Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Ia Drang Máu Nhuộm
Với thâm ý, đánh phủ đầu Bắc quân với chiến thuật dụng binh thần tốc bằng trực thăng đựọc B52, Skyraider và phản lực không yểm, phối hợp cùng pháo binh, 3 tiểu đoàn thiện chiến Mỹ, được tung vào vùng thung lũng Ia Drang, nằm tại phía nam Pleiku và đường 19 phía Bắc của Ban Mê Thuột và cách căn cứ lực lượng đặc biệt Pleime chừng 16 dặm.
Tại đây, quân Mỹ đã đụng độ với 3 trung đoàn chính quy Cộng sản và tiểu đoàn H15 của Mặt trận Giải Phóng.
Trận quần thảo xẩy ra vào ngày 14-11-1965 và kêt thúc ngày 18-11-1965.
Tổng kết thiệt hại được ghi nhận như sau: 1037 cộng quân bỏ xác tại chỗ. Thành phần bị thương và xác chết được chúng kéo đi không ai kiểm chứng được chính xác là bao nhiêu. Phía Mỹ: 235 tử thương và 245 bị thương nặng nhẹ vũ khí bảo toàn.
Cả hai bên đều tuyên bố thắng trận. Phần đầu của bài viết này tường thuật trận đánh tại 2 bãi đáp X Ray và Albany.
Phần sau phân tích, bình luận và nói lên một số sơ hở từ phía Mỹ.
Để thêm phần linh động và nhân bản, một số tự thuật từ chính những người lính Mỹ đã tham dự trận đánh sẽ được xen kẽ trong bài viết.
***
Nói đến chiến cuộc Việt Nam là phải nói đến trực thăng vận. Hình ảnh từng đoàn trực thăng vần vũ đổ quân, vận chuyển cũng như khạc đạn, đã là những hình ảnh dính với chiến trường tàn khốc của nam Việt nam.
Ít người được biết cha đẻ của chiến thuật trực thăng vận là Trung Tướng James M.Gavin, nguyên tư lệnh sư đoàn 82 nhẩy dù Hoa Kỳ trong đệ nhị thế chiến. Sau này, ông chỉ huy ngành điều nghiên chiến thuật cho bộ binh Hoa Kỳ. Chính trong những ngày giữ nhiệm vụ vừa kể, ông đã ôm ấp ý tưởng một ngày nào đó, trực thăng sẽ thay thế đôi chân của người lính bộ binh để dùng ưu thế tốc độ, dáng lên đầu địch những đòn sấm sét, rồi lui quân chớp nhoáng, trước khi địch kịp hoàn hồn.
Bộ trưởng Quốc Phòng MC Namara tán đồng kiểu dụng quân này nên vào giữa tháng 5-1962 đã ra lệnh cho lục quân sản xuất hàng loạt trực thăng UH-1+ HUEY, CH.47, CHINOOK.
Định mệnh đã an bài, thung lũng Ia Drang thành tuyến thử lửa đầu tiên giữa lực lượng cơ giới siêu việt, phối hợp trực thăng vận và không yểm cùng pháo binh của Hoa Kỳ đụng đầu với đạo quân cuồng tín mang dép râu, binh phục luộm thuộm quanh năm ăn cơm hẩm cá thiu cuả Hànội.
Phần đầu của bài viết thuật lại trận chiến xuất phát từ bãi đáp X-RAY rồi tiến quân theo hướng Đông Bắc chiếm baiõ Columbus và kết thúc tại bãi đáp Albany.
Trước hết tưởng cũng nên nói qua về lý do dẫn đên cuộc đụng độ đầy máu lửa này.
Hà Nội đã có một quyết định quan trọng vào mùa hè năm 1964. Khởi đầu từ xung đột giữa hai quan niệm chiến thuật, Võ Nguyên Giáp chủ trương leo thang chiến tranh chậm nhưng chắc ăn bằng cách cung cấp khí giới và lương thực tối đa cho lực lượng du kích tại miền Nam để làm hao mòn QLVNCH rồi mới tổng tấn công. Ngược lại, đám tướng trẻ muốn tung quân chính quy ồ ạt vào chiến trường cao nguyên rồi thừa thắng tràn xuống đồng bằng. Hồ Chí Minh đồng ý với gỉai pháp sau này, cho nên để khởi đầu, khi muà mưa lũ chấm dứt vào tháng 10-1965, ba trung đoàn thiện chiến chính quy xuôi Nam với ý định vây hãm và dứt điểm căn cứ lực lượng đặc biệt của miền Nam tại Pleime. Đồn này có 12 cố vấn Mỹ với hơn 400 lính thượng.
Mưu đồ của Hànội là vây hãm Pleime để buộc QLVNCH sẽ phải đến gỉai vây, rồi dùng chiến thuật cố hữu “Công đồn đả viện“ tiêu diệt lực lượng tiếp cứu, chắc chắn sẽ phải rời Pleiku xuôi Nam trên đường 14 rồi đi theo hướng Tây Nam đường liên tỉnh 5. Tại đây, một trung đoàn Cộng sản nằm chờ sẵn để phục kích. Sau khi đã dứt điểm đoàn quân cứu viện, bọn chúng sẽ thanh toán Pleime rồi Pleiku, để từ đó theo đường 19 ào ạt tiến về Quy Nhơn và biển Đông.
Cộng sản cũng hiểu rằng ai kiểm soát được đường 19 sẽ làm chủ được cao nguyên, ai chiếm được vùng cao điểm này sẽ khống chế được toàn cõi Đông Dương.
Vào khoảng tháng 11 năm 1965, cộng quân đang vây hãm đồn Pleime, cách Pleiku chừng 25 dặm về phía nam. Không biết con gái tỉnh lỵ này đẹp cỡ nào nhưng hình ảnh “Em Pleiku má đỏ mội hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt“ đã nói lên rất đầy đủ về thời tiết mây mù se lạnh của vùng đồi núi chập chùng vây phủ này.
Lữ đoàn 3 sư đoàn 1 không kỵ Hoa Kỳ được tung vào trận địa để truy lùng, tiêu diệt (Search and destroy) địch quân đang bám quanh Pleime như đỉa đói.
Người Mỹ quyết định đổ quân xuống một bãi đáp được đặt tên là Xray, nằm cạnh rặng núi Chu Pong nhìn xuống thung lũng IA Drang. IA có nghĩa là sông (tiếng của người thượng) cho nên vùng naỳ các dòng sông đều mang tên là IA như IA Meur, IA Toe. IA Drang được mệnh danh là thung lũng tử thần, vì đây là thánh địa của cộng quân, cửa ngõ xâm nhập toàn thể vùng cao nguyên Nam Phần VN.
Địa thế vùng này không nhiều cây nhưng khá um tùm, nhiều lạch khô và đặc biệt nhiều cỏ voi cao ngang đầu người bao quanh nhiều gò mối khổng lồ, to như một căn nhà chòi.
Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 7 được trực thăng vận xuống Xray, lãnh nhiệm vụ tiên phong. Trung tá Harold G.Moore, 42 tuổi, xuất thân trường võ bị West Point lớp 1945, làm Tiểu đoàn Trưởng..
Sau 30 phút, hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn, không quân cày nát vùng bãi đáp, người lính Mỹ đầu tiên đặt chân lên IA Drang đúng 10:48 ngày 14-11-1965. Bộ chỉ huy tiểu đoàn cùng đại đội Bravo của Đại uý Henen hoàn tất đổ quân, trong đợt đầu. Toàn bộ bám trụ giữa bãi đáp thay vì bung ra bốn phía thiết lập vòng đai an ninh. Đây là lỗi lầm đầu tiên từ phía Mỹ ,sẽ đề cập đến trong phần 2. Không đầy 30 phút từ khi nhẩy xuống bãi đáp, tiểu đội của trung sĩ John Mingo đã bắt được một tù binh Bắc Việt không mang vũ khí. Y khai có 3 tiểu đoàn địch quân số chừng 1600 tên bộ đội do Trung tá Cộng sản Nguyễn hữu An chỉ huy đang đóng quanh ngọn Chu Pong.
Đúng 12:15, Cộng quân khai hỏa đầu tiên tấn công 3 trung đội cuả Đại đội Bravo, đang tuần tiễu phía tây bắc bãi đáp.
Bây giờ 3 đại đội của tiểu đoàn I trung đoàn 7, (1/7) đã có mặt đầy đủ. Với ĐĐ Charlie (C) thủ mặt Tây, ĐĐ Alfa (A) thủ phía Tây bắc, và ĐĐ Bravo (B) mặt đông bắc. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nằm phía Đông nam. Một dòng suối cạn chạy dài từ tây nam ôm sát bãi đáp lên hướng Đông Bắc một đọan rất xa; theo dòng suối cạn sẽ lên gần tới bãi đáp Albany xa khoảng 3 dặm hướng bắc.
Lúc bị tấn công, 2 trung đội dàn hàng ngang đi trước, với một trung đội đi sau. Cộng quân tập trung hỏa lực bắn xối xả vào hai trung đội đi đầu và đã gây thiệt hại khá nặng cho hai trung đội này. Chính lúc này trung đội của Thiếu uý Herrick đuổi theo một đám địch quân ẩn hiện phía cạnh sườn phải và đã tiến xa hơn 100 thước, bị tách rời khỏi đại đội. Khi tới một khoảng trống, trung đội bất ngờ chạm trán hơn 50 địch. Herrick đủ bình tĩnh chỉ huy trung đội tấn công và giết hơn phân nửa số địch mà không bị tổn thất nào đáng kể. Tuy nhiên, cuộc chạm súng đã khiến cộng quân bu lại bao vây nên Herrick cấp tốc liên lạc với đại đội, đồng thời thiết lập chu vi phòng thủ tại một gò đất. Súng và lựu đạn của hai bên thi nhau nổ liên hồi. Trong vòng 25 phút đã có 5 lính Mỹ bị tử thương trong đó có trung đội trưởng Herrick. Trước khi hy sinh viên Thiếu uý này còn đủ bình tĩnh báo cáo số anh em bị thương vong cho đại đội, trao quyền chỉ huy lại cho trung sĩ Palmer, và ra lênh phá huỷ mật mã, đồng thời vẫn còn tỉnh táo gọi pháo binh bắn yểm trợ rồi buông máy ra đi. Nhưng cũng không lâu sau đó cả hai Trung sĩ Palmer và người tiếp quản là trung sĩ Stoke cũng bị đạn địch đốn ngã. Trung sĩ nhất Savage lên chỉ huy và liên tục kêu pháo binh nhả đạn chính xác quân địch đang bao vây tứ bề, tới lúc này trung đội đã có 8 người chết, 13 người bị thương. Nhưng nhờ sự bình tĩnh chỉ huy của Savage cũng như lòng can trường của y tá Charlie Lose, liều chết bò trườn dưới đủ mọi loại đường đạn của địch để băng bó thương tích cho đồng đội. Trung đội được mệnh danh là “xé lẻ“ đã giữ vững vị trí chiến đấu trong suốt thời gian bị Cộng quân Bắc Việt bao vây và tấn công tại bãi đáp Xray.
