Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Không có Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, Biểu tượng của Free VN, Người Việt làm sao hưởng được qui chế Tỵ Nạn CS
KHÔNG CÓ
“LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ”, BIỂU TƯỢNG CỦA FREE VN
NGƯỜI VIỆT LÀM SAO HƯỞNG ĐƯỢC QUI CHẾ TNCS?
“Chiều buông xuống bầy dế mèn inh ỏi
Ánh đèn dầu sáng dưới mái tranh
Mẹ ngồi đan áo cho cha
Thầm thì lời cầu nguyện
Chữ A, B con đọc
Số Một, Hai con đếm
Ðếm bao giờ cho tới
Ngày nghỉ phép cha về
Mùa đông đến áo mẹ đan xong
Mong cha sớm trở về
Mặc vào cho mẹ vui
Vất vả mẹ không nề
Hằng đêm bầy dế mèn vẫn gọi
Con đếm từng ngày mong đợi
Biết con học giỏi cha mừng
Biết mẹ đan áo cha vui
Chuyến hành quân gian khổ
Không giấy mực biên thư
Cha đành phải quên lời
Không hẹn kỳ trở lại
Hôm sau có người đến
Trao mẹ một món quà
Tay run run nhận lấy
Nước mắt mẹ trào dâng
Con hồi hộp muốn biết
Món quà nào cho Mẹ
Món quà nào cho con
Chú quân nhân nghiêm chỉnh
Con dại khờ không hiểu
Mẹ đau lòng ngã quỵ
Trên tay ôm lá cờ (Vàng
ba sọc Đỏ)
Mảnh vải phủ thân người
Mẹ bảo đây là kỷ Vật quý nhất của con
Bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!”
(Kỷ vật quý nhất – thơ Cát Trắng)
Đêm buồn đọc lại thơ của Cát Trắng, khiến cho người lính già cảm động
muốn khóc trước nỗi đau lòng của người vợ lính, thảm thê đã ngã quỵ khi
nhận được tin chồng “tử trận”, mà kỷ vật còn lại là “Lá Cờ Vàng ba sọc
đỏ, đã phủ thây chàng”, chẳng khác gì “da ngựa bọc thây” người lính thú
đời xưa. Mẹ bảo đây là Kỷ vật quý nhất của con và bây giờ con mới hiểu
thứ gì quý nhất trên đời!!!
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã
từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là
lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên
tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân
nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được “sự thiêng liêng
của lá Cờ Vàng ba sọc đỏ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi
xung trận”.
Quốc kỳ của Quốc Dân VN (chứ không phải của VNCH hay bất kỳ cá nhân nào
dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương...)
như một ngọn đuốc soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền
Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cộng sản đệ tam
xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị
nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975 đã ngồi lại với
nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Ðó mới chính “là cấp lãnh đạo
tối cao nhất của Cộng Ðồng VN Tị Nạn Hải Ngoại” hầu như từ trước tới nay
chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân
(1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum,
Bình Ðịnh.... Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào
tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá
cờ lại đẫm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính trận và hàng triệu
người dân Việt Miền Nam, trên khắp các nẻo đường trốn chạy sự truy sát
có một không hai của bộ đội Bắc Việt.
Tại chiến trường, để treo được ngọn Cờ Vàng ba sọc đỏ “biểu tượng của
quốc dân” lên Kỳ Ðài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Ðồi Ðồng Long (An
Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Ðinh Công
Tráng-Quảng Trị... đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong
mọi binh chủng từ NQ+ÐPQ
[Nghĩa Quân, Địa Phương Quân], Bộ Binh, Biệt
Ðộng Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã hàng nối
hàng gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp
này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cộng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng
quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố
gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho
người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, đễ bảo vệ xóm làng,
dân chúng, không để mất vào tay cộng sản. Ðiều vinh hạnh nhất hiện nay
tại hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành
phần, giai cấp xã hội... ai mà chẳng mơ ước được Cộng Ðồng người Việt
Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên
nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh
không vướng bận.
Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn
khoa bảng xôi thịt chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá
thối đất nước miền Nam, ùn ùn tìm đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại
quốc. Giờ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn sống bám vào mồ hôi nước mắt của
người Việt Quốc Gia, vẫn “áo thụng vái nhau khoe bằng cấp” mỗi khi có
dịp xuất hiện trên diễn đàn, sân khấu nhưng cứ lại tiếp tục phá thối
cộng đồng người Việt tị nạn, tuyên truyền và bẻ cong ngòi bút, cứ đòi
thay đổi lá cờ, hòa hợp hòa giải, nối vòng tay lớn, làm lợi cho đế quốc
CS đang cai trị VN, hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo vào lúc cuối đời.
Trong lúc đó, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo
vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp
Mỹ và hậu phương bạc bẽo, có cơ hội chạy. Còn biết viết gì hơn, trước
cảnh tượng những người được may mắn thoát được địa ngục trần gian, đầu
thai trở lại kiếp người, hồ hởi kéo nhau về quê hương đã đổi mới để
“vinh qui bái tổ”.
Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ
chạy? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc
cấp, cho tới lúc tàn cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Ðảo,
Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa
Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa... há không có phương tiện
để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ
sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời.
Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp
nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều
chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi
chung, vì hai chữ hy sinh cao quý “lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh”,
được tất cả mọi người từ dân tới lính, thương mến trân trọng.
Hơn 80 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu
trên lãnh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai
miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới.
Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới
tuyến: Ðồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn
(VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã
làm hai phía đổ máu nhiều lần vì “Lá Cờ” được treo ở hai đầu cầu Hiền
Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các
toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cỡ của lá cờ được
qui định 3.2x4.8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân
Hòa luôn thay đổi khổ lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, theo lệnh của các đơn vị
trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc “Chọi Cờ” bùng nổ hai
bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương
tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu
trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cỡ “cờ” tới
267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía Bắc bị máy bay oanh
tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về
phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm
mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có thể muốn
người khác phải theo ý mình “đứng chung dưới một ngọn cờ” mà trong thâm
tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa
bán nước như lá cờ máu đỏ sao vàng của Cộng Ðảng VN.
Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch
1802 là năm mà Ðức Gia Long Hoàng Ðế, đã có công thống nhất được toàn
cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến
triền miên, giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong
nhiều tác phẩm lúc đó như “Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến
Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Ðịa Chí của Nguyễn Trãi, Trình Tiên
Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm....” Ngoài ra, các nhà khảo cổ
sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở
Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt
Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt
Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước
Việt ở Nam Phương. Ðể đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu
phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ,
qua danh từ miệt thị “An Nam hay Giao Chỉ”. Thời Pháp thuộc, thực dân
cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích
cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời
Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành
Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử dụng quốc
hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc
nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay
khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Ðức và Lê
Quang Ðịnh đi sứ sang nhà Thanh, trả lại ấn phong của vua Quang Trung và
xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây
lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc
Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào
vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3
(1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia
Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn
là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với
tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1 - Cờ Ðỏ Sao Vàng Của Ðảng CSVN:
Về lá “quốc kỳ” VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai
lá cờ: Ðảng cộng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại
Hà Nội, xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cộng sản
Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng
giống cờ nước VN xã nghĩa có vẽ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của
Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng
Kỳ (Cờ Ðỏ), do Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng
11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Ðảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã
khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng
không còn là đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô
và Trung Cộng.
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của cộng Sản Tàu tại
Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ
Ðỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra
Ðảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Ðây là những
lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải
tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố.
2 - Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ:
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện
từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi
nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Ðồng Hà-Quảng Trị, vào
tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày
1-5-1975, tuy đất nước VN bị cộng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó,
trên khắp mọi nẻo đường hải ngoại, hơn ba triệu người Việt tị nan cộng
sản, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý và chấp nhận lá Cờ Vàng
ba sọc đỏ, như một biểu tượng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn
định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện,
thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ” của VN,
như là một biểu tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Ðồng VN tị nạn. Sự
kiện mới đây, chính quyền tại Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành
quyết định công nhận Lá Quốc Kỳ VN Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của
người Việt, trên đường đấu tranh quang phục đất nước.
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm “Quốc Kỳ Việt Nam” của tác
giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến
của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ
sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Phần: Gia Ðịnh, Biên
Hòa và Ðịnh Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu
vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức
bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không
chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng
và dùng son đỏ viết trên đó bốn đại tự “Ðại Nam Khâm Sứ”. Cũng từ đó, lá
cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Ðình Nhà
Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Ðại, ủy
nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ
Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Ðó là lá cờ nền
vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông
lại chọn bài Ðăng Ðàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Ðông Dương, mục đích tái
lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt
Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Ðể tiến tới ý đồ bất lương
trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào
lãnh thổ Pháp, đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng
3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc
dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh
và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của
người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong
đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này,
hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc
gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự
trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính
khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh
xưng “Nam Phần VN”, để thay thế cái gọi là “Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị”, mà
Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra
ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác
nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Ðài và lá thứ năm
của Phật Giáo Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập,
lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Ðỗ Quang Giai
(Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng
hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Ðài. Cuộc triển lãm năm
mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn
Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Ðỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo
Ðại, đề cập tới trong tác phẩm “Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)”,
xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo
trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo
Ðại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Ðông Dương là Emile
Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là
lá Cờ Vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi
nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người
VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ có một ý nghĩa khác biệt với Lá Cờ Máu của
cộng sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới
Nguyễn Văn Xuân, Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay
Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội
dung là tài sản riêng của đệ tam cộng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung
Cộng và Việt Cộng. Ðó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi
giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết
tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhận, dù hiện nay người Việt
quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong,
đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN Mầu Vàng ba sọc Đỏ, là biểu tượng cao quý nhất trong linh
hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh
miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ của
quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng
lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì
không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cộng sản, cho tới ngày nay, lập
trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang
bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích
thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong
cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu
tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt
chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng
cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần), giữ chức
Giám Ðốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ
giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận
bài hát “Thanh Niên Hành khúc” của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca,
vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu
nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt
Minh... nên tim óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Ðó cũng
là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia
Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài “VN-VN” của
Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế
bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm “Việt Nam Nhân
Chứng”, cựu tướng Trần Văn Ðôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn
Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại.
Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác
giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không
tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Ðôn cũng như Lê Văn Kim...
chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, thì chừng nào mới tới phiên
được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc
đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao
cấp của của các giáo phái... mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Vậy ta thử hỏi sau ba mươi bảy năm chiến tranh chấm dứt (30/4/1975 –
11/2012) kẻ chiến thắng là CS đã làm được những gì, để mang tới phúc
lợi, no ấm cho dân tộc VN? Trong thời gian đó, đất nước chúng ta có được
độc lập tự do hay không? Cứ nhìn kết quả mà không cần phải đợi câu trả
lời.
Thật sự cho tới bây giờ, đất nước VN vẫn là một quê hương bị đọa đày
tang tóc khổ đau. Dân chúng đại đa số nghèo đói lạc hậu. Xã hội băng
hoại, kỷ cương tan nát, đạo đức suy đồi và oán thù chất ngất vì hố phân
chia mọi thành phần trong nước, càng lúc càng sâu thẳm không biết đâu mà
so sánh. Trong lúc bọn cán bộ viên chức đảng nhà nước, bọn Việt
gian-Việt kiều cò mồi, bọn tư bản đỏ trắng tại VN càng lúc càng giàu có
vinh hiển tột cùng với tiền tỷ vàng tạ, thì người dân cả nước từ nông
dân, người đánh cá, cho tới kẻ lạo động, gần như kiếm ăn từng bữa. Như
vậy tám mươi năm qua, nói là đi làm cách mạng để giải phóng nước nhà và
người dân bị ngoại xâm kềm kẹp. Thế nhưng ba mươi bảy năm hòa bình, giờ
tính lại sổ đời, nước vẫn bị ngoại bang thao túng, không phải chỉ có
Nga-Trung Cộng mà cả khối tư bản Mỹ, Nhật, Âu Châu, Nam Hàn, Ðài
Loan-Singapore.... Còn người dân thì cuộc sống còn thua cả thời Pháp
Thuộc, nói chi tới Hai mươi năm VNCH.
Hơn ba mươi bảy năm đổi đời rồi, cho dù Bắc Bộ Phủ có gian ngoan xảo trá
tới đâu, bọn Việt gian biển lận thế nào, thì người trong nước cũng như ở
hải ngoại, ai nấy đều hiểu tất cả tấn thảm kịch VN. Tất cả chỉ do bàn
tay đẫm máu của băng đảng Hồ Chí Minh dàn dựng và thao túng mà thôi.
Ba mươi bảy năm nói là thống nhất nhưng Bắc-Nam cũng vẫn là Nam-Bắc. Lúc
nào cũng to mồm lớn miệng nói là tự do-độc lập thế nhưng mọi việc lớn
nhỏ của nước, đều do bàn tay tối cao của Liên Xô-Trung Cộng, nay lại
thêm bàn tay lông lá của lái súng Mỹ quyết định giùm.
Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Ðức nhà Nguyễn vì thiển cận, không
chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như
Nguyễn Trường Tộ, Ðinh văn Ðiền, Bùi Viện... mà cứ chạy theo ôm chân
người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực
dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt
Cộng cũng đã bước vào lối mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu
trắng một cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn.
Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước
càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn
phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai còn một chút hơi hám của con
người, thấy nó cũng phải đau lòng cho vận nước, chỉ vì một gã Hồ Chí
Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm vóc phải tan hoang,
không biết đến bao giờ mới được quang phục.
Ba mươi bảy năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng, dù ngày nay hình người
có thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên
vết như cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc-Bó, rừng Bắc Sơn hay chui
ra trong các hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẫn đảng cộng sản là trên hết, còn
nước thì nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cả nước, đều là tài sản của đảng,
của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới
hậu quả di hại cho con cháu mai sau.
Cũng không thể đứng nhìn đồng bào cả nước, nhất là phụ nữ đã phải bán
trôn khắp thế giới để nuôi miệng, bán mạng để sống. Cũng không thể bắt
người Việt hải ngoại cứ đổ vỏ cho kẻ ăn ốc là bọn cộng sản và đám việt
gian, việt kiều tay sai nằm vùng, bằng cách mỗi lần có thiên tai hoạn
nạn, thì lại cứ nhân danh này này nọ nọ, bắt đồng bào gửi tiền bạc về
nước, để bọn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ vểnh râu làm giàu trên xương máu mồ hôi
nước mắt của đồng bào tị nạn.
Cũng không thể để cho lá cờ máu và những tên quốc tặc, hiện diện tuyên
truyền, trong những nơi chốn, có người Việt tị nạn sinh sống, mà điển
hình là vụ tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ Tặc tại Tiểu Sài Gòn,
vào dịp Tết Kỷ Dậu 1999. Sau rốt cũng không cho VC tiếp tục lộng hành,
toa rập với đám tư bản bất lương Tây phương, Nam Hàn, Nhật Bản, Tàu
Trắng và tàn độc nhất là Trung Cộng, lũng đoạn kinh tế, phá nát kỷ cương
và chia xén lãnh thổ VN.
Tám mươi năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với
cộng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường
gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho
nên ba mươi bảy năm nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa
hẹn của cộng sản, trừ bọn cò mồi không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp
và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá
tan xiềng xích nô lệ của đảng cộng sản, để đòi lại những gì mà chúng ta
đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
Chừng nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó
đừng hòng chúng san sẻ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng
đang sống sướng trên núi bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ hợp tác
chia phần, nên chỉ cần “đảng làm giàu mà thôi”, còn nhân quyền, tự do
dân chủ, chủ quyền đất nước, sinh mạng người dân.... Tất cả coi như là
cỏ rác.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2012
MƯỜNG GIANG
Nguồn: BKT sưu tầm tại đây:
http://hon-viet.co.uk/MuongGiang_KhongCoLaCoVangBaSocDoBieuTuongCuaNguoiVietTuDo....htm
PHỤ LỤC - HÌNH ẢNH
Đây, Sông Bến Hải phân chia nước Việt nam
Đầu cầu phía VNCH
Đầu cầu phía miền Bắc, csVN
Một phiên đổi lính canh gác phía VNCH
Lính canh gác hai bên cầu
Sinh Tồn chuyểnBàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Không có Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, Biểu tượng của Free VN, Người Việt làm sao hưởng được qui chế Tỵ Nạn CS
KHÔNG CÓ
“LÁ CỜ VÀNG BA SỌC ĐỎ”, BIỂU TƯỢNG CỦA FREE VN
NGƯỜI VIỆT LÀM SAO HƯỞNG ĐƯỢC QUI CHẾ TNCS?
“Chiều buông xuống bầy dế mèn inh ỏi
Ánh đèn dầu sáng dưới mái tranh
Mẹ ngồi đan áo cho cha
Thầm thì lời cầu nguyện
Chữ A, B con đọc
Số Một, Hai con đếm
Ðếm bao giờ cho tới
Ngày nghỉ phép cha về
Mùa đông đến áo mẹ đan xong
Mong cha sớm trở về
Mặc vào cho mẹ vui
Vất vả mẹ không nề
Hằng đêm bầy dế mèn vẫn gọi
Con đếm từng ngày mong đợi
Biết con học giỏi cha mừng
Biết mẹ đan áo cha vui
Chuyến hành quân gian khổ
Không giấy mực biên thư
Cha đành phải quên lời
Không hẹn kỳ trở lại
Hôm sau có người đến
Trao mẹ một món quà
Tay run run nhận lấy
Nước mắt mẹ trào dâng
Con hồi hộp muốn biết
Món quà nào cho Mẹ
Món quà nào cho con
Chú quân nhân nghiêm chỉnh
Con dại khờ không hiểu
Mẹ đau lòng ngã quỵ
Trên tay ôm lá cờ (Vàng
ba sọc Đỏ)
Mảnh vải phủ thân người
Mẹ bảo đây là kỷ Vật quý nhất của con
Bây giờ con mới hiểu thứ gì quý nhất trên đời!!!”
(Kỷ vật quý nhất – thơ Cát Trắng)
Đêm buồn đọc lại thơ của Cát Trắng, khiến cho người lính già cảm động
muốn khóc trước nỗi đau lòng của người vợ lính, thảm thê đã ngã quỵ khi
nhận được tin chồng “tử trận”, mà kỷ vật còn lại là “Lá Cờ Vàng ba sọc
đỏ, đã phủ thây chàng”, chẳng khác gì “da ngựa bọc thây” người lính thú
đời xưa. Mẹ bảo đây là Kỷ vật quý nhất của con và bây giờ con mới hiểu
thứ gì quý nhất trên đời!!!
Trong suốt cuộc chiến VN kéo dài gần 20 năm (1955-1975), những ai đã
từng là người dân trong vùng chiến nạn, xôi đậu, bị giặc chiếm hay là
lính trận chiến đấu nơi sa trường, đồn nghĩa quân cheo leo miền biên
tái, những biệt chính, biệt kích cảm tử hoạt động riêng rẽ và các quân
nhân bị thất lạc trong lúc đụng trận, mới cảm nhận được “sự thiêng liêng
của lá Cờ Vàng ba sọc đỏ và bản quốc ca hùng tráng, được thổi lên khi
xung trận”.
