thiện cảm tốt về tinh thần, ông luôn luôn gọi tôi theo tiếng
Ukraina là Mikita. Chúng tôi cũng ra về trong tâm trạng tốt, vì rằng không xảy ra cái gì xấu trong bữa ăn, mà không phải bữa ăn nào cũng được kết thúc tốt đẹp như thế này. Chúng tôi ai nấy về nhà. Tôi chờ đợi, vì sáng mai là ngày nghỉ, Stalin nhất định gọi chúng tôi, vì thế cả ngày tôi không dám ăn, nghĩ có thể là ông lại mời sớm hơn? Sau đó tôi ăn qua loa. Không và vẫn không có chuông! Tôi không tin là ngày nghỉ có thể uổng phí thế này, điều gần như ít xảy ra. Nhưng không! Cũng đã muộn, tôi cởi quần áo, chui lên giường.
 
Malenkov bỗng nhiên gọi tôi:
 
- Một thằng nhóc ở chỗ Stalin (ông nói tên), nhân viên Cheka, vừa gọi đến cho tôi và họ băn khoăn nói rằng dường như một điều gì đó xảy ra với Stalin. Phải nhanh chóng đến đó. Tôi gọi cho anh và đã báo cho Beria và Bulganin. Đến thẳng đó nhé.
 
Lúc ấy, tôi cho gọi xe. Xe của tôi đang ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi mặc nhanh quần áo, đi ngay đến đó, mất chừng 15 phút. Chúng tôi đã quy ước với nhau là không đi vào chỗ Stalin, mà đến trực ban. Chúng tôi rẽ vào, hỏi:
 
- Có chuyện gì thế?
 
Họ trả lời: 
 
- Bình thường đồng chí Stalin vào thời gian 11 giờ, nhất định gọi mang trà cho ông. Có lúc thì ông đòi món ăn. Bây giờ không thấy điều này.
 
Chúng tôi cử đi bà Matrena Petrovna người đi thám thính, bà ta là người hầu phòng, một phụ nữ không còn trẻ và nhiều năm phục vụ ở chỗ Stalin, ít hiểu biết, nhưng là một phụ nữ trung thành với ông. Nhân viên Cheka nói với chúng tôi rằng họ cũng đã cử bà đến đó xem tình thình ra sao. Bà kể là đồng chí Stalin nằm ở trên sàn, ngủ, còn dưới ông có nước. Nhân viên Cheka đỡ ông dậy, đặt ông lên đi văng ở phòng làm việc
nhỏ. Ở ấy có một phòng làm việc nhỏ và một phòng làm việc lớn. Stalin nằm ở sàn phòng làm việc lớn. Tiếp theo họ đặt ông lên giường, đi qua phòng làm việc, nơi ông trượt ngã bị ướt. Khi đó họ kể cho chúng tôi cũng có lần xảy ra như thế như thế và bây giờ ông dường như đang ngủ, chúng tôi cho rằng không có lợi chúng tôi xuất hiện ở chỗ ông và ghi lại sự có mặt của mình, nhìn thấy ông ở đó trong tình thế không đẹp như thế này. Chúng tôi trở về nhà.
 
Một lúc sau, tôi lại nghe chuông. Một lần nữa, Malenkov gọi:
 
- Thằng nhóc ở chỗ đồng chí Stalin lại gọi điện nói rằng một điều gì đó với ông không phải như thế. Mặc dù Matrena Petrovna cũng nói rằng ông ngủ ngon, nhưng đây là một giấc ngủ không bình thường. Phải đến đó một lần nữa đi.
 
Chúng tôi thoả thuận rằng Malenkov gọi tất cả các uỷ viên Văn phòng, kể cả Vorosilov và Kaganovich là những người không có mặt trong bữa ăn và không có đến đến nhà nghỉ lần đầu. chúng tôi cũng thoả thuận gọi cả bác sỹ. Chúng tôi đến chỗ trực ban. Có mặt Kaganovich, Vorosilov, bác sỹ. Trong số bác sỹ, tôi nhớ tên giáo sư tim mạch nổi tiếng Lukomski.
 
Nhưng cùng với ông còn có cả những nhân viên y tế mà tôi không nhớ tên. Chúng tôi vào phòng. Stalin nằm trên đi văng. Chúng tôi nói với bác sỹ để họ bắt đầu công việc của mình và kiểm traл tình trạng đồng chí Stalin. Người đầu tiên là Lukomski, rất cẩn thận, và tôi hiểu ông. Ông sờ vào tay Stalin, như là sờ cục sắt nóng, thậm chí tay giật giật. Beria thô lỗ nói:
 
- Ông là bác sỹ, phải biết làm chứ?
 
Lukomski tuyên bố rằng tay phải Stalin không hoạt động, tê liệt chân trái, và không nói được. Tình huống thật nặng nề. Lúc ấy người ta lập tức rạch quần áo Stalin, mặc quần áo mới và đặt ông lên đi văng ở phòng lớn, nơi ông thường ngủ và có nhiều không khí hơn. Lúc đó chúng tôi quyết định 289 đặt trực ban bác sỹ bên cạnh với ông. Chúng tôi, các uỷ viên Văn phòng Đoàn chủ tịch, cũng phải thường xuyên trực. Sắp xếp như thế này: Beria và Malenkov hai người trực, Kaganovich và Vorosilov, tôi và Bulganin. Nhưng “chủ lực” là Malenkov và Beria. Họ họ trực sáng, chúng tôi với Bulganin trực đêm. Tôi rất lo lắng và, thú nhận rằng tôi tiếc là có thể mất Stalin, người đang nằm trạng thái nguy kịch. Bác sỹ nói rằng mắc chứng bệnh như thế này
hầu như không ai có thể quay lại làm việc. Người ta có thể còn sống nhưng không còn khả năng làm việc, có lẽ phần nhiều những căn bệnh như thế này không tiếp tục, mà kết thúc bằng thảm hoạ.
 
Chúng tôi thấy rằng Stalin nằm bất tỉnh: không biết ông ở trạng thái nào. Người ta cho ông ăn bằng từng thìa nước dùng và trà đường. Các bác sỹ đứng ở đó. Họ lấy nước tiểu của ông, ông vẫn nằm bất động. Tôi nhận xét rằng khi hút nước tiểu ông cố gắng như được che chở, cảm giác không lanh lợi. Nghĩa là, có biết một điều gì đó. Một hôm Stalin hơi tỉnh. Nét mặt ông thể hiện rõ điều này. Nhưng ông không thể nói, cất tay trái và bắt đầu chỉ lên trần, rằng chỉ xuống đất, chỉ vào tường. Môi ông mấp máy tựa như cười. Sau đó bắt đầu nắm tay chúng tôi. Tôi chìa tay mình cho ông và ông chìa tay trái, tay phải không cử động. Bằng việc nắm tay, ông truyền cảm giác của mình.
 
Lúc đó tôi nói:
 
- Ông biết, vì sao ông chìa tay cho chúng tôi? Trên tường treo một bức tranh, được cắt từ tạp chí “Ngọn lửa nhỏ”, in lại bức tranh của hoạ sỹ này. Trong bức tranh có một cô gái đang cho thiên thần nhỏ bú một chai sữa.
 
Nhưng chúng tôi cho đồng chí của Stalin ăn bằng thìa, và ông, có lẽ chỉ ngón tay lên bức tranh, mỉm cười: này, hãy xem, tôi trong trạng thái này cũng giống như những thiên thần nhỏ. Ngay khi Stalin trút hơi thở cuối cùng, Beria công nhiên sùng sục những hành động độc ác chống Stalin. Beria chửi rủa ông, và nhạo báng ông. Đơn giản là không thể nghe ông được! Cũng hay, vả lại, ngay lúc Stalin có được cảm giác và hiểu có thể khỏi bệnh, Beria sán lại ông, đặt tay lên đầu gối, lắc tay ông và bắt đầu hôn tay ông. Khi Stalin lại hôn mê và nhắm mắt, Beria cất bước và nhỏ ra sàn. Chân dung của Beria đấy! Quỷ quyệt thậm chí trong quan hệ với Stalin, người mà Beria từng như tán tụng và sùng bái.
 
Đến phiên trực của tôi với Bulganin. Chúng tôi vào ban ngày cùng với ông đến chỗ Stalin, khi có các giáo sư, và chúng tôi trực đêm. Tôi với 290 Bulganin khi đó là khá cởi mở hơn so với những người khác, tôi tin ý nghĩ
cởi mở nhất của ông và nói:
 
- Nicolai Aleksandrоvich, thấy chưa, bây giờ chúng ta ở trong tình thế là Stalin chẳng bao lâu sẽ chết. Ông chắc là không qua được đâu. Và bác sỹ nói rằng ông không thể sống được đâu. Anh biết, Beria nhắm chức vụ nào cho mình?
 
- Chức nào?
 
- Hắn sẽ lấy chức Bộ trưởng an ninh quốc gia (lúc ấy Bộ an ninh quốc gia và nội vụ đã tách ra). Chúng ta không thể còn cách nào thông qua việc này. Nếu Beria nhận Bộ an ninh quốc gia - điều này sẽ là bắt đầu sự kết thúc của chúng ta. Hắn sẽ lấy chức vụ này để tiêu diệt tất cả chúng ta. Và hắn sẽ làm điều này! Bulganin đồng ý với tôi. Và chúng tôi bàn bạc sẽ hành động như thế nào. Tôi nói với ông:
 
- Tôi sẽ nói chuyện với Malenkov. Tôi nghĩ rằng Malenkov cũng có ý nghĩ, ông cần phải hiểu phải một điều gì đó làm, nếu khác đi sẽ là thảm hoạ đối với Đảng.
 
Vấn đề này đụng chạm không những đối với chúng ta, mà còn tất cả đất nước, mặc dù và tất nhiên chúng ta không muốn rơi vào lưỡi dao của Beria. Sẽ quay lại thời kỳ 1937-1938, có thể thậm chí tệ hơn. Tôi còn một
ngờ vực: tôi không coi Beria là một người cộng sản và nghĩ rằng hắn đơn giản chui qua vao Đảng. У tôi lờ mờ nhận ra lời của Kaminski rằng hắn là điệp viên nước khác, đây là con sói đội lốt cừu, tạo tín nhiệm với Stalin và chiến chức vụ cao. Chính Stalin cũng kéo hắn. Tôi cảm thấy rằng có ngày chính Stalin lại sợ Beria.
Có một sự cố đụng đến tôi theo ý nghĩ tương tự, tôi muốn kể hết về nó. Có lần chúng tôi ngồi ở Stalin. Bỗng nhiên ông nhìn vào Beria và nói:
 
- Tại sao bây giờ tôi những người quanh hoàn toàn người Gruzia? Tại sao lại như vậy?
 
Beria nói:
 
- Đây là những người trung thành và được ông tin.
 
- Nhưng cớ gì, đây là những người Gruzia được tin và trung thành?
 
Chả lẽ người Nga không trung thành và không được tin cậy sao? Dẹp đi! 
 
Và thời điểm ấy người ta bỏ đi những người này. Beria có khả năng qua tay chân của mình làm với Stalin những gì mà hắn đã tiến hành với người khác theo chỉ thị của Stalin: tiêu diệt đầu độc và v.v... Vì thế Stalin, có lẽ (lập luận thay cho ông) cho rằng Beria có khả năng làm những điều như thế với ông. Nghĩa là, phải dẹp đám người hầu cận, qua đó Beria có thể thâm nhập vào buồng ngủ và nhà bếp. Nhưng vì tuổi tác đã già, Stalin không hiểu Dân uỷ an ninh quốc gia khi đó là Abakumov báo cáo ông mọi vấn đề sau khi Abakumov trình Beria và nhận những chỉ dẫn nói như thế nào cho Stalin. Stalin nghĩ rằng Abakumov sắp xếp những người mới và Abakumov làm điều này để Stalin sai bảo. Theo mặt này thì “vụ án mingrel” bị xổ tung.
 
Khi đó Stalin áp đặt quyết định (và nó được được công bố), rằng những người mingrel liên quan với Thổ nhĩ Kỳ trong số họ có những nhân vật nhắm hướng Thổ Nhĩ Kỳ. Tất nhiên chuyện vớ vẩn! Tôi cho rằng có xảy
ra một hành động của Stalin nhằm chống Beria, vì rằng Beria - là minggrel. Như thế, Stalin cũng chuẩn bị đòn chống Beria. Lúc đó nhiều người bị bắt, nhưng Beria khôn khéo quay lại: chui vào “con dao của Stalin” và Beria bắt đầu trấn áp những người mingrel. Những người nghèo tội nghiệp. Người ta lôi họ lên đoạn đầu đài như lôi những con cừu.
 
Có những sự thật chứng minh sự phản bội của Beria, về sự không tin cậy của Stalin đối với Beria. Như vậy, tôi đã nói tất cả với Bulganin, kết thúc buổi trực, và tôi về nhà. Muốn ngủ bù, vì rằng lâu không ngủ tại phiên trực. Bị mất ngủ và đau chân. Chỉ có chân chân đau, nhưng không ngủ được, nghe chuông. Malenkov
nói:
 
- Đến ngay, Stalin xấu đi rồi. Đi ngay thôi!
 
Tôi gọi xe. Quả là, Stalin ở trong trạng thái xấu. Những người khác lục tục kéo đến. Mọi người thấy rằng Stalin đang chết. Các bác sỹ nói với chúng tôi rằng ông bắt đầu hấp hối. Ông ngừng thở. Làm thở nhân tạo cho ông. Xuất hiện một người đàn ông to cao, bắt đầu nén bóp ngực ông, thực hiện thao tác để giúp ông thở. Tôi thú thực rằng toi rất thương Stalin, anh ta làm ông đau. Và tôi nói:
 
- Nghe đây, thôi đi. Người ta chết rồi. Anh còn muốn cái gì nữa?
 
Không thể làm ông sống lại được.
 
Stalin chết, nhưng chính là đau lòng nhìn người ta làm đau ông. Hô hấp nhân tạo ngừng lại. Ngay khi Stalin chết, Beria ngay lập tức vào xe của mình từ “nhà nghỉ gần” và chạy vụt về Moskva. Chúng tôi quyết định gọi đến đây tất cả các uỷ viên Văn phòng hoặc, nếu được, tất cả các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ Đảng. Chính xác tôi không nhớ. Trong lúc họ chưa đến, Malenkov đi đi lại lại trong phòng, vẻ, lo lắng. Tôi quyết định nói chuyện với ông:
 
- Egor, tôi nói - tôi phải nói chuyện với anh.
 
- Về cái gì? - Malenkov lạnh lùng hỏi lại.
 
- Stalin chết. Chúng ta sẽ sống tiếp như thế nào?
 
- Nói gì bây giờ? Triệu tập mọi người lại, chúng tôi sẽ nói. Để làm điều này, chúng ta triệu tập nhau lại.
Dường như đây là câu trả lời phô diễn. Nhưng tôi hiểu theo nghĩa khác, hiểu rằng mọi vấn đề đã được Malenkov với Beria dự kiến, và đã được thảo luận từ lâu. 
 
- Thôi được - tôi trả lời - sau này chúng ta sẽ nói chuyện.
 
Mọi người tụ hợp. Họ cũng nhìn thấy Stalin đã chết. Cả Svetlana cũng đến. Tôi gặp cô. Khi gặp, cô rất bồn chồn và khóc, không thể thể kìm được. Tôi thật sự thương Stalin, các con của ông, từ đáy lòng tôi than khóc cái chết của ông, lo lắng cho tương lai đất nước, cho Đảng. Cảm thấy rằng bây giờ Beria bắt đầu chỉ huy tất cả mọi người. Tiếp tục bắt đầu cái vòng được chuẩn bị bởi những tên đao phủ, những tên sát nhân này. Và có sự phân bố “ghế”. Beria đề nghị bổ nhiệm Malenkov làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, và Malenkov thôi chức vụ Bí thư BCHTƯ Đảng. Malenkov đề nghị chuẩn y phó thứ nhất của mình là Beria và chia đôi hai Bộ, thành Bộ an ninh quốc gia và Bộ nội vụ, trong Bộ nội vụ, Beria bổ nhiệm Bộ trưởng. Tôi im
lặng. Bulganin cũng inm lặng. Lúc ấy tôi sợ rằng Bulganin nhảy ra không đúng lúc, vì rằng không được lộ diện sớm quá. Tôi cũng thấy tâm trạng của những người còn lại. Nếu như tôi và Bulganin nói rằng chúng tôi chống, thì bằng đa số phiếu họ sẽ buộc tội chúng tôi là người phá hoại tổ chức, là khi xác Stalin chưa nguội mà chúng tôi đấu đá giành chức vụ. Vâng, tất cả xảy ra theo hướng này hướng, như tôi nghĩ trước. 
 
Molotov cũng bổ nhiệm phó thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng. Kaganovich - là phó. Vorosilov đề nghị bầu Chủ tịch Đoàn chủ tịch xô viết tối cao Liên Xô, cách chức Svernik. Beria thể hiện rất láo xược với Svernik: nói rằng dân trong nước nói chung không ai biết ông. Tôi thấy lộ diện chi tiết kế hoạch của Beria, biến Vorosilov thành người soạn thảo các quyết định mà Beria làm, khi cối xay thịt của hắn bắt đầu làm việc. Beria đề nghị tôi thôi chức Bí thư Thành uỷ Moskva để tôi tập trung những hoạt động của mình vào công tác BCHTƯ Đảng. Chúng tôi tiến hành cả những bổ nhiệm khác. Đưa ra nghi lễ chôn cất và nghi thức thông báo nhân dân về cái chết của Stalin. Như thế chúng tôi, những người thừa kế của Stalin khởi đầu hoạt động độc lập của mình điều khiển Liên Xô.
 
Có một thoả thuận: hai người lập chương trình nghị sự phiên họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ - Malenkov và Khrusevу. Malenkov chủ toạ phiên họp, nhưng tôi chỉ nhận tham gia lập chương trình nghị sự. Beria vơ lấy nhiều quyền lực, sự trơ trẽn của ông tăng lên. Lúc đó xảy ra va chạm đầu tiên của các uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ với Beria và Malenkov. Đoàn chủ tịch, về thành phần bị thay đổi. Chúng tôi quay trở lại nhóm hẹp các uỷ viên, còn Văn phòng do Stalin lập ra tại Plenum sau Đại hội 19, chúng tôi huỷ bỏ. Beria và Malenkov đề nghị bãi bỏ một nghị quyết từ thời Stalinе về xây dựng CNXH ở CHDC Đức. Họ đọc tài liệu cần thiết, nhưng không đưa cho nó vào tay chúng tôi, mặc dù ở Beria có văn bản viết. Beria đọc nó nhân danh bản thân và Malenkov. Molotov phát biểu đầu tiên. Ông kiên quyết chống lại đề nghị đó và lập luận rất hay tại sao ông phản đối. Tôi mừng là Molotov phát biểu dũng cảm và có căn cứ. Ông nói rằng chúng tôi không thể
làm việc này; rằng đây là một sự bỏ vị trí; rằng từ bỏ xây dựng CNXH ở CHDC Đức - nghĩa là làm mất phương hướng sức mạnh của Đảng ở phương Đông và không những ở Đông Đức, mà còn thủ tiêu triển vọng, rằng đây là đầu hàng trước người Mỹ.

 

Tôi hoàn toàn đồng ý với Molotov và ngay lập tức cũng phát biểu, ủng hộ Molotov. Sau tôi nói với Bulganin đang ngồi bên cạnh tôi. Sau đó các uỷ viên còn lại của Đoàn chủ tịch phát biểu. Và Pervukhin, và Saburov, và Kaganovich phát biểu chống đề nghị của Beria - Malenkov đối với CHDC Đức. Lúc đó Beria với Malenkov rút tài liệu của mình. Chúng tôi thậm chí bỏ phiếu và không chép vào biên bản kết quả thảo luận. Tựa như vấn đề chưa hề có. Lúc ấy là mánh khoé, thủ đoạn. 
 
Chúng tôi ra về sau phiên họp, nhưng về mặt tinh thần vẫn nóng bỏng. Làm sao có thể đưa một đề nghị về vấn đề quan trọng như thế này? Tôi cho rằng đây là quan điểm chống cộng. Chúng tôi hiểu, tất nhiên, Beria sử dụng Malenkov, còn Malenkov, như con bê, theo đuôi với Beria trong việc này. Kết thúc phiên họp, bộ ba ra về từ phòng họp - Malenkov, Beria và tôi. Nhưng không tranh cãi gì cả. Ngay hôm đó tôi gặp Molotov, và ông nói với tôi:
 
- Tôi rất hài lòng, ông có quan điểm như vậy. Tôi, thừa nhận, tôi bất ngờ, vì rằng tôi thấy ông luôn luôn với bộ ba này và cho rằng ông cũng có cùng quan điểm thống nhất với Malenkov và Beria, tôi nghĩ rằng Khrusev, có lẽ, biết trước vấn đề này. Rõ ràng ông có quan điểm vững chắc, làm tôi rất hài lòng. Và ông đề nghị tôi gọi ông là “anh”. Phần mình, tôi nói rằng cũng hài lòng rằng Viacheslav Mikhailovich có quan điểm đúng như thế.
 
Một thời gian sau, Bulganin gọi cho tôi:
 
- Người ta vẫn chưa gọi điện cho anh à?
 
Tôi lập tức hiểu ý định của ông mà không cần giải thích thêm:
 
- Không, người ta đã không gọi điện. Cũng sẽ không gọi điện cho tôi.
 
- Còn tôi người ta cũng đã gọi.
 
- Và anh trả lời gì?
 
- Họ nói rằng tôi nghĩ thêm một lần nữa: liệu tôi có muốn giữ chức Bộ trưởng quốc phòng?
 
- Ai gọi điện cho anh?
 
- Ban đầu một người, sau đó người kia. Cả hai đã gọi.
 
- Không, họ không gọi tôi, vì họ biết rằng chuông của họ có thể làm hại họ.
 
Sau đó, từ phía Beria quan hệ với tôi vẻ bề ngoài tựa như không thay đổi. Nhưng tôi hiểu rằng đấy chỉ là mánh khoé của “dân châu Á”. Trong thuật ngữ này, chúng tôi sự đóng góp vào tư duy là con người nghĩ một đằng nói một nẻo “nói dzậy những không phải dzậy”. Tôi hiểu rằng Beria tiến 295 hành chính sách hai mặt, chơi với tôi, làm tôi yên tâm, còn hắn chờ thời điểm sẽ trấn áp tôi trước tiên, khi có thời gian thích.
 
Tại phiên họp Beria đưa đề nghị như thế này:
 
- Bởi vì ở nhiều người bị kết án hoặc bị đi đày đã kết thúc thời hạn tù hoặc đi đày và họ cần được quay về nhơi họ cư trú trước đây, tôi đề nghị chấp nhận quyết định là không ai có quyền quay về nếu thiếu quyết định của Bộ trưởng Bộ nội vụ và phải sống trong khu vực, mà Bộ nội vụ nói trước.
 