Khỏang 2:30, đại đội D với quân số đầy đủ đuợc trực thăng vận đổ xuống, như vậy là TĐ 1/7 đã có mặt cả 4 đứa con A,B,C,D. Đại đội D đã vội vã cùng 3 đại đội kia lập tuyến phòng thủ vì cộng quân ngày càng tấn tới từ phía núi. Tiểu đoàn trưởng Moore gọi pháo binh và không quân yểm trợ tối đa. Từng đợt phản lực cơ F100 nhào xuống phóng hỏa tiễn, bắn đại bác xuống rặng Chu Pong. Đợt dội bom của Không quân vừa dứt, cộng quân với khoảng 400 tên từ Chu pong tràn xuống dọc theo dòng suối cạn, chia làm hai cánh tấn công trực diện đại đội A và đánh thốc vào cạnh sườn đại đội C với ý định chẻ lực lượng Mỹ ra làm hai. Tuy nhiên, tại cạnh sườn này đã được Trung tá Moore cho đặt hai cậy đại liên M.60 do các binh nhất Ladner và Adams là xạ thủ, cách nhau không quá 10 thước. Họ đã quạt liên tục, đốn ngã nhiều đợt tấn công của địch.
Thiếu uý Wayne, trung đội trưởng trung đội I của đại đội A, nhận xét:
- “Tôi thấy cộng quân tấn công như điên dại. Chúng tràn xuống từ phía rừng cây và chạy thục mạng trên dòng suối cạn. Chúng nó ngụy trang rất kỹ, mầu xanh cứt ngựa bạc phếch, lẫn lộn vào cỏ cây rất khó phân biệt. Bọn chúng rất kỷ luật và dường như không sợ chết.“
Đợt tấn công cuả Cộng sản bị khựng lại vì tổn thât khá nhiều. Chúng rút lui về phiá rừng cây sau những đám cỏ voi. Rảnh tay,Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội A và B lo di tản thương binh, đồng thời đi cứu viện trung đội bị xé lẻ đang bị áp lực nặng nề của địch. Hai đại đội tiến quân được chừng 70 thước dọc theo bờ suối thì bị một tổ đại liên của địch bố trí sau một gò mối, khạc đạn ồ ạt, gây nhiều tử thương cho binh sĩ. Thiếu uý Marm, nghiến răng, một mình bọc ra phía sau gò mối, tung từng đợt lựu đạn và bắn rỉa M.16 vào tổ đại liên địch, hạ sát tại chỗ 12 tên địch trong đó có tên sĩ quan chỉ huy của chúng.
Tới lúc này, chiều núi rừng đổ xuống thật mau. Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội quay trở lại vị trí xuất phát cố thủ qua đêm. Tạm thời kiểm điểm quân số thì đại đội B thiệt hạị 47 binh sĩ, đại đội A bị 34, đại đội C chỉ bị thiệt hại có 4 nguời.
Lợi dụng bóng đêm, cộng quân lại tấn công trung đội “xé lẻ“ ba lần, nhưng đều bị đẩy lui vì súng, lựu đạn cũng như pháo binh đã rót rất chính xác bao quanh trung đội. Cộng quân đã dùng “Tù Và“ thổi để thúc quân trong đêm tối, hòng uy hiếp tinh thần và mong dứt điểm đối phương.
Sáng hôm sau, khoảng 07:45, Cộng quân dốc toàn lực chia làm 3 mũi dùi tấn công Xray, áp lực nặng nề nhắm vào đại đội C. Vào lúc cao điểm khốc liệt nhất, Trung tá Moore gọi không quân yểm trợ. Nhiều phi tuần Skyraider thay nhau lồng lộn thả bom lửa Napalm, nhả đại bác 20ly xuống đầu địch.
Một phi tuần trưởng là Đại uý Wallace, khóa 1956 Westpoint diễn tả lọai máy bay này: “Khu trục cánh quạt Skyraider bay chậm chạp nặng nề nhưng bù lại bay đuợc lâu và mang được nhiều hỏa lực. Đôi cánh dài và rộng, có thể gắn vào đủ thứ bom đạn, trừ ra cái lò ga nấu bếp vì có thể quá nặng“. Sau Skyraider đến lượt F100 loại siêu kiếm rất phổ thông ở thời điểm này. (Sau đó mới tới loại F4, F5 đuợc đưa vào chiến trường VN).
Hai chiếc phản lực F100 bay tới đã thả napalm nhầm vào tuyến phòng thủ quân bạn gây nhiều tử vong cho quân bên dưới.
Khỏang 9:10 am, đại đội A của Tiểu đoàn 2 lữ đoàn 7 không kỵ đuợc tăng phái xuống trận điạ, phần còn lại của tiểu đoàn được thả xuống bãi Victor cách đấy chừng 3.5 cây số để tiến đên Xray.
Đến 10:00 sáng, cộng quân bắt đầu lui binh, sau khi bị tổn nặng. Phía Mỹ,đại đội C mất 42 tử thương và 20 bị thương sau 2 tiếng rưỡi giao trnh.
Thiếu uý Rescorda của đại đội B (bị tử nạn trong vụ khủng bố 9/11-New York) kể lại: “xác chết của đội bên vương vãi khắp nơi. Khá nhiều xác cộng quân đếm được quanh điểm đóng quân của trung đội tôi. Tôi tìm thấy hai xác lính Mỹ, một đen và một xì (latino) cùng chết trong một hố cạn. Có lẽ họ chết trong lúc đang cố gắng giúp nhau. Cũng có một xác cộng quân, tay vẫn còn khoá cổ một xác Mỹ khi đánh xáp lá cà.“
Dù cường độ ở trận chính đã suy giảm, trung đội xé lẻ dưới quyền chỉ huy của trng sĩ Savage vẫn chưa thoát gọng kìm cộng quân đang khóa chặt.
Trung tá Moore lệnh cho đại đội B và C cùng Bộ chỉ huy của ông đi cứu viện trung đội này. Vừa tiến quân ông vừa gọi pháo binh dập tối đa xuống vị trí đich, đang bao vây như ruồi bu điã mật .Cuối cùng, ông cũng bắt tay đuợc với trung đội xé lẻ. Trung đội này khi bắt đầu trận đánh, quân số 29 người, nay còn lại không đầy phân nửa.
Lực lượng Mỹ lại bố trí phòng thủ qua đêm thứ nhì. Trong đêm cộng quân với khoảng 300 tên lại tấn công quyềt liệt nhưng bị thiệt hại rất nặng vì lựu đạn gài và pháo binh. Nhiều đợt tấn công bị đẩy lui phần nhờ hỏa châu soi sáng được vận tải cơ C.123 thả đầy trên rừng núi khiến những tên lính cộng trở thành tấm bia rất rõ trong đêm cho lính Mỹ triệt hạ.
Tảng sáng ngày 16-11, tiểu đoàn 2/7 đã tới điểm hẹn Xray, bắt tay với tiểu đoàn 1/7.
Trận chiến tại bãi đáp Xray kể như chấm dứt. Quân cộng sản chính quy Bắc Việt đã bị thiệt hại cả ngàn tên, tạm thời không còn đủ khả năng tấn công. Bên Mỹ 179 tử vong, 121 bị thương nặng nhẹ.
Với tin tình báo, địch quân đang được tăng viện. Hai tiểu đòan di tản chiến thuật khỏi bãi Xray, cùng tiến về, bãi Albany cách đấy chừng 4 cây số hướng Đông bắc và bãi Columbus cũng 4 cây cùng phía. Đồng thời B.52 cất cánh từ đảo Guam đang trên đường tới trận địa sẽ trải thảm bom lên rặng Chupong.
Trên đường triệt thóai khỏi Xray, quân Mỹ thấy đầy vũ khí và xác người không nguyên vẹn của Cộng quân rải rác toàn vùng, từng vũng máu khô, lẫn với băng vải, balô.v.v.. Có chỗ xác địch nằm chồng lên nhau sau những gò mối. Ngoài ra họ cũng tìm thấy 4 xác lính Mỹ với giây thừng còn buộc nơi cổ chân. Chắc chắn những ngừơi không may này đã bị địch quân bắt làm tù binh và bị giết khi chúng tháo chạy về rừng. Cùng lúc này, thiếu uý Deal bắt gặp một tên địch còn sống nhưng bị thương nặng đang dựa lưng vào gò mối. Deal kể: “Tên này tuy đã trọng thương nhưng còn ráng dựa lưng vào gò đất. Y cố gắng rút trái lựu đạn từ túi áo. Trước khi chết y còn muốn cho lựu đạn nổ tung để cùng chết với quân thù. Y ráng thêm vài lần nhưng chỉ nhấc được trái lựu đạn lên vài phân rồi lại rơi xuống túi vì y đã quá yếu cuối cùng gục xuống. Chúng tôi đứng lặng nhình tên địch và khá cảm kích trước cảnh tượng này.”
Lúc đoàn quân ra khỏi vòng cương tỏa của Xray, đồng hồ chỉ 09:30 ngày 17-11-1965.
Trên đường đi lính Mỹ bắt gặp nhiều dấu dép râu còn in hằn trên đất, cỏ bị nghiền nát cũng như gạo khô rơi vãi tung tóe. Họ biết địch còn rình rập đó đây như những bóng ma.
Sau này được biết cộng quân lởn vởn vùng này gồm tiểu đoàn 8 trung đoàn 66, tiểu đoàn1 trung đoàn 33.