Quốc kỳ của Quốc Dân VN (chứ không phải của VNCH hay bất kỳ cá nhân nào
dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương...)
như một ngọn đuốc soi đường mở lối đấu tranh cho thanh niên nam nữ miền
Nam trong suốt 20 năm đoạn trường máu lệ, vì đất nước bị cộng sản đệ tam
xâm lăng cướp đoạt. Cũng nhờ Lá Quốc Kỳ, mà những người Việt lưu vong tị
nạn khắp bốn phương trời, sau ngày mất nuớc 30-4-1975 đã ngồi lại với
nhau để cùng sớt chia buồn vui vận nước. Ðó mới chính “là cấp lãnh đạo
tối cao nhất của Cộng Ðồng VN Tị Nạn Hải Ngoại” hầu như từ trước tới nay
chưa có ai dám phản đối hay xúc phạm.
Có còn nhớ hay không những ngày tang tóc hỗn loạn của Tết Mậu Thân
(1968), mùa hè đỏ lửa 1972 tại An Lộc (Bình Long), Quảng Trị, Kon Tum,
Bình Ðịnh.... Rồi những ngày thi hành cái gọi là hiệp định ngưng bắn vào
tháng 1-1973 và sau rốt là 55 ngày cuối cùng của VNCH vào năm 1975, lá
cờ lại đẫm thêm thịt xương, máu và nước mắt Lính trận và hàng triệu
người dân Việt Miền Nam, trên khắp các nẻo đường trốn chạy sự truy sát
có một không hai của bộ đội Bắc Việt.
Tại chiến trường, để treo được ngọn Cờ Vàng ba sọc đỏ “biểu tượng của
quốc dân” lên Kỳ Ðài Huế trong Tết Mậu Thân, trên ngọn Ðồi Ðồng Long (An
Lộc), Tòa Hành Chánh Kon Tum và nhất là tại Cổ thành Ðinh Công
Tráng-Quảng Trị... đã có không biết bao nhiêu sinh mạng của lính, trong
mọi binh chủng từ NQ+ÐPQ
[Nghĩa Quân, Địa Phương Quân], Bộ Binh, Biệt
Ðộng Quân, Biệt kích Dù, Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù, đã hàng nối
hàng gục ngã, trong quyết tâm làm thang cho đồng đội, tiếp nối hết lớp
này tới đợt khác, mới đạt được thắng lợi cuối cùng.
Năm 1973, cộng sản Hà Nội qua đồng thuận của Mỹ, được công khai đóng
quân trên lãnh thổ VNCH theo tinh thần hiệp ước ngưng bắn. Chúng đã cố
gắng treo dán khắp nơi từ cờ lớn tới cờ nhỏ, những lá cờ máu, khiến cho
người lính VNCH, lại phải chịu nhiều thương vong, đễ bảo vệ xóm làng,
dân chúng, không để mất vào tay cộng sản. Ðiều vinh hạnh nhất hiện nay
tại hải ngoại, đối với những người lính già mang mọi cấp bậc, thành
phần, giai cấp xã hội... ai mà chẳng mơ ước được Cộng Ðồng người Việt
Quốc Gia và đồng đội, phủ cho mình một Lá Quốc Kỳ Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ trên
nắp quan tài, trước khi vĩnh viễn bước vào cõi niết bàn thênh thênh
không vướng bận.
Rồi những ngày cuối cùng của tháng tư đen 1975, trong khi hầu hết bọn
khoa bảng xôi thịt chuyên lợi dụng sự tự do dân chủ của chế độ, để phá
thối đất nước miền Nam, ùn ùn tìm đủ mọi cách bỏ chạy trước ra ngoại
quốc. Giờ vẫn chứng nào tật nấy, vẫn sống bám vào mồ hôi nước mắt của
người Việt Quốc Gia, vẫn “áo thụng vái nhau khoe bằng cấp” mỗi khi có
dịp xuất hiện trên diễn đàn, sân khấu nhưng cứ lại tiếp tục phá thối
cộng đồng người Việt tị nạn, tuyên truyền và bẻ cong ngòi bút, cứ đòi
thay đổi lá cờ, hòa hợp hòa giải, nối vòng tay lớn, làm lợi cho đế quốc
CS đang cai trị VN, hầu kiếm chút danh cặn tiền bèo vào lúc cuối đời.
Trong lúc đó, hằng vạn người lính chết hay bị thương, vì đã ở lại để bảo
vệ thủ đô, bến tàu, phi trường, xa lộ và những bãi đáp trực thăng, giúp
Mỹ và hậu phương bạc bẽo, có cơ hội chạy. Còn biết viết gì hơn, trước
cảnh tượng những người được may mắn thoát được địa ngục trần gian, đầu
thai trở lại kiếp người, hồ hởi kéo nhau về quê hương đã đổi mới để
“vinh qui bái tổ”.
Thử hỏi trong giờ thứ 25, tính sổ lại xem có bao nhiêu tướng lãnh đã bỏ
chạy? Hay nói đúng hơn gần hết đã ở lại chiến đấu với đồng đội thuộc
cấp, cho tới lúc tàn cuộc. Những danh tướng Lý Tòng Bá, Lê Minh Ðảo,
Trần Quang Khôi, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa
Nam, Trần Văn Hai, Hồ Ngọc Cẩn, Ngô Tấn Nghĩa... há không có phương tiện
để trốn chạy ra tàu Mỹ hay sao? Nhưng họ là thanh niên thời đại, là kẻ
sĩ nên coi trọng khí tiết làm tướng, hơn sinh mạng phù vân một đời.
Vì vậy biết ở lại sẽ bị giặc đày đọa lăng nhục tới chết nhưng vẫn chấp
nhận hoàn cảnh. Cuối cùng, kẻ thì tự tử, còn người bị giam cầm nhiều
chục năm nơi tận cùng biên tái, làm gương muôn đời cho hậu thế soi
chung, vì hai chữ hy sinh cao quý “lưu thủ đan tâm, chiếu hãn thanh”,
được tất cả mọi người từ dân tới lính, thương mến trân trọng.
Hơn 80 năm qua, CSVN lúc nào cũng tìm đủ mọi cách để trương ngọn cờ máu
trên lãnh thổ Hồng Lạc. Hiệp định Genève năm 1954 chia cắt VN thành hai
miền riêng biệt tại vĩ tuyến 17, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới.
Theo quy định, mỗi một miền được đặt hai đồn canh, dọc theo bờ sông giới
tuyến: Ðồn Hiền Lương và Cửa Tùng (Bắc Việt), Xuân Hòa và Cát Sơn
(VNCH), cả hai phía đều có treo cờ hằng ngày. Và đó là nguyên nhân đã
làm hai phía đổ máu nhiều lần vì “Lá Cờ” được treo ở hai đầu cầu Hiền
Lương.
