Tham Khảo
Kinh tế Nga đang ngày càng lệ thuộc Trung Quốc
Quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với nước Nga.
Quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với nước Nga.
Reuters đưa tin, ngày 4/7 Ngân hàng Trung ương Nga (CBR) thông báo bắt
đầu lưu trữ đồng nhân dân tệ (CNY), trong khi tính đến cuối năm 2015,
CNY chỉ chiếm 0,1% trong tổng dự trữ ngoại tệ của nước Nga.
Động thái của CBR diễn ra sau chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir
Putin đến Trung Quốc hồi tháng trước và kết quả lả có tới hàng chực hiệp
định hợp tác Nga – Trung được ký kết.
Tài liệu của Ngân hàng Trung ương Nga cho thấy, tính đến cuối năm 2015,
đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong dự trữ ngoại tệ của CBR là
47,5%.
Trong khi tỷ trọng đồng euro đã giảm từ mức 38,9% vào cuối quý III/2015
xuống 37%, và tỷ trọng đồng bảng Anh tăng từ 9,5% lên 9,9%, theo Bnews
ngày 5/7.
Như vậy, tỷ lệ của đồng CNY sẽ thay đổi sau thông báo của CBR, song nó
lại có thể gây ra nhiều hiệu ứng không tốt cho kinh tế Nga.
Tổng thống Nga Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ảnh: Tân Hoa Xã. |
Có thể thấy rằng, động thái của CBR diễn ra khi chỉ còn chưa đầy 3 tháng
nữa là Nghị quyết của Hội đồng Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF)
có hiệu lực từ ngày 1/10/2016, giúp cho đồng CNY trở thành 1 trong 5
đồng tiền phổ biến trong hệ thống thanh toán toàn cầu.
Gắn thực trạng quốc tế hoá của đồng CNY với tình hình kinh tế Nga hiện
nay cho thấy lựa chọn này của Nga là quá mạo hiểm, sẽ gây thiệt hại rất
lớn cho nước Nga đang trong vòng vây cấm vận – giá dầu.
Chọn sai thời điểm
Như người viết từng phân tích, đồng CNY bị hạn chế trong việc quốc tế
hoá là một thất bại của Trung Quốc, nó có thể khiến cho chương trình
“tái cơ cấu” của Tập Cận Bình phá sản.
Vì vậy, Bắc Kinh đã tìm mọi cách để IMF đưa đồng CNY vào rổ tiền tệ phổ
biến trong hệ thống thanh toán quốc tế, hay còn gọi theo từ chuyên môn
là giỏ định giá Quyền rút vốn đặc biệt (SDR). Ngày 30/11/2015, Hội đồng
Tổng giám đốc IMF đã ra quyết định về việc này.
Theo đó, kể từ ngày 1/10/2016, đồng CNY sẽ chiếm 10,92% trong SDR, tuy nhiên đó là theo nghị quyết của IMF.
Thực tế thì từ khi định chế tài chính này có quyết định về hỗ trợ việc
quốc tế hoá đối với đồng CNY đến nay, tỷ lệ sử dụng đồng CNY trong thanh
toán quốc tế lại giảm đi.
Cụ thể là hiện nay chỉ có khoảng 0,5% lượng thanh toán quốc sử dụng đồng
CNY. Điều đó khiến việc quốc tế hoá đồng CNY có nguy cơ chỉ có trong
quyết định của IMF mà thôi.
Trong khi từ đầu năm tới nay, đồng CNY liên tục mất giá trên thị trường
tiền tệ và gần đây nhất là ngày 6/7 vừa qua, đồng CNY đã mất giá tới gần
3% so với hồi tháng 1/2016 và xuống thấp nhất từ năm 2010, theo
Bloomberg.
Điều đó khiến cho kinh tế Trung Quốc gánh nhiều thiệt hại vì GDP co lại,
nợ công phình ra và những tài sản được đảm bảo bằng đồng CNY giảm giá
trị. Đồng CNY mất giá cũng khiến cho những hoạt động kinh tế giao dịch
qua CNY sẽ bị thiệt hại.