Thiếu úy Payne đang dẫn đầu trung đội trinh sát kể lại: “Chúng tôi vừa vòng qua một ụ mối cao khoảng 6 feet, bất chợt tôi thấy một tên địch đang ngồi nghỉ. Nhanh như chớp, tôi phóng tới bẻ quặt tay hắn ra phía sau rồi hô đồng đội túm cổ, đồng thời cách đó khoảng 10 yard một trung sĩ cũng bắt sống được một tên khác đang nằm ngủ. Hai địch quân đều có đủ khí giới, lựu đạn và balô, nhưng cả hai run lẩy bẩy, khiếp sợ, và dường như bị sốt rét. Bắt được tù binh Trung tá Mc Dade cho lệnh đoàn quân dừng chân nghỉ mệt rồi ông đích thân thẩm vấn 2 tên Việt cộng.
Đoàn quân đã quá mỏi mệt vì trải qua 60 tiếng không ngủ và cuốc bộ cũng cả 4 tiếng đồng hồ. Khoảng 1 tiếng sau khi nghỉ chân, lính Mỹ đã tới khoảng rừng trống mang tên Albany. Trung đội trinh sát của Thiếu Úy Payne không ngờ mình chỉ cách địch quân khỏang 150 mét. Đây là ban tham mưu của Tiểu đoàn 3 trung đoàn 33 với quân sô 550 tên.
Lợi dụng lúc quân Mỹ đang nằm ngồi ngổn ngang nghỉ mệt, Cộng quân hàng trăm tên đồng loạt xung phong. Một cánh đánh trực diện đoàn quân của tiểu đoàn 2/7 đang trải dài và cánh khác đánh vào cạnh sườn phía đông. Đội hình phục kích giống như chữ L. Trận đánh đẫm máu này kéo dài 16 tiếng.
Vì bị tấn công thình lình mà địch quân quá gần kề, cả hai bên xử dụng chiến thuật xáp lá cà. Lựu đạn, lưỡi lê đâm và quật nhau tay đôi được tận dụng. Mc Dade và Bộ tham mưu phóng nhanh tới một khoảng cây được 3 gò mối lớn bao quanh làm cứ điểm cầm cự, gọi không quân, pháo binh và chờ tăng viện. Tại đây dù chỉ gồm có trung đội trinh sát, trung đội I đại đội A làm lực lượng phòng vệ họ đã đẩy lui được nhiều đợt tấn công của địch.
Ngay trong vài phút đầu, bên Mỹ đã thiệt hại 45 chết, 50 bị thương. Tiếng đạn hoà cùng tiếng hò hét của đôi bên tạo thành một âm thanh cuồng nộ bao phủ vùng IA Drang. Đồng hồ chỉ 01:26pm. Đợt xáp lá cà qua đi cả hai bên đều lẫn lộn quần thảo nhau trong một vùng cỏ voi rậm rì.
Lúc cường độ trận đánh chậm lại, Thiếu úy Gwin của Đại đội A ôm cây M.16 leo lên đỉnh một gò mối, bắn sẻ vào những tên địch đang lẫn lộn ẩn hiện trong cỏ voi. Gwin kể lại:
- “Tôi nhớ đã hạ được 10 haỵ tên địch, tôi không bao giờ quên được những phản xạ khác nhau của những tên này lúc bị trúng đạn. Có tên lảo đảo gục xuống, có tên như bị cả một xe truck húc văng lên rồi rơi cái bịch xuống đất. Lúc đó tôi không biết địch đang xục xạo tìm lính Mỹ bị thương để giết từng ngừơi một. Chúng nó thật tàn ác.“
Sau một hồi lâu bắn nhau như những “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm“, vì tầm nhìn bị cỏ voi che lấp, lính Mỹ lần mò thu về một mối và thiết lập được tuyến chiến đấu tương đối phân biệt được bạn, thù.
Lệnh mở khói mầu được ban hành vì khu trục Skyraider đang tới. Khói mầu đủ loại bay lên cao quyện vào cây rừng và cỏ voi làm thành một đường ranh đủ mầu sắc. Cộng quân tiến về phía quân Mỹ, vừa đi vừa nhắm bắn xuống đất, chắc chắn chúng đang thanh toán các chiến sĩ Mỹ bị thuơng quằn quại trong đám cỏ voi.
Đúng lúc này phi tuần khu trục đầu tiên ập tới như những hung thần từ trời cao bổ xuống rải bom napalm lên đầu địch. Thiếu Uý Gwin kể tiếp:
- “Sức tàn phá của napalm thật khủng khiếp. Lửa và lửa liếm ngọn cây và rồi chầt lân tinh lỏng đỏ rực phụt xuống qua cành cây tưới lửa lên đầu đám cộng quân dẫy dụa. Có tên chạy được vài bước, quần áo cháy phực như những ngọn đuốc. Có tên quay quắt trong giây lát như con heo quay trong lò. Quân Mỹ được dịp hò la khoái trá, chỉ trỏ từng mục tiêu xa, gần bị napalm nướng sống”“
Sau đợt bom lửa, từng phi tuần Skyraider thay phiên nhau thả bom 250 pound và bắn đại bác 20 ly xuống đám cộng quân đang hỗn loạn chạy tìm đường sống.
Trung sĩ Shadden của đại đội D bị thương nặng không nhúc nhích nổi nằm chờ hành quyết, vì ông đang nằm trên đường tiến tới của đám cộng quân đi tìm lính Mỹ bị thương để giết. Chắc mẩm mình không còn sống nổi, ông đã gài lựu đạn dưới bụng để ít nhất cũng nướng được vài tên địch cùng chết. Ông nhớ lại:
- “Đúng lúc chừng 6, 7 tên đang phóng tới tôi thì một khu trục lướt qua khỏi ngọn cây buông nguyên môt bom lửa rất chính xác xuống bọn này. Sức nóng của napalm phụt qua mặt tôi, rát như một lò lửa. Tôi đã nợ viên hoa tiêu này cả một đời người.”
Vào khoảng 4:30 pm, quân cứu viện của tiểu đoàn I lữ đoàn 5 không kỵ đến kịp từ bãi đáp Columbus, bắt tay với đại đội A nằm phía bìa của tuyến phòng thủ Mỹ. Một bãi đáp dã chiến đã được thiết lập để di tản thương binh.
Cả tuyến phòng thủ cũng đã được thiềt lập để lực lượng Mỹ đồn trú qua một đêm. Một số lính Mỹ vừa bị thương vừa bị lạc đồng đội còn rơi rớt quanh vùng. Một số may mắn tìm được về đơn vị nhưng một số khác đã bị bỏ mạng, hoặc bị địch quân xử tử
Hôm sau, thứ sáu ngày 18-11, trận chiến kể như tới hồi kết thúc. Xác chêt của đôi bên nằm rải rác khắp chiến địa.
Tại bãi đáp Albany, 155 lính Mỹ tử thương và 124 bị thương.
Để kết thúc cho phần tường trình trận đánh Ia Drang, người viết kể ra nơi đây chuyện mưu sinh thoát hiểm của người lính Mỹ cuối cùng vẫy tay chào Ia Drang đúng 7 ngày sau khi trận kịch chiến chấm dứt. Tên anh là Tony Braveboy, người da đỏ, bộ lạc Creek, taysúng cuả đại đội A tiểu đoàn 2 lữ đoàn7 không kỵ. Ngày 17-11 ngay đợt khai hỏa đầu tiên của cộng quân nhắm bắn lính Mỹ tại bãi Albany, anh đang dẫn đầu tiểu đội khinh binh thuộc trung đội I. Lloạt đạn này đã hất văng khẩu M.16 khỏi tay anh và bàn tay trái bị trúng đạn. Mất khí giới, máu nhỏ giọt từ bàn tay, anh nhào xuống đám cỏ voi rậm rì nằm trú ẩn, tự băng bó vêt thương, đợi đêm xuống, anh bò đi và gặp được ba đồng đội khác cũng bị thương nặng không nhúc nhích được. Anh trườn người đi về hướng súng và gặp thêm nhiều đồng đội khác cũng bị thương; cùng lúc ấy một nhóm địch quân đi qua và thấy họ. Anh nằm gỉa chết, trong khi tai nghe tiếng súng cộng quân hành hình những đồng đội bị thương thiếu may mắn. Khi thấy tứ bề đã yên tĩnh, anh tiếp tục bò trườn trong đám cỏ voi về phía anh tưởng đại đội đóng quân, nhưng vì không còn ý thức về phương hướng, anh đã di chuyển ngược 180 độ khỏi đơn vị. Đến sáng hôm sau, anh tới bờ một nhánh sông nhỏ của dòng Ia Drang, cách xa bãi Albany khoảng 500 yard. Anh chỉ còn đeo bên mình một bi đông nước và một viên thuốc lọc nước uống. Anh xé aó băng bàn tay trái vẫn còn rỉ máu rồi chui vào một bụi rậm ẩn. Tại đây anh thấy địch quân di chuyển dọc bờ sông nhưng không thấy anh đang nằm trong lùm cây.. trong khi tiếng trực thăng bay trên đầu nghe rõ mồn một.
Ngày 22-11, ngày thứ năm lạc lõng đơn thân độc mã, một đoàn cộng quân đi qua chỗ anh nằm trong bụi, tình cờ tên lính cuối cùng nhìn vào và thấy anh. Braveboy kể:
- “Tên địch này nhìn vào mắt tôi. Hắn đưa súng lên nhắm ngay tôi. Trong một phản ứng tự sinh tồn, tôi đã dơ bàn tay bị thương lên và lắc đầu. Hắn hạ súng xuống và bỏ đi. Hắn còn trẻ lắm, chỉ chừng 16 hay 17 là cùng“.
Không quân tiếp tục oanh tạc bãi Albany và vùng phụ cận. Anh không hiểu tại sao mình có thể sống sót khi bom nổ tứ phiá chung quanh anh.. Sau bẩy ngày đêm không lương thực và bàn tay bị thương rỉ máu hành hạ, anh đã yếu lắm rồi, đang nằm trong trong bụi, chợt nghe tiếng trực thăng bay rất thấp, anh bò lết tới một khoảng trống nhỏ, gỡ chiếc áo lính đẫm máu ra khỏi tay trái và cầm nó vẫy lia lịa.
Melvus Hall, xạ thủ đại liên trên trực thăng, nhìn xuống thấy anh tưởng là VC nên nhắm anh tính ria một tràng đại liên M.60, nhưng phi công Moore kịp thời bảo viên xạ thủ khoan bắn vì dáng người đứng vẫy có vẻ to lớn hơn khổ người,Việt nam. Moore liên lạc với một trực thăng võ trang bao vùng và anh hạ cánh bốc Braveboy lên tầu
Braveboy chỉ bị cưa một ngón tay. Gia đình anh đang ở thành phố Coward South Carolina đã được thông báo là anh bị mất tích và có lẽ anh đã tử vong, nhưng rồi người trở về từ “cõi chết“ đã quy hoàn cố hương và gặp lại người thân.