Tôi nổi giận và phát biểu chống, nói:
 
- Tôi thẳng thừng phản đối, đây là sự chuyên quyền. Sự chuyên quyền trước đây từng hoành hành. Những người này bị bắt bởi An ninh quốc gia, tiến hành điều tra cũng là An ninh quốc gia và kết án cũng là An ninh quốc gia. “Bộ ba”, được xây dựng trong An ninh quốc gia, tạo ra cái gì mà họ muốn. Không điều tra viên, không công tố viên, không toà - chẳng có cái gì cả, đơn giản là tón người ta và giết. Giờ đây những người đã quá hạn bị trừng phạt thậm chí theo kết án của “bộ ba”, lại bị tước bỏ tất cả, vẫn còn là phạm nhân, và chỗ cư trú của họ lại do Bộ nội vụ đưa ra. Điều này là không được. Những người khác ủng hộ tôi. Beria lại khôn khéo rút đề nghị của mình. Malenkov ghi biên bản, và vấn đề này, một lần nữa, không có trong biên bản.
 
Có những tín hiệu khá nghiêm trọng từ phía Beria. Sau đó Beria lại đưa ra một đề nghị có vẻ tự do: thay đổi những quyết định (thay số quyết định và thời gian), dự tính trước các vụ bắt bớ và kết án những người bị “bộ
ba” bắt thời hạn đến 20 tù hoặc lưu đày. Beria đề nghị giảm thời hạn xuống dưới 10 năm. Tỏ ra là một đề nghị nhân hậu. Nhưng tôi hiểu đúng Beria và nói:
 
- Tôi thẳng thừng chống điều này, vì rằng phải xem xét lại tất cả hệ thống bắt bớ, toà và thực tế điều tra. Đấy là sự chuyên quyền. Nhưng vấn đề, khép tội 20 hoặc 10 năm tù, không có giá trị nào cả, vì rằng có thể ban đầu khép tội 10 năm, sau này thêm 10 năm nữa và lại thêm 10 năm nữa. Có những việc như thế. Chúng tôi có những tài liệu, nêu rõ các phương pháp tương tự đã được thi hành. Vì thế tôi thẳng thừng chống. Và Beria lại rút đề nghị của mình. Như thế tôi tích cực phát biểu chống Beria về hai vấn đề. Vấn đề đầu tiên là ủng hộ lời phát biểu Molotov, vấn đề thứ hai, những người khác ủng 296 hộ tôi. Như thế, tôi không còn nghi ngờ, Beria bây giờ hiểu đúng về tôi và cũng hoạch định những “biện pháp” của mình, vì rằng ông không thể giảng
hoà với ai cản đường ông. Điều kiện công việc xảy ra như thế. Sau đó Beria có một đề nghị, như nhử mồi? Có lần chúng tôi đi, dạo chơi, và Beria nói ý nghĩ của mình:
 
- Tất cả chúng ta đi dưới một bầu trời, như đã nói trong thời kỳ cũ, chúng tôi đang già đi, mọi thứ có thể xảy ra ở mỗi một người trong chúng ta, chúng ta còn có gia đình. Phải nghĩ về tuổi già, và về gia đình của mình. Tôi đề nghị xây dựng những nhà nghỉ cho quan chức mà những nhà nghỉ này được nhà nước chuyển thành sở hữu riêng cho những ai xây dựng chúng. Tôi cũng chẳng ngạc nhiên cách suy nghĩ này. Nó hoàn toàn gắn liền
với kiểu cách Beria. Và tôi tin tất cả điều này được nói nhằm mục đích khiêu khích. Nhưng Beria tiếp tục:
 
- Tôi đề nghị xây dựng những nhà nghỉ này không phải ở ngoại ô Moskva, mà là ở Sukhumi. Ái chà, thành phố này đẹp như thế nào!
 
Và Beria tả thành phố đẹp lạ lùng như thế nào. 
 
- Nhưng tôi đề nghị xây dựng không phải ở ngoại ô Sukhumi. Tại sao cứ phải ra khỏi thành phố? Phải giải phóng một khoảnh đất rộng ở trung tâm thành phố, làm một công viên, trồng đào. Và Beria bắt đầu bốc lên, nào là trồng ở đó loại đào gì, nho nào. Sau đó Beria tiếp tục phát triển ý nghĩ của mình. Beria có tính toán kỹ càng: cán bộ nào cần, nhân viên nào cần. Ông ta đặt tất cả lên bàn chân trần và rộng lớn. 
 
- Dự án và xây dựng do Bộ nội vụ tiến hành. Trước hết theo tôi, phải xây dựng cho Egor (nghĩa là cho Malenkov), sau đó là anh, Molotov, Vorosilov, và sau đó là những người khác. Tôi im lặng nghe, chừng nào chưa phản đối. Sau đó tôi nói:
 
- Cần phải nghĩ đã.
 
Kết thúc cuộc nói chuyện, bộ ba đến nhà nghỉ. Hai người ngồi chung một xe. Đến gần chỗ rẽ vào đại lộ Rulevsk. Ở đó tôi với Malenkov phải đi tiếp tiếp sang trái, còn Beria - đi thẳng. Tôi ngồi với Malenkov trong một xe.
 
Tôi nói với ông:
 
- Anh xem thế nào? Đây có phải là khiêu khích đơn thuần không.
 
- Vì sao mà anh dây vào những lời của ông ấy nhỉ?
 
- Tôi nhìn xuyên qua nó, đây là khiêu khích. Chẳng có lẽ có thể làm như thế? Bây giờ không phản đối được, cứ để ông ta chúi mũi vào chuyện này và nghĩ rằng, mưu đồ của ông không ai hiểu. 
 
Và Beria bắt đầu thúc đẩy ý tưởng của mình. Cho người làm thiết kế. Khi thiết kế xong, mời chúng tôi xem thiết kế và đề nghị bắt đầu xây dựng. Báo cáo về vấn đề này là một kiến trúc sư nổi tiếng. Bây giờ đồng chí này là người chỉ huy xây dựng nhà máy điện nguyên tử. Tôi biết ông từ trước chiến tranh và ở các sự kiện trong chiến tranh. Beria coi ông là nhân vật gần gũi, hoặc ông làm việc ở chỗ Beria và thực hiện cái gì mà Beria nói. Sau cuộc gặp gỡ này, tôi nói Malenkov:
 
- Lấy đi. Beria có nhà nghỉ. Ông nói với chúng tôi là cho người ta xây dựng, nhưng ông ấy không xây dựng cho mình. Mà xây cho anh, và làm điều này để làm mất uy tín anh đấy.
 
- Không, không, anh nói gì thế!
 
Đối với tôi sự thật là Beria đề nghị xây dựng nhà nghỉ riêng dứt khoát ở Sukhumi. Trong đồ án có địa điểm được hoạch định, nơi nhà nghỉ của Malenkov sẽ được xây cất. Theo kế hoạch, thấy trước là việc đuổi một số lượng người dân ra khỏi chỗ họ đang sống ở đó. Bộ trưởng báo cáo cho chúng tôi rằng phải đuổi một lượng lớn dân và việc xây dựng như thế quả thật là một tai hoạ. Người ta nói đùa, ở đó bao nhiêu nhà riêng của họ, bao thế hệ sinh sống ở đó từ lâu, và bỗng nhiên lại đuổi họ đi?
 
Beria giải thích là đã được chọn để Malenkov từ nhà nghỉ của mình có thể nhìn thấy Biển Đen quan sát được Thổ Nhĩ Kỳ. Beria thậm chí đùa:
 
- Bờ Thổ Nhĩ Kỳ nằm ngang chân trời, rất đẹp.
 
Nhưng khi mọi người ra về và chúng tôi còn lại chỉ hai người với nhau, tôi nói với Malenkov:
 
- Chẳng lẽ anh không hiểu Beria muốn gì? Ông ấy muốn tàn sát, quẳng người ta đi, phá huỷ những tổ ấm của họ và xây dựng một cung điện ở đó cho anh. Tất cả sẽ có hàng rào vây quanh. Bắt đầu căm tức sôi sục trong thành phố. Mọi người sẽ chú ý rằng cái này xây cho ai? Và khi tất cả xong, anh đến đó, và mọi người nhìn thấy trong xe là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô; tất cả những việc tàn phá, đuổi dân hoá ra được làm vì anh. Sự 298 phẫn nộ xuất hiện không những chỉ ở Sukhumi, mà bó còn sang các nơi khác. Nhưng Beria cần điều này. Anh khi đó lại tự yêu cầu từ chức. Malenkov lưỡng lự. Beria cũng nói về nhà nghỉ với cả Molotov. Tôi không nghĩ rằng Molotov làm như thế, nhưng Molotov bỗng nhiên đồng ý. Ông nói rằng cứ
xây cho ông nhưng không phải ở Kavkaz, mà ở ngoại ô Moskva. Tôi ngạc nhiên. Tôi nghĩ là Molotov nổi cáu và phản đối. Tôi không biết điều này xảy ra như thế nào. 
 
Như vậy không ai tỏ ra tích cực chống, cỗ máy bắt đầu chạy. Thiết kế xong, Beria xem. Sau công việc, chúng tôi tới gặp Beria, và ông chỉ cho tôi bản thiết kế nhà nghỉ của tôi.
 
- Ôi, xin nghe nhé, căn nhà tốt làm sao, đẹp thế nào.
 
Tôi nói với ông:
 
- Đúng, tôi rất thích.
 
- Cứ cầm bản thiết kế về nhà.
 
Tôi mang bản thiết kế về nhà và, thú thực là không biết nhét nó vào đâu. Vợ tôi, Nina Petrovna, nói với tôi:
 
- Anh có cái gì đấy?
 
Tôi thú thực với bà. Vợ tôi nổi giận:
 
- Bậy bạ quá chừng!
 
Tôi không giải thích một điều gì cho Nina Petrovna và chỉ nói:
 
- Thôi mà, chúng ta xếp nó lại, nói chuyện sau.
 
Như vậy, vụ việc xoay vần. Beria đẩy mạnh xây dựng, nhưng trước khi ông bị bắt thực chất cũng chưa làm được gì cả. Khi ông bị bắt, chúng tôi lập tức bãi bỏ tất cả. Nhưng bản thiết kế nhà nghỉ, thời gian dài lăn đi lăn lại ở đâu đó trong nhà tôi. Lúc đó Beria tăng cường những hoạt động điên cuồng can thiệp vào sinh hoạt các tổ chức Đảng. Beria chế tạo tài liệu về tình hình công việc trong lãnh đạo Ukrainaе. Đòn đầu tiên mà ong nghĩ ra là quyết định giáng vào tổ chức Đảng Ukraina. Tôi nghĩ ông triển khai vụ này để lôi người của tôi. Ông chuẩn bị những tài liệu cần thiết thông qua Bộ nội vụ CHXHCN Ukraina và bắt đầu lôi kéo tỉnh trưởng công an trong việc chuẩn bị vụ việc. Tỉnh trưởng công an ở Lvov Strokach. Giờ đã chết. Đó là một người cộng sản chân chính và một quân nhân tốt. Trước chiến tranh ông là trung tá, tư lệnh biên phòng. Trong thời gian chiến tranh là tham mưu trưởng du kích Ukraina và luôn luôn báo cáo tôi về tình hình tại vùng lãnh thổ bị kẻ thù chiếm đóng. Tôi thấy ông là người trung thực và đứng đắn. Sau chiến tranh ông được bổ nhiệm toàn quyền Bộ nội vụ tỉnh Lvov, nơi bọn chống đốinhoạt động.
 
Sau này chúng tôi biết rằng khi đó Bộ trưởng Bộ nội vụ Ukraina yêu cầu cầu ông thu thập những tài liệu tư liệu bôi nhọ thanh danh các cán bộ Đảng, thì Strokach nói rằng đây không phải là việc của ông, mà là Bí thư tỉnh uỷ, cứ gọi đến đó. Lúc đó Beria gọi cho Strokach và nói rằng nếu ông cứ làm theo ý mình, thì sẽ bị biến thành bụi ở trại tập trung. Nhưng năm 1953, chúng tôi ban đầu chẳng biết một cái gì cả, mặc dù cảm thấy rằng đang có cuộc tấn công vào Đảng, bắt nói phải khuất phục Bộ nội vụ. Chúng tôi bàn cãi tại BCHTƯ ĐCSLX về bản danh sách của Beria về cán bộ lãnh đạo Ukraina. Do đó, thông qua quyết định cách chức Melnikov khỏi chức vụ Bí thư BCHTƯ ĐCS Ukraina, thay vào đó Kirichenko. Ý tưởng Beria là ở chỗ các
cán bộ địa phương, dân tộc Ukraina dường như không đưa vào ban lãnh đạo, không điều động họ, và đề nghị đưa Korneychuk vào Đoàn chủ tịch BCHTƯ ĐCS Ukraina. Việc này được làm tại Plenum. Sau khi Beria bị bắt, các đồng chí kể cho tôi nghe Plenum tiến hành ra sao. Korheychuk hiểu không đúng,
vì sao những ứng cử viên của ông không được điều động, và bắt đầu đấu khẩu, nói lung tung có lợi cho Beria. Ông không sáng trí, vì Beria đã nói như thế.
 
Bản danh sách sau của Beria động đến những người Baltic, sau đó Belorussia. Và cũng cùng một hướngh. Bản đề nghị của Beria chẳng có gì không đúng. BCHTƯ ĐCSLX và chính Beria trước đó đã có lớp học điều động cán bộ dân tộc. Và chúng tôi quyết định rằng ở nước cộng hoà chức vụ Bí thư thứ nhất BCHTƯ phải là người địa phương, không phải là người Nga được cử từ Moskva. Nói chung Beria có xu hướng bài Nga. Ông tuyên truyền rằng tại nơi có nhiều người Nga thì phải phong tỏa họ. Tất cả mọi người cũng hiểu và bắt đầu đả kích không những người Nga, mà còn những cán bộ dân tộc không đấu tranh với “thế lực” Nga. Điều này xảy ra tại nhiều tổ chức Đảng nước cộng hoà tự trị.
 
Tôi nhiều lần nói với Malenkov: 
 
- Chẳng lẽ anh không nhìn thất sự việc sẽ nhân rộng đi đâu à? Chúng ta đang đi đến thảm họa. Beria thu nhặt dao đâm chúng tôi.
 
Malenkov nói với tôi:
 
- Ừ, làm gì? Tôi nhìn thấy, nhưng làm sao tham gia?
 
Tôi nói với ông:
 
- Phải chống cự, mặc dù trong hình thức thế này: anh nhìn thấy các vấn đề mà Beria đưa ra, thường mang xu hướng chống đảng. Không được chấp nhận chúng, mà phản đối chúng.
 
- Anh muốn tôi còn lại một mình hay sao? Nhưng tôi không muốn.
 
- Tại sao anh nghĩ chỉ còn mình anh, nếu anh bắt đầu phản đối? Anh và tôi - cũng hai người. Bulganin, tôi tin, cũng nghĩ như vậy, vì rằng tôi đôi lần trao đổi với ông những suy nghĩ. Những người khác cũng cùng đi với
chúng tôi, nếu chúng tôi phản đối lập luận, từ quan điểm. Bản thân anh không có khả năng nói được ai. Ngay khi Beria đưa đề nghị ra, anh nhanh chóng ủng hộ ông ta, tuyên bố: đúng, đây là đề nghị đúng, tôi “đồng ý”, ai “chống”? Và lập tức anh cho bỏ phiếu. Nhưng anh phải tạo khả năng cho người khác phát biểu, bằng cách ghìm mình, đừng nhảy vọt ra và anh thấy không phải một người nghĩ đâu. Tôi tin tưởng rằng nhiều người không đồng ý về hàng loạt vấn đề với Beria”.


Và tôi đề nghị:

- Chúng ta lập chương trình nghị sự. Đưa các vấn đề các gai góc mà theo quan điểm của chúng ta, Beria đưa ra là không đúng, và chúng ta bắt đầu phản đối ông ta. Tôi tin tưởng rằng chúng tôi huy động được cũng uỷ
viên Đoàn chủ tịch, và không chấp nhận cách giải quyết của Beria. Malenkov cuối cùng cũng phải đồng ý. Tôi, thề rằng, cũng ngạc nhiên và vui lòng. Chúng tôi cùng lập chương trình nghị sự các phiên họp Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Bây giờ tôi không nhớ, khi đó các vấn đề đưa ra như thế nào, vì lâu quá rồi. Tại cuộc họp chúng tôi phát biểu lập luận “chống” về mọi vấn đề. Những người khác cũng ủng hộ chúng tôi, và ý đồ của Beria không được thông qua. Liền tù tì nhiều phiên họp. Ngay sau việc này, Malenkov tìm thấy niềm tin là, té ra, với Beria có thể đấu tranh hoàn toàn bằng phương pháp Đảng, Malenkov tỏ ra cũng có ảnh hưởng của mình giải quyết vấn đề và phủ quyết những đề nghị, mà theo quan điểm của chúng tôi, là có hại cho Đảng và đất nước.
 
Chúng tôi thấy rằng Beria bắt đầu đẩy mạnh các sự kiện. Ông cảm thấy mình đứng trên các uỷ viên Đoàn chủ tịch, lên mặt và thậm chí vẻ bề ngoài biểu thị sự lấn át của mình. Chúng tôi trải qua thời điểm rất tốt nghuy hiểm. Tôi cho rằng cần phải nhanh tay, và nói với Malenkov rằng cần phải nói chuyện với các uỷ viên Đoàn chủ tịch về lý do này. Hình như tại cuộc họp không thể làm thế được, mà phải mặt đối mặt nói chuyện với từng người một để hiểu ý nghĩ về những vấn đề cụ thể đối xử với Beria. Với Bulganin tôi đã nói vấn đề này từ trước đây và biết ý kiến của ông. Ông đứng ở trên cao trí và hiểu rõ sự nguy hiểm, đang đe dọa Đảng và tất cả chúng ta từ phía Beria. Malenkov cũng đồng ý:
 
- Đúng, phải hành động.
 
Chúng tôi thỏa thuận rằng trước tiên tôi phải tới gặp và nói chuyện với Vorosilov. Có một Uỷ ban nào đấy trong đó phải có sự tham gia của tôi và Vorosilov. Tôi quyết định dùng tình tiết này, gọi Klimentу Efremovichу và nói rằng muốn gặp ông nói chuyện về vấn đề gì đó. Vorosilov trả lời ông muốn bây giờ đi cùng với tôi đến BCHTƯ.
 
- Không - tôi nói - tôi đề nghị ông tiếp tôi, tôi tự thân đến ông.
 
Nhưng ông vật nài là ông phải đi. Cuối cùng tôi nài nỉ theo ý mình. Chúng tôi quy ước với Malenkov là sau khi nói chuyện với Vorosilov (trước bữa ăn trưa) tôi quay về nhà, ghé vào Malenkov, và chúng tôi ăn trưa cùng với nhau. Khi đó, tôi và Malenkov sống ở cùng một số nhà, cùng cửa ra vào, chỉ khác là tôi ở tầng cao hơn. Tôi đi đến gặp Vorosilov tại Xô viết tối cao, nhưng tôi không đạt được cái điều mà tôi đã tính. Ngay khi tôi mở cửa và bước qua ngưỡng cửa phòng làm việc của ông, ông đang lớn giọng tán tụng Beria:
 
- Hân hạnh cho chúng tôi, đồng chí Khrusev, chúng tôi có một người tuyệt vời Larenti Pavlovich, đây là một con người xuất chúng!
 
Tôi nói với ông:
 
- Có thể, anh đừng phí công nói như thế nữa, anh đang thổi phồng tư cách ông ta phải không?
 
Nhưng tôi cũng không thể nói với ông về Beria như tôi nghĩ. Sự đánh giá là hoàn toàn ngược lại, và tôi bằng ý kiến của mình đặt Vorosilov vào tình thế khó xử; Ông có thể không đồng ý với tôi đơn giản vì tự ái: khi tôi vừa mới vào, ông đang ca tụng Beria, nhưng sau này lập tức chuyển sang quan điểm của tôi là đi đến sự cần thiết phải loại bỏ Beria. Và tôi quẳng lại cho ông những lời về vấn đề, mà chúng tôi thoả thuận một cách chính thức qua điện thoại: về vấn đề vớ vẩn nào đấy. Và bây giờ tôi quay về ăn trưa, như đã quy ước với Malenkov. Tôi kể cho Malenkov rằng tôi không nhận được cái gì cả, rằng tôi không thể nói chuyện với Vorosilov, như đã nghĩ. Tôi nghĩ rằng Vorosilov có thể, nói như thế để đề phòng người ta nghe trộm, và
nói điều đó để cho bọn “tai mắt” của Beria. Mặt khác, ông cũng coi tôi là người gần với Beria, vì rằng thường thấy chúng tôi bên nhau: Beria, Malenkov và tôi. Nghĩa là, ông nói điều này đối với Beria, ông cũng chứng minh bầu không khí, buộc mọi người phải chấp nhận tính cách và ôm lấy tội lỗi trong óc chống lại lương tri của mình.
 
Chúng tôi thoả thuận với Malenkov là tiếp đây, tôi sẽ nói chuyện với Molotov. Molotov khi đó là Bộ trưởng Bộ ngoại giao. Trước đây ông thường gọi điện cho tôi, nói rằng muốn cùng tôi gặp BCHTƯ và nói chuyện về các vấn đề cán bộ Bộ Ngoại Giao. Tôi lợi dụng cuộc gọi của ông và nói:
 
- Anh muốn gặp tôi phải không? Tôi sẵn sàng. Nếu có thể, anh đến chỗ tôi, tôi ta sẽ nói chuyện với về chuyện cán bộ.
 
Nhưng khi ông đến, tôi nói với ông:
 
- Chúng ta nói chuyện về cán bộ, nhưng không phải về cán bộ của Bộ ngoại giao đâu.
 
Và tôi bắt đầu kể cho Molotov đánh giá của tôi về vai trò của Beria. Tôi nói có sự nguy hiểm như thế nào bây giờ đe doạ Đảng nếu không ngăn chặn Beria đang thực hiện quá trình làm đổ sự lãnh đạo của Đảng. Molotov, hình như bản thân cũng nghĩ nhiều về điều này. Ông không thể không nghĩ, vì rằng bản thân ông biết tất cả và thấy dự giống nhau hơn từ khi Stalin còn sống. Khi Molotov còn được Stalin tin ở Stalin, tôi chính tai đã nghe, ông phát biểu rất mạnh như thế nào chống Beria, nhưng khi không còn Stalinе, Beria có phương pháp khiêu khích. Nếu Beria đưa một đề nghị nào đấy, mà Stalin phát biểu chống, thì Beria quay bề người nào đó đang ngồi:
 
- Đấy, anh cứ đề nghị mãi? Cái này chưa có lợi!
 
Như thế Beria không ít lần chỉ vào Molotov, và Molotov phản ưng rất rất mãnh liệt.
 
Vì vậy, ngay khi tôi bàn mưu với Molotov, ông hoàn toàn đồng ý với tôi.
 
- Đúng, đúng, nhưng tôi muốn hỏi: thế ý Malenkov ra sao?
 
- Tôi nói chuyện lúc này với anh nhân danh và Malenkov, và Bulganin. Malenkov, Bulganin và tôi cũng trao đổi ý kiến về vấn đề này.
 
- Đúng, Các ông hiểu vấn đề này. Tôi hoàn toàn đồng ý và ủng hộ ông. Nhưng ông làm tiếp cái gì và việc này dẫn đến đâu?
 
- Trước hết cần cách chức Beria khỏi chức vụ uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, phó Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng Liên Xô và Bộ trưởng Bộ nội vụ.
 
Nhưng Molotov nói rằng điều này không đủ:
 
- Beria rất nguy hiểm, và tôi cho rằng phải dùng những biện pháp cực đoan hơn.
 
- Có thể giữ ông ta để điều tra?
 