Càng gần tới “ngày vui” thì đồng CNY càng ảm đạm trên thị trường tiền tệ
và việc có một cú hích, một lực đẩy là cực kỳ quan trọng cho việc hiện
thực hoá nghị quyết của IMF.
Bắc Kinh thì không thể dùng công cụ tài chính tác động vào đồng CNY để tạo ra điều ấy.
Bởi lẽ thực tế chứng minh, chính phủ Trung Quốc càng dùng đồng CNY như
một công cụ hỗ trợ thị trường tài chính Trung Quốc thì tỷ lệ quốc tế hoá
đồng CNY càng bị co lại, hiệu ứng của nó giống như “con hát mẹ khen”
vậy.
Có lẽ, trong mơ Bắc Kinh cũng không nghĩ Moscow có quyết định tăng cường
sử dụng đồng CNY khi chỉ hơn 2 tháng nữa là nghị quyết của IMF có giá
trị.
Thế là Moscow trở thành thực thể kinh tế đi tiên phong trong vấn đề cứu
đồng CNY có thể thoát khỏi việc giảm tới “điểm chết” trước khi IMF cứu
nó. Thế là Bắc Kinh nhìn vào Moscow để hy vọng và có lẽ Kremlin sẽ không
thể để Trung Nam Hải phải thất vọng khi triển khai quyết định của mình.
Tuy nhiên, hành động “cầm đèn chạy trước ô tô” này có thể là “lợi bất cập hại” với kinh tế Nga bởi 2 lẽ sau đây.
Thứ nhất, khi đồng CNY mất giá thì những định chế kinh tế, những công cụ tài chính gắn với nó sẽ có những thiệt hại.
Tỷ lệ thiệt hại sẽ gia tăng theo mức độ ảnh hưởng của đồng CNY với những
công cụ tài chính đó, theo tỷ trọng đồng CNY trong các hoạt động của
những định chế kinh tế - tài chính đó.
Kinh tế Nga vốn đang ốm yếu tự nhiên gánh thêm những thiệt hại “trời ơi” này.
Không những thế, thiệt hại của kinh tế Nga lại còn luôn lớn hơn thiệt hại của kinh tế Trung Quốc khi sử dụng đồng CNY.
Vì trong bất kỳ hoạt động kinh tế nào, các thực thể, định chế tài chính –
kinh tế của Nga luôn phải tiến hành nhiều hơn của Trung Quốc ít nhất
một nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đương nhiên Nga phải thêm một khoản chi
phí phát sinh.
Có thể hình dung qua hai chu trình kinh tế sau:
Các định chế kinh tế Trung Quốc khi chuyển đổi CNY sang USD chỉ cần một
nghiệp vụ kinh tế: CNY → USD, chỉ mất một lần chi phí giao dịch.
Các định kinh tế Nga khi chuyển đổi CNY sang USD thì phải cần tới hai
nghiệp vụ kinh tế: RUB → CNY → USD, phải trả hai lần chi phí giao
dịch. (RUB = đồng Rúp Nga).
Vậy nhưng, thiệt hại của kinh tế Nga cũng chưa hết, bởi đồng CNY trong
nền tài chính Nga chỉ là công cụ tài chính phái sinh nên nó luôn bị tác
động bởi cả kinh tế Trung Quốc và các thực thể kinh tế khác. Nghĩa là
đồng CNY đã tạo nên hai “gọng kìm o ép” đối với kinh tế - tài chính Nga.
Có thể hình dung điều này giống như việc mua vàng tại một cửa hàng ở Hà
Nam mà lên bán tại một cửa hàng ở Hà Nội, khác với mua tại cửa hàng nào
bán tại cửa hàng đó vậy.