Hơn 30 năm đã qua, trận IA Drang từng được xưng tụng là chiến thắng ngoạn mục của quân đội Hoa kỳ. Thật ra, theo nhiều nhà bình luận là một thảm họa mà trong đó hơn 300 bộ binh Mỹ thiệt mạng vì cấp chỉ huy quờ quạng vụng về. Hỏa lực yểm trợ thật hùng hậu từ B52, khu trục, phản lực cơ và pháo binh cộng với tốc độ chuyển quân thần tốc của trực thăng vận và lòng dũng cảm chiến đấu kiên cường của người lính, từng ấy ưu điểm đáng lý phải đè bẹp đối phương. Vậy mà để rồi cứ 4 lính Mỹ tham chiến tại IADrang thì có 1 người bỏ mạng, thế chủ động chiến trường tan theo mây khói và niềm tin vào một thế thượng phong của Hoa Kỳ cũng triệt tiêu.
Trước khi nói đến những sai lầm của cấp chỉ huy Mỹ tại Ia Drang, tưởng cũng nên nhắc lại vụ trung đội “xé lẻ” trong màn đầu của trận chiến.
Sau này Trung tá Moore, Tiểu đoàn trưởng TĐI Lữ đoàn 7 đã không hết lời chê trách Thiếu uý Herrick, trung đội trưởng “xé lẻ“ là vô trách nhiệm, vấp phạm một lỗi lầm chiến thuật tai hại, tác phong tài tử và cầm binh cẩu thả. Nhưng Trung sĩ Savage, người cầm binh thay thế Herrick chỉ huy trung đội sau này, khẳng định tuy việc mang trung đội ra ngoài đội hình chiến đấu là bất lợi cho đại đội nhưng lại giúp cho tiểu đoàn rất nhiều, vì trung đội đã làm địch quân hoang mang không biết đâu là chủ lực để tấn công nên đã vô hình chung, gỉải toả áp lực cho tiểu đoàn. Cộng quân chỉ giết được 9 và làm bị thương 13 binh sĩ, nhưng ba lần tấn công đều bị đẩy lui. Khi tiểu đoàn đã giải cứu được trung đội, họ đã bắt gặp nhiều xác địch quân chất chồng lên nhau sau những gò mối, thịt xương vương vãi khắp nơi và rất nhiều vết máu chảy loang khắp cả một vùng xung quanh nơi bố trí của trung đội “xé lẻ“. Đó chính là điều may mắn lớn cho ông Moore.
Trở lại phần phân tích trận chiến, nhiều người đồng ý là lỗi lầm đầu tiên của ông này là đã không thu thập tin tức tình báo về bãi đáp Xray dù ông được thông báo trước 48 tiếng đồng hồ. Ông cần phải biết rõ về địch tình, địa thế và thời tiết. Ông chỉ lo tìm bãi đáp và không để ý đến địch quân dù biết rằng quân số địch ước tính cả trung đoàn
Cuối cùng, ông chọn Xray chỉ cách Pleime 14 dặm và quá gần Cambốt và nằm lọt thỏm ngay trong ổ kiến lửa là trung đoàn 66 quân CS Bắc Việt- Cộng quân chỉ có một quãng không xa là vượt biên giới, vào khu bất khả xâm phạm. Thay vì cho một trung đội thám sát nhảy xuống trước thăm dò mục tiêu, ông cho nguyên cả tiểu đoàn nhập cuộc. Hậu quả là khi chạm địch bất ngờ ông mới lo chống trả và phản ứng. Cũng vì vậy ông đã vô hiệu hoá pháo binh của chính mình nhiều lần, bởi bạn, thù quá gần và kể cả lẫn lộn với nhau. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao khi quân Mỹ vừa đặt chân xuống bãi Albany là bị khai hỏa bất ngờ, cuộc chạm trán nẩy lửa chỉ xẩy ra trong một phạm trường chưa đầy 500 mét dài,50 mét rộng. Không đầy 30 phút quân Mỹ đã bị tử vong 155 lính và bị thương 124 người khác..
Cấp chỉ huy không lưu tâm đến an ninh tình báo cũng được thể hiện rõ rệt khi quân Mỹ rời Xray đi Albany. Tiểu đoàn trưởng Trung tá MC Dade thú nhận sau này: “Khi rời Xray chúng tôi mù tịt về Albany, thượng cấp chỉ ra lệnh chúng tôi tiến đến đó để thiết lập bãi đáp.“
Lính Mỹ đã kiệt quệ sau 60 giờ mất ngủ lại phải di hành đội hình hàng dọc dưới cái nắng thiêu đốt cuả cao nguyên, nên khi chạm địch, họ đã bị lọt vào thế hạ phong.
Địch quân cũng bất ngờ chạm trán đối phương, nhưng cộng quân đã có thể gom quân mau hơn để tấn công một đoàn quân trải dài. Hậu quả là quân Mỹ bị cắt làm nhiều mảnh rời rạc, từng toán quân chiến đấu riêng lẻ để sống còn, không thể phối hợp cùng đại đội hay tiểu đoàn. Và như vậy quân Mỹ không thể thiết lập tuyến phòng thủ chung nên bị tứ bề thọ địch, không người chỉ huy. Ngay cả Trung tá Mc Dade lúc chạm súng cũng không thể ra lệnh gì được và cũng thục mạng tìm chỗ tránh đạn như binh sĩ dưới quyền, đến nỗi khi Đại Tá Brown, Lữ đoàn trưởng, từ trực thăng thị sát mặt trận gọi Mc Dade cho biết tình hình, ông này ứ ớ khộng biết báo cáo làm sao. Ông may mắn không là sĩ quan VNCH vì nếu ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự như ông, chắc chắn ông đã nhận đầy tai những danh từ hoa mỹ, ngôn ngữ “đan mạch va đức”từ trực thăng chỉ huy rồi.
Một điểm sinh tử là quân Mỹ ỷ lại vào ưu thế hỏa lực yểm trợ hơi nhiều. Tâm lý này đã bắt nguồn từ Đệ II thế chiến và ngay cả cấp chỉ huy cũng muốn tận dụng hỏa lực từ pháo binh và tầu bay để giảm thiểu tối đa cho quân sĩ tại mặt trận. Nhưng nếu chiến thuật này thích hợp cho chiến trường Âu Châu, Sa mạc Phi Châu thì lại không thể áp dụng cho chiến trường Việt Nam được. Pháo binh và không yểm chỉ hiệu qủa khi xác định được vị trí địch.
Tại Việtnam như điển hình là ở IA Drang, địch quân như bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chạm địch thì hai bên đã cận kề. Hơn nữa quân Mỹ lầm tưởng khi lâm trận, hỏa lực pháo binh, không quân sẽ tàn sát địch quân thay cho mình. Do đó hỏa lực yểm trợ và lực lượng tham chiến phải phối hợp như hai gọng kềm cùng lúc xiết chặt đối phương thì mới có thể hạ gục địch thủ. Thực tế, hai gọng kìm đã không xiêt chặt địch cùng một lúc thì làm sao đạt được kết quả mong muốn
Một điểm cuối cùng nêu lên ở đây là lính Mỹ được huấn luyện rất kỹ tại quân trường vê kỹ thuật và phương cách tác chiến nhưng thiếu hiểu biết về chiến thuật. Họ học tường tận binh khí và gọi hoả lực yểm trợ. Nhưng họ không thể áp dụng mau lẹ những điều đã học khi đụng trận. Quân trường nhồi khoá sinh rất kỹ lý thuyết nhưng quên một điểm tối quan trọng là địch quân không phải là những tấm bia bất động chúng gian xảo, lủi nhanh, ẩn hiện như ma quỷ sát hại trong tích tắc.
LỜI KẾT.
Nhiều quyết định quan trọng đã được Hoa Thịnh Đốn cũng như Hà Nội đưa ra, vào cuối năm 1965 do những kinh nghiệm và bài học được rút tỉa từ Ia Drang đủ nói lên tầm vóc của trận đánh này.
Tại Hà Nội, Võ nguyên Giáp tuyên bố, nhờ Ia Drang cộng quân có thể thắng chiến tranh vì họ đã biết hóa giải ưu điểm của trực thăng và đánh gục được không kỵ Mỹ.
Hồ Chí Minh cũng vuốt râu tự đắc và tự tin vì kết quả cuả IA Drang và trong trận này. Đạo binh dép râu của Hà Nội đã chống trả hỏa lực hùng hậu của một siêu cường. Ít nhất đã thủ hoà đã là thắng thế theo tiêu chuẩn của Hà Nội.
Tại Sài gòn, Tướng Westmoreland và bộ tham mưu thì lại nhìn vào thống kê của chiến dịch Ia Drang – 305 lính Mỹ chết đổi lại 3561 cộng quân tử trận – hay tỷ lê 1/12 -12 cộng quân đổi 1 lính Mỹ – Để suy diễn cuộc chiến Việt Nam với phần thắng phải nghiêng về Miền nam. Ít lâu sau đó trong một lần kinh lý Bộ Trưởng Quốc Phòng, Mc Namara bay ra An Khê để nghe Tướng Kinnard, Tư lệnh Sư đoàn Không kỵ và tiểu đoàn trưởng Moore thuyết trình. Trong 20 phút báo cáo chiến sự IA Drang đã phác họa cho Mc Namara một hình ảnh những cộng quân chiến đấu rất kỷ luật và quyết chí đến độ cuồng tín trong những đơt xung phong từ rừng núi.
Mc Namara nghe xong chỉ mím mội im lặng suy nghĩ
Trên tầu bay về nước ông đã thảo một công điện tối mật về Bạch Oác cho Tổng Thống Johnson. Ông khuyến cáo Johnson chỉ có hai giải pháp: Tìm giải pháp rút lui khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt hoặc chấp thuận đề nghị của Tướng Westmoreland tăng quân số từ 34 lên 74 Tiểu đoàn lính Mỹ trực tiếp tham chiến vào cuối năm 1966. Chúng ta đã biết Johnson chọn giải pháp nào.
Quả thật không ngoa khi trên tờ bìa quyển sách Hồi Ký Chiến trường IA DRANG, Tướng hồi hưu Harold Moore đã mệnh danh là trận đánh đã thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam.