Tôi nói “giữ” vì rằng chúng tôi không có những chứng cớ để buộc tội trực tiếp Beria. Tôi có thể nghĩ rằng ông là điệp viên của Musavist, nhưng chỉ Kaminski nói về điều này. Và những bằng chứng như thế không cách nào kiểm tra được, nhưng tôi chưa nghe thấy có sự kết án vụ này. Có thể là thật và cũng có thể là không đúng, tuy nhiên tôi tin Kaminski, vì rằng ông là người đứng đắn và hoàn toàn vì Đảng. Nhưng tính cách khiêu khích của Beria, tất cả chúng tôi dựa trên sự linh cảm. Nhưng không thể bắt người theo
linh cảm. Vì thế tôi nói rằng phải giữ Beria “để kiểm tra”. Điều này thì đúng là có thể.
 
Như vậy, tôi thoả thuận được với Molotov, còn sau đó tôi kể tất cả cho Malenkov và Bulganinу. Và chúng tôi quyết định, cần đẩy nhanh công việc, vì rằng chúng tôi có thể bị nghe trộm hoặc ai đó vô tình sảy miệng, những bằng chứng về những bước đi của chúng tôi lọt tới tai Beria, và Beria bắt chúng tôi một cách đơn giản. Lúc đó chúng tôi quy ước tôi cần phải nói chuyện với Saburov, cũng là uỷ viên Đoàn chủ tịch. Saburov rất nhanh trả lời tôi:
 
- Tôi hoàn toàn đồng ý.
 
Và cũng hỏi:
 
- Thế còn Malenkov?
 
Về điều này những ai dự mưu với tôi đều cũng hỏi như thế.
 
Kaganovich trong thời gian ấy không có mặt ở Moskva, ông ở bận thu mua gỗ, ông kiểm tra công việc ở đó chạy ra sao. Khi Kaganovich quay về, tôi đề nghị ông rẽ vào BCHTƯ. Ông đến buổi chiều, và chúng tôi ngồi với ông rất lâu. Ông tỷ mỷ kể cho tôi về Siberi, về thu mua thu mua gỗ. Tôi không cắt lời ông, mặc dù trong đầu tôi hoàn toàn nghĩ những chuyện khác. Tôi tỏ ra lễ độ, chiến thuật, chờ khi câu chuyện của ông cạn hết.
 
Khi thấy thời cơ đến, tôi nói:
 
- Những điều anh kể cũng hay đấy. Giờ đây tôi muốn nói hết với ông rằng chúng tôi đang làm gì.
 
Kaganovich lập tức vểnh tai nghe:
 
- Thế ai “đồng ý”?
 
Ông đặt vấn đề như thế, thăm dò, tương quan lực lượng. Tôi nói rằng Malenkov, Bulganin, Molotov và Saburov đồng ý, như thế, nói riêng, và không có ông thì chúng tôi cũng có số đông. Lúc đó Kaganovich tuyên bố:
 
- Tôi cũng “đồng ý”, tất nhiên, “đồng ý”, nhưng tôi đơn giản chỉ hỏi thế thôi.
 
Nhưng tôi hiểu đúng ông, và ông hiểu tôi. Sau đó hỏi:
 
- Thế còn Vorosilov?
 
Và tôi kể cho ông, tôi nhận thấy mình không tháo vát với Vorosilov.
 
- Ông nói với với anh như thế à?
 
- Đúng, ông ta ca tụng Beria.
 
Kaganovich chửi rủa Vorosilov, nhưng không độc ác:
 
- Thằng cáo già. Ông ấy không nói thật với anh đâu. Chính ông ấy nói với tôi thật sự là không thể sống tiếp được với Beria, rằng Beria là người rất nguy hiểm, rằng Beria có thể tìm và tiêu diệt tất cả chúng ta.
 
- Thế thì cần phải nói chuyện với ông ta hội đàm một lần nữa. Có thể Malenkov nói chuyện với ông ta được không? Tốt hơn, tôi không nên quay lại nói chuyện với ông nữa để không đặt ông ta vào tình thế khó xử.
 
Cả hai chúng tôi đồng ý.
 
Kaganovich hỏi:
 
- Còn Mikoian?
 
- Với Mikoian, về vấn đề này tôi vẫn còn chưa nói, vì có vấn đề phức
tạp.
 
Tất cả chúng tôi biết những người Kavkaz như Mikoian và Beria có những quan hệ tốt nhất, họ luôn luôn không rời nhau nửa bước. Và tôi kể đã nói chuyện với Mikoian, hình như phải gác lại muộn hơn. Về các cuộc nói chuyện mới, tôi thông báo cho Malenkov, và ông cũng đồng ý trong tình hình hiện tại, tốt hơn là nói cho Vorosilov biết. Giờ đây còn Pervukhin.
 
Malenkov nói:
 
- Với Pervukhin, tôi muốn tự đến bàn bạc.
 
- Lưu ý rằng Pervukhin là người phức tạp, tôi biết ông ta.
 
- Nhưng cả tôi cũng biết ông ấy.
 
- Thôi được, xin cứ việc!
 
 Malenkov mời Pervukhin đến gặp và sau đó gọi cho tôi:
-
 Tôi gặp Pervukhin, kể hết với ông ta tất cả, nhưng Pervukhin trả lời rằng còn suy nghĩ. Điều này rất nguy hiểm. Tôi phải thông báo điều này để giục ông ta nhanh hơn. Không biết, điều này có thể kết thúc như thế nào.
 
Tôi gọi cho Pervukhin. Ông đến với tôi, và tôi hết cho ông nghe một cách thẳng thắn. Mikhail Georgy trả lời:
 
- Nếu như Malenkov nói tất cả với tôi như thế này, như anh nói, tôi đâu có những vấn đề như thế. Tôi hoàn toàn đồng ý và xem rằng không còn lối thoát khác.
 
Tôi không biết Malenkov nói với Pervukhin như thế nào, nhưng kết thúc như thế. Như thế, chúng tôi đã bàn bạc công việc với tất cả uỷ viên Đoàn chủ tịch, trừ Vorosilov và Mikoian. Tôi và Malenkov quyết định bắt đầu hành động trong ngày họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Tại cuộc họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tôi luôn luôn có mặt: vì biên bản đã ghi là tôi phải tham gia những phiên họp như thế. Tại những phiên họp này vắng mặt Vorosilov. Vì thế chúng tôi quyết định, mời Vorosilov tham dự phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Khi mọi người đến đông đủ, thay bằng phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, là phiên họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ. Chúng tôi quy ước, ngay trước phiên họp này tôi nói chuyện với Mikoian, còn Malenkov nói với Vorosilov.
 
Sáng sớm hôm ấy, tôi ở nhà nghỉ cuối tuần. Tôi gọi cho Mikoian và mời ông rẽ qua tôi, đi cùng tôi cùng tới phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Mikoian đến, và ở đó tôi tiến hành hội đàm. Cuộc hội đàm rất dài. Tôi nhớ rằng chúng tôi nói chuyện khoảng hai tiếng đồng hồ, nói hết và tỷ mỷ, còn sau đó lại hai ba lần đôi lần quay lại những chuyện đã bàn rồi. Vị thế của Mikoian là thế này: Beria quả là có tư cách xấu, nhưng ông không tuyệt vọng, trong thành phần tập thể có thể làm được việc. Đó là một vị trí hoàn toàn đặc biệt, không phải ai trong số chúng tôi có thể giữ được. Tạm thời kết thúc đàm phán, thời gian còn lại chỉ kịp có mặt tại phiên họp. Tôi ngồi chung xe với nhau và đi vào Kreml. Trước đó Malenkov cũng nói chuyện với Vorosilov.
 
- Thế nào? Ông ta vẫn như trước đây khen ngợi Beria à?
 
- Khi tôi vừa mới lắp bắp vài lời về dự định của chúng tôi, Klim (tên gọi thân mật của Vorosilov) ôm quàng lấy tôi, hôn và khóc. Thật thế không, tôi không biết. Nhưng tôi nghĩ rằng Malenkov nói dối chẳng để làm gì.
 
Sau đó nảy sinh sinh vấn đề thảo luận bắt giữ Beria. Nhưng ai là người bắt Beria? Đội bảo vệ của chúng tôi lại dưới quyền cá nhân Beria. Trong thời gian họp uỷ viên Đoàn chủ tịch, đội bảo vệ ngồi ở phòng bên
cạnh. Ngay khi chúng tôi đưa ra vấn đề này, Beria sẽ ra lệnh cho đội bảo vệ bắt chính chúng tôi. Lúc đó chúng tôi thoả thuận gọi các tướng lĩnh. Chúngm tôi quy ước là tôi nhận trách nhiệm đi mời các tướng lĩnh. Thế là tôi làm như thế, mời Moskalenko và những người khác, tất cả là năm người. Sau đó Malenkov với Bulganin nới rộng vòng của họ và mời thêm cả Zukov. Do vậy chúng tôi có 11 nguyên soái và tướng. Chúng tôi thoả thuận rằng các tướng lĩnh sẽ chờ đợi ở phòng riêng, còn khi nào Malenkov báo cho biết biết, thì họ
đi vào gian phòng đang diễn ra phiên họp, và sẽ bắt Beria.
 
Và thế là phiên họp khai mạc. Vorosilov với tư cách Chủ tịch Đoànchủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô, đương nhiên, không thể có mặt tại phiên họp Đoàn chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô. Vì thế sự xuất hiện của ông tựa như khó hiểu. Và Malenkov, khai mạc phiên họp, lập tức đặt vấn đề:
 
- Chúng ta thảo luận công tác Đảng. Có những vấn đề cần phải thảo luận ngay, trong Đoàn chủ tịch BCHTƯ. 
 
Tất cả đồng ý. Như đã thoả thuận từ trước, tôi xin phép Malenkov được nói và đề nghị thảo luận vấn đề Beria. Beria ngồi bên phải. Beria giật mình, cầm lấy tay tôi, nhìn vào tôi và nói:
 
- Anh nói gì thế, Nikita? Anh định giở trò gì?
 
Tôi nói với Beria:
 
- Thì anh cứ nghe đã, ngay đây tôi muốn nói hết với anh.
 
Thế là tôi nói. Tại Plenum BCHTƯ trước chiến tranh, khi thảo luận tình hình công việc trong Đảng, có lời phát biểu của Kaminski, Dân uỷ y tế Liên Xô. Ông lên diễn đàn và tuyên bố:
 
- Tôi muốn nói rằng khi tôi làm việc ở Baku, có tin đồn dai dẳng lan đi trong số những người cộng sản rằng Beria làm việc trong cơ quan phản gián Musavist. Tôi muốn nói về điều này, để Đảng biết và kiểm tra điều này. Phiên họp khi đó kết thúc, và không ai phát biểu thêm nữa về vấn đề đã nêu, bản thân Beria cũng không cải chính, mặc dù có mặt. Sau đó nghỉ ăn trưa. Sau bữa ăn Plenum tiếp tục, nhưng Kaminski không đến, và không ai biết vì sao. Lúc đó điều này là đúng luật. Nhiều uỷ viên BCHTƯ, có mặt tại một phiên họp, người phiên không đến, bị rơi vào “kẻ thù nhân dân” và bị bắt. Số phận đã rơi vào Kaminski.
 
Tôi biết Kaminski, khi tôi là bí thư Bauman, sau đó Kraskaia Presnia, thành uỷ Moskva và đặc biệtgần gũi với ông khi ông được bầu bí thư đảng uỷ Moskva đầu 1932. Kaminski chơi thân với Mikhain Mikhailovich, một cán bộ triển vọng. Tôi rất kính trọng ông và cũng đánh bạn với ông. Đương nhiên, tôi xây dựng tình hữu nghị với Kaminski. Vì thế tôi tin rằng Grisa - là người đứng đắn. Ông là người đặc biệt trong sạch và có đạo đức. Tuy nhiên, mặc dù không ai tại Plenum cho một lời giải thích nào cả về việc số phận Kaminski, ông như chìm vào nước. Bị chìm không chỉ Kaminski. Hàng trăm, hàng nghìn người mất tích. Sau đó người ta tuyên bố rằng họ là “kẻ thù nhân dân”, vâng tôi đã nói không phải về mỗi người. Từ lâu, trong đầu tôi lẩn quẩn ý nghĩ: Vì sao, khi Kaminski tuyên bố như thế, không ai có lời giải thích xem ông nói đúng hoặc không đúng, điều này có hay không có - không biết..
 
Sau đó tôi kể và những hoạt động gần đây của Beria, từ sau khi Stalin chết, trong quan hệ các tổ chức Đảng - Ukraina, Belarussia và những nước 308 khác. Trong các thư của mình Beria đặt các vấn đề (thư này còn nằm trong lưu trữ) về mối quan hệ tương hỗ trong việc lãnh đạo các nước cộng hoà dân tộc, đặc biệt trong sự lãnh đạo của các cơ quan Cheka, và đề nghị điều động các cán bộ dân tộc. Điều này đúng, đường lối như thế luôn luôn rồn tại trong Đảng. Nhưng Beria đặt vấn đề này theo hướng bài Nga trong việc bồi dưỡng,
điều động và lựa chọn cán bộ. Ông muốn cột chặt các dân tộc và tập hợp họ chống người Nga. Luôn luôn tất cả các kẻ thù ĐCS luôn luôn tính đến cuộc đấu tranh giữa các dân tộc, và Beria cũng bắt đầu từ điều này.
 
Sau đó tôi kể về đề nghị cuối cùng của Beria - về việc từ bỏ xây dựng CNXH ở CHDC Đức - và đề nghị đối với những người bị kết án bị trừng phạt biệt xứ, khi Beria đề nghị không cho phép họ quay về chỗ cư trú, mà quyền quyết định nơi ở của họ do Bộ nội vụ làm, nghĩa là do bản thân Beria. Lúc ấy sự chuyên quyền về luật pháp! Tôi nói cả về đề nghị và Beria thay bằng giải quyết tận gố vấn đề việc bắt người và kết án họ dưới thời Stalinе, giảm thời hạn cực đại những người bị kết ăn bởi cơ quan Bộ Nội vụ từ 20 xuống 10 năm. 
 
Thoáng nhìn, đề nghị này tựa như tự do, còn theo thực chất là họp pháp hoá những gì đang tồn tại. Khép tội 20 năm hoặc 10 năm, tình thế vẫn không thay đổi. Tới 10 năm, và, nếu cần, Beria cho thêm 10 năm, còn
sau đó lại 10 năm, chừng nào người ta còn chưa chết. Và tôi kết thúc:
 
- Do những theo dõi những hoạt động của Beria tôi có ấn tượng rằng ông ta nói chung không phải là một người cộng sản, mà làm kẻ hám lợi, chui vào đảng vì động cơ hám lợi. Ông làm những việc để đề cao mình và không thể chấp nhận được. Không tưởng tượng được một người trung thực có thể
làm việc vì mình.
 
Sau tôi, Bulganin tiếp lời. Tôi và ông từ khi Stalin còn sống đã có cùng một ý kiến về Beria. Ông cũng phát biểu trong tinh thần như thế. Và những người khác thể hiện tính nguyên tắc, trừ Mikoian. Mikoian phát biểu
cuối cùng. Ông phát biểu (tôi không còn nhớ chi tiết lời của ông): lặp lại cái điều đã nói với tôi, khi tôi và ông bàn bạc trước phiên họp, tuyên bố rằng Beria có thể tính đến sự phê bình, rằng ông không mất tuyệt vọng, trong một tập thể ông có khả năng ích lợi.
 
Khi tất cả phát biểu hết, Malenkov, với tư cách Chủ tịch phải tổng kết và làm văn bản quyết định. Nhưng ông lúng túng, và phiên họp chấm dứt ở diễn giả cuối cùng. Phiên họp ngừng lại ít phút
 
Tôi thấy vấn đề như thế đã chất đống lên rồi, và đề nghị Malenkov để ông chuyển lời của tôi vào bản dự thảo. Như chúng tôi đã quy ước với nhau, tôi đề nghị Plenum quyết định vấn đề cách chức Beria (Đoàn chủ tịch BCHTƯ làm điều này) khỏi tất cả các chức vụ mà ông giữ. Malenkov vẫn còn bối rối và thậm chí không đưa đề nghị của tôi ra bỏ phiếu, mà lập tức ấn nút bí mật gọi các tướng lĩnh. Người đầu tiên vào là Zukov, sau ông là Moskalenko và những người khác. Zukov khi đó thứ trưởng Bộ trưởng quốc phòng Liên Xô. Lúc ấy giữa tôi và Zukov còn tồn tại mối quan hệ tốt, mặc dù ông trong thời kỳ đầu không được tính trong số tướng lĩnh giúp đỡ chúng tôi xử lý Beria.
 
Vì sao chúng tôi lôi kéo các tướng lĩnh. Cũng có những suy tính được nêu ra, nếu chúng tôi quyết định giữ Beria, ai dám chắc Beria không gọi các Chekist, bảo vệ, những người này đang dưới quyền ông, và ông ra lệnh cho họ cô lập chúng tôi? Chúng tôi không có lực lượng, vì rằng ở Kreml có một lượng lớn người của Beria được vũ trang và huấn luyện kỹ càng. Vì thế chúng tôi quyết định lấy các tướng lĩnh quân đội vào việc.
Đầu tiên, chúng tôi trao lệnh cho Moskalenko và 5 tướng bắt Beria. Moskalenko cùng các đồng chí của mình có vũ khí, mà họ cùng vũ khí đó được Bulganin chở vào Kreml. Khi các tướng lĩnh vào Kreml, đã trao vũ khí cho trực ban. Ngay trước phiên họp phiên họp, nhóm Moskalenko được bổ xung thêm nguyên soái Zukov và một số người khác. Và tiến vào phòng họp khoảng 10 người hoặc hơn. Malenkov nói nhẹ nhàng, đề nghị với Zukov:
 
- Tôi đề nghị ông, thay mặt Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô giữ Beria.
 
Zukov ra lệnh cho Beria:
 
- Giơ tay lên!
 
Moskalenko và những người khác lột vũ khí, cho là Beria có thể gây khiêu khích. Beria kéo mạnh về phía mình chiếc cặp đang nằm ở bậu cửa sổ, sau lưng ông ta. Tôi tóm tay Beria để ông không thể sử dụng súng, nếu súng nằm trong cặp. Sau đó kiểm tra: không có súng trong túi, cũng như trong cặp. Beria đơn giản có phản xạ thôi. Beria bị tống giam vào một gian phòng nhỏ, cạnh văn phòng làm việc Malenkov của trong dinh Hội đồng Bộ trưởng. Và chúng tôi quyết định, sáng mai hoặc sang ngày kia, càng nhanh càng tốt, triệu tập Plenum BCHTƯ Đảng, xử lý vấn đề Beria. Đồng thời cách chức Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên Xô, vì rằng ông không được chúng tôi tin cậy, và chúng tôi nghi ngờ, liệu ông có tiến hành điều tra một cách khách quan không. Viện trưởng Viện kiểm sát mới được bổ nhiệm là Rudenko và được trao quyền tiến hành điều tra vụ Beria. Như vậy, Beria bị bắt. Nhưng đư hắn đi đâu? Chúng tôi không thể tin đội bảo vệ của Bộ nội vụ, vì rằng đây là cơ quan của Beria, với tay chân của Beria. Lúc đó thứ trưởng Bộ nội vụ Kruglov và, hình như, Serov.
 
Tôi ít biết về Kruglov, còn Serov tôi biết rõ hơn và tin ông. Tôi cho rằng Serov là một người trung thực. Nếu có một cái gì đấy làm ông thay đổi, cũng mọi nhân viên Cheka khác, thì ông cũng là nạn nhân của cùng một chính sách chung do Stalin tiến hành. Vì thế tôi đề nghị trao quyền giữ Beria cho chính Serov. Nhưng các đồng chí khác suy nghĩ rằng dù sao chăng nữa phải thận trọng hơn - tất cả chúng tôi không ai tin Kruglov cả. Rồi chúng tôi thoả thuận rằng tốt nhất là trao vụ này tư lệnh quân đoàn phòng không, quân khu Moskva Moskalenko. Moskalenko nhận Beria, cho người của mình vây quanh và giải Beria về chỉ huy sở của mình, trong một cái hầm chống bom.
 
Tôi thấy ông làm tất cả những gì cần thiết. Phiên họp này kết thúc. Ngay khi phiên họp kết thúc, Bulganin đến gặp tôi:
 
- Anh hãy nghe tay đội trưởng bảo vệ của tôi kể.
 
Viên đội trưởng này đến chỗ tôi, kể:
 
- Tôi biết vừa mới bắt Beria, và tôi muốn nói với ông Beria hiếp đứa cháu gái của tôi, học sinh lớp 7. Hơn một năm trước đây bà của nó đã chết, còn vợ tôi vì đột quỵ và nằm ở bệnh viện. Cô bé ở nhà một mình. Một lần vào buổi chiều nó chạy đi mua bánh mỳ thì qua đúng ngôi nhà mà Beria ở. Ở đó, cháu gặp một người đàn ông già đang nhìn chăm chăm vào nó. Cháu khiếp sợ. Sau đó, một nhân viên Cheka gọi cháu và dẫn cháu vào nhà Beria. Beria ngồi ăn cơm chiều cùng với cháu, đề nghị uống rượu chúc Stalin. Cháu
từ chối, nhưng ông ta cứ nài nỉ phải uống vì Stalin. Cháu đồng ý, rồi uống, còn sau đó cháu thiếp đi và ông ta hiếp cháu.
 
Tôi trả lời người này:
 
- Tất cả những gì ông kể, công tố viên sẽ điều tra”.
 
Sau đó người ta đưa chúng tôi một danh sách trong đó có họ tên hơn 100 phụ nữ. Tay chân của Beria dẫn họ tới Beria. Nhưng việc tiếp khách ở chỗ Beria tất cả mọi người đều theo một cách: tất cả những ai vào nhà Beria lần đầu tiên, ông đều mời ăn và đề nghị uống rượu vì sức khoẻ của Stalin. Trong rượu vang ông bỏ sẵn thuốc ngủ. Sau đó ông làm với họ cái gì mà ông muốn. Khi Beria bị cách ly, ông xin bút và giấy. Chúng tôi bàn bạc và quyết định cứ đưa cho ông: biết đâu trong lòng ông thức tỉnh một khát vọng chân thật để ông nó những gì ông ấy biết là chúng tôi buộc tội ông. Và ông bắt đầuviết. Ban đầu, thư cho Malenkov:
 
- Egor, anh thật đáng khinh, tôi biết anh, chúng ta là bạn nhau, sao anh lại tin Khrusev? Ông ta xúi giục anh làm điều này... và vân vân.
 
Với tôi ông cũng có một bức thư, trong đó viết rằng ông là một người trung thực. Ông gửi một số thư như thế: Malenkov băn khoăn khi đọc những thư này. Sau đó Malenkov bắt đầu lo lắng rằng ông và Beria cùng đưa ra ý tưởng từ bỏ xây dựng CNXH ở Đông Đức, và ông sợ rằng vụ việc nhằm chống Beria, xoay sang chống ông. Nhưng chúng tôi nói với ông rằng bây giờ chưa phán xét vấn đề này. Vấn đề Beria còn sâu rộng hơn nhiều so với vấn đề Đức.
 