Thời gian đầu thi hành Hiệp định (1954-1956) còn có sự hiện diện của các
toán kiểm soát đình chiến, nên hai phía vẫn tôn trọng cỡ của lá cờ được
qui định 3.2x4.8m. Nhưng từ sau năm 1956, phía VNCH bên đồn canh Xuân
Hòa luôn thay đổi khổ lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, theo lệnh của các đơn vị
trưởng trấn đóng miền giới tuyến. Thế là trận giặc “Chọi Cờ” bùng nổ hai
bên bờ sông Bến Hải, mà phần thắng luôn về phía VNCH vì có đủ phương
tiện và được tự do quyết định hơn phía CSBV. Theo các tài liệu còn lưu
trữ cho biết suốt 20 năm chia cắt, cả hai phía đã thay đổi cỡ “cờ” tới
267 lần để ăn thua, trong đó nhiều lần cột cờ phía Bắc bị máy bay oanh
tạc mà nặng nhất vào năm 1967, cả cột cờ, đồn canh và cầu Hiền Lương về
phía CS bị bom đánh xập.
Có hiểu thấu những câu chuyện bên lề lịch sử, chúng ta mới thấy được tầm
mức quan trọng và thiêng liêng của lá cờ. Cho nên không ai có thể muốn
người khác phải theo ý mình “đứng chung dưới một ngọn cờ” mà trong thâm
tâm của họ, đã coi nó như là biểu tượng của một chế độ dã man, xấu xa
bán nước như lá cờ máu đỏ sao vàng của Cộng Ðảng VN.
Theo sử liệu, thì quốc hiệu VIỆT NAM chính thức xuất hiện vào niên lịch
1802 là năm mà Ðức Gia Long Hoàng Ðế, đã có công thống nhất được toàn
cõi sơn hà từ Ải Nam Quan cho tới Mũi Cà Mâu, sau hơn 300 năm nội chiến
triền miên, giữa các dòng họ Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn.
Thật ra từ thế kỷ thứ XIV, hai tiếng Việt Nam đã thấy xuất hiện trong
nhiều tác phẩm lúc đó như “Nam Thế Chí của Hồ Tông Thốc, Lịch Triều Hiến
Chương Loại Chí của Phan Huy Chú, Du Ðịa Chí của Nguyễn Trãi, Trình Tiên
Sinh Quốc Ngữ Văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm....” Ngoài ra, các nhà khảo cổ
sau này, còn tìm thấy nhiều bia đá có niên lịch ghi trước thế kỷ XVIII ở
Bắc Việt. Trong tất cả các bia ký này, đều thấy có khắc hai chữ Việt
Nam. Theo nhận xét của các học giả, sử gia hiện tại, thì hai chữ Việt
Nam lúc đó, mang chung ý nghĩa rất thiêng liêng, nhằm chỉ về một nước
Việt ở Nam Phương. Ðể đối chọi với sự mai mỉa khinh nhờn của người Tàu
phương Bắc, mà suốt dòng lịch sử, luôn coi VN như một quận huyện bản xứ,
qua danh từ miệt thị “An Nam hay Giao Chỉ”. Thời Pháp thuộc, thực dân
cũng sử dụng những danh từ hạ bạc của người Tàu trong quá khứ, mục đích
cũng chỉ để làm nhục dân tộc VN mà thôi.
Theo Dự Am Thi Tập của Phan Huy Chú viết năm 1792, cho biết vào thời
Quang Trung thứ 5 nhà Tây Sơn, đã ban chiếu đổi quốc hiệu An Nam thành
Việt Nam. Tiếc thay triều đại trên quá ngắn ngủi, nên việc sử dụng quốc
hiệu VN cũng theo vận nước trôi vào quên lãng.
Riêng hai tiếng VN cũng đâu có khác gì thân phận của dân tộc Hồng-Lạc
nhược tiểu, luôn bấp bênh trong dòng sinh mệnh lịch sử. Năm 1802 ngay
khi thống nhất được đất nước, vua Gia Long đã cử Trịnh Hoài Ðức và Lê
Quang Ðịnh đi sứ sang nhà Thanh, trả lại ấn phong của vua Quang Trung và
xin nhận quốc hiệu cũ là Nam Việt.
Ta biết Nam Việt là quốc hiệu của VN thời nhà Triệu (207-111 trước tây
lịch), có lãnh thổ rộng lớn, bao gồm Vân Nam, Lưỡng Quảng, Hải Nam, Bắc
Việt và ba tỉnh Thanh-Nghệ-Tĩnh phía bắc Trung Phần. Do đó, chừng nào
vua Càn Long mới chịu chấp nhận. Bởi vậy cho tới năm Gia Long thứ 3
(1804), nhà Thanh mới sai Tế Bá Sâm, mang quốc ấn và chiếu phong vua Gia
Long, đồng thời cũng chấp nhận quốc hiệu của nước ta vào thời nhà Nguyễn
là Việt Nam thay vì Nam Việt. Tuy nhiên phải đợi tới cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, hai tiếng VN mới được cả trong và ngoài nước, sử dụng với
tất cả ý nghĩa thiêng liêng và toàn bích.
1 - Cờ Ðỏ Sao Vàng Của Ðảng CSVN:
Về lá “quốc kỳ” VN hiện tại, lại càng thêm phức tạp vì đang sử dụng hai
lá cờ: Ðảng cộng sản quốc tế đệ tam đang đô hộ VN, được Bắc Bộ Phủ tại
Hà Nội, xài lá cờ máu đỏ sao vàng, nhái theo lá cờ của đảng cộng sản
Trung Hoa tỉnh Phúc Kiến. Ngoài ra Việt Cộng còn xài thêm lá cờ đảng
giống cờ nước VN xã nghĩa có vẽ thêm búa liềm, theo nguyên mẫu lá cờ của
Liên Bang Xô Viết cũ.
Căn cứ các nguồn sử liệu hiện tại, thì lá cờ máu trên được gọi là Hồng
Kỳ (Cờ Ðỏ), do Nguyễn Hữu Tiến đã vẽ và xuất hiện lần đầu tiên vào tháng
11-1940. Tuy nhiên Lá Cờ Ðảng đã xài từ sau ngày 20-7-1954 tới nay, đã
khác với Kỳ Hiệu của Phong Trào Việt Minh, vì các cạnh của Ngôi Sao Vàng
không còn là đường cong, mà đã trở thành đường thẳng, y chang Cờ Liên Xô
và Trung Cộng.
Tổng hợp các tài liệu viết về phong trào đầu tiên của cộng Sản Tàu tại
Huyện Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến, vào năm 1934, đã tìm thấy Lá Cờ
Ðỏ Sao Vàng, mà CSVN đang sử dụng làm quốc kỳ từ đó đến nay. Ngoài ra
Ðảng còn xài thêm Lá Cờ Búa Liềm, đã sao chép của Liên Xô. Ðây là những
lá cờ của ngoại bang đem về, nên làm sao có thể bắt buộc mọi người phải
tôn trọng, trừ phi họ bị áp buộc và khủng bố.