Trường Hận Thư Sinh
Sinh Tồn chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Ia Drang Máu Nhuộm
Với thâm ý, đánh phủ đầu Bắc quân với chiến thuật dụng binh thần tốc bằng trực thăng đựọc B52, Skyraider và phản lực không yểm, phối hợp cùng pháo binh, 3 tiểu đoàn thiện chiến Mỹ, được tung vào vùng thung lũng Ia Drang, nằm tại phía nam Pleiku và đường 19 phía Bắc của Ban Mê Thuột và cách căn cứ lực lượng đặc biệt Pleime chừng 16 dặm.
Tại đây, quân Mỹ đã đụng độ với 3 trung đoàn chính quy Cộng sản và tiểu đoàn H15 của Mặt trận Giải Phóng.
Trận quần thảo xẩy ra vào ngày 14-11-1965 và kêt thúc ngày 18-11-1965.
Tổng kết thiệt hại được ghi nhận như sau: 1037 cộng quân bỏ xác tại chỗ. Thành phần bị thương và xác chết được chúng kéo đi không ai kiểm chứng được chính xác là bao nhiêu. Phía Mỹ: 235 tử thương và 245 bị thương nặng nhẹ vũ khí bảo toàn.
Cả hai bên đều tuyên bố thắng trận. Phần đầu của bài viết này tường thuật trận đánh tại 2 bãi đáp X Ray và Albany.
Phần sau phân tích, bình luận và nói lên một số sơ hở từ phía Mỹ.
Để thêm phần linh động và nhân bản, một số tự thuật từ chính những người lính Mỹ đã tham dự trận đánh sẽ được xen kẽ trong bài viết.
***
Nói đến chiến cuộc Việt Nam là phải nói đến trực thăng vận. Hình ảnh từng đoàn trực thăng vần vũ đổ quân, vận chuyển cũng như khạc đạn, đã là những hình ảnh dính với chiến trường tàn khốc của nam Việt nam.
Ít người được biết cha đẻ của chiến thuật trực thăng vận là Trung Tướng James M.Gavin, nguyên tư lệnh sư đoàn 82 nhẩy dù Hoa Kỳ trong đệ nhị thế chiến. Sau này, ông chỉ huy ngành điều nghiên chiến thuật cho bộ binh Hoa Kỳ. Chính trong những ngày giữ nhiệm vụ vừa kể, ông đã ôm ấp ý tưởng một ngày nào đó, trực thăng sẽ thay thế đôi chân của người lính bộ binh để dùng ưu thế tốc độ, dáng lên đầu địch những đòn sấm sét, rồi lui quân chớp nhoáng, trước khi địch kịp hoàn hồn.
Bộ trưởng Quốc Phòng MC Namara tán đồng kiểu dụng quân này nên vào giữa tháng 5-1962 đã ra lệnh cho lục quân sản xuất hàng loạt trực thăng UH-1+ HUEY, CH.47, CHINOOK.
Định mệnh đã an bài, thung lũng Ia Drang thành tuyến thử lửa đầu tiên giữa lực lượng cơ giới siêu việt, phối hợp trực thăng vận và không yểm cùng pháo binh của Hoa Kỳ đụng đầu với đạo quân cuồng tín mang dép râu, binh phục luộm thuộm quanh năm ăn cơm hẩm cá thiu cuả Hànội.
Phần đầu của bài viết thuật lại trận chiến xuất phát từ bãi đáp X-RAY rồi tiến quân theo hướng Đông Bắc chiếm baiõ Columbus và kết thúc tại bãi đáp Albany.
Trước hết tưởng cũng nên nói qua về lý do dẫn đên cuộc đụng độ đầy máu lửa này.
Hà Nội đã có một quyết định quan trọng vào mùa hè năm 1964. Khởi đầu từ xung đột giữa hai quan niệm chiến thuật, Võ Nguyên Giáp chủ trương leo thang chiến tranh chậm nhưng chắc ăn bằng cách cung cấp khí giới và lương thực tối đa cho lực lượng du kích tại miền Nam để làm hao mòn QLVNCH rồi mới tổng tấn công. Ngược lại, đám tướng trẻ muốn tung quân chính quy ồ ạt vào chiến trường cao nguyên rồi thừa thắng tràn xuống đồng bằng. Hồ Chí Minh đồng ý với gỉai pháp sau này, cho nên để khởi đầu, khi muà mưa lũ chấm dứt vào tháng 10-1965, ba trung đoàn thiện chiến chính quy xuôi Nam với ý định vây hãm và dứt điểm căn cứ lực lượng đặc biệt của miền Nam tại Pleime. Đồn này có 12 cố vấn Mỹ với hơn 400 lính thượng.
Mưu đồ của Hànội là vây hãm Pleime để buộc QLVNCH sẽ phải đến gỉai vây, rồi dùng chiến thuật cố hữu “Công đồn đả viện“ tiêu diệt lực lượng tiếp cứu, chắc chắn sẽ phải rời Pleiku xuôi Nam trên đường 14 rồi đi theo hướng Tây Nam đường liên tỉnh 5. Tại đây, một trung đoàn Cộng sản nằm chờ sẵn để phục kích. Sau khi đã dứt điểm đoàn quân cứu viện, bọn chúng sẽ thanh toán Pleime rồi Pleiku, để từ đó theo đường 19 ào ạt tiến về Quy Nhơn và biển Đông.
Cộng sản cũng hiểu rằng ai kiểm soát được đường 19 sẽ làm chủ được cao nguyên, ai chiếm được vùng cao điểm này sẽ khống chế được toàn cõi Đông Dương.
Vào khoảng tháng 11 năm 1965, cộng quân đang vây hãm đồn Pleime, cách Pleiku chừng 25 dặm về phía nam. Không biết con gái tỉnh lỵ này đẹp cỡ nào nhưng hình ảnh “Em Pleiku má đỏ mội hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt“ đã nói lên rất đầy đủ về thời tiết mây mù se lạnh của vùng đồi núi chập chùng vây phủ này.
Lữ đoàn 3 sư đoàn 1 không kỵ Hoa Kỳ được tung vào trận địa để truy lùng, tiêu diệt (Search and destroy) địch quân đang bám quanh Pleime như đỉa đói.
Người Mỹ quyết định đổ quân xuống một bãi đáp được đặt tên là Xray, nằm cạnh rặng núi Chu Pong nhìn xuống thung lũng IA Drang. IA có nghĩa là sông (tiếng của người thượng) cho nên vùng naỳ các dòng sông đều mang tên là IA như IA Meur, IA Toe. IA Drang được mệnh danh là thung lũng tử thần, vì đây là thánh địa của cộng quân, cửa ngõ xâm nhập toàn thể vùng cao nguyên Nam Phần VN.
Địa thế vùng này không nhiều cây nhưng khá um tùm, nhiều lạch khô và đặc biệt nhiều cỏ voi cao ngang đầu người bao quanh nhiều gò mối khổng lồ, to như một căn nhà chòi.
Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 7 được trực thăng vận xuống Xray, lãnh nhiệm vụ tiên phong. Trung tá Harold G.Moore, 42 tuổi, xuất thân trường võ bị West Point lớp 1945, làm Tiểu đoàn Trưởng..
Sau 30 phút, hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn, không quân cày nát vùng bãi đáp, người lính Mỹ đầu tiên đặt chân lên IA Drang đúng 10:48 ngày 14-11-1965. Bộ chỉ huy tiểu đoàn cùng đại đội Bravo của Đại uý Henen hoàn tất đổ quân, trong đợt đầu. Toàn bộ bám trụ giữa bãi đáp thay vì bung ra bốn phía thiết lập vòng đai an ninh. Đây là lỗi lầm đầu tiên từ phía Mỹ ,sẽ đề cập đến trong phần 2. Không đầy 30 phút từ khi nhẩy xuống bãi đáp, tiểu đội của trung sĩ John Mingo đã bắt được một tù binh Bắc Việt không mang vũ khí. Y khai có 3 tiểu đoàn địch quân số chừng 1600 tên bộ đội do Trung tá Cộng sản Nguyễn hữu An chỉ huy đang đóng quanh ngọn Chu Pong.
Đúng 12:15, Cộng quân khai hỏa đầu tiên tấn công 3 trung đội cuả Đại đội Bravo, đang tuần tiễu phía tây bắc bãi đáp.
Bây giờ 3 đại đội của tiểu đoàn I trung đoàn 7, (1/7) đã có mặt đầy đủ. Với ĐĐ Charlie (C) thủ mặt Tây, ĐĐ Alfa (A) thủ phía Tây bắc, và ĐĐ Bravo (B) mặt đông bắc. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nằm phía Đông nam. Một dòng suối cạn chạy dài từ tây nam ôm sát bãi đáp lên hướng Đông Bắc một đọan rất xa; theo dòng suối cạn sẽ lên gần tới bãi đáp Albany xa khoảng 3 dặm hướng bắc.
Lúc bị tấn công, 2 trung đội dàn hàng ngang đi trước, với một trung đội đi sau. Cộng quân tập trung hỏa lực bắn xối xả vào hai trung đội đi đầu và đã gây thiệt hại khá nặng cho hai trung đội này. Chính lúc này trung đội của Thiếu uý Herrick đuổi theo một đám địch quân ẩn hiện phía cạnh sườn phải và đã tiến xa hơn 100 thước, bị tách rời khỏi đại đội. Khi tới một khoảng trống, trung đội bất ngờ chạm trán hơn 50 địch. Herrick đủ bình tĩnh chỉ huy trung đội tấn công và giết hơn phân nửa số địch mà không bị tổn thất nào đáng kể. Tuy nhiên, cuộc chạm súng đã khiến cộng quân bu lại bao vây nên Herrick cấp tốc liên lạc với đại đội, đồng thời thiết lập chu vi phòng thủ tại một gò đất. Súng và lựu đạn của hai bên thi nhau nổ liên hồi. Trong vòng 25 phút đã có 5 lính Mỹ bị tử thương trong đó có trung đội trưởng Herrick. Trước khi hy sinh viên Thiếu uý này còn đủ bình tĩnh báo cáo số anh em bị thương vong cho đại đội, trao quyền chỉ huy lại cho trung sĩ Palmer, và ra lênh phá huỷ mật mã, đồng thời vẫn còn tỉnh táo gọi pháo binh bắn yểm trợ rồi buông máy ra đi. Nhưng cũng không lâu sau đó cả hai Trung sĩ Palmer và người tiếp quản là trung sĩ Stoke cũng bị đạn địch đốn ngã. Trung sĩ nhất Savage lên chỉ huy và liên tục kêu pháo binh nhả đạn chính xác quân địch đang bao vây tứ bề, tới lúc này trung đội đã có 8 người chết, 13 người bị thương. Nhưng nhờ sự bình tĩnh chỉ huy của Savage cũng như lòng can trường của y tá Charlie Lose, liều chết bò trườn dưới đủ mọi loại đường đạn của địch để băng bó thương tích cho đồng đội. Trung đội được mệnh danh là “xé lẻ“ đã giữ vững vị trí chiến đấu trong suốt thời gian bị Cộng quân Bắc Việt bao vây và tấn công tại bãi đáp Xray.