Thứ hai, hành động đỡ đòn cho Bắc Kinh vô tình đã tạo ra điều kiện cho
Bắc Kinh sử dụng như nó một loại công cụ chèn ép Moscow trong việc triển
khai những hiệp định, thoả thuận trong quan hệ hợp tác Nga – Trung.
Trung Nam Hải có thể dựa vào tỷ lệ sử dụng đồng CNY trong nền tài chính
của Nga như một công cụ đo lường thiện chí của Kremlin. Thế là, Moscow
tự nhiên trao bảo bối cho Bắc Kinh để họ điều khiển, điều tiết chính
mình.
Những cái bánh vẽ vốn gây thất vọng cho Moscow và Bắc Kinh luôn phải tìm
cách vỗ về mỗi khi nhận thấy những phản ứng bất lợi từ xứ sở bạch
dương.
Nhưng bây giờ Bắc Kinh không cần phải vỗ về nữa mà chỉ cần sử dụng “công
cụ đo thiện chí” là có thể khiến cho Moscow nhận ra mình cần phải làm
gì.
Càng sử dụng nhiều CNY càng thiệt hại cho kinh tế Nga vì khả năng quốc
tế hoá của đồng CNY hạn chế, nhưng như vậy mới được xem là có thiện chí
với Bắc Kinh.
Hành động “tự mua dây buộc mình” của Moscow là rất nguy hại khi nó có
điểm khởi phát song lại không thể có điểm dừng vì nếu dừng nghĩa là
thiếu thiện chí và đương nhiên sẽ lãnh hậu quả bằng sự lạnh nhạt của Bắc
Kinh.
Trung Nam Hải chắc chắn sẽ sử dụng “công cụ đo thiện chí” này để cho
Kremlin ăn nhiều bánh vẽ hơn nữa. Cá nhân người viết cho rằng, việc kinh
tế Nga chuyển từ phụ thuộc sang lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc ngày
càng trở nên rõ ràng hơn qua điều kiện triệt buộc này với nước Nga.
Hệ lụy và hậu họa của Kremlin gắn liền với việc quốc tế hoá đồng CNY sẽ ngày càng tăng lên.
Điều này không khó nhận diện, đó là Moscow phải ngày đêm thấp thỏm lo
âu, nếu qua ngày 1/10/2016 mà đồng CNY trên thế giới vẫn không có ai
muốn tiêu xài thì nước Nga phải tiêu xài nhiều hơn nữa.
Bởi lẽ tác hiệu của “công cụ đo thiện chí” khiến cho Moscow luôn phải căng mình chứng minh sự nghĩa hiệp với Bắc Kinh.
Chọn sai hình thức
Việc Moscow chọn sử dụng đồng CNY trước khi nghị quyết của IMF có hiệu
lực đã là một sai lầm tai hại, việc chọn hình thức sử dụng đồng tiền của
Trung Quốc cũng nguy hại khôn cùng.
Hình minh họa: Live Mint. |
Đó là thay vì chỉ đưa đồng CNY vào lưu thông thì Moscow lại đưa đồng CNY vào lưu trữ, nghĩa là cả lưu thông và dự trữ.
Điều này khiến cho “công cụ đo thiện chí” sẽ bó Moscow ngày càng chặt
hơn và nếu thoát muốn Trung thì quan hệ Nga – Trung sẽ có thể đổ vỡ.
Nếu Moscow chỉ đưa đồng CNY vào lưu thông trên thị trường tiền tệ Nga
thì việc sử dụng đồng CNY sẽ phụ thuộc người dân Nga và hệ thống doanh
nghiệp Nga.
Họ sẽ quyết định sử dụng hay không khi nhận thấy sự tiện lợi hay bất lợi
của đồng CNY trong cuộc sống hàng ngày hay trong hoạt động sản xuất –
kinh doanh của họ.
Điều đó khiến cho việc quốc tế hoá đồng CNY trên thị trường tiền tệ Nga
đã được chính phủ Nga khởi phát, còn việc tiếp tục và gia tăng tỷ lệ thì
chính phủ Nga không thể can thiệp.