2 - Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ:
Quốc dân VN thì chính thức sử dụng lá cờ màu vàng ba sọc đỏ, xuất hiện
từ ngày 2-6-1948 cho tới tháng 7-1954. Sau đó, dù đất nước bị chia đôi
nhưng chính phủ VNCH ở phía nam vĩ tuyến 17, từ Ðồng Hà-Quảng Trị, vào
tới Mũi Cà Mâu, vẫn tiếp tục sử dụng quốc kỳ của quốc dân VN. Kể từ ngày
1-5-1975, tuy đất nước VN bị cộng sản quốc tế đô hộ nhưng cũng từ đó,
trên khắp mọi nẻo đường hải ngoại, hơn ba triệu người Việt tị nan cộng
sản, vẫn theo truyền thống của ông cha, trân quý và chấp nhận lá Cờ Vàng
ba sọc đỏ, như một biểu tượng của Tổ Quốc và Dân Tộc VN.
Tại Úc và nhất là Hoa Kỳ, hai quốc gia tự do có nhiều người Việt tị nạn
định cư, sau bao chục năm đấu tranh liên tục, nên đã đạt được ý nguyện,
thỉnh cầu chính quyền sở tại, công nhận “Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ” của VN,
như là một biểu tượng tinh thần cao quý nhất của Cộng Ðồng VN tị nạn. Sự
kiện mới đây, chính quyền tại Tiểu Bang California (Hoa Kỳ), ban hành
quyết định công nhận Lá Quốc Kỳ VN Hải Ngoại, là một chiến thắng lớn của
người Việt, trên đường đấu tranh quang phục đất nước.
Về nguồn gốc của Lá Cờ, căn cứ theo tác phẩm “Quốc Kỳ Việt Nam” của tác
giả Quốc Duy Nguyễn Văn An, thì quốc kỳ VN được khởi đầu từ sáng kiến
của Phan Thanh Giản. Năm 1863 khi làm Chánh sứ hướng dẫn phái đoàn đi sứ
sang Pháp, để xin chuộc lại ba tỉnh miền Ðông Nam Phần: Gia Ðịnh, Biên
Hòa và Ðịnh Tường, đã bị thực dân Pháp cưỡng chiếm vào năm 1862. Khi tàu
vào tới hải cảng, Pháp yêu cầu phái bộ VN treo quốc kỳ, để họ tổ chức
bắn súng đại bác chào đón theo nghi cách ngoại giao quốc tế. Vì không
chuẩn bị trước, nên Phan Thanh Giản phải lấy tạm chiếc khăn lụa màu vàng
và dùng son đỏ viết trên đó bốn đại tự “Ðại Nam Khâm Sứ”. Cũng từ đó, lá
cờ trên đã trở thành Cờ Long Tỉnh, tượng trưng cho Triều Ðình Nhà
Nguyễn, với lãnh thổ còn lại gồm Bắc và Trung Phần.
Ngày 16-4-1945, học giả Trần Trọng Kim được Quốc Trưởng Bảo Ðại, ủy
nhiệm lập Chính Phủ với nội các gồm 10 Bộ Trưởng. Ngày 2-6-1945, Thủ
Tướng Trần Trọng Kim quyết định chọn quốc kỳ mới cho VN. Ðó là lá cờ nền
vàng, ba sọc đỏ theo hình quẻ Ly trong kinh Dịch. Ngày 30-6-1945, Ông
lại chọn bài Ðăng Ðàn Cung làm Quốc Thiều.
Tháng 2-1946, D’Argenlieu được cử làm Cao Ủy Ðông Dương, mục đích tái
lập lại sự đô hộ trên ba nước Việt-Miên-Lào, mà Pháp đã bị quân phiệt
Nhật đánh đuổi khỏi vùng vào ngày 3-9-1945. Ðể tiến tới ý đồ bất lương
trên, thực dân mưu toan nhiều lần tách hẳn Nam Kỳ của VN, để nhập vào
lãnh thổ Pháp, đồng thời cai trị Bắc và Trung Phần như trước tháng
3-1945. Tuy nhiên âm mưu xảo trá và nguy hiểm của giặc, lần lượt bị quốc
dân VN phát hiện và chống trả, khiến cho các chính phủ Nguyễn Văn Thinh
và Lê Văn Hoạch, cũng lần lượt sụp đổ theo ý đồ thâu tóm đất đai của
người Việt.
Ngày 8-10-1947, Nguyễn văn Xuân làm Thủ Tướng và lập nội các mới, trong
đó Trần Văn Ân được cử làm Thứ Trưởng Thông Tin. Trong giai đoạn này,
hầu như tất cả các vị trí thức yêu nước cũng như những đảng phái quốc
gia, đều cực lực chống lại chiêu bài chia cắt Nam Phần thành một miền tự
trị thuộc Pháp.
Nương theo lòng dân lúc đó, cụ Trần Văn Ân qua tư cách của một chính
khách kiêm Thứ Trưởng Chính Phủ, đã đề nghị Thủ Tướng Xuân, sử dụng danh
xưng “Nam Phần VN”, để thay thế cái gọi là “Nam Kỳ Cộng Hòa Tự Trị”, mà
Pháp và bọn Việt Gian lúc đó đã ngụy xưng một cách trơ trẽn. Ngoài ra
ông cũng đã chọn Quốc Ca - Quốc Kỳ cho cả nước.
Vào thời điểm 1948, lúc đó trên lãnh thổ VN đang sử dụng năm lá cờ khác
nhau: Ba lá của ba kỳ Bắc-Nam-Trung, một của đạo Cao Ðài và lá thứ năm
của Phật Giáo Hòa Hảo.
Trong thành phần Ủy Ban chọn Quốc Ca và Quốc Kỳ cho Quốc Gia VN độc lập,
lúc đó có Nguyễn Hữu Thiều là chủ tịch, cùng các đại diện Ðỗ Quang Giai
(Miền Bắc), Trần Văn Lý (Miền Trung), Nguyễn Văn Xuân (Miền Nam) cùng
hai đại diện của Phật Giáo Hòa Hảo và đạo Cao Ðài. Cuộc triển lãm năm
mẫu cờ tại Phòng Khánh Tiết Sài Gòn. Cuối cùng Uỷ Ban đã quyết định chọn
Lá Cờ Nền Vàng Ba Sọc Ðỏ, làm Quốc Kỳ của Quốc Dân và Quốc Gia VN.