Khỏang 2:30, đại đội D với quân số đầy đủ đuợc trực thăng vận đổ xuống, như vậy là TĐ 1/7 đã có mặt cả 4 đứa con A,B,C,D. Đại đội D đã vội vã cùng 3 đại đội kia lập tuyến phòng thủ vì cộng quân ngày càng tấn tới từ phía núi. Tiểu đoàn trưởng Moore gọi pháo binh và không quân yểm trợ tối đa. Từng đợt phản lực cơ F100 nhào xuống phóng hỏa tiễn, bắn đại bác xuống rặng Chu Pong. Đợt dội bom của Không quân vừa dứt, cộng quân với khoảng 400 tên từ Chu pong tràn xuống dọc theo dòng suối cạn, chia làm hai cánh tấn công trực diện đại đội A và đánh thốc vào cạnh sườn đại đội C với ý định chẻ lực lượng Mỹ ra làm hai. Tuy nhiên, tại cạnh sườn này đã được Trung tá Moore cho đặt hai cậy đại liên M.60 do các binh nhất Ladner và Adams là xạ thủ, cách nhau không quá 10 thước. Họ đã quạt liên tục, đốn ngã nhiều đợt tấn công của địch.
Thiếu uý Wayne, trung đội trưởng trung đội I của đại đội A, nhận xét:
- “Tôi thấy cộng quân tấn công như điên dại. Chúng tràn xuống từ phía rừng cây và chạy thục mạng trên dòng suối cạn. Chúng nó ngụy trang rất kỹ, mầu xanh cứt ngựa bạc phếch, lẫn lộn vào cỏ cây rất khó phân biệt. Bọn chúng rất kỷ luật và dường như không sợ chết.“
Đợt tấn công cuả Cộng sản bị khựng lại vì tổn thât khá nhiều. Chúng rút lui về phiá rừng cây sau những đám cỏ voi. Rảnh tay,Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội A và B lo di tản thương binh, đồng thời đi cứu viện trung đội bị xé lẻ đang bị áp lực nặng nề của địch. Hai đại đội tiến quân được chừng 70 thước dọc theo bờ suối thì bị một tổ đại liên của địch bố trí sau một gò mối, khạc đạn ồ ạt, gây nhiều tử thương cho binh sĩ. Thiếu uý Marm, nghiến răng, một mình bọc ra phía sau gò mối, tung từng đợt lựu đạn và bắn rỉa M.16 vào tổ đại liên địch, hạ sát tại chỗ 12 tên địch trong đó có tên sĩ quan chỉ huy của chúng.
Tới lúc này, chiều núi rừng đổ xuống thật mau. Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội quay trở lại vị trí xuất phát cố thủ qua đêm. Tạm thời kiểm điểm quân số thì đại đội B thiệt hạị 47 binh sĩ, đại đội A bị 34, đại đội C chỉ bị thiệt hại có 4 nguời.
Lợi dụng bóng đêm, cộng quân lại tấn công trung đội “xé lẻ“ ba lần, nhưng đều bị đẩy lui vì súng, lựu đạn cũng như pháo binh đã rót rất chính xác bao quanh trung đội. Cộng quân đã dùng “Tù Và“ thổi để thúc quân trong đêm tối, hòng uy hiếp tinh thần và mong dứt điểm đối phương.
Sáng hôm sau, khoảng 07:45, Cộng quân dốc toàn lực chia làm 3 mũi dùi tấn công Xray, áp lực nặng nề nhắm vào đại đội C. Vào lúc cao điểm khốc liệt nhất, Trung tá Moore gọi không quân yểm trợ. Nhiều phi tuần Skyraider thay nhau lồng lộn thả bom lửa Napalm, nhả đại bác 20ly xuống đầu địch.
Một phi tuần trưởng là Đại uý Wallace, khóa 1956 Westpoint diễn tả lọai máy bay này: “Khu trục cánh quạt Skyraider bay chậm chạp nặng nề nhưng bù lại bay đuợc lâu và mang được nhiều hỏa lực. Đôi cánh dài và rộng, có thể gắn vào đủ thứ bom đạn, trừ ra cái lò ga nấu bếp vì có thể quá nặng“. Sau Skyraider đến lượt F100 loại siêu kiếm rất phổ thông ở thời điểm này. (Sau đó mới tới loại F4, F5 đuợc đưa vào chiến trường VN).
Hai chiếc phản lực F100 bay tới đã thả napalm nhầm vào tuyến phòng thủ quân bạn gây nhiều tử vong cho quân bên dưới.
Khỏang 9:10 am, đại đội A của Tiểu đoàn 2 lữ đoàn 7 không kỵ đuợc tăng phái xuống trận điạ, phần còn lại của tiểu đoàn được thả xuống bãi Victor cách đấy chừng 3.5 cây số để tiến đên Xray.
Đến 10:00 sáng, cộng quân bắt đầu lui binh, sau khi bị tổn nặng. Phía Mỹ,đại đội C mất 42 tử thương và 20 bị thương sau 2 tiếng rưỡi giao trnh.
Thiếu uý Rescorda của đại đội B (bị tử nạn trong vụ khủng bố 9/11-New York) kể lại: “xác chết của đội bên vương vãi khắp nơi. Khá nhiều xác cộng quân đếm được quanh điểm đóng quân của trung đội tôi. Tôi tìm thấy hai xác lính Mỹ, một đen và một xì (latino) cùng chết trong một hố cạn. Có lẽ họ chết trong lúc đang cố gắng giúp nhau. Cũng có một xác cộng quân, tay vẫn còn khoá cổ một xác Mỹ khi đánh xáp lá cà.“
Dù cường độ ở trận chính đã suy giảm, trung đội xé lẻ dưới quyền chỉ huy của trng sĩ Savage vẫn chưa thoát gọng kìm cộng quân đang khóa chặt.
Trung tá Moore lệnh cho đại đội B và C cùng Bộ chỉ huy của ông đi cứu viện trung đội này. Vừa tiến quân ông vừa gọi pháo binh dập tối đa xuống vị trí đich, đang bao vây như ruồi bu điã mật .Cuối cùng, ông cũng bắt tay đuợc với trung đội xé lẻ. Trung đội này khi bắt đầu trận đánh, quân số 29 người, nay còn lại không đầy phân nửa.
Lực lượng Mỹ lại bố trí phòng thủ qua đêm thứ nhì. Trong đêm cộng quân với khoảng 300 tên lại tấn công quyềt liệt nhưng bị thiệt hại rất nặng vì lựu đạn gài và pháo binh. Nhiều đợt tấn công bị đẩy lui phần nhờ hỏa châu soi sáng được vận tải cơ C.123 thả đầy trên rừng núi khiến những tên lính cộng trở thành tấm bia rất rõ trong đêm cho lính Mỹ triệt hạ.
Tảng sáng ngày 16-11, tiểu đoàn 2/7 đã tới điểm hẹn Xray, bắt tay với tiểu đoàn 1/7.
Trận chiến tại bãi đáp Xray kể như chấm dứt. Quân cộng sản chính quy Bắc Việt đã bị thiệt hại cả ngàn tên, tạm thời không còn đủ khả năng tấn công. Bên Mỹ 179 tử vong, 121 bị thương nặng nhẹ.
Với tin tình báo, địch quân đang được tăng viện. Hai tiểu đòan di tản chiến thuật khỏi bãi Xray, cùng tiến về, bãi Albany cách đấy chừng 4 cây số hướng Đông bắc và bãi Columbus cũng 4 cây cùng phía. Đồng thời B.52 cất cánh từ đảo Guam đang trên đường tới trận địa sẽ trải thảm bom lên rặng Chupong.
Trên đường triệt thóai khỏi Xray, quân Mỹ thấy đầy vũ khí và xác người không nguyên vẹn của Cộng quân rải rác toàn vùng, từng vũng máu khô, lẫn với băng vải, balô.v.v.. Có chỗ xác địch nằm chồng lên nhau sau những gò mối. Ngoài ra họ cũng tìm thấy 4 xác lính Mỹ với giây thừng còn buộc nơi cổ chân. Chắc chắn những ngừơi không may này đã bị địch quân bắt làm tù binh và bị giết khi chúng tháo chạy về rừng. Cùng lúc này, thiếu uý Deal bắt gặp một tên địch còn sống nhưng bị thương nặng đang dựa lưng vào gò mối. Deal kể: “Tên này tuy đã trọng thương nhưng còn ráng dựa lưng vào gò đất. Y cố gắng rút trái lựu đạn từ túi áo. Trước khi chết y còn muốn cho lựu đạn nổ tung để cùng chết với quân thù. Y ráng thêm vài lần nhưng chỉ nhấc được trái lựu đạn lên vài phân rồi lại rơi xuống túi vì y đã quá yếu cuối cùng gục xuống. Chúng tôi đứng lặng nhình tên địch và khá cảm kích trước cảnh tượng này.”
Lúc đoàn quân ra khỏi vòng cương tỏa của Xray, đồng hồ chỉ 09:30 ngày 17-11-1965.
Trên đường đi lính Mỹ bắt gặp nhiều dấu dép râu còn in hằn trên đất, cỏ bị nghiền nát cũng như gạo khô rơi vãi tung tóe. Họ biết địch còn rình rập đó đây như những bóng ma.
Sau này được biết cộng quân lởn vởn vùng này gồm tiểu đoàn 8 trung đoàn 66, tiểu đoàn1 trung đoàn 33.