Tuy nhiên, khi quyết định gia tăng đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của Nga thì sự việc không còn đơn giản nữa.
Bởi lẽ, tỷ lệ dự trữ, cách thức dự trữ, phương tiện dự trữ đều do chính
phủ Nga quyết định. Vì vậy Kremlin không thể viện lý do này, lý do khác
khi hạn chế sử dụng đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của mình.
Dừng lại hay giảm đi đều bị xem xét bởi “công cụ đo thiện chí” và sức ép của Bắc Kinh sẽ tăng lên theo động thái đó.
Tỷ lệ đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của Nga sẽ phải luôn lớn hơn tỷ
lệ quốc tế hoá đồng CNY trong SDR theo nghị quyết của IMF, nghĩa là
khoảng 10,92%, bởi nếu thấp hơn thì Moscow sẽ lại bị “công cụ đo thiện
chí” lượng hoá sự chân thành với Bắc Kinh.
Tự nhiên, gần 11% quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia của Nga phụ thuộc vào giá
trị của một đồng tiền mà hiện nay chưa tới 0,5% người tiêu dùng và các
thực thể kinh tế - tài chính trên thế giới sử dụng là quá mạo hiểm.
Điều đó có thể được chứng minh qua việc chính phủ Trung Quốc vừa tăng 20
tỷ USD vào quỹ dự trữ ngoại tệ của nước này, theo Bloomberg.
Điều này nhằm đảm bảo khả năng cứu đồng CNY nếu như thị trường tiền tệ
bất ổn – như chính phủ Trung Quốc đã hành động trong năm 2015. Vậy nhưng
chính phủ Nga thì làm ngược lại.
Có người cho rằng, tỷ lệ đồng CNY sẽ không lớn trong quỹ dự trữ của Nga, song theo người viết sự việc sẽ không như vậy.
Bởi lẽ “công cụ đo thiện chí” có thể được xem là “cây gậy đa năng” mà
Bắc Kinh có thể quất vào nền kinh tế Nga bất cứ lúc nào, nếu như muốn
gây hại cho đối tác.
Cá nhân người viết cho rằng, quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ
tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với
nước Nga.
Nó tai hại vì kinh tế nước Nga sẽ mất đi những khoản tài chính không
nhỏ, nhất là trong thời buổi kinh tế khó khăn bởi nguy hại của 2 gọng
kìm giá dầu – cấm vận hiện nay.
Nó tai hại bởi nó có thể giúp kinh tế Trung Quốc hưởng lợi tối đa từ kinh tế Nga, còn kinh tế Nga thì chỉ nằm ở mức tối thiểu.
Đặc biệt, nguy hại lớn nhất của nó là tạo cơ hội cho Bắc Kinh bất cứ lúc
nào cũng có thể “dạy” cho Moscow những bài học về thiện chí của tình
bằng hữu, của liên minh chiến lược Nga – Trung.
Và qua đó Trung Nam Hải sẽ vận dụng tối đa những công cụ nguy hiểm cho
hành động hại người lợi mình của họ mà Moscow luôn phải ngậm bồ hòn khi
không thể giãi bày.
Có thể thấy rằng cái “công cụ đo thiện chí” mà Moscow trang bị cho Bắc
Kinh chẳng khác gì trao cho đối thủ vũ khí có thể khống chế, thậm chí
sát hại sát mình bất cứ lúc nào tuỳ ý.
Tóm lại, việc Ngân hàng Trung ương Nga quyết định đưa đồng CNY vào lưu
trữ tại Nga, trước khi nghị quyết của IMF về việc hỗ trợ đồng CNY quốc
tế có hiệu lực là một việc làm gây nên những thiệt hại rất lớn cho nước
Nga.
Ngọc Việt
(Đất Việt)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Kinh tế Nga đang ngày càng lệ thuộc Trung Quốc
Quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với nước Nga.
Quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với nước Nga.