Khi Rudenko bắt đầu thẩm vấn Beria, thì chúng tôi ngỡ ngàng thấy một con người tàn ác, khốn nạn, không có một cái gì thiêng liêng cả. Ở Beria không hề có chủ nghĩa cộng sản, và nói chung không có bộ mặt đạo đức con người. Nhưng quả là về tội ác của Beria khu vựcc gì để nói, vì ông làm chết bao nhiêu người lương thiện! Sau khi bắt Beria được một thời gian, lại có vấn đề về Merkulov, từng, là Thanh tra nhà nước Liên Xô. Tôi, thú thực rằng, trước đây tôi kính trọng Merkulov và coi ông là người của Đảng. Ông là con người có văn hoá và nói chung tôi quý ông. Vì thế tôi nói các đồng chí của mình:
 
- Có một sự kiện, Merkulov là trợ lý của Beria ở Gruzia, còn chưa đủ chứng minh rằng ông là đồng bọn của Beria. Có thể dù sao đi nữa, điều này không phải thế? Chính Beria giữ rất chức vụ cao và chính hắn chọn người cho mình, mà không phải ngược lại. Người ta tin Beria và làm việc với ông ta. Vì thế không thể coi những ai làm việc làm việc với Beria, như là những cộng sự gây những tội ác. Chúng ta gọi Merkulov, nói chuyện với ông. Có thể, ông thậm chí giúp đỡ chúng ta tốt hơn trong việc phán xét Beria.
 
Và chúng tôi quy ước rằng tôi gọi ông đến BCHTƯ Đảng. Tôi gọi Merkulov, nói rằng Beria bị bắt, rằng đang tiến hành điều tra.
 
- Ông nhiều năm làm việc với Beria, liệu có thể giúp đỡ BCHTƯ.
 
- Tôi sẵn sàng làm tất cả những gì có thể.
 
Và tôi đề nghị Merkulov: 
 
- Hãy trình bằng văn bản tất cả những gì cần thu thập.
 
Sau bao nhiêu ngày trời, ông mới viết một bức thư dày, tất nhiên, vẫn nằm ở lưu trữ. Nhưng bức thư này chẳng giúp chúng tôi một cái gì cả. Ở đó chỉ là những ấn tượng chung chung, suy lý, tựa như tác phẩm nào đó. Merkulov viết một cái gì đó, kể cả bài hát, và thói quen sáng tác. Khi tôi gửi tài liệu này cho Rudenko, thì ông nói thẳng rằng phải bắt Merkulov, vì rằng điều tra vụ Beria mà không bắt Merkulov thì sẽ công việc sẽ bị cản trở và không làm đày đủ.
 
BCHTƯ Đảng quyết định bắt Merkulov. Tôi đau lòng, thấy rõ rằng mình phí công tin ông. Merkulov có liên quan với Beria trong những tội ác như thế, và chính ông phải ngồi trên ghế bị cáo và cùng trách nhiệm với Beria. Trong lời nói cuối cùng, khi bị kết án trước toà, Merkulov nguyền rủa cái ngày giờ, khi gặp với Beria. Ông nói rằng Beria đã đưa ông tới toà. Từ Đại hội 19 đến Đại hội 20 ĐCSLX
 
Ngay sau khi kết thúc Đại hội 19 ĐCSLX, nảy sinh việc thay thế Bộ chính trị BCHTƯ Đảng trước đây bằng một cái tên gọi mới - Đoàn chủ tịch BCHTƯ ĐCSLX, Stalin đã hình thành những hội đồng rộng rãi gồm nhiều thành viên về các lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế té ra là những hội đồng này chẳng có khả năng làm việc, mặc dù tôi xem rằng nếu có sự lãnh đạo thích đáng lãnh đạo thì nó cũng giải quyết nhiệm vụ cụ thể mà quyền hạn chủ yếu - hội đồng này đưa ra những dự thảo, thì họ đóng một vai trò tích cực.

 

Nhưng họ không thể làm nổi vai trò đó, vì rằng nó được trình cho chính họ, và không hề có một kế hoạch nào cả để lãnh đạo những hội đồng này, và các vấn đề đặt ra trước đây với họ vẫn không giải nghĩa được. Các vấn đề đang được suy nghĩ. Tóm lại, một người có dụng cụ của mình thích dùng lúc nào
thì dùng. Không có ai lãnh đạo cả. 
 
Rồi Stalin chết. Tôi rất trải qua nặng nề về cái chết của ông. Nếu nói chân thật, thì tôi chịu đựng không phải vì tôi có mối ràng buộc với Stalin, mặc dù nói chung tôi cũng ràng buộc với ông. Đơn giản là ông đã già, và
không tránh khỏi cái chết luôn cặp kè với ông. Đối với tôi dó là quy luật bi thảm của tự nhiên: mọi người sinh ra và chết đi, phải coi trọng điều này. Stalin ở độ tuổi như thế, không thể tránh khỏi cái chết. Nôi lo lắng trước tiên của tôi là thành phần Đoàn chủ tịch vẫn tồn tại sau khi Stalin chết, và vai trò đặc biệt của nó đang nằm trong tay Beria và được ông ta củng cố: vai trò này đang báo trước, theo đánh giá của tôi, có một công việc lớn và là một bất ngờ lớn, tôi thậm chí nói rằng hậu quả thảm khốc. Vì thế tôi than khóc Stalin như
một lực lượng duy nhất hiện thực đoàn kết. Mặc dù lực lượng này thường được sử dụng rất lung tung và không phải luôn luôn đi theo hướng cần thiết, nhưng tất cả sức lực của Stalin là nhằm đến sự vững mạnh và phát triển sự nghiệp CNXH, sự vững mạnh thành quả của cách mạng tháng Mười. Điều này tôi không nghi ngờ. Ông đã thi hành cách thức dã man trong hành động, nhưng khi đó tôi còn chưa biết, sự xấu xa của ông là hoàn toàn vô căn cứ đến nhường nào, từ quan điểm của những người bị bắt và bị tử hình một cách vô cớ.
 
Tất nhiên ở tôi, cũng như mọi người khác thoáng hiện một ngờ vực:
 
- Thế này là thế nào? Trong số những người bị bắt hoặc bị tù hầu như không có ai quay lại và hầu như họ không đúng?
 
Trong cuộc sống không cần phải có như thế. Những nghi ngờ phát sinh đều có căn cứ, như phải theo chuẩn mực đúng trong ý nghĩ. Nhưng Stalin - là Stalin. Uy tín của ông rất lớn, và tôi không nghĩ rằng con người
này về nguyên tắc có khả năng cố ý lạm dụng quyền lực. Beria, khi Stalin chết, lại vào đúng chỗ đó. Ông thay đổi hẳn, trẻ ra, ăn nói thô lỗ, vui vẻ lên, đứng ở thi hài Stalin đặt trong quan tài chưa đến giờ chôn. Beria cho rằng thời của ông đã đến. Bây giờ không còn thế lực nào có thể kiềm chế ông, mà thế lực đó ông cần tính đến. Giờ đây ông có thể làm tất cả những gì ông xem là cần thiết. Malenkov? Malenkov không bao giờ giữ vị trí riêng, ông không có vai trò đặc biệt. Ông luôn luôn là người đầu sai. Stalin trong các cuộc nói chuyện hẹp đã nói một cách tương đối hình ảnh về Malenkov:
 
- Đây là một thợ viết. Ông ta viết nghị quyết rất nhanh, không phải luôn luôn một mình mà con tổ chức mọi người. Điều này ông làm nhanh hơn và tốt hơn những người khác, nhưng ông không có khả năng suy nghĩ và
sáng kiến độc lập. Đúng, Malenkov, theo tôi, cũng không có tham vọng trực tiếp cho điều này. Năm năm trước khi Stalin mất, tôi có mặt ở Sochi theo lời mời của Stalin, tôi có một lần nói với Malenkov, nhắc ông nên lưu tâm rằng ông có chỗ đứng của mình và không phải là dường cột trong quan hệ Beria, còn Beria nhạo báng ông. Lúc đó Malenkov nói với tôi là ông biết điều này, nhưng ông có khả năng để làm đúng công việc và thoát khỏi điều này. Ông cho rằng ông cùng với Beria là có lợi cho cá nhân ông. Vả lại, quả là đúng
như vậy. Ông ủng hộ Beria, còn Beria ủng hộ Malenkov. Vì thế Stalin đánh giá cao hoạt động của Malenkov, mặc dù ông phê phán mạnh về khả năng của Malenkov trong lãnh đạo. Bulganin?
 
Bulganin rất thận trọng với Beria, và khi tôi với ông nói về vấn đề này, thì ông phát biểu nhận xét tiêu cực đối với Beria, ông đồng ý với tôi. Với ý nghĩ như thế, tôi đứng cạnh thi hài Stalin. Trước đây tôi đã kể
về hoạt động của chúng tôi sau khi Stalin chết và về việc bắt Beria và tôi không bây giờ không lặp lại nữa. Nhưng sau khi bắt Beria và điều tra thì khám phá được những thôi thúc bí mật che dấu chúng tôi, những thôi thúc này trước đây đẻ ra sự lạm quyền lớn biết nhường nào dẫn đến cái chết của nhiều người lương thiện. Đối với tôi, nói riêng, ấn tượng mạnh nhất là cái chết Kedrov, cha của viện sỹ triết học Kedrov. Cá nhân tôi không biết Kedrov cha. Ông là một chính khách lớn, một trong những nhà lãnh đạo bộ đội Liên Xô ở miền Bắc, trong những năm nội chiến ông là người tổ chức phòng thủ chống bọn can thiệp ở đó. Và tôi có nhu cầu phải vén bức rèm để biết, dù cuộc điều tra đang làm, tại sao xảy ra các vụ bắt bớ, tất cả bao nhiêu người bắt, tài liệu gốc về việc bắt giam và điều tra về các vụ bắt giam này như thế nào? Tôi đặt vấn đề này tại cuộc họp Đoàn chủ tịch BCHTƯ và đề nghị được phân xử rõ ràng. Các vấn đề này đặc biệt làm tôi lo lắng vì rằng chúng tôi cũng bắt đầu nghĩ về tiến hành Đại hội 20.
 
Tất nhiên chúng tôi cùng Vorosilov, Molotov, Kaganovich không bỏ cuộc đấu tranh để mở toang những thôi thúc bí mật. Tôi còn nhớ chính xác quan điểm của Mikoian. Hình như, Mikoian không tích cực, nhưng không
cản trở quá trình phanh phui sự bất công. Tóm lại, dần dần tất cả đều đồng ý rằng cần phải tiến hành phanh phui vụ việc. Một Uỷ ban điều tra được thành lập, đứng đầu là Pospelov. Trước đó, tôi mời Viện trưởng Viện Kiểm sát Liên Xô Rudenko (là Viện trưởng Viện kiểm sát đã xem xét nhiều và kiểm tra các tài liệu này) và hỏi ông:
 
- Đồng chí Rudenko, theo những bản án công khai thập niên 30 những điều buộc tội là căn cứ, thì mang chúng trình cho Bukharinу, Rykov, Syrsov, Lominadze, Krestinski và những người khác, trong BCH TƯ, các uỷ viên Ban tổ chức và Bộ chính trị? Có bao nhiêu những tài liệu có căn cứ?
 
Rudenko nói rằng từ quan điểm chuẩn mực luật pháp thì chẳng có một số liệu nào cả để buộc tội những người này. Tất cả chỉ dựa trên những lời thú nhận có tính cá nhân, mà những lời thú nhận đó có được bằng cách đánh đập và hành hạ người ta về tinh thần và thể xác, cho nên không thể là cơ sở để kết án người ta.
Khi đó đặt trước tôi một vấn đề: điều này có thể xảy ra không? Mọi người biết về vai trò của Stalin, cá nhân ông, quá trình hoạt động cách mạng của ông, công lao của ông trước đất nước và những phẩm chất mà Đảng ghi nhận. Ông có đầy đủ cơ sở để có vai trò đặc biệt, vì rằng ông thực tế đã tách khỏi những người gần mình và biết tổ chức công việc, và thông minh. Ông quả là đứng cao hơn người khác. Và thậm chí bây giờ, dù tôi không khoan nhượng những phương pháp hành động của ông, sự lạm quyền của ông, tôi cũng phải thừa nhận điều này. Tuy nhiên, nếu như bây giờ, chẳng hạn, ông vẫn còn sống và tiến hành bỏ phiếu về vấn đề trách nhiệm của ông vì hành vi ấy, thì tôi vẫn có quân điểm là phải xử ông. Nhưng cần phải đánh giá ông. Con người này không đơn giản đến với chúng tôi bằng gươm và chiếm được trái tim khối óc chúng tôi. Không, ông trong cuộc sống ông thể hiện sự lấn át của mình, tài năng lãnh đạo đất nước, kỹ năng cai trị mọi người, cho họ những phẩn cách vững chắc, cần thiết cho người lãnh đạo ở quy mô lớn. Tất cả những gì liên quan tới cá nhân của Stalin, có cái xấu, cái tốt, cái đúng, và dã man, không để hết vào đâu. Phải xem xét tất cả các mặt của con người phức tạp này. Tôi nói nhiều ở đây phía tối đơn giản vì rằng mặt tâng bốc ông là quá đủ rồi. Điều chủ yếu - có những kết luận cần thiết và để những sự việc tương tự không lặp lại trong tương lai. Ở đây bao gồm tất cả các thư của tôi. Bất cứ việc nghiên cứu nào về quá khứ cần phải phục vụ cho hiện tại và tương lai.
 
Mở rộng một hướng song song. Những người lứa tuổi tôi nhớ lại việc ca tụng Stalin dần dần tăng lên, và mọi người đều biết sự tụng ca này được rót hết cỡ. Stalin thông minh! Stalin thiên tài! Tôi cũng chưa nói về những từ văn vẻ khác: nào là bố để nhân dân, và vân vân. Tất cả điều này hiện nay vang lên tại Trung Quốc người ta nói và viết về Mao. Tôi xem phim Trung Quốc. Tôi thấy chúng không hiếm trên TV. Tất cả các buổi tiếp khách được Mao nhân bản từ Stalin. Hãy mở mắt và nghe những lời phát biểu của người  Trung Quốc về Mao Trạch Đông. Nếu thay thế “Mao” bằng “Stalin”, thì nhận được quá khứ. Đúng là những “màn kịch” tương xứng đã từng được tổ  chức ở chúng ta. Tôi xem đó là hiện diện tính nhu nhược của Stalin. Nhưng,
hình như sự việc không những chỉ ở tính nhu nhược. Hình như những người này, Stalin và Mao Trạch Đông, trong vấn đề này về nguyên tắc rất giống nhau. Họ coi điều này là cần thiết để giữ uy tín của họ được trên cao và không những bắt mọi người chịu mình, mà còn bắt họ phải sợ hãi.
 
Và dù sao chăng nữa có vấn đề: Vì sao điều này lại xảy ra? Nhiều người mà tôi tiếp xúc, hỏi:
 
- Tai sao Stalin, một người thông minh, có thể làm thế?
 
Tôi không ít lần, khi quay lại vấn đề này, tìm câu trả lời cho mình. Và tôi có câu câu trả lời duy nhất, tôi nghĩ rằng ông đúng. Để hiểu căn nguyên sự lạm quyền, giết người sai trái, tính tàn bạo của Stalin, phải quay về chúc thư của Lenin. Lenin, khi ông viết chúc thư, rõ ràng đã thấy trước, Stalin có thể đưa Đảng đến điều đó, nếu Stalin còn nằm trong ban lãnh đạo sẽ chiếm chức vụ Tổng Bí thư BCHTƯ. Lenin viết rằng phải loại bỏ Stalin khỏi chức vụ này, mặc dù Stalin cũng có những phẩm chất để làm lãnh đạo. Nhưng ông thô lỗ và có khả năng lạm dụng quyền lực, vì thế ông không thể giữ được. Lenin đề nghị thay thế Stalin bằng một người chan hoà hơn, biết lắng nghe hơn, kiên nhẫn hơn đối với đồng chí trong Đảng và không lạm dụng chức vụ
cao của mình. Tôi cho rằng đây là nhận xét chính xác. Cuộc sống đã hoàn toàn xác nhận tư tưởng của Lenin. BCHTƯ Đảng không đi theo lời Lenin, không rút ra những kết luận thích hợp và bị thất bại. Không những BCHTƯ, mà toàn Đảng đã vị Stalin lạm quyền trừng phạt, giết Đảng viên và cốt cán ngoài Đảng. Trong những hoạt động này của Stalin, thấy được một con người bệnh hoạn. Đã xảy ra thảm hoạ với Đảng và tất cả nhân dân chúng tôi.
 
Tài liệu của Uỷ ban Pospelov mà chúng tôi lập trước ngưỡng cửa Đại hội 20 ĐCSLX, đối với nhiều người trong chúng ta là hoàn toàn bất ngờ. Tôi nói về ban thân tôi, ở mức độ nào đấy và về Malenkov, Bulganin, Pervukhin, Saburov, và các đồng chí khác. Đồng thời tôi xem rằng Mikoian trong thâm tâm phải rất sẵn sàng có thể bóc trần các sự thật dạng này được soi sáng trong thư của Pospelov. Tôi không cả quyết Mikoian biết tất cả! Dù sao chăng nữa thời gian dài Mikoian gần Stalin hơn tất cả chúng ta, và nhiều người làm việc với ông, được ông tin và được ông kính trọng, cũng đã bị giết. Anastas Ivanovich là người thông minh sắc sảo, biết cách thông báo sự 317 thật, tôi nghĩ rằng nếu ông không biết tất cả, thì tôi dự đoán cho rằng vẫn còn ít chứng cớ về các vụ bắt bớ giam cầm và đặc biệt là các vụ hành quyết, được tiến hành trong thời gian Stalin cầm quyền. Tôi có cơ sở nghĩ như vậy, nói riêng, cuộc mạn đàm của tôi với Anastas Ivanovich, khi ông kể cho tôi nghe về buổi nói chuyện của ông với Ordzonikidze ngay đêm hôm trước cái chết của ông ta. Khi đó tôi là uỷ viên Ban lễ tang Sergo, Chủ tịch Ban lễ tang là Avel Safronovich Enukidze giải thích rằng Sergo chết đột ngột do vỡ tim. Tất nhiên ông giải thích rằng Stalin ra lệnh như thế. Sau này, có lần tôi ở văn phòng của Stalin và hoàn toàn ngẫu nhiên khen ngợi Sergo. Điều này gây ra một ấn tượng xấu, không ai phản đối tôi, nhưng tất cả lặng thinh, im lặng một lúc. Sau đó Malenkov giải thích cho tôi rằng Sergo bị bắn. Tất nhiên khi Sergo chết, Malenkov cũng không biết gì cả về điều này, bởi vì khi đó ông còn chưa gần Stalin bằng tôi. Nhưng trong thời gian chiến tranh vệ quốc ông biết về điều này trong một lần nói chuyện ngẫu nhiên ở Stalin. 
 
Sau khi Stalin chết, Mikoian cũng kể rằng Ordzonikidze bị bắn hôm chủ nhật, nhưng đêm thứ bẩy, họ còn đi bộ quanh Kreml và nói chuyện. Trong cuộc hội đàm ấy, Sergo nhận xét rằng không thể tiếp tục sống: chiến đấu với Stalin thì ông không thể, mà chịu đựng thì ông đã làm, không còn sức. Vì sao chúng tôi xây dựng Uỷ ban của Pospelov? Tôi lập luận như thế này: chúng tôi đang chuẩn bị Đại hội Đảng, Đại hội Đảng đầu tiên sau khi Stalin chết. Tại Đại hội này chúng tôi cần phải nhận trách nhiệm về lãnh đạo Đảng và đất nước. Để làm việc này phải biết chính xác cái gì được làm trước đây và bằng cái gì mà Stalin đưa ra những quyết định về vấn đề này khác.
 
Đặc biệt điều này can hệ tớ những người bị bắt. Vấn đề đặt ra là: họ bị tù vì cái gì? Và cái gì tiếp theo đến với họ? Khi đó trong các trại cải tạo có đến hàng triệu người. Đấy là con số 3 năm sau khi Stalin chết. Trong năm này chúng tôi không thể cắt đứt với quá khứ, không thể có đủ lòng dũng cảm, tìm thấy nhu cầu nội tại hé mở bức màn che và nhìn vào cái gì đằng sau bức bình phong? Cái gì ẩn sau bức màn này, cái gì xảy ra dưới thời Stalinе? Điều này nghĩa là các vụ bắt bớ vô tận, xét xử, độc đoán, bắn giết? Chúng tôi cảm thấy
ngượng bởi hoạt động của mình dưới sự lãnh đạo của Stalin và mà vẫn chưa thoát khỏi áp lực này sau khi ông chết, mặc dù cũng không thể hình dung rằng các xử bắn lại có thể tỏ ra là vô căn, nói theo ngôn ngữ luật, tội ác chồng chất. Nhưng chính là như thế! Stalin đã thực hiện những tội ác hình sự, loại tội ác này bị trừng phạt tại bất cứ quốc gia, trừ những quốc gia chẳng có luật pháp nào cả. Tình hình có hai mặt: Stalin chết, chúng tôi chôn cất ông, còn những người vô tội vẫn đi đày trong các trại tập trung... Tiếp theo, mọi lại trở lại bình thường? Tiếp tục chính sách cũ và tất cả những gì được làm dưới thời Stalinе, lại được hoan nghênh? 
 
Thậm chí các vụ bắt bớ không đúng và hành quyết? Những người đã bị giết với cái mác “kẻ thù nhân dân”, không ai nghĩ đến minh oan. Tôi cho rằng Molotov, Vorosilov và Kaganovich là nguồn thông tin lớn nhất về quy mô thực và nguyên nhân các vụ đàn áp dưới thời Stalin. Tôi cho rằng Stalin trao đổi ý kiến với họ về con số này. Mặc dù Kaganovich, có lẽ, chưa biết hết cặn kẽ tất cả. Chưa gì Stalin chia sẻ với ông một cách cởi
mở. Nịnh bợ đến như thế, là Kaganovich, ông có thể phanh thây cha đẻ của mình nếu như Stalin chỉ trong nháy mắt nói là điều này là cần thiết cho lợi ích của sự nghiệp Stalin. Stalin cũng không cần lôi kéo Kaganovich: chính con người này hơn ai hết gào to lên rằng cần phải làm ở đâu, không cần phải làm ở đâu, bò rách đầu gối quỵ luỵ trước Stalin, bằng cách bắt người bên phải bên trái và vạch mặt “kẻ thù”.
 
Khi ông vào Dân uỷ, thì triển khai ngay ở đó một lực lượng đầy đủ. Sau một cơn điên dài săn lùng “kẻ thù nhân dân” chúng tôi cũng không thể quẳng được gánh nặng tinh thần của những những việc làm từ trước đó cho đến 1956, tất cả đã vẫn còn tin vào cái giả thiết mà Stalin dựng lên, rằng trong nước chúng tôi bị bao vây bởi “kẻ thù nhân dân” và phải chiến đấu với họ, bảo vệ cách mạng. Chúng tôi vẫn như trước đây nằm ở
quan điểm nặng nề đấu tranh giai cấp, như là được dựa trên học thuyết và được Stalin thực thi. Nhưng khi chúng tôi đi đến quyết định thành lập Uỷ ban kiểm tra và Uỷ ban này cung cấp những tài liệu của mình, những tài liệu này đã được làm một cách bí mật. Sau đó, tại Đại hội 20, báo cáo của tôi được lãnh đạo theo tài liệu của Uỷ ban này. Bản báo cáo được copy gửi cho toàn bộ các cơ sở Đảng và thi hành những biện pháp, để các tài liệu sau khi đọc xong được thu hồi về.
 