Thiếu úy Payne đang dẫn đầu trung đội trinh sát kể lại: “Chúng tôi vừa vòng qua một ụ mối cao khoảng 6 feet, bất chợt tôi thấy một tên địch đang ngồi nghỉ. Nhanh như chớp, tôi phóng tới bẻ quặt tay hắn ra phía sau rồi hô đồng đội túm cổ, đồng thời cách đó khoảng 10 yard một trung sĩ cũng bắt sống được một tên khác đang nằm ngủ. Hai địch quân đều có đủ khí giới, lựu đạn và balô, nhưng cả hai run lẩy bẩy, khiếp sợ, và dường như bị sốt rét. Bắt được tù binh Trung tá Mc Dade cho lệnh đoàn quân dừng chân nghỉ mệt rồi ông đích thân thẩm vấn 2 tên Việt cộng.
Đoàn quân đã quá mỏi mệt vì trải qua 60 tiếng không ngủ và cuốc bộ cũng cả 4 tiếng đồng hồ. Khoảng 1 tiếng sau khi nghỉ chân, lính Mỹ đã tới khoảng rừng trống mang tên Albany. Trung đội trinh sát của Thiếu Úy Payne không ngờ mình chỉ cách địch quân khỏang 150 mét. Đây là ban tham mưu của Tiểu đoàn 3 trung đoàn 33 với quân sô 550 tên.
Lợi dụng lúc quân Mỹ đang nằm ngồi ngổn ngang nghỉ mệt, Cộng quân hàng trăm tên đồng loạt xung phong. Một cánh đánh trực diện đoàn quân của tiểu đoàn 2/7 đang trải dài và cánh khác đánh vào cạnh sườn phía đông. Đội hình phục kích giống như chữ L. Trận đánh đẫm máu này kéo dài 16 tiếng.
Vì bị tấn công thình lình mà địch quân quá gần kề, cả hai bên xử dụng chiến thuật xáp lá cà. Lựu đạn, lưỡi lê đâm và quật nhau tay đôi được tận dụng. Mc Dade và Bộ tham mưu phóng nhanh tới một khoảng cây được 3 gò mối lớn bao quanh làm cứ điểm cầm cự, gọi không quân, pháo binh và chờ tăng viện. Tại đây dù chỉ gồm có trung đội trinh sát, trung đội I đại đội A làm lực lượng phòng vệ họ đã đẩy lui được nhiều đợt tấn công của địch.
Ngay trong vài phút đầu, bên Mỹ đã thiệt hại 45 chết, 50 bị thương. Tiếng đạn hoà cùng tiếng hò hét của đôi bên tạo thành một âm thanh cuồng nộ bao phủ vùng IA Drang. Đồng hồ chỉ 01:26pm. Đợt xáp lá cà qua đi cả hai bên đều lẫn lộn quần thảo nhau trong một vùng cỏ voi rậm rì.
Lúc cường độ trận đánh chậm lại, Thiếu úy Gwin của Đại đội A ôm cây M.16 leo lên đỉnh một gò mối, bắn sẻ vào những tên địch đang lẫn lộn ẩn hiện trong cỏ voi. Gwin kể lại:
- “Tôi nhớ đã hạ được 10 haỵ tên địch, tôi không bao giờ quên được những phản xạ khác nhau của những tên này lúc bị trúng đạn. Có tên lảo đảo gục xuống, có tên như bị cả một xe truck húc văng lên rồi rơi cái bịch xuống đất. Lúc đó tôi không biết địch đang xục xạo tìm lính Mỹ bị thương để giết từng ngừơi một. Chúng nó thật tàn ác.“
Sau một hồi lâu bắn nhau như những “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm“, vì tầm nhìn bị cỏ voi che lấp, lính Mỹ lần mò thu về một mối và thiết lập được tuyến chiến đấu tương đối phân biệt được bạn, thù.
Lệnh mở khói mầu được ban hành vì khu trục Skyraider đang tới. Khói mầu đủ loại bay lên cao quyện vào cây rừng và cỏ voi làm thành một đường ranh đủ mầu sắc. Cộng quân tiến về phía quân Mỹ, vừa đi vừa nhắm bắn xuống đất, chắc chắn chúng đang thanh toán các chiến sĩ Mỹ bị thuơng quằn quại trong đám cỏ voi.
Đúng lúc này phi tuần khu trục đầu tiên ập tới như những hung thần từ trời cao bổ xuống rải bom napalm lên đầu địch. Thiếu Uý Gwin kể tiếp:
- “Sức tàn phá của napalm thật khủng khiếp. Lửa và lửa liếm ngọn cây và rồi chầt lân tinh lỏng đỏ rực phụt xuống qua cành cây tưới lửa lên đầu đám cộng quân dẫy dụa. Có tên chạy được vài bước, quần áo cháy phực như những ngọn đuốc. Có tên quay quắt trong giây lát như con heo quay trong lò. Quân Mỹ được dịp hò la khoái trá, chỉ trỏ từng mục tiêu xa, gần bị napalm nướng sống”“
Sau đợt bom lửa, từng phi tuần Skyraider thay phiên nhau thả bom 250 pound và bắn đại bác 20 ly xuống đám cộng quân đang hỗn loạn chạy tìm đường sống.
Trung sĩ Shadden của đại đội D bị thương nặng không nhúc nhích nổi nằm chờ hành quyết, vì ông đang nằm trên đường tiến tới của đám cộng quân đi tìm lính Mỹ bị thương để giết. Chắc mẩm mình không còn sống nổi, ông đã gài lựu đạn dưới bụng để ít nhất cũng nướng được vài tên địch cùng chết. Ông nhớ lại:
- “Đúng lúc chừng 6, 7 tên đang phóng tới tôi thì một khu trục lướt qua khỏi ngọn cây buông nguyên môt bom lửa rất chính xác xuống bọn này. Sức nóng của napalm phụt qua mặt tôi, rát như một lò lửa. Tôi đã nợ viên hoa tiêu này cả một đời người.”
Vào khoảng 4:30 pm, quân cứu viện của tiểu đoàn I lữ đoàn 5 không kỵ đến kịp từ bãi đáp Columbus, bắt tay với đại đội A nằm phía bìa của tuyến phòng thủ Mỹ. Một bãi đáp dã chiến đã được thiết lập để di tản thương binh.
Cả tuyến phòng thủ cũng đã được thiềt lập để lực lượng Mỹ đồn trú qua một đêm. Một số lính Mỹ vừa bị thương vừa bị lạc đồng đội còn rơi rớt quanh vùng. Một số may mắn tìm được về đơn vị nhưng một số khác đã bị bỏ mạng, hoặc bị địch quân xử tử
Hôm sau, thứ sáu ngày 18-11, trận chiến kể như tới hồi kết thúc. Xác chêt của đôi bên nằm rải rác khắp chiến địa.
Tại bãi đáp Albany, 155 lính Mỹ tử thương và 124 bị thương.
Để kết thúc cho phần tường trình trận đánh Ia Drang, người viết kể ra nơi đây chuyện mưu sinh thoát hiểm của người lính Mỹ cuối cùng vẫy tay chào Ia Drang đúng 7 ngày sau khi trận kịch chiến chấm dứt. Tên anh là Tony Braveboy, người da đỏ, bộ lạc Creek, taysúng cuả đại đội A tiểu đoàn 2 lữ đoàn7 không kỵ. Ngày 17-11 ngay đợt khai hỏa đầu tiên của cộng quân nhắm bắn lính Mỹ tại bãi Albany, anh đang dẫn đầu tiểu đội khinh binh thuộc trung đội I. Lloạt đạn này đã hất văng khẩu M.16 khỏi tay anh và bàn tay trái bị trúng đạn. Mất khí giới, máu nhỏ giọt từ bàn tay, anh nhào xuống đám cỏ voi rậm rì nằm trú ẩn, tự băng bó vêt thương, đợi đêm xuống, anh bò đi và gặp được ba đồng đội khác cũng bị thương nặng không nhúc nhích được. Anh trườn người đi về hướng súng và gặp thêm nhiều đồng đội khác cũng bị thương; cùng lúc ấy một nhóm địch quân đi qua và thấy họ. Anh nằm gỉa chết, trong khi tai nghe tiếng súng cộng quân hành hình những đồng đội bị thương thiếu may mắn. Khi thấy tứ bề đã yên tĩnh, anh tiếp tục bò trườn trong đám cỏ voi về phía anh tưởng đại đội đóng quân, nhưng vì không còn ý thức về phương hướng, anh đã di chuyển ngược 180 độ khỏi đơn vị. Đến sáng hôm sau, anh tới bờ một nhánh sông nhỏ của dòng Ia Drang, cách xa bãi Albany khoảng 500 yard. Anh chỉ còn đeo bên mình một bi đông nước và một viên thuốc lọc nước uống. Anh xé aó băng bàn tay trái vẫn còn rỉ máu rồi chui vào một bụi rậm ẩn. Tại đây anh thấy địch quân di chuyển dọc bờ sông nhưng không thấy anh đang nằm trong lùm cây.. trong khi tiếng trực thăng bay trên đầu nghe rõ mồn một.
Ngày 22-11, ngày thứ năm lạc lõng đơn thân độc mã, một đoàn cộng quân đi qua chỗ anh nằm trong bụi, tình cờ tên lính cuối cùng nhìn vào và thấy anh. Braveboy kể:
- “Tên địch này nhìn vào mắt tôi. Hắn đưa súng lên nhắm ngay tôi. Trong một phản ứng tự sinh tồn, tôi đã dơ bàn tay bị thương lên và lắc đầu. Hắn hạ súng xuống và bỏ đi. Hắn còn trẻ lắm, chỉ chừng 16 hay 17 là cùng“.
Không quân tiếp tục oanh tạc bãi Albany và vùng phụ cận. Anh không hiểu tại sao mình có thể sống sót khi bom nổ tứ phiá chung quanh anh.. Sau bẩy ngày đêm không lương thực và bàn tay bị thương rỉ máu hành hạ, anh đã yếu lắm rồi, đang nằm trong trong bụi, chợt nghe tiếng trực thăng bay rất thấp, anh bò lết tới một khoảng trống nhỏ, gỡ chiếc áo lính đẫm máu ra khỏi tay trái và cầm nó vẫy lia lịa.
Melvus Hall, xạ thủ đại liên trên trực thăng, nhìn xuống thấy anh tưởng là VC nên nhắm anh tính ria một tràng đại liên M.60, nhưng phi công Moore kịp thời bảo viên xạ thủ khoan bắn vì dáng người đứng vẫy có vẻ to lớn hơn khổ người,Việt nam. Moore liên lạc với một trực thăng võ trang bao vùng và anh hạ cánh bốc Braveboy lên tầu
Braveboy chỉ bị cưa một ngón tay. Gia đình anh đang ở thành phố Coward South Carolina đã được thông báo là anh bị mất tích và có lẽ anh đã tử vong, nhưng rồi người trở về từ “cõi chết“ đã quy hoàn cố hương và gặp lại người thân.