Reuters đưa tin, ngày 4/7 Ngân hàng Trung ương Nga (CBR) thông báo bắt
đầu lưu trữ đồng nhân dân tệ (CNY), trong khi tính đến cuối năm 2015,
CNY chỉ chiếm 0,1% trong tổng dự trữ ngoại tệ của nước Nga.
Động thái của CBR diễn ra sau chuyến thăm của Tổng thống Nga Vladimir
Putin đến Trung Quốc hồi tháng trước và kết quả lả có tới hàng chực hiệp
định hợp tác Nga – Trung được ký kết.
Tài liệu của Ngân hàng Trung ương Nga cho thấy, tính đến cuối năm 2015,
đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong dự trữ ngoại tệ của CBR là
47,5%.
Trong khi tỷ trọng đồng euro đã giảm từ mức 38,9% vào cuối quý III/2015
xuống 37%, và tỷ trọng đồng bảng Anh tăng từ 9,5% lên 9,9%, theo Bnews
ngày 5/7.
Như vậy, tỷ lệ của đồng CNY sẽ thay đổi sau thông báo của CBR, song nó
lại có thể gây ra nhiều hiệu ứng không tốt cho kinh tế Nga.
Tổng thống Nga Putin và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, ảnh: Tân Hoa Xã. |
Có thể thấy rằng, động thái của CBR diễn ra khi chỉ còn chưa đầy 3 tháng
nữa là Nghị quyết của Hội đồng Tổng giám đốc Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF)
có hiệu lực từ ngày 1/10/2016, giúp cho đồng CNY trở thành 1 trong 5
đồng tiền phổ biến trong hệ thống thanh toán toàn cầu.
Gắn thực trạng quốc tế hoá của đồng CNY với tình hình kinh tế Nga hiện
nay cho thấy lựa chọn này của Nga là quá mạo hiểm, sẽ gây thiệt hại rất
lớn cho nước Nga đang trong vòng vây cấm vận – giá dầu.
Chọn sai thời điểm
Như người viết từng phân tích, đồng CNY bị hạn chế trong việc quốc tế
hoá là một thất bại của Trung Quốc, nó có thể khiến cho chương trình
“tái cơ cấu” của Tập Cận Bình phá sản.
Vì vậy, Bắc Kinh đã tìm mọi cách để IMF đưa đồng CNY vào rổ tiền tệ phổ
biến trong hệ thống thanh toán quốc tế, hay còn gọi theo từ chuyên môn
là giỏ định giá Quyền rút vốn đặc biệt (SDR). Ngày 30/11/2015, Hội đồng
Tổng giám đốc IMF đã ra quyết định về việc này.
Theo đó, kể từ ngày 1/10/2016, đồng CNY sẽ chiếm 10,92% trong SDR, tuy nhiên đó là theo nghị quyết của IMF.
Thực tế thì từ khi định chế tài chính này có quyết định về hỗ trợ việc
quốc tế hoá đối với đồng CNY đến nay, tỷ lệ sử dụng đồng CNY trong thanh
toán quốc tế lại giảm đi.
Cụ thể là hiện nay chỉ có khoảng 0,5% lượng thanh toán quốc sử dụng đồng
CNY. Điều đó khiến việc quốc tế hoá đồng CNY có nguy cơ chỉ có trong
quyết định của IMF mà thôi.
Trong khi từ đầu năm tới nay, đồng CNY liên tục mất giá trên thị trường
tiền tệ và gần đây nhất là ngày 6/7 vừa qua, đồng CNY đã mất giá tới gần
3% so với hồi tháng 1/2016 và xuống thấp nhất từ năm 2010, theo
Bloomberg.
Điều đó khiến cho kinh tế Trung Quốc gánh nhiều thiệt hại vì GDP co lại,
nợ công phình ra và những tài sản được đảm bảo bằng đồng CNY giảm giá
trị. Đồng CNY mất giá cũng khiến cho những hoạt động kinh tế giao dịch
qua CNY sẽ bị thiệt hại.