Sự kiện lịch sử trên, về sau được Cựu Hoàng cũng là cựu Quốc Trưởng Bảo
Ðại, đề cập tới trong tác phẩm “Con Rồng Việt Nam (Le Dragon D’Annam)”,
xuất bản năm 1990. Ngày 5-6-1949, trên chiến hạm Duguay Trovin, bỏ neo
trong vịnh Hạ Long. Lúc đó trên tàu có sự hiện diện của Quốc Trưởng Bảo
Ðại, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, Cao Uỷ Pháp tại Ðông Dương là Emile
Bollaert đại diện nước Pháp, thừa nhận nền độc lập của VN, mà quốc kỳ là
lá Cờ Vàng ba sọc đỏ như chúng ta hiện tại đang trân quý trên khắp mọi
nẻo đường lưu vong hải ngoại và cả trong hồn tim của triệu triệu người
VN trong nước đang sống nơi xã nghĩa thiên đàng.
Cho nên Lá Cờ Vàng Ba Sọc Ðỏ có một ý nghĩa khác biệt với Lá Cờ Máu của
cộng sản VN, vì nó không phải là của riêng bất cứ ai, từ Bảo Dại tới
Nguyễn Văn Xuân, Ngô Ðình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu, Trần Văn Hương hay
Dương Văn Minh. Trong khi đó là cờ máu sao vàng, từ hình thức tới nội
dung là tài sản riêng của đệ tam cộng sản quốc tế, của Liên Xô, Trung
Cộng và Việt Cộng. Ðó cũng là lý do thiêng liêng mà người Việt qua mọi
giai đoạn lịch sử, từ trong nước cho tới cuộc sống lưu vong, vẫn quyết
tâm gìn giữ và đấu tranh để quốc tế công nhận, dù hiện nay người Việt
quốc gia không có lãnh thổ, từ sau ngày 30-4-1975, quốc hận, gia vong,
đổi đời, súc vật lên làm chánh quyền, cai trị cả nước.
Lá quốc kỳ VN Mầu Vàng ba sọc Đỏ, là biểu tượng cao quý nhất trong linh
hồn người Việt. Tháng 7-1954 hơn hai triệu người đất Bắc và các tỉnh
miền Trung bên kia vĩ tuyến 17 vì công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ của
quốc dân, nên cắt ruột gạt nước mắt, bỏ xứ vào Nam tìm tự do dưới bóng
lá quốc kỳ màu vàng. Ngày 30-4-1975 người Việt lại bỏ nước ra đi vì
không sống nổi đưới lá cờ máu của đảng cộng sản, cho tới ngày nay, lập
trường chính trị vẫn không hề thay đổi.
Lá Cờ của quốc dân VN hiện tại, nền màu vàng, hình chữ nhật bề ngang
bằng 2/3 chiều dài. Trên nền vàng, ở phần giữa là ba sọc đỏ có kích
thước bằng nhau. Màu vàng của lá cờ tượng trưng cho dân tộc VN, trong
cộng đồng các dân tộc Châu Á da vàng. Màu đỏ tượng trưng cho sự đấu
tranh gian khổ, đẫm đầy huyết hận, nước mắt đoanh tròng, trong suốt
chiều dài của lịch sử chống ngăn ngoại xâm. Riêng Ba sọc đỏ tượng trưng
cho ba phần của đất nước VN.
Lúc đó, chính ký giả Nguyễn Kiên Giang (tên thật Lý Thanh Cần), giữ chức
Giám Ðốc Phòng Báo Chí thời Thủ Tướng Xuân. Ông là người được chính phủ
giao phó thực hiện lá quốc kỳ. Song song Thủ Tướng Xuân còn chấp nhận
bài hát “Thanh Niên Hành khúc” của Lưu Hữu Phước sáng tác làm Quốc Ca,
vì lúc đó đương sự cũng như hằng triệu triệu thanh niên nam nữ VN yêu
nước, đang dấn thân đấu tranh chống thực dân Pháp, trong hàng ngũ Việt
Minh... nên tim óc, chữ nghĩa, chỉ hướng về hồn nước, hồn người. Ðó cũng
là lý do mà Chính phủ VNCH khi trước và Cộng Ðồng Người Việt Quốc Gia
Hải Ngoại hiện nay, không thay đổi bài hát nào khác, dù bài “VN-VN” của
Phạm Duy, rất được nhiều người ưa thích nên đề nghị dùng nó để thay thế
bài hát của họ Lưu.
Cũng liên quan tới Lịch sử Lá Quốc Kỳ, trong tác phẩm “Việt Nam Nhân
Chứng”, cựu tướng Trần Văn Ðôn đã viết là, chính ông ta và tướng Lê Văn
Kim, là tác giả đã đề nghị thực hiện quốc kỳ và quốc ca VN hiện tại.
Nhưng sự xác nhận trên, chẳng những bị cụ Trần Văn Ân là nhân chứng, tác
giả cờ và quốc ca, cực lực phản đối, mà còn bị nhiều người gạt bỏ không
tin là sự thật. Bởi vào năm 1948, Trần văn Ðôn cũng như Lê Văn Kim...
chỉ là sĩ quan cấp nhỏ trong quân đội Pháp, thì chừng nào mới tới phiên
được mời vào phòng hội, để nghị sự một vấn đề trong đại của quốc gia lúc
đó, chỉ có Nguyên Thủ, các cấp Bộ Trưởng, Thủ Hiến ba kỳ và lãnh đạo cao
cấp của của các giáo phái... mới được mời họp với ý kiến và quyết định.
Vậy ta thử hỏi sau ba mươi bảy năm chiến tranh chấm dứt (30/4/1975 –
11/2012) kẻ chiến thắng là CS đã làm được những gì, để mang tới phúc
lợi, no ấm cho dân tộc VN? Trong thời gian đó, đất nước chúng ta có được
độc lập tự do hay không? Cứ nhìn kết quả mà không cần phải đợi câu trả
lời.
Thật sự cho tới bây giờ, đất nước VN vẫn là một quê hương bị đọa đày
tang tóc khổ đau. Dân chúng đại đa số nghèo đói lạc hậu. Xã hội băng
hoại, kỷ cương tan nát, đạo đức suy đồi và oán thù chất ngất vì hố phân
chia mọi thành phần trong nước, càng lúc càng sâu thẳm không biết đâu mà
so sánh. Trong lúc bọn cán bộ viên chức đảng nhà nước, bọn Việt
gian-Việt kiều cò mồi, bọn tư bản đỏ trắng tại VN càng lúc càng giàu có
vinh hiển tột cùng với tiền tỷ vàng tạ, thì người dân cả nước từ nông
dân, người đánh cá, cho tới kẻ lạo động, gần như kiếm ăn từng bữa. Như
vậy tám mươi năm qua, nói là đi làm cách mạng để giải phóng nước nhà và
người dân bị ngoại xâm kềm kẹp. Thế nhưng ba mươi bảy năm hòa bình, giờ
tính lại sổ đời, nước vẫn bị ngoại bang thao túng, không phải chỉ có
Nga-Trung Cộng mà cả khối tư bản Mỹ, Nhật, Âu Châu, Nam Hàn, Ðài
Loan-Singapore.... Còn người dân thì cuộc sống còn thua cả thời Pháp
Thuộc, nói chi tới Hai mươi năm VNCH.