Chúng tôi phân phát chúng cho các ĐCS anh em để biết. Trong số này, có Đảng công nhân thống nhất Ba Lan. Ở Ba Lan đúng lúc đó người lãnh đạo đảng là Berut chết. Sau khi ông chết, ở Ba Lan nổi lên một làn sóng, và tài liệu nói trên rơi vào tay những người Ba Lan không ưa Liên Xô. Họ sử dụng tài liệu này vào mục đích của mình và nhân bản nó. Người ta thậm chí nói với tôi rằng những người Ba Lan đã bán rẻ những tài liệu này. Báo cáo của Khrusev, làm trong phiên họp kín Đại hội 20 ĐCSLX, được đánh giá là không đắt. Đơn giản người ta có thể mua nó ở chợ trời, kể cả những người từ khắp các nước trên thế giới. Như thế tài liệu này đã được lưu hành. Tôi nhớ, ncác nhà báo phỏng vấn tôi rằng tôi có thể nói theo lý do này được không? Tôi trả lời tôi không biết những tài liệu như thế và cứ để tình báo Mỹ trả lời vấn đề này. Nhưng tôi phải trả lời thế nào, nếu phải nói ra bí mật?
 
Như vậy, chúng tôi sát Đại hội thường kỳ của Đảng. Tôi từ chối báo cáo tổng kết và cho rằng lần này chúng tôi làm lãnh đạo tập thể, nên báo cáo tổng kết không nhất thiết là bí thư BCHTƯ phải làm. Vì thế tại phiên họp thường kỳ Đoàn chủ tịch BCHTƯ tôi đề nghị quyết định ai sẽ làm báo cáo tổng kết. Tất cả mọi người, trong số này có cả Molotov (ông là người nhiều tuổi nhất trong số chúng tôi và có nhiều cơ sở hợp với vai trò người báo cáo), đồng thanh cử tôi làm báo cáo. Hình như về theo suy nghĩ hình thức, thì thường Bí thứ thứ nhất BCHTƯ đóng vai trò báo cáo tổng kết. Nếu để người khác báo cáo, thì có thể gây ra phức tạp. Sau khi Stalin chết trong số chúng tôi không có ai được coi là người lãnh đạo sáng giá. Có nhiều người cũng
muốn đứng lên phất cờ, nhưng chưa có một người nào vượt trội cả. Vì thế người ta trao việc làm báo cáo cho tôi. Nhưng khi ấy một số người, trong số này có Vorosilov và Kaganovich, phản đối việc nói ra trên Đại hội điều gì đấy về sự đàn áp phi pháp dưới thời Stalin.
 
Tôi chuẩn bị báo cáo. Bản báo cáo tổng kết được thảo luận tại Plenum BCHTƯ và được tán thành. Bản báo cáo là thành quả của sáng tạo tập thể, tập hợp các sức lực của BCHTƯ, của các viện nghiên cứu khoa học và một loạt các cơ quan khác, và cả những nhân vật cuốn hút vào việc hình thành báo cáo tổng kết. Đại hội khai mạc. Báo cáo đã sẵn sàng. Triển khai các tranh luận. Đại hội tiến hành tốt đẹp. đối với chúng tôi, tất nhiên, là một thử thách. Đại hội sẽ ra sao sau khi Stalin chết? Nhưng tất cả các phát biểu đều hoan nghênh đường lối BCHTƯ, không cảm thấy một sự đối lập nào cả, không thấy những dấu hiệu của cơn bão tố nào cả. Tôi cũng luôn lo lắng, dù rằng Đại hội tiến hành trôi chảy, báo cáo được hoan nghênh. Tuy nhiên tôi
cũng chưa bằng lòng. Một ý nghĩ dày vò tôi:
 
- Rồi Đại hội bế mạc, sẽ phải ra, và đây là hình thức thôi. Nhưng cái gì tiếp? Trong lương tri chúng tôi vẫn đọng lại hàng trăm người bị giết oan, kể cả hai phần ba uỷ viên BCHTƯ được bầu tại Đại hội 17. Ít ai còn nguyên 320 vẹn, hầu như tất cả các cốt cán chẳng đã bị bắn hoặc bị đàn áp. Hiếm có ai gặp may để còn sống. Làm gì bây giờ?
 
Tài liệu của Uỷ ban của Pospelov nhói óc tôi. Cuối cùng tôi thu hết sức lực và trong một lần nghỉ giải lao, trong gian phòng Đoàn chủ tịch BCHTƯ chỉ có một số uỷ viên, lại đặt vấn đề:
 
- Thưa đồng chí, tài liệu của Pospelov ra sao đây? Làm gì với những người bị bắt và bị giết từ quá khứ? Đại hội bế mạc, và chúng tôi ra về, mà không nói được lời của mình? Chính vì chúng tôi cũng biết rằng những
người bị sự đàn áp là oan uổng, không phải là “kẻ thù nhân dân”.
 
Đây là những người lương thiện, trung thành với Đảng, cách mạng, sự nghiệp Lenin xây dựng CNXH ở Liên Xô. Họ sẽ từ nơi bị đầy ải trở về. Chúng tôi đâm ra không giữ họ ở chỗ đó nữa Phải nghĩ xem làm thế nào để họ quay về một cách danh dự.
 
Chúng tôi trước đó vẫn chưa thông qua quyết định xem xét việc này và việc thả những người bị kết tội oan về nhà. Ngay khi tôi nói xong, mọi người lập tức quẳng vào mặt tôi. Đặc biệt Vorosilov:
 
- Anh làm gì thế? Chẳng lẽ thế này ư? Chẳng có lẽ có thể nói hết điều này tại Đại hội? Điều này làm hỏng uy tín của Đảng ta, đất nước ta như thế nào? Anh phải giữ bí mật về điều này chứ. Và khi đó người ta sẽ khiếu kiện chúng tôi. Chúng tôi sẽ nói gì về vai trò cá nhân của chúng tôi?
 
Cả Kaganovich rất bực tức, và cùng một quan điểm như thế. Đó là quan điểm không có tính Đảng sâu sắc mà là ích kỷ. Đây là sự phủi trách nhiệm và nếu tội các còn sờ sờ ra đó thì phải ỉm đi, che giấu đi.
 
Tôi nói với họ:
 
- Điều này là không thể, thậm chí nếu lập luận từ quan điểm của các ông. Không thể ỉm đi được. Người ta phải ra khỏi nhà tù, về nơi chôn rau cắt rốn, kể lại cho họ hàng, người thân và bạn bè, đồng chí, cho toàn quốc và toàn Đảng, biết rằng những người vẫn còn sống từng bị đàn áp oan uổng. Những người ngồi tù 15 năm, có ai đó còn bị hơn nhiều, hoàn toàn chưa là gì. Tất cả những điều buộc tội họ chỉ là chuyện bịa đặt. Không thể im được.
 
Sau đó tôi đề nghị suy nghĩ: tiến hành Đại hội đầu tiên sau khi Stalin chết. Tôi cho rằng chính trên Đại hội chúng tôi cần thành tâm nói hết tất cả sự thật về đời sống và hoạt động của Đảng và của BCHTƯ trong thời gian tổng kết. Chúng tôi bây giờ tổng kết từ thời kỳ sau khi Stalin chết, nhưng các uỷ viên BCHTƯ phải nói như thế nào trong thời kỳ Stalin. Chúng tôi đã lãnh đạo đất nước cùng với Stalin. Khi Đảng biết sự thật từ những người bị kết tội oan trước đây, họ nói với chúng tôi: Hãy cho biết điều này là như thế nào? Đại hội 20 họp, và ở đó người ta chẳng kể cho chúng ta cả. Và chúng tôi không có khả năng trả lời. Chả lẽ nói rằng chúng tôi không biết gì hết, sé là lừa dối: chính là chúng bây giờ biết tất cả sự thật, về sự đàn áp vô căn cứ, sự chuyên quyền của Stalin.
 
Những phản ứng quật lại cũng rất mãnh liệt. Vorosilov và Kaganovich lặp lại bất tận:
 
- Người ta buộc chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Đảng có quyền buộc chúng tôi phải chịu trách nhiệm. Chúng tôi ở trong ban lãnh đạo, và nếu chúng tôi không biết tất cả sự thật, đấy là tai hoạ của chúng tôi, nhưng chúng tôi chịu trách nhiệm tất cả.