Càng gần tới “ngày vui” thì đồng CNY càng ảm đạm trên thị trường tiền tệ
và việc có một cú hích, một lực đẩy là cực kỳ quan trọng cho việc hiện
thực hoá nghị quyết của IMF.
Bắc Kinh thì không thể dùng công cụ tài chính tác động vào đồng CNY để tạo ra điều ấy.
Bởi lẽ thực tế chứng minh, chính phủ Trung Quốc càng dùng đồng CNY như
một công cụ hỗ trợ thị trường tài chính Trung Quốc thì tỷ lệ quốc tế hoá
đồng CNY càng bị co lại, hiệu ứng của nó giống như “con hát mẹ khen”
vậy.
Có lẽ, trong mơ Bắc Kinh cũng không nghĩ Moscow có quyết định tăng cường
sử dụng đồng CNY khi chỉ hơn 2 tháng nữa là nghị quyết của IMF có giá
trị.
Thế là Moscow trở thành thực thể kinh tế đi tiên phong trong vấn đề cứu
đồng CNY có thể thoát khỏi việc giảm tới “điểm chết” trước khi IMF cứu
nó. Thế là Bắc Kinh nhìn vào Moscow để hy vọng và có lẽ Kremlin sẽ không
thể để Trung Nam Hải phải thất vọng khi triển khai quyết định của mình.
Tuy nhiên, hành động “cầm đèn chạy trước ô tô” này có thể là “lợi bất cập hại” với kinh tế Nga bởi 2 lẽ sau đây.
Thứ nhất, khi đồng CNY mất giá thì những định chế kinh tế, những công cụ tài chính gắn với nó sẽ có những thiệt hại.
Tỷ lệ thiệt hại sẽ gia tăng theo mức độ ảnh hưởng của đồng CNY với những
công cụ tài chính đó, theo tỷ trọng đồng CNY trong các hoạt động của
những định chế kinh tế - tài chính đó.
Kinh tế Nga vốn đang ốm yếu tự nhiên gánh thêm những thiệt hại “trời ơi” này.
Không những thế, thiệt hại của kinh tế Nga lại còn luôn lớn hơn thiệt hại của kinh tế Trung Quốc khi sử dụng đồng CNY.
Vì trong bất kỳ hoạt động kinh tế nào, các thực thể, định chế tài chính –
kinh tế của Nga luôn phải tiến hành nhiều hơn của Trung Quốc ít nhất
một nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Đương nhiên Nga phải thêm một khoản chi
phí phát sinh.
Có thể hình dung qua hai chu trình kinh tế sau:
Các định chế kinh tế Trung Quốc khi chuyển đổi CNY sang USD chỉ cần một
nghiệp vụ kinh tế: CNY → USD, chỉ mất một lần chi phí giao dịch.
Các định kinh tế Nga khi chuyển đổi CNY sang USD thì phải cần tới hai
nghiệp vụ kinh tế: RUB → CNY → USD, phải trả hai lần chi phí giao
dịch. (RUB = đồng Rúp Nga).
Vậy nhưng, thiệt hại của kinh tế Nga cũng chưa hết, bởi đồng CNY trong
nền tài chính Nga chỉ là công cụ tài chính phái sinh nên nó luôn bị tác
động bởi cả kinh tế Trung Quốc và các thực thể kinh tế khác. Nghĩa là
đồng CNY đã tạo nên hai “gọng kìm o ép” đối với kinh tế - tài chính Nga.
Có thể hình dung điều này giống như việc mua vàng tại một cửa hàng ở Hà
Nam mà lên bán tại một cửa hàng ở Hà Nội, khác với mua tại cửa hàng nào
bán tại cửa hàng đó vậy.
Thứ hai, hành động đỡ đòn cho Bắc Kinh vô tình đã tạo ra điều kiện cho
Bắc Kinh sử dụng như nó một loại công cụ chèn ép Moscow trong việc triển
khai những hiệp định, thoả thuận trong quan hệ hợp tác Nga – Trung.