Hơn 30 năm đã qua, trận IA Drang từng được xưng tụng là chiến thắng ngoạn mục của quân đội Hoa kỳ. Thật ra, theo nhiều nhà bình luận là một thảm họa mà trong đó hơn 300 bộ binh Mỹ thiệt mạng vì cấp chỉ huy quờ quạng vụng về. Hỏa lực yểm trợ thật hùng hậu từ B52, khu trục, phản lực cơ và pháo binh cộng với tốc độ chuyển quân thần tốc của trực thăng vận và lòng dũng cảm chiến đấu kiên cường của người lính, từng ấy ưu điểm đáng lý phải đè bẹp đối phương. Vậy mà để rồi cứ 4 lính Mỹ tham chiến tại IADrang thì có 1 người bỏ mạng, thế chủ động chiến trường tan theo mây khói và niềm tin vào một thế thượng phong của Hoa Kỳ cũng triệt tiêu.
Trước khi nói đến những sai lầm của cấp chỉ huy Mỹ tại Ia Drang, tưởng cũng nên nhắc lại vụ trung đội “xé lẻ” trong màn đầu của trận chiến.
Sau này Trung tá Moore, Tiểu đoàn trưởng TĐI Lữ đoàn 7 đã không hết lời chê trách Thiếu uý Herrick, trung đội trưởng “xé lẻ“ là vô trách nhiệm, vấp phạm một lỗi lầm chiến thuật tai hại, tác phong tài tử và cầm binh cẩu thả. Nhưng Trung sĩ Savage, người cầm binh thay thế Herrick chỉ huy trung đội sau này, khẳng định tuy việc mang trung đội ra ngoài đội hình chiến đấu là bất lợi cho đại đội nhưng lại giúp cho tiểu đoàn rất nhiều, vì trung đội đã làm địch quân hoang mang không biết đâu là chủ lực để tấn công nên đã vô hình chung, gỉải toả áp lực cho tiểu đoàn. Cộng quân chỉ giết được 9 và làm bị thương 13 binh sĩ, nhưng ba lần tấn công đều bị đẩy lui. Khi tiểu đoàn đã giải cứu được trung đội, họ đã bắt gặp nhiều xác địch quân chất chồng lên nhau sau những gò mối, thịt xương vương vãi khắp nơi và rất nhiều vết máu chảy loang khắp cả một vùng xung quanh nơi bố trí của trung đội “xé lẻ“. Đó chính là điều may mắn lớn cho ông Moore.
Trở lại phần phân tích trận chiến, nhiều người đồng ý là lỗi lầm đầu tiên của ông này là đã không thu thập tin tức tình báo về bãi đáp Xray dù ông được thông báo trước 48 tiếng đồng hồ. Ông cần phải biết rõ về địch tình, địa thế và thời tiết. Ông chỉ lo tìm bãi đáp và không để ý đến địch quân dù biết rằng quân số địch ước tính cả trung đoàn
Cuối cùng, ông chọn Xray chỉ cách Pleime 14 dặm và quá gần Cambốt và nằm lọt thỏm ngay trong ổ kiến lửa là trung đoàn 66 quân CS Bắc Việt- Cộng quân chỉ có một quãng không xa là vượt biên giới, vào khu bất khả xâm phạm. Thay vì cho một trung đội thám sát nhảy xuống trước thăm dò mục tiêu, ông cho nguyên cả tiểu đoàn nhập cuộc. Hậu quả là khi chạm địch bất ngờ ông mới lo chống trả và phản ứng. Cũng vì vậy ông đã vô hiệu hoá pháo binh của chính mình nhiều lần, bởi bạn, thù quá gần và kể cả lẫn lộn với nhau. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao khi quân Mỹ vừa đặt chân xuống bãi Albany là bị khai hỏa bất ngờ, cuộc chạm trán nẩy lửa chỉ xẩy ra trong một phạm trường chưa đầy 500 mét dài,50 mét rộng. Không đầy 30 phút quân Mỹ đã bị tử vong 155 lính và bị thương 124 người khác..
Cấp chỉ huy không lưu tâm đến an ninh tình báo cũng được thể hiện rõ rệt khi quân Mỹ rời Xray đi Albany. Tiểu đoàn trưởng Trung tá MC Dade thú nhận sau này: “Khi rời Xray chúng tôi mù tịt về Albany, thượng cấp chỉ ra lệnh chúng tôi tiến đến đó để thiết lập bãi đáp.“
Lính Mỹ đã kiệt quệ sau 60 giờ mất ngủ lại phải di hành đội hình hàng dọc dưới cái nắng thiêu đốt cuả cao nguyên, nên khi chạm địch, họ đã bị lọt vào thế hạ phong.
Địch quân cũng bất ngờ chạm trán đối phương, nhưng cộng quân đã có thể gom quân mau hơn để tấn công một đoàn quân trải dài. Hậu quả là quân Mỹ bị cắt làm nhiều mảnh rời rạc, từng toán quân chiến đấu riêng lẻ để sống còn, không thể phối hợp cùng đại đội hay tiểu đoàn. Và như vậy quân Mỹ không thể thiết lập tuyến phòng thủ chung nên bị tứ bề thọ địch, không người chỉ huy. Ngay cả Trung tá Mc Dade lúc chạm súng cũng không thể ra lệnh gì được và cũng thục mạng tìm chỗ tránh đạn như binh sĩ dưới quyền, đến nỗi khi Đại Tá Brown, Lữ đoàn trưởng, từ trực thăng thị sát mặt trận gọi Mc Dade cho biết tình hình, ông này ứ ớ khộng biết báo cáo làm sao. Ông may mắn không là sĩ quan VNCH vì nếu ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự như ông, chắc chắn ông đã nhận đầy tai những danh từ hoa mỹ, ngôn ngữ “đan mạch va đức”từ trực thăng chỉ huy rồi.
Một điểm sinh tử là quân Mỹ ỷ lại vào ưu thế hỏa lực yểm trợ hơi nhiều. Tâm lý này đã bắt nguồn từ Đệ II thế chiến và ngay cả cấp chỉ huy cũng muốn tận dụng hỏa lực từ pháo binh và tầu bay để giảm thiểu tối đa cho quân sĩ tại mặt trận. Nhưng nếu chiến thuật này thích hợp cho chiến trường Âu Châu, Sa mạc Phi Châu thì lại không thể áp dụng cho chiến trường Việt Nam được. Pháo binh và không yểm chỉ hiệu qủa khi xác định được vị trí địch.
Tại Việtnam như điển hình là ở IA Drang, địch quân như bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chạm địch thì hai bên đã cận kề. Hơn nữa quân Mỹ lầm tưởng khi lâm trận, hỏa lực pháo binh, không quân sẽ tàn sát địch quân thay cho mình. Do đó hỏa lực yểm trợ và lực lượng tham chiến phải phối hợp như hai gọng kềm cùng lúc xiết chặt đối phương thì mới có thể hạ gục địch thủ. Thực tế, hai gọng kìm đã không xiêt chặt địch cùng một lúc thì làm sao đạt được kết quả mong muốn
Một điểm cuối cùng nêu lên ở đây là lính Mỹ được huấn luyện rất kỹ tại quân trường vê kỹ thuật và phương cách tác chiến nhưng thiếu hiểu biết về chiến thuật. Họ học tường tận binh khí và gọi hoả lực yểm trợ. Nhưng họ không thể áp dụng mau lẹ những điều đã học khi đụng trận. Quân trường nhồi khoá sinh rất kỹ lý thuyết nhưng quên một điểm tối quan trọng là địch quân không phải là những tấm bia bất động chúng gian xảo, lủi nhanh, ẩn hiện như ma quỷ sát hại trong tích tắc.
LỜI KẾT.
Nhiều quyết định quan trọng đã được Hoa Thịnh Đốn cũng như Hà Nội đưa ra, vào cuối năm 1965 do những kinh nghiệm và bài học được rút tỉa từ Ia Drang đủ nói lên tầm vóc của trận đánh này.
Tại Hà Nội, Võ nguyên Giáp tuyên bố, nhờ Ia Drang cộng quân có thể thắng chiến tranh vì họ đã biết hóa giải ưu điểm của trực thăng và đánh gục được không kỵ Mỹ.
Hồ Chí Minh cũng vuốt râu tự đắc và tự tin vì kết quả cuả IA Drang và trong trận này. Đạo binh dép râu của Hà Nội đã chống trả hỏa lực hùng hậu của một siêu cường. Ít nhất đã thủ hoà đã là thắng thế theo tiêu chuẩn của Hà Nội.
Tại Sài gòn, Tướng Westmoreland và bộ tham mưu thì lại nhìn vào thống kê của chiến dịch Ia Drang – 305 lính Mỹ chết đổi lại 3561 cộng quân tử trận – hay tỷ lê 1/12 -12 cộng quân đổi 1 lính Mỹ – Để suy diễn cuộc chiến Việt Nam với phần thắng phải nghiêng về Miền nam. Ít lâu sau đó trong một lần kinh lý Bộ Trưởng Quốc Phòng, Mc Namara bay ra An Khê để nghe Tướng Kinnard, Tư lệnh Sư đoàn Không kỵ và tiểu đoàn trưởng Moore thuyết trình. Trong 20 phút báo cáo chiến sự IA Drang đã phác họa cho Mc Namara một hình ảnh những cộng quân chiến đấu rất kỷ luật và quyết chí đến độ cuồng tín trong những đơt xung phong từ rừng núi.
Mc Namara nghe xong chỉ mím mội im lặng suy nghĩ
Trên tầu bay về nước ông đã thảo một công điện tối mật về Bạch Oác cho Tổng Thống Johnson. Ông khuyến cáo Johnson chỉ có hai giải pháp: Tìm giải pháp rút lui khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt hoặc chấp thuận đề nghị của Tướng Westmoreland tăng quân số từ 34 lên 74 Tiểu đoàn lính Mỹ trực tiếp tham chiến vào cuối năm 1966. Chúng ta đã biết Johnson chọn giải pháp nào.
Quả thật không ngoa khi trên tờ bìa quyển sách Hồi Ký Chiến trường IA DRANG, Tướng hồi hưu Harold Moore đã mệnh danh là trận đánh đã thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam.
Trường Hận Thư Sinh
Sinh Tồn chuyển