Tôi nói với họ:
- Nếu xem xét Đảng ta những một Đảng dựa trên tập trung dân chủ,
thì chúng ta, những người những người lãnh đạo Đảng, không có quyền
không biết. Tôi, và nhiều người khác nằm trong tình thế là, tất nhiên, không
biết nhiều, vì rằng được đặt trong một chế độ, lúc đó anh chỉ biết người ta
giao cho anh cái gì, còn những cái khác anh không được nói, và đừng thọc
mũi tiếp điều này. Chúng tôi không chọc mũi. Nhưng không phải tất cả ở
trong tình thế như vậy. Một số trong chúng ta biết, một số thậm chí chấp
nhận tham gia giải quyết vấn đề này. Vì thế ở đây mức độ trách nhiệm cũng
khác nhau. Cá nhân tôi sẵn sàng là uỷ viên BCHTƯ Đảng từ Đại hội 17 và
uỷ viên Bộ chính trị từ Đại hội 18 chịu phần trách nhiệm của mình, nếu Đảng
thấy cần phải truy cứu trách nhiệm của ai lãnh đạo trong thời Stalin, khi sự
chuyên quyền hoành hành.
Họ là không đồng ý với tôi. Họ phản đối:
- Anh biết cái gì sẽ xảy ra không?
Lời đối đáp Vorosilov và Molotov đặc biệt the thé. Vorosilov chứng
minh rằng nói chung không cần làm điều này:
- Hừ, ai hỏi chúng ta cơ chứ? - ông lặp lại.
Tôi hỏi lại: 322
- Những tội ác có không? Chính chúng ta chứ không đợi ai khác, phải
nói rằng có. Khi nào người ta hỏi chúng ta, thì mới bắt đầu phán xét. Tôi
không muốn điều này và tôi không chịu trách nhiệm như thế.
Nhưng chẳng thể nào thống nhất ý kiến được, và tôi đã thấy rằng
không đạt được đúng quyết định từ các uỷ viên. Trong Đoàn chủ tịch của Đại
hội chúng tôi chưa đặt vấn đề này, chừng nào thoả thuận được nội bộ Đoàn
chủ tịch BCHTƯ. Lúc đó tôi đưa một đề nghị như sau:
- Đại hội Đảng cứ họp. Kỷ luật nội bộ Đảng cần có sự nhất quán của
lãnh đạo trong các uỷ viên BCHTƯ và uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ, sẽ
không tác dụng trong thời gian Đại hội, bởi vì Đại hội có ý nghĩa cao nhất.
Bây giờ mỗi uỷ viên Đoàn chủ tịch BCHTƯ và uỷ viên BCHTƯ, trong số
này và tôi phải làm báo cáo tổng kết, từng người có quyền phát biểu tại Đại
hội và trình bày quan điểm của mình, thậm chí nếu quan điểm này không phù
hợp với quan điểm báo cáo.
Tôi không nói rằng tôi sẽ thông báo về tài liệu của Uỷ ban điều tra.
Nhưng, hình như có ai phản đối, cho rằng tôi có thể phát biểu và trình bày
quan điểm của tôi động chạm đến việc bắt bớ, bắn giết. Bây giờ tôi không
nhớ sau đó những ai ủng hộ ủng hộ tôi. Tôi nghĩ rằng đây là Bulganin,
Pervukhin và Saburov. Tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ rằng, có thể,
Malenkov cũng ủng hộ tôi. Ông là bí thư BCHTƯ phụ trách nhân sự, vai trò
của ông trong việc này là khá tích cực. Ông, nói riêng, cũng giúp đỡ Stalin
điều động cất nhắc cán bộ, rồi sau đó tiêu diệt họ. Tôi không dám chắc cá
nhân ông khởi xướng đàn áp. Chưa chắc. Nhưng tại những vùng, khu vực,
mà Stalin cử Malenkov đến đó để chỉnh đốn hàng ngũ, thì hàng nghìn người
bị đàn áp và nhiều người trong số này bị xử tử. Tuy nhiên Malenkov có thể
bây giờ ủng hộ tôi.
Có ai đấy nảy ra sáng kiến:
- Vấn đề đặt ra thế này, hình như tốt hơn là làm thêm một bản báo
cáo.
Lúc ấy mọi người miễn cưỡng đồng ý. Tôi nói với họ:
- Thậm chí ở những ai thực hiện những tội ác, lần này đến lúc họ có
thể thú nhận, và họ cũng được khoan hồng, không phải biện minh. Nếu thậm
chí từ quan điểm xem xét vấn đề báo cáo sự lạm quyền mà Stalin thực hiện,
thì có thể làm được ngay bây giờ, tại Đại hội 20. Để đến Đại hội 21 thì sẽ 323
muộn, nếu chúng ta còn kịp sống đến lúc đó và đòi hỏi những vấn đề trước
đây thì chẳng cần nữa. Vì thế tốt nhất làm bản báo cáo thứ hai từ bây giờ.
Khi đó nảy sinh vấn đề ai phải làm báo cáo. Tôi đề nghị Pospelov, và
lập luận đề nghị của mình là ở chỗ Pospelov nghiên cứu vấn đề này với tư
cách Chủ tịch Uỷ ban và viết tài liệu để chúng tôi sử dụng nó. Vì thế ông
không phải mất thời gian chuẩn bị: ông có thể chuyển các tài liệu này vào
báo cáo và đọc nó tại Đại hội. Những người khác (tôi không nhớ là ai) phản
đối và đề nghị là tôi làm luôn báo cáo này. Đối với tôi là bất tiện: vì trong
báo cáo tổng kết tôi không nói một lời nào về điều này, còn sau đó tôi lại làm
thêm báo cáo thứ hai? Và tôi từ chối. Nhưng họ phản đối tôi:
- Nếu bây giờ không phải là anh phát biểu, mà là Pospelov, cũng là
một trong những bí thư BCHTƯ, thì phát sinh vấn đề: Vì sao Khrusev trong
báo cáo tổng kết không nói tý gì về điều này, mà Pospelov lại phát biểu một
vấn đề quan trọng để tranh luận? Không thể Khrusev không biết tài liệu của
Pospelov hoặc không coi trọng sự cần thiết của vấn đề. Nghĩa là, về vấn đề
này có sự bất đồng trong lãnh đạo? Mà Pospelov phát biểu chỉ với ý kiến
riêng?
Luận cứ này cứ lằng nhằng mãi, cuối cùng tôi phải đồng ý. Quyết
định rằng tôi sẽ phát biểu tài liệu của Uỷ ban cùng với báo cáo. Chúng tôi tổ
chức phiên họp kín trong thời gian tranh luận về tổng kết của BCHTƯ, ở đó
tôi cũng làm bản báo cáo thứ hai.
Đại hội nghe tôi một cách im lặng. Như người ta nói có thể nghe được
tiếng ruồi bay. Mọi người đều quá bất ngờ. Cần, tất nhiên, biết rằng các đại
biểu đã sửng sốt về những câu chuyện về sự độc ác được thực hiện đối với
những người từng có công lao, những bolsevich lão thành và những người
trẻ. Bao nhiêu người lương thiện từng được điều động đến khác nhau của đất
nước đã bị giết! Đây là một thảm khốc cho Đảng và cho các đại biểu tham dự
Đại hội. Báo cáo tại Đại hội 20 ĐCSLX về sự lạm quyền của Stalin đã ra đời
như thế.
Tôi xem rằng vấn đề được đưa ra hoàn toàn đúng lúc và kịp thời.
Không những không hối hận, những một số người nghĩ, mà còn thoải mái
trong lòng rằng đã chộp đứng thời điểm và đã cố làm để bản báo cáo này
được làm. Tất cả việc này có thể đưa đến hướng khác, mọi người còn bị sốc
là còn nhiều người cũng bị giam cầm nhe trước đây trong các nhà tù và trại
cải tạo. Năm 1953 chúng tôi đã có giả thiết về vai trò Beria dường như, Beria 324
hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự lạm quyền thực hiện thời Stalinе. Điều này
cũng gây sốc. Chúng khi đó tôi không cách nào gột khỏi ý nghĩ Stalin -
người bạn của mọi người, bố đẻ nhân dân, thiên tài và vân vân... Không thể
ngay lập tức hình dung rằng Stalin - kẻ sát nhân và tên hung đồ. Vì thế sau
bản án cho Beria chúng tôi lại luẩn quẩn trong giả thiết mà chúng tôi xây
dựng nên có lợi minh oan cho Stalin: Ông Trời không có lỗi, mà lỗi ở kẻ
nịnh bợ, kẻ báo cáo sai cho Trời, vì vậy Trời mới giáng mưa đá, sấm sét và
các tai hoạ khác. Nhân dân bị khổ sở không phải vì Trời muốn thế, mà do tên
nịnh nọt Nicolai, Ilia Prosok, Beria và vân vân... Và bây giờ có lần có người
đặt câu hỏi:
- Liệu có cần phải kể về Stalin không?
Đây hoàn toàn không phải là những người đồng phạm của Stalin
trong tội ác, mà thực chất họ là những người quen thói sợ Stalin, và bây giờ
họ khó xử. Thông thường các vị lão thành đặt các vấn đề như thế. Họ đã
sống với quá khứ, họ khó từ bỏ nổi những hiểu biết trước đây và luận cứ của
thời Stalin. Đây cũng một trong những khuyết điểm giáo dục Đảng viên. Tất
cả các phương pháp giáo dục trong Đảng, Stalin làm nó thích ứng với mình,
với hoạt động của mình: sự tuân lệnh không bàn cãi, sự tín nhiệm tuyệt đối.
Trong thời gian chiến tranh có chết chóc mà không nghi ngờ, tất nhiên,
nhưng sau này luôn luôn quay ngoắt theo hướng ngược lại, vì rằng một
người tin anh mà không bàn luận, khi biết, sự tín nhiệm của anh ta bị lừa, họ
sẽ là kẻ thù của anh. Điều này rất nguy hiểm. Tôi luôn luôn đã đứng, hơn nữa
bây giờ tôi đang đứng vì sự thật, vì sự đúng đắn tuyệt đối trước Đảng, Đoàn
thanh niên và tất cả nhân dân. Có một kết luận là chỉ có nguồn gốc bất tận
sức mạnh của Đảng mới có thể chiếm được sự tín nhiệm nhân dân. Người ta
biết rằng Đảng đã lừa quần chúng đông đảo, Đảng đến đường cùng.
Bây giờ tôi thường nghe đài. Radio - đó là người bạn đồng hành của
tôi trong thời gian dạo chơi. Từ radio tôi nhận cả thông tin, cả sự thoả mãn.
Tôi yêu âm nhạc, yêu dân ca. Nhạc hiện đại cũng làm tôi thích. Nhưng, tôi
cảm thấy, hình như con người độ tôi có xu hướng sống lại tời trai trẻ. Đặc
biệt trong tâm trạng tốt, tôi vừa đi bộ, nghe giọng hát của Ludmina Zykina,
ca sĩ mà tôi yêu thích, và nghe cả những buổi truyền khác. Các buổi truyền
thanh rất nhiều, đa phần là tốt, nhưng cũng gặp cả những những chuyện
nhảm nhí, chỉ có làm bẩn chương trình phát sóng thôi. 325
Một lần tôi nghe đọc một trong các chương cuối tiểu thuyết “Họ chiến
đấu vì tổ quốc” của Solokhov. Mikhail Aleksandrоvich tin bởi sự sáng tác
của mình: chuyện thời Stalin lạm quyền, ông trấn áp những cán bộ lương
thiện, được Lenin giáo dục, Solokhov tả về cuộc nói chuyện của hai ông
đánh cá. Họ ngồi và chuyện trò. Người này hỏi người kia:
- Nên hiểu đồng chí của Stalin như thế nào nhỉ? Người ta nói rằng ông
bỏ sót. Nhưng bao nhiêu người bị tội, bao nhiêu người bị hành quyết! Có thể
Stalin phạm vào điều này không?
- Đúng, khó hiểu - người kia trả lời.
Lúc đó người đầu tiên lại hỏi:
- Thế không phải Beria chính là người có lỗi à? Chính ông báo cáo tất
cả cho Stalin?
Và câu trả lời:
- Đúng, tất cả là do Beria.
Mikhail Aleksandrоvich - một người thông minh và nhà văn giỏi. Sự
thật việc ông lại bám vào cách hiểu biết tương tự theo truyền thống của
chẳng và nhân dân, trong khi bao nhiêu người chết bởi tay Stalin, tất nhiên,
không tô hồng cho ông. Lúc ấy cốt lõi là thế này: Beria không dựng Ezov,
mà từ trước đây, dựng Yagoda. Tất cả bọn họ tiếp theo chân nhau vào màn
kịch. Một “nhân vật”, được Stalin dựng lên, sẽ được thay thế bằng nhân vật
khác, và đây cũng là logic đối với Stalin. Stalin dùng tay người khác để giết
những người lương thiện và ông biết rằng họ là những người trong sạch
trước nhân dân và trước Đảng. Những người chết chỉ vì rằng ông ông sợ họ
và không tin họ. Sau đó, phải dần dần loại bỏ một đồ tể và thay bằng một đồ
thứ hai. Cứ như thế ba thê đội tiễu phạt: trước tiên Yagoda, sau đó Ezov, sau
đó Beria.
Đến Beria, thì điều này chấm dứt. Nói đúng ra, không phải chính
Beria, mà do cái chết của Stalin. Beria đứng trước toà án nhân dân như một
tội phạm. Nhưng khi đó chúng tôi vẫn còn lẩn quẩn về cái chết Stalin, thậm
chí khi mọi người biết rõ nhiều sau phiên toà xử Beria, vẫn còn đưa cho
Đảng và nhân dân những lời giải thích không đúng, tất cả đổ bớt sang đầu
Beria. Đối với chúng tôi, Beria tỏ là tiện lợi cho hình ảnh này. Chúng ta đã
làm tất cả để bào chữa cho Stalin, dù chúng ta che chở được tên tội phạm, tên
giết người, vì chúng tôi vẫn chưa thoát khỏi sự ngưỡng mộ Stalin. 326
Lần đầu tiên tôi thực sự cảm thấy sự dối trá, khi tôi đến Nam Tư và
hội đàm và Tito và đồng chí khác. Khi chúng tôi đụng chạm vấn đề này và
đổ cho Beria, họ cười và đáp lại một cách nhạo báng. Điều này làm chúng tôi
ức, và chúng tôi, để bảo vệ Stalin, đã cãi nhau rất to, thậm chí suýt đến đổ vỡ
to. Sau đó tôi công khai phát biểu bảo vệ Stalin và chống Nam Tư. Bây giờ
tất cả rõ ràng là không đúng, lúc ấy tôi ở quan điểm của một người chưa
nhận thức được cần vạch mặt đến cùng những tội ác của Stalin, sao cho các
phương pháp hành xử tương tự không bao giờ có thể quay về Đảng ta nữa.
Người, quả là muốn thiết lập kỷ luật của Lenin trong Đảng ta, mình không
phải kỷ luật của Stalin, phải làm hết sức lực để phanh phui Stalin và sự kết
án các phương pháp Stalin. Cần phải minh oan những người lương thiện
trong số những người chưa được minh oan, và phanh phui những sự phi pháp
được tạo ra trước đây, để thậm chí bóng ma của những phương pháp như thế
không thể đội mồ sống lại.
Tôi sửng sốt bởi một số tướng lĩnh lớn quân đội trong hồi lý của mình
muốn minh oan cho Stalin và cho ông là người cha nhân dân, đã chứng minh
rằng nếu không có ông thì chúng tôi không chiến thắng và rơi vào ách phát
xít. Đây là lý luận ngu ngốc, mù quáng. Ngay bây giờ, khi không có Stalin,
chúng tôi vẫn bị rơi vào ảnh hưởng của Đức, Anh, Mỹ hay sao? Không,
không bao giờ. Nhân dân đưa ra những người lãnh đạo mới và có khả năng
bảo vệ mình như từng có trong quá khứ. Sự phi lý của những bàn luận như
thế không cần thiết trong những bằng chứng riêng.
Tôi nhớ, tại một hội nghị, một chỉ huy quân sự, nhân ca ngợi Stalin,
cũng tôn vinh cả Bliukher. Những người khác, tuy ca ngợi Stalin, cũng tôn
vinh Tukhachevski. Đồng chí, phải ăn nói có trước có sau! Không thể đặt kẻ
giết người và nạn nhân lên một bệ. Bliukher là ai? Anh hùng nội chiến, có
bẩm sinh quân sự, thợ nguội, nằm trong hàng ngũ tướng lĩnh lớn. Ông đã
nhận huân chương Cờ Đỏ №1. Bliukher là số một. Sau đó, là một trong số
những chỉ huy quân sự tốt nhất của Liên Xô được cử sang Trung Quốc làm
cố vấn quân sự cho Tôn Trung Sơn. Và bỗng nhiên ông bị bắn! Không thể
nói cùng một lúc về Stalin và Bliukher, mà lờ đi nguyên nhân cái chết
Bliukher. Không thể nhắm mắt cho rằng chẳng ai nhìn thấy gì cả. Sự xấu xa
tương tự có thể chỉ gây ra mất lòng tin.
Tôi có lần ở Bulgari, một trong những bài phát biểu tôi dẫn lời của
Puskin, trong tác phẩm của ông có nói về cuộc nói chuyện giữa Mozart và
Salere. Mozart không hề nghi ngờ rằng Salere chuẩn bị đầu độc mình, nói: 327
- Thiên tài và tội ác không thể là một.
Đúng vậy! Với Stalin cũng vậy. Không thể ghép thiên tài và sát nhân
vào cùng một bộ mặt. Không thể gắn hàng nghìn nạn nhân với những kẻ sát
nhân, mà không có sự giải thích về vụ việc Stalin. Không thể trên một bệ đặt
hai bức tượng. Tội ác do Stalin gây ra!
Theo lối nghĩ như thế - có câu hỏi khác. Một số người tranh luận như
thế này: điều này được làm không phải nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, mà là
lo cho dân. Thật mọi rợ! Lo cho dân, thế mà lại giết những đứa con tốt nhất
của họ! Logic khá ngu đần. Sự thật, tìm những luận cứ để biện bạch cho kẻ
giết người, luôn luôn là phức tạp.
Trong báo cáo của tôi tại Đại hội 20, không nói gì iên quan tới những
vụ án công khai thập niên 30, trong đó có mặt đại diện Đảng cộng sản anh
em. Lúc đó người ta kết án Rykov, Bukharin, những lãnh tụ khác của nhân
dân. Họ xứng đáng để được gọi là lãnh tụ. Chẳng hạn, Rykov. Sau khi Lenin
qua đời, ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Dân uỷ Liên Xô, có công lao to
trước Đảng, trước nhân dân và xứng đáng lãnh đạo Chính quyền xô viết.
Nhưng người ta kết án và bắn ông. Còn Bukharin? Bukharin là trong những
yêu quý Đảng. Thế hệ Đảng viên lão thành РĐCS(b) từng học theo cuốn
sách của ông Khoa học Mác Lênnin. Bukharin nhiều năm là chủ bút báo Sự
Thật. Lenin gọi ông thân mật là “Bukhric của chúng ta”. Hoặc Zinovev và
Kamenov. Trong cách mạng tháng Mười 1917 họ có sai lầm. Điều này ai
cũng biết, nhưng những cái khác cũng nên biết. Zinovev và Kamenov được
Lenin đưa vào Bộ chính trị BCHTƯ Đảng và ngang hàng các vị lãnh đạo
khác Khi Chính phủ xô viết chuyển về Moskva, Zinovev còn ở Petrograd.
Ông được tin tưởng giao lãnh đạo cái nôi cách mạng và đã nâng ngọn cờ
khởi nghĩa tháng Mười năm 1917. Kamenov được Moskva tin tưởng. Ông là,
nói riêng, là Chủ tịch Mossoviet. Lenin vc quan hệ với ông sau những sai
lầm người ta đã tha thứ cho ông.
Có lần tôi nghe đài nói là: Lenin trao một cái gì đó cho Lomov.
Nhưng Lomov ở đâu nhỉ? Tôi biết rõ Lomov, không ít lần tiếp xúc với ông,
khi làm việc tại Donbass, từ sau nội chiến. Lúc đó ông lãnh đạo khai thác
than tại Donbass. Tôi thường có mặt tại các buổi họp của ông, hoặc ở
Kharkov, nơi trụ sở chính của ông. Đó là một người rất được kính trọng
trong Đảng с thâm niên bí mật trước cách mạng. Lomov đâu rồi? Ông bị bắn,
không còn Lomov nữa. Tôi nói về Kedrovе, Tukhachevski, Egorov, 328
Bliukher, và những người khác. Có thể lập một quyển sách dày thống kê chỉ
những họ tên những tướng lĩnh, Các nhà lãnh đạo Đảng, Đoàn thanh niên,
kinh tế, ngoại giao, khoa học. Tất cả đều là những người lương thiện. Họ là
nạn nhân của Stalin, nạn nhân sự chuyên quyền.
Vấn đề những vụ án công khai thập niên 30 cũng cũng có hai mặt.
Chúng tôi lại sợ nói đến tận cùng, mặc dù không gây ra nghi ngờ nào, rằng
những người này không có tội, họ là nạn nhân sự chuyên quyền. Tại các vụ
án xử công khai, có mặt những người lãnh đạo đảng anh em, mà chính họ sau
này đã chứng minh tại nước họ đây là những bản án chính đáng. Chúng tôi
không muốn làm mất uy tín về những tuyên bố của họ, và hoãn lại việc minh
oan cho Bukharin, Zinovev, Rykov và những người khác đồng chí trong một
thời hạn chưa định được. Tôi nghĩ rằng đúng là cần phải nói đến cùng. Cái
kim trong bọc cũng phải lòi ra.! Thành công chủ yếu Đại hội 20 - là nó bắt
đầu quá trình làm trong sạch Đảng và đưa Đảng trở lại chuẩn mực sinh hoạt,
mà Lenin và những đứa con thân yêu nhất của đất nước đã làm vì nó.
Một phần những người bị kết án sai đã được tha, ngay khi Stalin chết.
Beria khi đặt vấn đề này, điều chỉnh nó, đưa ra một đề nghị thích hợp, và
chúng tôi đồng ý với ông. Nhưng té ra là những người được tha lại là tội
phạm hình sự: giết người, trấn lột, bọn vô lại và đểu cáng. Khi bọn này quay
về nơi ở cũ, thì tái diễn những cảnh trộm cắp, cướp giật và giết người. Nhân
dân ca thán rằng người ta thả bọn trộm cắp và giết người và họ làm bẩn sự
nghiệp của mình. Trước đó Beria bị vạch mặt và kết án. Vì thế chính chúng
tôi phải đưa cho nhân dân những chỉ thị. Bản thân chúng tôi cũng thấy đây là
việc làm không đúng, mặc dù thông qua đề nghị của Beria, nhưng quyết định
lại do Chính phủ và BCHTƯ thông qua, như vậy tất cả chúng tôi chịu trách
nhiệm về việc này. Bao nhiêu đối tượng này được thả, tôi khó nói được, tuy
nhiên trong mọi trường hợp cũng là một đội quân lớn.
Những người bị kết án về chính trị và những người bị lưu đày vẫn còn
nằm trong các nhà tù và các trại tập trung. Beria thậm chí đề nghị thông qua
luật trao quyền cho Bộ nội vụ, nghĩa là Beria, có quyền xem xét là thả ai cho
ai sau khi hết thời hạn trừng phạt. Như tôi đã kể, tôi đã thẳng cánh phản đối
như thế nào, và mọi người ủng hộ tôi. Do đó, Beria rút đề nghị này. Số phận
tất cả những người tù chính trị ra sao, khi Viện trưởng Viện Kiểm sát
Rudenko trình tôi về sự vô tội của họ, tôi hỏi ông: 329
- Sao lại thế? Chính tôi đã nghe, họ thú nhận tội mình người ta buộc
cho họ cơ mà.
Rudenko cười:
- Đó là nghệ thuật của người điều tra và người xử. Hình như những
con người này bị dồn đến trạng thái, chỉ có một cách duy nhất để kết thúc
sớm những đau khổ và nhục nhã - là tự thú nhận, bước sau đó là cái chết”.
Sau Đại hội 20 ĐCSLX
Ngay sau Đại hội 20, trong tất cả các ĐCS, đặc biệt Pháp và Ý bắt
đầu xúc động. Cũng dễ hiểu rằng đó là những Đảng vô sản, đông quần
chúng, mà tại những phiên toà xử “kẻ thù nhân dân” lại có mặt Torez và
Toliatti, hai ông này về sau làm nhân chứng cho nước họ rằng những người
bị khép tội là đúng luật. Thế mà bây giờ tất cả xoay ngược lại! Tình tiết này
cũng ngăn họ không công bố tư liệu phiên toà công khai, mặc dù cũng chẳng
có tội ác nào cả và các bản án chỉ có tính ý nguyện và không chứng minh
được tội ác của những bị cáo “tự thú nhận”.
Bắt đầu mây đen ở Ba Lan. Sau Ba Lan, lan sang Hungary. Sau khi
người lãnh đạo Ba Lan là Berut qua đời, tôi, đại diện toàn quyền BCHTƯ
ĐCSLX, đến Warsawa, tham dự Plenum BCHTƯ Đảng công nhân thống
nhất Ba Lan. Tôi không có mặt tại các phiên họp này để người ta không buộc
tội Liên Xô can thiệp vào nội bộ Đảng anh em. Các phiên họp tiến hành rất
sóng gió, các uỷ viên BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan bày tỏ
không hài lòng với Liên Xô. Những người trong BCHTƯ Đảng Ba Lan, thân
với chúng tôi, đã kể như thế. Điều này làm chúng tôi không sung sướng gì,
nhưng chúng tôi cho rằng đây là thể hiện dân chủ - một yếu tố tích cực. Tuy
nhiên, sau một thời gian, ở đấy xảy ra những sự kiện làm chúng tôi lo ngại.
Tại Plenum, Okhab được bầu làm Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công
nhân thống nhất Ba Lan. Chúng tôi cũng có những quan hệ cá nhân tốt với
Okhab. Tôi kính trọng ông, theo tư liệu, ông hoàn toàn xứng đáng điều này.
Một người cộng sản lão thành, trải qua trường học cách mạng trong tù. Và
thoạt đầu, chúng tôi cho rằng ông xứng đáng tin cậy. Sau khi ông được bầu
làm Bí thư thứ nhất, chúng tôi hội đàm với ông, và tôi đặt vấn đề:
- Tại sao Gomumka lại ngồi ngồi tù ở Ba Lan?
Khi tôi nói điều này với Berut, thì ông ta trả lời tôi như thế này: 330
- Tôi và chính tôi cũng không biết, tại sao Gomumka ngồi tù và ông
bị buộc tội gì.
- Ông nghĩ xem, có thể tha ông ấy được không?
Thế là Okhab bắt đầu chứng minh với tôi rằng không thể tha được.
Ngồi tù không chỉ một mình Gomumka: mà còn cả Slykhanski, cả Loga-
Sovinski, Klisko và nhiều người khác. Điều này làm tôi lo ngại, và tôi không
thể nào hiểu, vì sao họ bị giữ trong tù. Tôi thảo luận hầu như với tất cả các vị
lãnh đạo Đảng công nhân thống nhất Ba Lan, và họ đều chứng minh rằng
không thể làm một cái gì cả, không thể tha những người này.
Sau một thời gian, Okhab dẫn đầu Đoàn đại biểu đến Trung Quốc.
Khi họ quay về nước, ghé qua Moskva, tôi lại bàn bạc với Okhab. Trước đó
Gomumka được tha, và tôi hỏi Okhab:
- Liệu chúng tôi chúng tôi có thể mời Gomumka đến Liên Xô, nghỉ ở