Trung Nam Hải có thể dựa vào tỷ lệ sử dụng đồng CNY trong nền tài chính
của Nga như một công cụ đo lường thiện chí của Kremlin. Thế là, Moscow
tự nhiên trao bảo bối cho Bắc Kinh để họ điều khiển, điều tiết chính
mình.
Những cái bánh vẽ vốn gây thất vọng cho Moscow và Bắc Kinh luôn phải tìm
cách vỗ về mỗi khi nhận thấy những phản ứng bất lợi từ xứ sở bạch
dương.
Nhưng bây giờ Bắc Kinh không cần phải vỗ về nữa mà chỉ cần sử dụng “công
cụ đo thiện chí” là có thể khiến cho Moscow nhận ra mình cần phải làm
gì.
Càng sử dụng nhiều CNY càng thiệt hại cho kinh tế Nga vì khả năng quốc
tế hoá của đồng CNY hạn chế, nhưng như vậy mới được xem là có thiện chí
với Bắc Kinh.
Hành động “tự mua dây buộc mình” của Moscow là rất nguy hại khi nó có
điểm khởi phát song lại không thể có điểm dừng vì nếu dừng nghĩa là
thiếu thiện chí và đương nhiên sẽ lãnh hậu quả bằng sự lạnh nhạt của Bắc
Kinh.
Trung Nam Hải chắc chắn sẽ sử dụng “công cụ đo thiện chí” này để cho
Kremlin ăn nhiều bánh vẽ hơn nữa. Cá nhân người viết cho rằng, việc kinh
tế Nga chuyển từ phụ thuộc sang lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc ngày
càng trở nên rõ ràng hơn qua điều kiện triệt buộc này với nước Nga.
Hệ lụy và hậu họa của Kremlin gắn liền với việc quốc tế hoá đồng CNY sẽ ngày càng tăng lên.
Điều này không khó nhận diện, đó là Moscow phải ngày đêm thấp thỏm lo
âu, nếu qua ngày 1/10/2016 mà đồng CNY trên thế giới vẫn không có ai
muốn tiêu xài thì nước Nga phải tiêu xài nhiều hơn nữa.
Bởi lẽ tác hiệu của “công cụ đo thiện chí” khiến cho Moscow luôn phải căng mình chứng minh sự nghĩa hiệp với Bắc Kinh.
Chọn sai hình thức
Việc Moscow chọn sử dụng đồng CNY trước khi nghị quyết của IMF có hiệu
lực đã là một sai lầm tai hại, việc chọn hình thức sử dụng đồng tiền của
Trung Quốc cũng nguy hại khôn cùng.
Hình minh họa: Live Mint. |
Đó là thay vì chỉ đưa đồng CNY vào lưu thông thì Moscow lại đưa đồng CNY vào lưu trữ, nghĩa là cả lưu thông và dự trữ.
Điều này khiến cho “công cụ đo thiện chí” sẽ bó Moscow ngày càng chặt
hơn và nếu thoát muốn Trung thì quan hệ Nga – Trung sẽ có thể đổ vỡ.
Nếu Moscow chỉ đưa đồng CNY vào lưu thông trên thị trường tiền tệ Nga
thì việc sử dụng đồng CNY sẽ phụ thuộc người dân Nga và hệ thống doanh
nghiệp Nga.
Họ sẽ quyết định sử dụng hay không khi nhận thấy sự tiện lợi hay bất lợi
của đồng CNY trong cuộc sống hàng ngày hay trong hoạt động sản xuất –
kinh doanh của họ.
Điều đó khiến cho việc quốc tế hoá đồng CNY trên thị trường tiền tệ Nga
đã được chính phủ Nga khởi phát, còn việc tiếp tục và gia tăng tỷ lệ thì
chính phủ Nga không thể can thiệp.
Tuy nhiên, khi quyết định gia tăng đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của Nga thì sự việc không còn đơn giản nữa.