Hơn ba mươi bảy năm đổi đời rồi, cho dù Bắc Bộ Phủ có gian ngoan xảo trá
tới đâu, bọn Việt gian biển lận thế nào, thì người trong nước cũng như ở
hải ngoại, ai nấy đều hiểu tất cả tấn thảm kịch VN. Tất cả chỉ do bàn
tay đẫm máu của băng đảng Hồ Chí Minh dàn dựng và thao túng mà thôi.
Ba mươi bảy năm nói là thống nhất nhưng Bắc-Nam cũng vẫn là Nam-Bắc. Lúc
nào cũng to mồm lớn miệng nói là tự do-độc lập thế nhưng mọi việc lớn
nhỏ của nước, đều do bàn tay tối cao của Liên Xô-Trung Cộng, nay lại
thêm bàn tay lông lá của lái súng Mỹ quyết định giùm.
Gần hai trăm năm trước (1858), vua Tự Ðức nhà Nguyễn vì thiển cận, không
chịu nghe theo lời canh tân đất nước của các sĩ phu trí thức thời đó như
Nguyễn Trường Tộ, Ðinh văn Ðiền, Bùi Viện... mà cứ chạy theo ôm chân
người Tàu lúc đó cũng lạc hậu yếu hèn, nên rốt cục dân tộc phải bị thực
dân Pháp đô hộ đày đọa gần 100 năm tủi nhục thương đau. Ngày nay Việt
Cộng cũng đã bước vào lối mòn năm cũ, đã và đang ôm chân Tàu đỏ lẩn Tàu
trắng một cách tận tuyệt, để có một chỗ dựa an toàn cho đảng sinh tồn.
Rồi tháng lại ngày qua làm ngơ nhắm mắt, mặc kệ cho đồng bào cả nước
càng lúc càng lầm than đói rách, qua cái vỏ phát triển tiến bộ, được sơn
phết và tuyên truyền, khiến cho bất cứ ai còn một chút hơi hám của con
người, thấy nó cũng phải đau lòng cho vận nước, chỉ vì một gã Hồ Chí
Minh trôi sông lạc chợ, đã làm cho non sông gấm vóc phải tan hoang,
không biết đến bao giờ mới được quang phục.
Ba mươi bảy năm rồi, Việt Cộng vẫn là Việt Cộng, dù ngày nay hình người
có thay đổi từ quần áo vải thô sang lụa tơ gấm nhiễu. Tất cả vẫn nguyên
vết như cái thuở hồng hoang mới rời hang Pắc-Bó, rừng Bắc Sơn hay chui
ra trong các hang Củ Chi, Vĩnh Mốc. Vẫn đảng cộng sản là trên hết, còn
nước thì nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cả nước, đều là tài sản của đảng,
của cán bộ nên cứ ngang nhiên xén bán, cầm thế, mà không cần biết tới
hậu quả di hại cho con cháu mai sau.
Cũng không thể đứng nhìn đồng bào cả nước, nhất là phụ nữ đã phải bán
trôn khắp thế giới để nuôi miệng, bán mạng để sống. Cũng không thể bắt
người Việt hải ngoại cứ đổ vỏ cho kẻ ăn ốc là bọn cộng sản và đám việt
gian, việt kiều tay sai nằm vùng, bằng cách mỗi lần có thiên tai hoạn
nạn, thì lại cứ nhân danh này này nọ nọ, bắt đồng bào gửi tiền bạc về
nước, để bọn lãnh đạo Bắc Bộ Phủ vểnh râu làm giàu trên xương máu mồ hôi
nước mắt của đồng bào tị nạn.
Cũng không thể để cho lá cờ máu và những tên quốc tặc, hiện diện tuyên
truyền, trong những nơi chốn, có người Việt tị nạn sinh sống, mà điển
hình là vụ tên Trần Trường treo cờ máu và ảnh Hồ Tặc tại Tiểu Sài Gòn,
vào dịp Tết Kỷ Dậu 1999. Sau rốt cũng không cho VC tiếp tục lộng hành,
toa rập với đám tư bản bất lương Tây phương, Nam Hàn, Nhật Bản, Tàu
Trắng và tàn độc nhất là Trung Cộng, lũng đoạn kinh tế, phá nát kỷ cương
và chia xén lãnh thổ VN.
Tám mươi năm qua, người Việt đã trăm lần hòa hợp, hòa giải, hòa bình với
cộng sản nhưng trăm lần như một, lần nào cũng bị chúng xảo quyệt, lường
gạt, đâm sau lưng, mà lần cuối cùng đau đớn nhất là ngày 30-4-1975. Cho
nên ba mươi bảy năm nay, kể cả trẻ con cũng không còn ai tin vào sự hứa
hẹn của cộng sản, trừ bọn cò mồi không tim óc dù đã có cả núi bằng cấp
và chữ nghĩa. Bởi vậy chỉ còn một cách duy nhất, là cả nước đứng dậy phá
tan xiềng xích nô lệ của đảng cộng sản, để đòi lại những gì mà chúng ta
đã mất, trong đó quan trọng nhất là quyền sống của kiếp người.
Chừng nào CSVN còn nắm giữ quyền hành và súng đạn trong tay, ngày đó
đừng hòng chúng san sẻ hay nhượng bộ bất cứ ai, nhất là giai đoạn đảng
đang sống sướng trên núi bạc rừng vàng, lại được cả Tàu và Mỹ hợp tác
chia phần, nên chỉ cần “đảng làm giàu mà thôi”, còn nhân quyền, tự do
dân chủ, chủ quyền đất nước, sinh mạng người dân.... Tất cả coi như là
cỏ rác.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 11-2012
MƯỜNG GIANG
Nguồn: BKT sưu tầm tại đây:
http://hon-viet.co.uk/MuongGiang_KhongCoLaCoVangBaSocDoBieuTuongCuaNguoiVietTuDo....htm
PHỤ LỤC - HÌNH ẢNH
Đây, Sông Bến Hải phân chia nước Việt nam
Đầu cầu phía VNCH
Đầu cầu phía miền Bắc, csVN
Một phiên đổi lính canh gác phía VNCH
Lính canh gác hai bên cầu
Sinh Tồn chuyển