Hắc hải, ở Krym hoặc Kavkaz, nơi có khí hậu tốt lành để nghỉ hơn là ở Ba
Lan.
Ông trả lời không rõ ràng và quay về Warsawa. Điều này làm tôi lo
ngại, thậm chí còn băn khoăn. Và đúng sau một vài ngày đại sứ của chúng tôi
ở Ba Lan cho biết ở Ba Lan bùng ra sự kiện là nhiều người Ba Lan phỉ báng
Liên Xô và suýt nữa thì đảo chính, do những người chống Liên Xô tiến hành.
Phát sinh mối đe doạ tuyến giao thông, liên lạc của chúng tôi ở CHDC Đức,
qua Ba Lan. Nhưng sự kiện ở Ba Lan chúng tôi rất lo ngại và có những
nguyên nhân khác nhau, và chúng tôi quyết định áp dụng các biện pháp để
đảm bảo cho chúng tôi tự do qua lại Ba Lan và đảm bảo liên lạc với quyết
định Liên Xô ở CHDC Đức. Chúng tôi dự định cử một Đoàn đại biểu đến Ba
Lan, nhưng trước khi đi, chúng tôi gọi điện cho phía Ba Lan. Tình hình ở đó
tiếp tục nóng bỏng. Báo chí Ba Lan mạnh mẽ phê bình Liên Xô, dường như
Liên Xô cướp bóc Ba Lan, mua than của họ theo giá rẻ và bán cho họ quặng
sắt theo giá cao. Những việc này quả thật xảy ra thời Stalinе, khi chúng tôi
mua bán với các nước dân chủ nhân dân không theo giá thế giới, mà là áp
đặt. Lãnh đạo Ba Lan khuyên chúng tôi không đến vào lúc này. Nhưng điều
này lại càng làm chúng tôi lo ngại hơn, vì lẽ những người Ba Lan rõ ràng
chứng minh rằng họ không muốn gặp chúng tôi Và chúng tôi quyết định
nhanh chóng cử một Đoàn đại biểu đến đó gồm: Khrusev, Mikoian, Bulganin
và một số người khác. 331
Chúng tôi bay đến Warsawa. Ở đó chúng tôi gặp Okhab, Gomumka,
những đồng chí khác. Cuộc gặp rất lạnh lùng. Khuôn mặt của Okhab lộ rõ vẻ
lo âu. Tất cả kéo đến dinh thự, cung điện ở Larenka nơi bắt đầu đàm phán ở
mức gay gắt. Chúng tôi cảnh cáo về việc làn sóng chống xô viết tăng lên ở
Ba Lan và tuyên bố rằng chúng tôi kiên quyết đảm bảo giao thông, liên lạc
của mình với quân đội xô viết ở CHDC Đức. Đó là áp lực thẳng thừng từ
phía chúng tôi. Okhab nổi khùng:
- Ông đưa yêu sách cho tôi phải không? Bây giờ tôi không phải là bí
thư BCHTƯ. Ông đi mà hỏi người khác.
Và ông ta chỉ sang Gomumka. Lời nói của Okhab lộ ra vẻ không hài
lòng. Chúng tôi khi ấy có một ấn tượng nặng nề về tình hình trong ban lãnh
đạo Ba Lan. Chúng tôi không biết thực chất tình hình và sợ rằng chính quyền
rơi vào tay những người đang tiến hành chính sách chống Liên Xô. Nhưng
chúng tôi không muốn trở lại những quan hệ của chúng tôi với Ba Lan như
trước chiến tranh, mà chúng tôi vẫn chưa phai trong đầu.
Gomumka cố gắng xua tan nghi ngờ của chúng tôi. Ông đồng ý rằng
tình thế ở Ba Lan là phức tạp và làn sóng chống xô viết tăng lên. Nhưng ông
cam đoan tình hữu nghị với Liên Xô cần thiết sống còn đối với Ba Lan và
mối quan hệ của chúng tôi không bị phá huỷ. Tôi tin rằng trong một thời gian
ngắn, thì làn sóng không hài lòng sẽ bị bớt đi và tình hình trở lại bình
thường. Tuy nhiên sau này bắt đầu thên sự kiện ở Hungary. Lúc đó, theo tôi,
có hai ĐCS, mà lãnh đạo không yên ổn. Ở Hungary thời Stalin cũng nhiều
người bị bắt bắt, tôi cho rằng không phải Stalin khởi xướng bao nhiêu thì
Rakosi làm bấy nhiêu. Điều này được làm thông qua cố vấn của chúng tôi do
Stalin cử đến ngồi ở Ba Lan, Hungary, và các nước anh em khác. Qua những
người này, Stalin hành xử ở đó với cùng một phương pháp hành xử ở Liên
Xô. Sau các cuộc thương thuyết ở Warsawa chúng tôi quay về Moskva dưới
một ấn tượng lời tuyên bố căng thẳng nhưng chân thật của Gomumka rằng
tình hữu nghị của Ba Lan với Liên Xô cần hơn tình hữu nghị của Liên Xô
với Ba Lan. Ông nói:
- Chẳng có lẽ chúng tôi không hiểu tình thế mà chính chúng tôi không
có Liên Xô không giữ được biên giới phía tây của mình. Chúng tôi tự xem lại
các vấn đề nội bộ, những quan hệ với Liên Xô vẫn là, vẫn là tình hữu nghị
không thay đổi và liên minh. 332
Mặc dù ông nói điều này hơi cao giọng, nhưng không đến nỗi khó để
tin. Và tôi tin ông, nói với các đồng chí của mình:
- Tôi nghĩ rằng chúng tôi không có cơ sở để không tin Gomumka.
Ông được bầu Bí thư thứ nhất BCHTƯ Đảng công nhân thống nhất Ba Lan.
Phần đông các đồng chí Ba Lan tin ông. Tôi cảm thấy rằng lời tuyên bố của
Gomumka được những người khác ủng hộ. Chính ông nói điều này không
phải là bí mật, mà là công khai, tại cuộc họp lãnh đạo. Tất cả mọi người đã
nghe thấy. Phải cho rằng lần này không ai, tất cả đều đồng ý.
Tuy nhiên một thời gian dài tình hình ở Ba Lan vẫn căng thẳng và làm
chúng tôi rất lo ngại.
Trước mắt chúng tôi còn có cả những mối quan hệ với các nước làng
giềng. Thời kỳ đó, vấn đề nghiêm trọng nhất - chất lượng sản phẩm của
chúng tôi. Đáng tiếc, chúng tôi không cách nào đuổi kịp các nước tư bản.
Nhưng để thi đua thành công với họ, để chủ nghĩa xã hội lôi cuốn mọi người,
chúng tôi cần làm tốt nhất. Chúng tôi phải ngả mũ kính chào chủ nghĩa tư
bản. Điều này thật xấu hổ. Đáng tiếc, anh hãy dùng radio, ô tô, máy ghi âm
của chúng ta sản xuất. Chất lượng ra sao? Chúng tôi ghi nhận 50 năm cách
mạng tháng Mười bằng việc mua ở “chủ nghĩa tư bản thối nát” nhà máy ô tô
mác “Fiat”.
Chắc chắn những ô tô này ở đó là lỗi thời, mà những người tư bản
không phải là ngu: họ bán cho chúng ta model thải ra khỏi sản xuất, chính họ
lại lắp model mới. Đáng tiếc, chúng tôi vẫn còn không thể làm việc chúng tôi
mong muốn. Tôi nói rằng chúng ta vẫn còn lạc hậu. Nhưng những người lạc
hậu, từng có một lúc nào đó sống ở Nga, đã chết từ lâu rồi. Hãy lấy Nhật Bản
làm thí dụ: Nhật Bản hoàn toàn tiêu điều sau chiến tranh, bây giờ chiếm vị trí
hàng đầu trên thế giới. Nhật Bản cũng đọ sức trong vấn đề tiến bộ kỹ thuật
với Mỹ và Tây Đức cũng một phần nào nằm trong đống đổ nát.
Thật ra trong một số lĩnh vực khoa học và kỹ thuật chúng tôi đang ở
phía trước. Chẳng hạn, chúng tôi phát minh ra phương pháp rót thép nóng
chảy thép liên tục. Chúng thậm chí chúng tôi đã bán hát minh cho Mỹ.
Nhưng những thí dụ như thế chỉ là nhỏ so sánh với cái chúng tôi mua từ họ.
Khi chúng tôi cố sức mở rộng khai thác dầu mỏ, chúng tôi cần chất chỉ thị
buryl. Chúng tôi làm được những chất chỉ thị tốt, tuy nhiên chất chỉ thị của
Mỹ không thể so sánh được với chúng ta. Lúc ấy Mỹ vượt xa Liên Xô. Chất
chỉ thị buryl tốt nhất này được sản xuất ở Rumani. Tôi hỏi Georgy-Degia về 333
điều này. Ông mỉa mai: người ta nói chúng tôi là ở Mỹ có một nhà tư bản
người Rumani trong ngành công nghiệp dầu mỏ. Ông ta giúp đỡ chúng tôi
đánh cắp bản thiết kế của Mỹ. Các thiết bị của Rumani làm theo bản thiết kế
của Mỹ. Chúng tôi muốn mua của Rumani bản thiết kế này. Tôi nói Georgy-
Degia:
- Cho chúng tôi bản thiết kế nhé!
Ông nói:
- Cầm lấy đi.
Cầm lấy đi... với người Rumani giữa từ “cầm lấy đi” và “nhận đi” -
một khoảng cách rất xa.
Nói chung lãnh đạo Rumani còn trẻ. Họ thúc đẩy nhanh nền công
nghiệp của mình, xây dựng nông trang nhanh và tốt. Rumani về văn hoá
trước đây đứng dưới các nước Đông Âu, bây giờ thì cao hơn, chẳng hạn,
nông dân mù chữ. Nhưng, dù thế, Rumani chẳng bao lâu nữa sẽ đi lên. Tất
nhiên Rumani có điều kiện thiên nhiên thuận lợi hơn các nước xã hội chủ
nghĩa khác. Họ, nói riêng, có nhiều dầu mỏ, khí đốt, rừng, bánh mỳ. Các
nước xã hội chủ nghĩa khác cũng chưa phải có đủ lương thực, còn Rumani
xuất khẩu bột mỳ. Chúng tôi thường giận Rumani rằng họ bán bột mỳ cho
thế giới tư bản, mà không bán cho các nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng nếu lấy
thí dụ Ba Lan có thừa ngũ cốc, họ có lẽ, khôn hơn Rumani. Họ có thể bán lúa
mỳ cho CHDC Đức bằng hàng hoá giá trị. Nhưng chính là mỗi quốc gia đều
muốn có ngoại tệ và chạy ra thị trường thế giới. Vì thế không thể giận
Rumani.
Nhân đây, tôi nhớ lại có lần Gomumka đến Moskva và đề nghị bán
cho Ba Lan lúa mạch ngoài kế hoạch, mà cái đó chính lại là bánh mỳ của
chúng ta. Tôi thấy Gomumka khôn lỏi, không nói thật, và tôi nhận xét:
- Ông muốn mua luá mỳ, nhưng tôi biết rằng Ba Lan tự cung cấp
được lúa mạch. Ông muốn mua ngũ cốc của chúng tôi để nuôi lợn và bán thịt
thăn hun khói cho Mỹ.
Gomumka luống cuống, sau đó trả lời:
- Đúng.
- Và ông nghĩ rằng chỉ có người Ba Lan biết làm điều đó, còn người
Nga - là những người ngu sao? Ông mua ngũ cốc ở Canada bao nhiêu cũng
được, biến thành thịt và bán thịt đi. 334
- Nhưng ở đó phải trả ngoại tệ.
Vấn đề thế đấy. Mối quan hệ tương hỗ giữa các nước xã hội chủ nghĩa
cũng có thể rất phức tạp, và có những lý do khác nhau. Sau cuộc đàm phán
này với Gomumka tất cả chúng tôi cung cấp ngũ cốc cho Ba Lan. Nhưng
chẳng có lẽ đây là một một trường hợp duy nhất, khi Liên Xô bớt miệng để
giúp đỡ những người bạn?
Bao nhiêu lần, đôi khi, chúng tôi đồng ý kế hoạch, nhưng sau đó
Gomumka hoặc lại có ai đấy gọi:
- Đồng chí Khrusev, tôi đề nghị tiếp tôi, chúng tôi có vấn đề hóc búa.
Người ta đến.
- Đồng chí Khrusev, ông cung cấp cho chúng tôi chừng này quặng với
hàm lượng sắt chừng này, chúng tôi không hoàn thành kế hoạch. Hãy giúp
chúng tôi, cho chúng tôi nhiều quặng hơn, hàm lượng sắt cao hơn.
Nhưng cái đó nghĩa là gì? Chúng tôi cho họ số quặng, mà để có được
điều này chúng tôi phải chế biến từ quặng sắt hàm lượng thấp. Lại chuyện cà
chua Bulgari. Chúng tôi nhận những thứ không ra gì. Người Bulgari quen
nghic rằng người Nga ăn mọi thứ rác rưởi, xin lỗi vì cách nói này, thế là họ
hái cà chua còn xanh, và làm chín đỏ chúng khi vân chuyển. Đó là những thứ
kém phẩm chất! Họ cũng chở cà chua đến Tây Đức, nhưng không phải loại
cà chua như thế, vì rằng sẽ không ai mua, ở đó là sự cạnh tranh. Nhưng họ
bán để người tiêu dùng nước ta ăn. Đấy là cà chua kỳ diệu. Bulgari - nước
trồng trọt tốt nhất thế giới. Nhưng cà chua ngon, chỉ khi hái chúng vào buổi
chiều, còn buổi sáng thì mang lên bàn.
Nhiều vấn đề khác nhau nảy sinh quan hệ giữa các nước xã hội chủ
nghĩa. Nếu không đề cập và giải quyết, thậm chí có thể gây ra xích mích.
Chúng tôi giận là nhiều nước xã hội chủ nghĩa nhìn Liên Xô như con bò sữa.
Nhưng chính chúng tôi còn sống khổ hơn nước nước mà chúng tôi giúp đỡ.
Mức sống được xác định bằng sự tiêu thụ trên một đầu người dân. Thí dụ
tiêu thụ thịt. Năm 1964 ở CHDC Đức 75 kg đầu người một năm, ở Tiệp
Khắc là 65, Ba Lan - dưới 50, sau đó là Hungary, sau đó chỉ có - Liên Xô, và
thấp hơn là Bulgari - 26 kilogam. Có lần nói với Ulbrich:
- Walter, tôi không cần bình quân đâu, nhưng phải hiểu tình thế chúng
tôi. Chúng tôi chiến thắng, chúng tôi đánh tan Đức Hittler, và chúng tôi cho
CHDC Đức ngũ cốc và hàng hoá giá trị ngoại tệ, để ông có thể bán cho nước 335
ngoài, mua về thịt và đảm bảo tiêu thụ trên đầu người là 75 kg. Nhưng ông
có lo cho chúng tôi không?
Những tư duy chính trị, đặc biệt trong quan hệ CHDC Đức cũng ảnh
hưởng đến các vấn đề như thế. Người ta muốn mức sống Đông Đức phải hơn
Tây Đức. Chỉ riêng điều đó có thể lôi kéo tất cả người Đức chạy về phía
chúng ta. Nhưng hiện thời chưa có thế.
Vấn đề bồi thường chiến tranh cũng đáng quan tâm. Các nước phương
tây bỏ khoản bồi thường chiến tranh, mà Tây Đức phải trả cho họ, còn
CHDC Đức tiếp tục trả chúng ta những cái gì có thể. Khi Stalin qua đời,
chúng tôi một lần nữa đặt vấn đề này: nếu chúng tôi muốn Đông Đức có thể
chạy đua về mức sống với phương Tây, cần cho họ khả năng nâng cao kinh
tế mạnh hơn. Nếu tiếp tục trả bồi thường chiến tranh và nuôi quân đội Liên
Xô ở CHDC Đức bằng tiền của họ, thì không thể làm được điều này. Và
chúng tôi bỏ khoản bồi thường chiến tranh, và chúng tôi nhận về mình khoản
nuôi quân đội. Người Ba Lan cũng thích điều này, và họ cũng vặt lông và
kiếm lợi ở chỗ bộ đội chúng tôi vì lợi ích của chính Ba Lan đóng trên lãnh
thổ Ba Lan. Nhiều vấn đề phức tạp tồn tại trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước dân chủ nhân dân, như người ta gọi sau chiến tranh. Ba Lan có than
cốc. Một lần người Tiệp yêu cầu Ba Lan cung cáp than cho họ. Người Ba
Lan đề nghị chúng tôi cung cấp dầu mỏ bổ xung cho họ, và chúng tôi vạch ra
điều kiện: chúng tôi đưa cho các ông dầu mỏ theo tương đương với lượng
than cốc các ông cho Tiệp Khắc. Những người Ba Lan khi đó đúng là nắm
yết hầu người Tiệp. Nếu chúng tôi cũng làm như vậy, thì chúng tôi bóp cổ
Ba Lan, nền công nghiệp của họ thấp kém, họ không thể bước ra thuộc
trường thế giới và cạnh tranh với tư bản, lập tức mức sống của họ giảm đi, và
điều này làm bùng nổ không hài lòng của dân chúng Ba Lan. Chính những
người Ba Lan - mà không phải người Nga, không thích chịu đựng.
Nhớ về Tiệp khắc - nhớ ngay về nền công nghiệp phát triển cao của
họ. Khi chúng tôi còn cởi truồng chui bàn, thì người Tiệp đã làm được những
thứ làm sửng sốt thế giới. Chẳng hạn, những cỗ pháo phòng không của họ
cùng chúng tôi trải qua chiến tranh. Trước chiến tranh, người Tiệp đã bán
cho chúng tôi nhà máy Skoda nổi danh, chúng tôi sử dụng chúng trong sản
xuất đến tận 1945. Có lần năm 1948 Gotwald nghỉ ở Krym với Stalin. Stalin
gọi cho tôi:
- Gotwald ở đây, ông đến đi. 336
Hôm sau tôi bay đến. Mọi người tụ họp ăn cơm ở chỗ Stalin. Gotwald
uống say (ông có nhược điểm này) và nói:
- Đồng chí Stalin, tại sao các ông lại cho người ăn cắp bản quyền sáng
chế của chúng tôi? Ông cứ nói với chúng tôi, và chúng tôi tặng tất cả không
lấy tiền đâu. Khi người của các ông ăn cắp, mà người dân chúng tôi nhìn
thấy các ông ăn cắp như thế, họ phật ý đấy. Chúng tôi có thể cho các ông
không những bản quyền phát minh. Hãy nhận chúng tôi gia nhập Liên Xô,
chúng tôi hài lòng gia nhập Liên Xô, và tất cả những gì chúng tôi có, sẽ là
của chung.
Stalin từ chối, nổi giận bởi chữ ăn cắp. Nhưng trên lời nói, bởi vì
chúng tôi tiếp tục ăn cắp, thỉnh thoảng cũng theo thói quen cũ, như người
Digan được được hỏi:
- Nếu anh là Sa hoàng, thì anh làm gì?
Người Digan trả lời:
- Tôi lập tức ăn cắp đàn ngựa và chạy biến đi.
Lại còn một vấn đề phức tạp - chi phí phòng thủ khối xã hội chủ
nghĩa. Đúng ra thì phải chia đều, hết bao nhiêu, chia đều cho đầu người. Tôi
nghĩ rằng chúng tôi có lẽ bớt đi được một nửa chi phí quân sự của Liên Xô.
Nhưng việc ra sao? Chúng tôi có lần trong khuôn khổ khối Warsawa thoả
thuận rằng mỗi nước cần phải tăng cường khả năng phòng thủ của mình.
Rumani nhận bao nhiêu xe tăng, và nó phải đóng bao nhiêu tàu ở Hắc hải.
Sau đó Bộ trưởng quốc phòng báo cáo tôi rằng người Rumani chẳng làm gì
cả, không thực hiện giao ước. Lúc ấy người Tiệp hỏi tôi: Chúng tôi đã làm xe
tăng cho Rumani, nhưng họ không mua chúng, nói rằng không có tiền. Tôi
nói với người Tiệp:
- Thế ai còn dư tiền để tiêu chi phí phòng thủ cho họ? không có ai cả.
Đây là sự cần thiết bắt buộc.
Suy nghĩ của người Rumani rất đơn giản: Liên Xô bảo vệ chúng tôi,
chẳng ai tấn công chúng tôi, họ sợ Liên Xô, cứ để người Nga tốn tiền phòng
thủ, còn chúng tôi sẽ nâng cao mức sống của mình. Nhưng đây là chủ nghĩa
dân tộc thuần tuý. Đáng tiếc, nó lại xảy ra trong mối quan hệ tương hỗ giữa
các nước xã hội chủ nghĩa.
Tôi nhớ một trường hợp tiêu biểu. Chúng tôi năm 1943 đứng trước
bức tường Stalingrad. Chúng tôi đã bao vây quân Paulius, còn Ulbrich bằng 337
loa điện yêu cầu quân Đức đầu hàng. Ông làm việc đó suốt đêm, khi chúng
tôi ăn cơm với ông, tôi nói với ông bao nhiêu lính Đức ra hàng. Đôi lúc đùa:
- Hôm nay không có ăn đâu nhé.
- Vì sao?
- Chẳng có thằng lính Đức nào ra hàng cả.
Một lần ông đến và nói:
- Hôm nay tôi có bữa ăn rồi.
Nhưng tôi trả lời:
- Đúng đấy, có ăn. có một lính ra hàng, nhưng lại là lính Ba Lan.
Tôi đích thân thẩm vấn người lính Ba Lan. Anh ta nói rằng anh ta ra
hàng vì không muốn đánh nhau. Và tôi đề nghị anh ta:
- Chúng tôi xây dựng quân đội Ba Lan, anh tham gia nhé?
- Không, tôi vào trại tù binh.
- Thế ai sẽ giải phóng Ba Lan?
- Người Nga.
Anh ta bình tĩnh trả lời như thế. Và tôi ra lệnh:
- Tống cổ mẹ nó đi!
Luôn luôn người Nga, lại người Nga... Nếu tâm trạng ỷ lại như vậy
được thúc đẩy tiếp tục, nếu mọi người hy vọng rằng người Nga đem cho,
người Nga bảo vệ, thì có thể kết thúc thảm hại phexã hội chủ nghĩa.
Lại còn một hòn đá cản đường - vấn đề biên giới. Bây giờ, chúng ta
công khai xung độ với Trung Quốc, lại nổi lên vấn đề biên giới giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này luôn luôn có. Nhưng lần đầu tiên trong
lịch sử xô viết phát sinh xung đột quốc tế với nước Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa. Thông thường luôn luôn đạt được giải quyết vấn đề, bằng cách nhượng
bộ lẫn nhau và làm rạch ròi biên giới. Lúc bắt đầu xung độ với Trung Quốc,
chúng tôi tìm cách giải quyết vấn đề, cũng nghĩ nhượng bộ Trung Quốc chỗ
đất nào đó đổi lấy chỗ đất ngang bằng Trung Quốc trong các vùng dàn quân
cả hai phía. Trung Quốc đưa yêu sách cho chúng tôi, đông viên người Trung
Quốc. Malinovski, Gromyko và tôi họp nhau. Chúng tôi nghĩ rằng lập tức
chúng tôi giải quyết tất cả. Tôi lấy bút chì và vạch một đường, kéo dài dường
như chia đôi theo đề nghị. Biên giới được thẳng hơn. 338
Chúng tôi không chờ đợi những phức tạp hơn nữa, vì rằng phần lớn
vùng đất này là bỏ hoang: chẳng có người dân của chúng tôi, chẳng dân
Trung Quốc sống ở đó. Đôi lúc, có thể là, những người thợ săn và người
chăn thả súc vật đến đó. Tóm lại, là tranh cãi vô bổ. Nhưng người Trung
Quốc chính muốn tạo ra xung đột, từ chối tham gia đàm phán và áp đặt Liên
Xô những đòi hỏi phi lý, tư bản chủ quyền của họ ở Vladivostok, Pamir vân
vân... Giờ đây, sau năm năm chúng tôi lại gặp nhau. Thứ trưởng Bộ trưởng
Bộ ngoại giao Vasili Kuznesov đến Bắc Kinh. Có thể lại sau năm năm gặp
người Trung Quốc. Lúc ấy cuộc xung đột thực chất không phải là vấn đề
biên giới, mà “chính sách lớn” quốc tế. Ai chị đựng được.
Nếu vụ việc chi là về biên giới, có thể dễ dàng thu xếp được. Với Iran
chúng tôi vẫn chưa có một đường biên giới xác định rõ ràng từ thời Sa
hoàng. Chúng tôi vạch ra ở đó đường biên giới năm 1955, có nhượng bộ một
số vùng, gần như sa mạc. Nhưng thỉnh thoảng vẫn tranh cãi! Với Iran phát
sinh chỉ có một vấn đề nguyên tắc: số phận làng Firiuza ở Turmenia. Khi Sa
hoàng vạch biên giới với Iran, làng Firiuza cần phải đưa về Iranу. Tôi không
biết, vì sao Sa hoàng không nhường ngôi làng Firiuza. Trong thời kỳ xô viết,
người Turmenia xây một nhà nghỉ ở đó. Và khi Iran đặt vấn đề làng Firiuza,
chúng tôi nói cho họ:
- Hãy giải quyết trên tinh thần anh em. Chúng tôi bây giờ khó trả lại
làng Firiuzaу, ở đó có nhiều nhà nghỉ của chúng tôi, chúng tôi đã phát triển
khác chỗ này so với lúc vấn đề phát sinh lần đầu tiên vấn đề. Chúng tôi sẵn
sàng đổi làng Firiuza, nhường một làng khác cho các ông?
Họ đồng ý, ký một hiệp ước, và bây giờ không còn cãi nhau nữa. Với
láng giềng không còn vấn đề gì tranh cãi về biên giới nữa, trừ Trung Quốc.
Nhưng Trung Quốc đòi hỏi cái gì?
Bắc Kinh nói:
- Chúng tôi yêu cầu ký một hiệp định về biên giới, những đường biên
giới trước đây được hình thành trước đây tại thời điểm có hiệp ước không
bình đẳng ký với Sa hoàng.
Chẳng có một người thông minh nào ký cả. Hiệp ước không bình
đẳng nghĩa là gì? Nếu tôi ký theo lời của họ, thì tiếp theo cũng phải từ bỏ
những cái gì mà chúng tôi làm chủ trên cơ sở những hiệp ước tương tự.
Nhưng tất cả các nước xã hội chủ nghĩa chấp nhận biên giới của mình từ thời
Sa hoàng, đế quốc và Nữ hoàng xa xưa. Nếu từ quan điểm này chúng tôi có 339
thể tạo ra mối quan hệ tương hỗ của mình và điều này sẽ đi xa hơn nữa! Nói
chung trong vấn đề biên giới tồn tại nhiều khía cạnh có thể lý giải một cách
khác nhau, đặc biệt ở châu Âu. Chúng tôi không có biên giới với Hungary,
không có tranh cãi về biên giới nhưng ở vùng Zakarpat sống 120 nghìn
người Hung. Janos Cadar không tham vọng vùng đất này. Vì sao? Người
Hung có thời lợi dụng Zakarpat (Ukraina) gia nhập đế quốc Áo-Hung, và đẩy
người Ukraina kên núi, chiếm vùng đất phì nhiêu Tise. Nếu bây giờ đòi
Cadrar vùng đất này?
Tuy nhiên Hungary và Nam Tư có cãi nhau lớn về biên giới. Tại Nam
Tư có hai triệu người Hung sinh sống. Hung và Rumani cãi nhau về vùng
Transivania. Người Rumani sùi bọt mép chứng minh rằng đây là tỉnh xa xưa
của Rumani, còn người Hung nói rằng Transivania luôn luôn là của Hung, ở
đó có văn hoá Hungary và tiếng Hung. Người Rumani đảo ngược lại tất cả từ
trên xuống dưới, làm cỏ sạch tất cả người Hung. Tranh cãi to về biên giới
giữa Albani và Nam Tư. Tôi nghĩ rằng người Albani sống ở Nam Tư nhiều
hơn tại chính Albani, nhưng Enver Hodga rất sợ Nam Tư. Nhưng những
người Albani sinh sống ở Nam Tư, xem mình hoàn toàn không phải là người
Albani và họ không về Albani. Ở Nam Tư о sống tốt hơn. Đúng là Tito làm
chính trị thông minh hơn.
Hodga - đây là một tên kẻ cướp thực thụ. Chẳng có lẽ đây là chính
khách? Ông ta có một phương pháp: tròng thòng lọng vào cổ và treo lên.
Chính sách điển hình của Stalin. Hodga có những sát thủ bí mật, đâm những
người đối lập: lùng họ trên đường và đâm. Hoặc đột nhập vào nhà và đâm.
Còn Mehmet Sehu? Mehmet Sehu trước kia là Bí thư BCHTƯ Đảng, một
công nhân, người rất thông minh. Ông là người sáng lập ĐCS Albani, còn
Hodga đích thân bóp cổ Sehu. Vì sao? Sehu có quan điểm xây dựng liên
minh Albani với Nam Tư. Đó là ý tưởng của Stalin. Trong thời kỳ nào đấy,
có thể, đây là khôn ngoan, hợp lý, sau đó - thì không phải. Nhưng nếu điều