Bởi lẽ, tỷ lệ dự trữ, cách thức dự trữ, phương tiện dự trữ đều do chính
phủ Nga quyết định. Vì vậy Kremlin không thể viện lý do này, lý do khác
khi hạn chế sử dụng đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của mình.
Dừng lại hay giảm đi đều bị xem xét bởi “công cụ đo thiện chí” và sức ép của Bắc Kinh sẽ tăng lên theo động thái đó.
Tỷ lệ đồng CNY trong quỹ dự trữ ngoại tệ của Nga sẽ phải luôn lớn hơn tỷ
lệ quốc tế hoá đồng CNY trong SDR theo nghị quyết của IMF, nghĩa là
khoảng 10,92%, bởi nếu thấp hơn thì Moscow sẽ lại bị “công cụ đo thiện
chí” lượng hoá sự chân thành với Bắc Kinh.
Tự nhiên, gần 11% quỹ dự trữ ngoại tệ quốc gia của Nga phụ thuộc vào giá
trị của một đồng tiền mà hiện nay chưa tới 0,5% người tiêu dùng và các
thực thể kinh tế - tài chính trên thế giới sử dụng là quá mạo hiểm.
Điều đó có thể được chứng minh qua việc chính phủ Trung Quốc vừa tăng 20
tỷ USD vào quỹ dự trữ ngoại tệ của nước này, theo Bloomberg.
Điều này nhằm đảm bảo khả năng cứu đồng CNY nếu như thị trường tiền tệ
bất ổn – như chính phủ Trung Quốc đã hành động trong năm 2015. Vậy nhưng
chính phủ Nga thì làm ngược lại.
Có người cho rằng, tỷ lệ đồng CNY sẽ không lớn trong quỹ dự trữ của Nga, song theo người viết sự việc sẽ không như vậy.
Bởi lẽ “công cụ đo thiện chí” có thể được xem là “cây gậy đa năng” mà
Bắc Kinh có thể quất vào nền kinh tế Nga bất cứ lúc nào, nếu như muốn
gây hại cho đối tác.
Cá nhân người viết cho rằng, quyết định đưa đồng nhân dân tệ vào lưu trữ
tại Nga là một quyết định cực kỳ sai lầm và hậu quả sẽ rất tai hại với
nước Nga.
Nó tai hại vì kinh tế nước Nga sẽ mất đi những khoản tài chính không
nhỏ, nhất là trong thời buổi kinh tế khó khăn bởi nguy hại của 2 gọng
kìm giá dầu – cấm vận hiện nay.
Nó tai hại bởi nó có thể giúp kinh tế Trung Quốc hưởng lợi tối đa từ kinh tế Nga, còn kinh tế Nga thì chỉ nằm ở mức tối thiểu.
Đặc biệt, nguy hại lớn nhất của nó là tạo cơ hội cho Bắc Kinh bất cứ lúc
nào cũng có thể “dạy” cho Moscow những bài học về thiện chí của tình
bằng hữu, của liên minh chiến lược Nga – Trung.
Và qua đó Trung Nam Hải sẽ vận dụng tối đa những công cụ nguy hiểm cho
hành động hại người lợi mình của họ mà Moscow luôn phải ngậm bồ hòn khi
không thể giãi bày.
Có thể thấy rằng cái “công cụ đo thiện chí” mà Moscow trang bị cho Bắc
Kinh chẳng khác gì trao cho đối thủ vũ khí có thể khống chế, thậm chí
sát hại sát mình bất cứ lúc nào tuỳ ý.
Tóm lại, việc Ngân hàng Trung ương Nga quyết định đưa đồng CNY vào lưu
trữ tại Nga, trước khi nghị quyết của IMF về việc hỗ trợ đồng CNY quốc
tế có hiệu lực là một việc làm gây nên những thiệt hại rất lớn cho nước
Nga.
Ngọc Việt
(Đất Việt)