này làm phật ý ai đó, sao lại bóp cổ người ta?
Ngoài biên giới, còn phát sinh nhiều vấn đề khác. Chủ nghĩa xã hội là
gì, có phải giữ con người trong vòng không? Đội ngũ công minh là thế nào?
Thiên đường là gì? Tất cả mọi người đều muốn rơi vào thiên đường. Đấy
không phải là thiên đường, vì người ta muốn chạy khỏi thiên đường mà cửa
thì sập lại. Nếu Thượng đế cho tôi tiếp tục hoạt động, có lẽ tôi mở cửa, mở
toang cả cửa ra vào, cả cửa sổ. Và tất cả bỗng nhiên chạy đi Lenin từng mở
biên giới Liên Xô sau nội chiến. Một số bỏ đi. Saliapin, Andreev, Kuprin, 340
những người nổi tiếng khác. Nhưng sau này có người quay về, người khác
lâu lâu xin quay lại. Chẳng có lẽ có thể tất cả nhân dân bỏ đi? Có bao nhiêu
người nước ngoài chạy sang chúng ta và không quay về nước mình... Vì sao
chúng tôi phải sợ điều này?
Ở Ba Lan ai thích đi, cứ đi. Và sao? Nhiều người sau đó quay về. Đại
sứ chúng ta, gửi bức điện từ Israel nói rằng một số người bỏ Liên Xô đến
Israel, đã yêu cầu dứt khoát quay về. Tôi có một phụ nữ quen (bà là người
bất hạnh, bản thân bà hai lần ngồi tù thời Stalinе, chồng bị bắn, em bị bắn và
em rể bị bắn, trong chiến tranh, quân Đức thiêu bố mẹ bà, còn cái gì có thể tệ
hơn?), và bà kể cho tôi một người họ hàng ruột thịt của bà sang Israel, khách
mời, nhìn thấy ở đó người ta sống như thế nào và nói rằng nói chung người
Do Thái sống không tồi, nhưng những người già hình thành cá tính dưới
chính quyền Xô viết, cũng buồn. Bà cũng muốn quay về, nhưng những vẫn
còn sống chẳng để làm gì. Thanh niên, thật ra, không không muốn quay lại.
Vì lẽ gì? Giải thích:
- Chúng tôi đã chán ngấy nghe người ta gọi tôi là bọn ăn bám.
Nói chung chúng tôi khó đặt quan hệ với Israel. Israelе tiến hành
nhiều vách để cải thiện mối quan hệ này, nhưng chúng tôi không thể đi đến
dùng vì tình hữu nghị với thế giới Ả-rập. Bao nhiêu lần, đại sứ Israel đề nghị
tôi tiếp. Bản thân tôi cũng muốn tiếp ông, nhưng tôi không thể làm vì làm
những người Ẩ rập nổi khùng. Khi Israel đóng vai trò gián điệp của đế quốc
Mỹ ở Trung Đông, chúng tôi không muốn những người Ả rập xa rời chúng
tôi, mà muốn lôi kéo họ, và thế là phải giữ một khoảng cách với Israel. Nếu
xem xét bộ mặt chính trị của Israel, thì hộ không những không tồi, mà thậm
chí còn tốt hơn những nước tư bản chủ nghĩa khác, và với Israel có thể dàn
xếp những quan hệ bình thường. Ở Israel, nông nghiệp được tập thể hoá
không kém gì Ba Lan. Ở Ba Lan cũng không có nông trang, chỉ xây dựng tổ
đổi công như cấp đầu tiên của tập thể hoá nông nghiệp. Đất đai ở Ba Lan
thuộc về tư nhân, còn thu nhập trong tổ đổi công phụ thuộc vào lượng đất
đóng góp.
Tôi không bao giờ là người bài Do thái. Tôi từng sống ở Yuzovk, và
làm việc cùng với những người Do Thái. Tôi cũng có nhiều bạn người Do
Thái. Từ hồi còn trẻ con, tôi làm việc ở nhà máy với một người Do thái,
Yakov Issakovich Kutikov - một người tốt. Ông là thợ nguội và nhận 2 rúp
một ngàyь, nhưng tôi nhận cao hơn và giúp đỡ ông 25 cô pếch một ngày. 341
Những kẻ đểu giả ở đâu đâu cũng có - cả người Nga, cả người Do Thái, và
người nào cũng được. Thậm chí không có cái gì có thể so sánh Ả rập và
Israel, ở Israel người ta sống giàu hơn. Trong nông nghiệp đã có hệ thống
thuỷ nông tự hành - một phương pháp tiến bộ nhất đối với cây trồng. Mối
quan hệ tương hỗ của Israel với thế giới Ả rập rất nặng nề. Nếu như cứ tiếp
tục, thì kết thúc xấu cho Israel. Israel luôn lo ngại các nước Ả rập. Nhưng
thực lực thì hai bên ngang nhau. Cuộc chiến tranh sáu ngày, năm 1967 cần
phải dạy cho những người Ả rập một bài học. Tôi nhớ Petro I. Khi quân
Thuỵ Điểm đánh tập hậu ông ở Narva, ông hiểu: cám ơn bài học, sau đó ông
đánh tan quân Thuỵ Điển ở Poltava. Thời gian sẽ trôi đi, và nếu người Israel
không chịu hiểu, thì người Ẩ rập sẽ đánh tan họ.
Vả lại, nếu anh ai tổ chức công việc tốt thì không sợ ai, mà người
khác sợ anh. 2,5 triệu người Do Thái tổ chức như thế này để trong sáu ngày
đánh tan hàng chục triệu người ở Ai Cập, Syri, và các nước đồng minh. Chỉ
huy quân sự của Israel là Daian từng là sĩ quan quân đội Anh. Nhưng ở đó
còn bao nhiêu người, từng phục vụ trong quân đội chúng tôi? Đó cũng là một
lực lượng của họ. Người Ả rập đặc biệt không biết đánh nhau, chỉ cưỡi lạc
đà, còn người Do Thái chiến đấu khắp các cuộc во всех chiến tranh. Israel
xuất hiện như thế nào? Đây là ý tưởng của những người Sionit. Hai năm
trước đó, có một người già, thành lập đảng Sionit. Nước Anh kiểm soát
Trung Đông, đồng ý chia một vùng cho Israel, bằng cách cắt đất của những
người Ả rập. Chúng tôi lúc đó thời gian không biểu quyết vấn đề này ở Liên
Hiệp Quốc, còn sau đó cũng cho chỉ thị đồng ý thành lập Israel. Bây giờ thủ
tướng Israel là Golda Mayer. Bà là đại sứ đầu tiên của Israel tại Liên Xô. Bà
sinh ra ở Odessa, lúc bà sáu tuổi, bố mẹ đưa bà sang Mỹ. Bà biết tiếng Nga
giỏi. Khi bà đến Nga, thì phát triển mạnh những hoạt động của những người
Do Thái xô viết, và Stalin đuổi bà đi. Lúc đó những quan hệ của chúng tôi
cũng xấu đi.
Về Albani
Tôi muốn bây giờ được dừng lại ở những quan hệ với Chính phủ
Albani và với Đảng lao động Albani. Trong thời kỳ Stalin, chúng tôi không
có sự va chạm nào trong những quan hệ giữa Liên Xô và Albani, giữa Đảng
cộng sản chúng tôi và Đảng lao động Albani. Họ đáng ra phải là ở giữa các
nước xã hội chủ nghĩa. Liên Xô làm tất cả để giúp đỡ Nhà nước Albani mạnh
lên sau thất bại Hittler đạo quân lớn và đuổi quân đội Ý ra khỏi lãnh thổ của
họ. Nhân dân Albani thống nhất thời ấy sức mạnh của mình với Nam Tư, và 342
họ tiến hành cuộc đấu tranh cùng nhau chống kẻ thù chung - Đức Hittler và
phát xít Italy. Như đồng chí Tito kể cho tôi, ĐCS Nam Tư có sự giúp đỡ lớn
lao cho nhân dân Albaniу trong việc tổ chức đấu tranh chống phát xít. Điều
này là đương nhiên, vì rằng ĐCS Nam Tư được tổ chức tốt hơn và giàu
truyền thống cách mạng hơn. ĐCS Albani, như thời ấy gọi nó, là yếu và cần
giúp đỡ, mà Các đồng chí Nam Tư có được cho họ. Tito kể, ông cử bạn chiến
đấu của mình Vukvanovich đến Albani, để tổ chức Đảng lao động.
Khi những quan hệ giữa Liên Xô và Nam Tư tốt nhất, Tito được
Stalin tin cậy tuyệt đối, tôi nhớ, có mặt tôi, Stalin đọc (chính tả) một bức điện
cho Tito, nội dung, tới đây mối quan hệ tương hỗ với Albani cần xuất phát từ
việc Albani sẽ tham gia Liên bang Balkan. Bức điện như thế được gửi đi. Tất
nhiên Albani không biết điều này. Stalin ấp ủ ý tưởng xây dựng Liên bang
Balkan và thường phát biểu chủ đề này ở một số hẹp người quanh ông. Đối
với Chính phủ tương lai Liên bang Balkan thậm chí người ta bắt đầu xây
dựng một cung điện gần Belgrad. Khi tôi ở Nam Tư, tôi đã thấy chỗ này.
Người ta chở đến đó khá nhiều bê tông sắt, nhưng sau này lại bỏ đi tất cả.
Ghép Albani vào nhà nước Nam Tư không đi ngược ý tưởng của Stalin về
xây dựng Liên bang các nước Balkan. Khi cắt đứt mối quan hệ hữu nghị với
Nam Tư thì Stalin căm ghét Tito, ý tưởng Liên bang Balkan bị chôn vùi.
Tôi không biết hết nguyên nhân làm xấu mối quan hệ giữa Nam Tư và
Liên Xô, nhưng một cái gì đó tôi biết. Stalin gửi chúng tôi một số bức điện,
do đại sứ xô viết ở Nam Tư gửi về. Trong những bức điện này, đại sứ chúng
tôi vạch ra những hoạt động Tito dưới ánh sáng dân tộc chủ nghĩa và làm tất
cả để cho thấy rằng đây không phải hữu nghị của nước, mà ĐCS Nam Tư
dưới sự lãnh đạo Tito tiến hành công việc phá hoại chống ĐCS Liên Xô.
Trong đó cụ thể đại sứ buộc tội Nam Tư, tôi bây giờ tôi không nhớ. Lúc đó
tôi làm việc tại Ukraina và ít tham gia các quốc tế vấn đề, vì rằng tôi dường
như bị cách ly trong những vấn đề này và không nhận được các tài liệu tương
ứng. Mặc dù tôi là uỷ viên Bộ chính trị ĐCS toàn Nga (b), những tài liệu, lẽ
ra phải gửi cho tôi, lại không đến. Lúc ấy Stalin thống trị. Ông nói gửi- tất cả
được gửi, còn nếu không nói, thì không gửi một cái gì cho ai cả.
Sau khi Stalin chết, chúng tôi vẫn phải thừa kế những quan hệ xấu với
Nam Tư. Chúng tôi nghĩ vấn đề này giải quyết như thế nào. Trong vấn đề
này chính tôi nảy ra sáng kiến. Vì sao? Tôi luôn luôn phấn khích bởi những
hoạt động của du kích Nam Tư. Du kích Nam Tư trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa phát xít tự thể hiện mình liệu có phải không, không tốt hơn những 343
người khác. Điều này được nhiều người biết và được nhiều người công nhận.
Họ xây dựng quân đội, có sự chỉ huy từ trung tâm của mình và tiến hành
cuộc đấu tranh thành công với Đức, giải phóng khá nhiều lãnh thổ, trên đó
khu du kích được thành lập. Ngoài ra, từ trước chiến tranh tôi đã nghe về
hoạt động của Tito. Đó là một người cộng sản, rất nổi tiếng trong Quốc tế
cộng sản. Khi là cựu binh của quân đội Áo-Hung ông làm tù binh của Nga và
trải qua trường học đầu tiên của mình trong thời gian cách mạng tháng Mười.
Khi theo dõi điều này tôi có sự thiện cảm với ông, mặc dù cá nhân tôi gặp
ông rất ít.
Tôi gặp Tito cũng ở chỗ Stalin. Tôi có lần ở Moskva, Stalin nói rằng
Đoàn đại biểu Nam Tư sẽ đến. Stalin nói điều này với thiện cảm và với sự
vui mừng mong đợi: Họ sẽ đến đấy! Nhưng tôi không chờ Đoàn đại biểu này
tới và quay về Kiev. Sau đó Stalin gọi tôi và nói rằng Tito sẽ quay về nước
qua Kiev, và đề nghị:
- Anh ở đó tiếp Tito và các đồng chí khác. Họ là những người bạn tốt.
Tôi đã làm như thế. Tito, Kardele, Ginlas và những người khác đến
Ukraina. Chúng tôi đã làm tất cả những gì cần thiết: giới thiệu cho họ thành
phố, pháo đài, đến nông trang, xem hát, tiến hành những cuộc trao đổi.
Chúng tôi nói chuyện, tất nhiên về cuộc sống Ukraina, về hoạt động BCHTƯ
ĐCS(b) Ukraina, còn những vấn đề khác chúng tôi không đụng chạm.
Thời ấy, chúng tôi sống bởi lý tưởng khi hình thành một nước xã hội
chủ nghĩa mới, thì đồng thời cần hình thành sự lãnh đạo nào đáy của họ
không những về những vấn đề chính trị Đảng mà còn về những vấn đề kinh
tế: một điều gì đó tựa như Uỷ ban quốc tế đại biểu công nhân toàn thế giới
của những nước cộng hoà như thế. Với điều này, tất cả chúng tôi được nuôi
dưỡng. Vì thế chúng tôi với tình yêu như thế và sự tin cậy với từng nhân dân
tham gia trên con đường xây dựng CNXH, hơn thế nữa ĐCS của họ. Chúng
tôi đã làm cho từng nhân dân và cho bản thân, khi cho là sự liên kết tất cả các
cán bộ Đảng, khoa học, vật chất kỹ thuật của chúng tôi tập trung sức của
mình trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản thế giới. Tôi cho rằng đây
là là một bằng chứng trong lòng tốt mọi người, đứng trên vị trí cộng sản.
Khi xảy ra sự đổ vỡ, tất cả lập tức thay đổi hẳn. Stalin suýt nữa tấn
công Nam Tư. Tôi nhớ, một lần người ta đặt tôi là tiến hành bí mật gửi nhiều
người từ Odessa vào Balkan. Chúng tôi đã gửi bằng tầu thuỷ, có lẽ, đến
Bulgari. Những người tổ chức việc gửi người đi báo cáo tôi, có một binh 344
đoàn đấy được hình thành, và mặc dù những người này mặc áo dân sự,
nhưng trong valy chẳng họ có quân phục và vũ khí. Người ta nói với tôi, rằng
chuẩn bị giáng một đòn nào đó khắp Nam Tư. Vì sao Stalin không làm, tôi
không thể nói được. Hơn nữa, từ chính Stalin nói chung tôi không nghe về
điều này, nhưng người ta báo cáo tôi những người thực hiện chiến dịch này,
họ là những người tổ chức gửi người đi và đưa họ lên tầu thuỷ. Tâm trạng
của họ là tâm trạng của những người xâm lược:
- Đưa cho họ người của chúng ta! Thế là họ được gửi đi và chẳng bao
lâu bắt đầu thấy hiệu ứng.
Trong các lời nói, họ không hề có sự hối tiếc về sự việc xảy ra.
Vì sao tôi bây giờ chú ý mạnh đến Nam Tư, mặc dù đang nói về
Albani? Vì rằng những vấn đề này có liên quan qua lại với nhau. Vì sao
chính tôi thể hiện sự quan tâm cải thiện mối quan hệ với Nam Tư, mà không
phải ai khác? Việc này cần phải rõ ràng cho nhân loại, ít nhiều suy nghĩ về
chính trị và biết thời gian ấy. Khi chúng tôi có quan hệ xấu với Nam Tư, tôi
ở Ukraina và, mặc dù nằm trong chóp bu lãnh đạo ĐCS LX, nhưng không
tham gia việc vị Nam Tư “xấu xa” này.
Khởi xướng cuộc này liệu có phải là Molotov, Suslov, Vorosilov và
những người khác? Trong thời gian ấy, họ khá gần gũi với Stalin. Tôi đã nói
ở đây không chỉ những người gần Stalin, mà còn cả bao nhiêu người xung
quanh Stalin: mọi chính sách chống Nam Tư, do Stalin chỉ huy, đều qua tay
họ, và họ là những người trực tiếp thi hành nó, đặc biệt Molotov. Molotov
trong vấn đề này là cánh tay phải của Stalin.
Những người này học ở Stalin ý nghĩ từ vị thế chủ nghĩa sô vanh
nước lớn và áp dụng chuẩn mực này cho tất cả các ĐCS, trong số này, tất
nhiên, có cả Nam Tư. Vì thế họ không hiểu sự cần thiết phải cải thiện mối
quan hệ của chúng tôi và loại bỏ xung đột với Nam Tư, nói chung họ không
muốn hiểu vấn đề này. Khi tôi đặt vấn đề đó, có sự hiểu biết và ủng hộ hơn
nữa từ phía Anastas Ivanovich Mikoian. Ông cho rằng phải thực hiện những
bước như thế. Molotov, Vorosilov, Suslov không đồng ý với tôi. Mây mù
che khuất mắt họ: Chúng ta là nước lớn như thế, thắng Đức Hittler, rồi đi đến
Nam Tư?
Trước đó chính họ là những kẻ dối trá, nói dối một lần và nhiều lần,
bằng cách sau đó lặp đi lặp lại sự dối trá của họ, bắt đầu tin vào chuyện bịa
đặt rằng Nam Tư là nước tư bản chủ nghĩa, không còn tý gì xã hội chủ nghĩa; 345
rằng Nam Tư trở thành phản bội CNXH và liên kết với chủ nghĩa đế quốc.
Rất thú vị rằng bây giờ Trung Quốc cũng sử dụng luận điệu này phê bình
nước chúng tôi. Ở Bắc Kinh người ta tuyên bố rằng Liên Xô ký một liên
minh bí mật với đế quốc Mỹ, và đó là sự ngu ngốc. Đáng tiếc, điều tương tự
này, hai mươi năm trước trước đây chúng tôi đã nói về Nam Tư. Tất cả điều
này đều do Stalin nghĩ ra, còn các nhà báo chộp lấy. Nhiều giấy mực đổ
xuống sông xuống biển. Gánh nặng quá khứ đổ vào tất cả chúng tôi, và
không dễ dang như thế thời ấy lập tức có một bước đi mới.
Vì vậy tôi đề nghị:
- Các đồng chí, chúng ta hãy xây dựng một Uỷ ban gồm các nhà khoa
học và trao cho họ nghiên cứu, bây giờ Nam Tư là quốc gia kiểu gì - tư bản
chủ nghĩa hoặc xã hội chủ nghĩa? Nếu là nước tư bản chủ nghĩa, thì yếu tố
nào chứng tỏ họ không phải nước xã hội chủ nghĩa?
Tôi không còn nhớ ai tham gia Uỷ ban này, nhưng tôi nhớ rõ trong đó
có chủ bút báo “Sự Thật” Sepilov. Uỷ ban này lẽ ra phải công nhận rằng
Nam Tư chẳng thể nào được coi là nước tư bản chủ nghĩa, rằng trong sự xây
dựng nước này có mặt tất cả các yếu tố của nề nếp xã hội chủ nghĩa: không
có sở hữu cá nhân về phương tiện sản xuất, không có sở hữu riêng về ngân
hàng, tất cả những thứ này thuộc về nhân dân. Buôn bán chủ yếu cũng nằm
trong tay nhà nước. Không xác định được chỉ có vấn đề nông nghiệp nông
trang hầu như không có và phổ biến là kinh tế cá thể. Tuy nhiên hình thái
như thế cũng có ở các nước khác, đang trên đường xây dựng CNXH, như thế
Nam Tư về mặt này không hề tách rời trong số các nước như Rumani.
Hungary, Bulgari, Tiệp Khắc, Ba Lan. Tôi quả là chưa nói về CHDC Đức.
Trong số tất cả các nước trên con đường xây dựng CNXH, thì Albani
tiến hành chính sách chống Nam Tư mãnh liệt nhất. Trong thời kỳ đáng nhớ
ấy, điều này được Liên Xô thích thú và cổ vũ. Nhưng khi chúng tôi quyết
định phải thực hiện những bước bình thường hoá mối quan hệ Liên Xô-Nam
Tư, để đặt con đường đầu tiên đi tới đoàn kết, tới sự vững mạnh của lực
lượng cách mạng, thái độ của Albani đã làm hỏng việc của chúng tôi.
Trước khi thực hiện những bước đi cụ thể bình thường hoá mối quan
hệ Liên Xô-Nam Tư, chúng tôi thảo luận các ĐCS anh em. Tôi không nhớ
bây giờ, ai phản đối, nhưng đa số đồng ý với chúng tôi. Nhưng chúng tôi rất
kiên trì cố đạt được điều này. Albani không đồng ý. Những người lãnh đạo
Đảng và nhà nước rất khó đồng tình với những đề nghị của chúng tôi chứng 346
minh rằng những người Nam Tư - là những người không tin cậy, rằng họ
không phải là những người cộng sản. tất cả điều này được phát biểu với
giọng độc ác. Đặc biệt Enver Hodga rất hay tức giận. Tính ông này rất ác, và,
khi ông nói về cái gì mà ông không thích, thì mặt ông co giật và nghiến răng
kèn kẹt.
Chúng tôi bình tĩnh chứng minh rằng phải có quan niệm và sự sáng
suốt để phân tích lại những mối quan hệ quốc tế: sự bình thường hoá sẽ có
lợi cho cả Albani, cho cả Nam Tư, và phong trào cộng sản thế giới. Chia rẽ
vì cái gì? Phải thấy rằng ở có nhiều người Albani sống ở Nam Tư, và mặc dù
các nước xã hội chủ nghĩa đã bóp méo số liệu thống kê, khi đó điều này là có
lợi, nhưng Tito sau này nói với tôi, rằng ở Nam Tư người Albani nhiều hơn
số người Albani ở tại nước họ. Tôi cho là điều này không có gì xấu cả, đặc
biệt, cũng không thấy, tình anh em giữa các quốc gia. Albani buộc phải đồng
ý với chúng tôi, nhưng không phải vì chúng tôi tin họ, vì rằng họ không có
lối thoát khác.
Đoàn đại biểu Liên Xô đến Nam Tư (tôi sẽ nói riêng), và chúng tôi
bình thường hoá quan hệ. Sự thật cả sau khi bình thường hoá những mối
quan hệ cũng không phải bằng phẳng: có sự bá vai choàng cổ, và cũng có cả
những lạnh nhạt. Nhưng trong mọi trường hợp cái gì xảy ra ở thời Stalin, sẽ
không lặp lại nữa. Chúng tôi tiến tới thắt chặt mối quan hệ tốt đẹp và đã làm
những bước đi tạo điều kiện thống nhất lực lượng chúng tôi cả trong chính
sách cũng như trong kinh tế. Điều này gây ra sự bất lợi lớn ở Albani. Trong
thời gian ấy, chúng tôi đi đến vấn đề dường như từ vị trí một đồng chí cũ:
làm gì, nếu họ không hiểu? Họ đang trưởng thành, không có gì băn khoăn ở
đây, nói riêng, không có. Và chúng tôi giải thích vị trí chúng tôi để những
người Albani hiểu chúng tôi tốt hơn.
Từ phía Albani, chúng tôi đã xây dựng những mối quan hệ anh em
không đơn giản. Chính những mối quan hệ anh em - đó là những quan hệ
bình đẳng. Nhưng ở đây, với quan điểm sự giúp đỡ phát sinh những quan hệ
cũ đối với mới. Chúng tôi tiêu rất nhiều phương tiện, tiền bạc để giúp đỡ
Albani. Với các nước khác, chúng tôi có sự giúp đỡ bằng tín dụng ư đãi, còn
Albani, chúng tôi trên cơ sở khác, chủ yếu là tặng không. Chúng tôi nói
chung hoàn toàn nhận trách nhiệm trang bị cho quân đội Albani: cung cấp
cho họ đồng phục, thực phẩm, đạn dược, vũ khí, và tất cả là không phải trả
tiền. 347
Vì sao? Có lý do của nó, và bất kỳ ai đầu óc sáng suốt, sống trong bầu
không khí mà chúng tôi thời ấy đã sống, hiểu và tìm thấy sự đúng đắn hành
động như thế của chúng tôi. Phải thấy rằng trong thời gian ấy, NATO hình
thành. Nhưng Albani có một vị trí chiến lược ở Địa Trung Hải, và chúng tôi
xem nó như một căn cứ của các nước xã hội chủ nghĩa ở biển này. Vì thế tình
thế nước đôi đặt ra: liệu chúng tôi có mặt ở đó, nói một cách thô thiển, quân
đội của mình hoặc xây dựng cho Albani quân đội riêng của mình? Đương
nhiên, Albani có thể duy trì một lượng quân không nhiều và họ không gây
một ấn tượng nào cả đối với kẻ địch. Họ thực tế không sản xuất vũ khí, có lẽ
chỉ có súng trường. Vì thế chúng tôi quyết định giúp đỡ về mặt vật chất để
xây dựng theo khả năng quân đội Albani đông người, nhưng, tất nhiên,
không đến nỗi điều này làm khổ nền kinh tế Albani. Điều này cần thiết là
quân đội này phải gây một ấn tượng đe doạ, được trang bị phương tiện chiến
đấu hiện đại. Vì thế quân đội Albani nhận tăng, pháo, súng mới. Đấy là chưa
kể đồng phục và đồ ăn. Nếu Albani trích tiền từ ngân sách của mình để nuôi
quân đội thì họ không còn đủ tiền làm những việc cần thiết khác: phát triển
kinh tế, công nghiệp hoá đất nước, cải tổ xã hội chủ nghĩa. Và chúng tôi biết
cần Albani.
Từ sau chiến tranh, mới đây mối quan hệ Liên Xô các nước tư bản
chủ nghĩa bị nặng nề, chúng tôi không loại trừ khả năng xung đột quân sự.
Với vị trí của mình, Albani đe doạ nghiêm túc những hoạt động của NATO ở
Địa Trung Hải. Vì thế chúng tôi thoả thuận với Albani là chúng tôi kéo cả tàu
ngầm đến. Chúng tôi đã làm thế vì lợi ích tất cả các nước xã hội chủ nghĩa.
Quyết định bố trí ở đó 12 tầu ngầm. Các bạn có biết một quả đấm
tương đối mạnh - 12 tầu ngầm ở Địa Trung Hải. Với những quả đấm như thế, đối thủ của chúng tôi bắt buộc phải coi trọng. Những tàu ngầm này chúng tôi cũng muốn chuyển cho Albani. Thuỷ thủ chúng tôi đến Albani với đày đủ phương tiện trên biển và sửa chữa, để đào tạo, và, xây dựng đội ngũ sĩ quan chỉ huy Albani đối với tầu ngầm. Chuyển cho họ những tàu ngầm này. Bước đi này chứng minh chúng tôi tin họ như thế và, tôi đã nói, với tình yêu như thế chúng tôi đối với người bạn Albani. Đoàn đại biểu Albani đến gặp chúng tôi đôi lần đứng đầu là Enver Hodga và Mehmet Sehu. Giữa chúng tôi có những quan hệ tốt nhất, chưa kể tới nhân dân Albaniе.

Những người Albani nhiều lần đề nghị chúng tôi mời Đoàn đại biểu cấp cao Đảng và Chính phủ chúng tôi tới thăm họ. Người ta quyết định rằng tôi đứng đầu Đoàn đại biểu như thế. Và chúng tôi đến Albani. Trước khi đi, chúng tôi báo cho những người bạn Albani rằng chúng tôi không muốn khi chúng tôi có mặt, không tiến hành công khai chỉ trích Nam Tư và những người lãnh đạo của họ. Trong thời gian ấy, Albani giữ những quan hệ rất căng thẳngvới Nam Tư và tiến hành một cuộc đấu súng bằng lời trên báo chí.

Nguyễn Học
(dịch từ bản tiếng Nga)

(Blog Ngô Đức Thọ )

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm