Nhân Vật
Ký Thiệt: Ông Nguyễn Gia Kiểng và giấc mơ “hòa giải dân tộc”
Ký Thiệt - Không bao lâu sau ngày 30.4.1975, Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng đã lập ra Nhóm Thông Luận ở Paris để kêu gọi “hòa giải” với “bên thắng cuộc”.
Nghĩ rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa với ngọn đuốc Mác-Lênin là trào lưu bách chiến bách thắng của thời đại, và mơ ước được Cộng sản Hà-nội hòa giải và hòa đàm với mình, ông Nguyễn Gia Kiểng đã tỏ ra rất thức thời và “tiến bộ”. Ông ta ca ngợi VC có công thống nhất đất nước và nhìn nhận Hồ Chí Minh là người ái quốc.
Bất chấp bị nhiều người Việt tị nạn ở hải ngoại đả kích, chế giễu là ngây thơ hay… dở hơi, ông Nguyễn Gia Kiểng vẫn giữ vững lập trường không giống ai, hy vọng một ngày đẹp trời “cách mạng” sẽ nhận ra chân lý và mời ông về Việt Nam tham chánh và... thực thi chính sách “hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Nhưng, những gì xảy ra đã không giống như tiên tri của Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, VC chẳng đoái hoài gì tới sự có mặt và tiếng nói của Nhóm Thông Luận, và Khối Cộng sản Đông Âu cùng hậu phương lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Liên-Sô đã theo nhau sụp đổ tan tành, chết tức tưởi. Cộng sản VN trở thành một trong mấy đứa con mồ côi của Lênin.
Từ đó ông Nguyễn Gia Kiểng ít khi lên tiếng về chuyện “hòa giải dân tộc” với người anh em trong nước, cho tới gần đây, nhân xảy ra vụ khủng bố dã man tại Nice, một thành phố biển yên bình của nước Pháp, trong lúc dân chúng đang tập họp ăn mừng ngày Quốc Khánh 14 tháng 7, ông Kiểng đã viết một bài phân tích tình hình nước Pháp ngày nay và mổ xẻ cuộc cách mạng đẫm máu năm 1789 để rồi từ đó tìm ra chân lý mới cho một cuộc hòa giải dân tộc tại Việt Nam như sau:
..... Vết thương của cuộc Cách Mạng 1789 vẫn chưa lành vì người Pháp đã không thực hiện hòa giải dân tộc sau đó. Đã không có phục hồi danh dự và công lý cho các nạn nhân; cuộc Cách Mạng 1789 dù đã làm hàng triệu người chết oan và khiến nước Pháp kiệt quệ vẫn còn được các chính quyền long trọng kỷ niệm như một này vui. Vẫn có duyệt binh rầm rộ, ca nhạc, khiêu vũ, pháo bông v.v. khắp nơi. Quốc kỳ của Pháp vẫn là lá cờ của Cách Mạng 1789, quốc ca của Pháp vẫn là bài La Marseillaise rùng rợn kêu gọi dân Pháp "Tiến lên! tiến lên! Để máu hôi tanh tràn ngập ruộng đồng!". Tại sao? Mới đầu có lẽ do sai lầm hoặc áp lực từ cánh tả, nhất là Đảng Cộng Sản Pháp bởi vì một trong những quái thai của sự giao cấu giữa ý niệm dân chủ và chủ nghĩa lãng mạn trong Cách Mạng 1789 là chủ nghĩa cộng sản. Sau đó vì các chính quyền sợ khơi lại một thảm kịch hoặc cho rằng thời gian đã làm xong công việc của nó, và cố tự thuyết phục mình rằng cứ để các sử gia làm công việc của họ và sự vui nhộn trong ngày 14/7 cũng có tác dụng hòa hợp dân tộc. Nhưng nghĩ như vậy là sai, không thể có hòa hợp dân tộc nếu không có hòa giải dân tộc trước và hòa giải dân tộc đòi hỏi phải sòng phẳng với quá khứ. Tôi mang ơn và nợ nước Pháp rất nhiều. Nhưng lý do chính khiến tôi nghĩ nhiều về Cách Mạng 1789 là vì Việt Nam.
Hơn lúc nào hết người Việt Nam chúng ta nên suy ngẫm về bài học
của cuộc Cách Mạng Pháp 1789. Từ 71 năm qua chúng ta đã sống một thảm
kịch tương tự như Cách Mạng Pháp 1789 ở qui mô Việt Nam và chúng ta cũng
đang đứng trước nguy cơ lặp lại một thảm kịch tương tự khác.
Trước hết cuộc Cách Mạng Tháng 8/1945 tại Việt Nam đã là một sự
sao chép của Cách Mạng 1789. Cũng tàn bạo, đẫm máu dưới ảnh hưởng của
phong trào lãng mạn nở rộ từ thập niên 1930. Người ta có thể nhận thấy
sự tìm kiếm cảm giác mạnh trong chiến tranh và đập phá qua những bài hát
rất được ưa chuộng vào lúc đó như "thề phanh thây uống máu quân thù",
hay "mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai", hay "lúc phá hết phố
phường biệt ly đời gấm hoa". Giai đoạn Cách Mạng Tháng 8 cũng đã là một
giai đoạn kinh hoàng. Hàng trăm nghìn người yêu nước hoặc vô tội đã bị
ám sát hoặc thủ tiêu. Chỉ khác một điều là những người lãnh đạo Đảng
Cộng Sản Việt Nam, trước hết là ông Hồ Chí Minh, không lãng mạn như
những người cách mạng Pháp năm 1789; họ chỉ lợi dụng tâm lý lãng mạn mê
cuồng bạo lực của thanh niên lúc đó để tàn sát các đối thủ - những đảng
viên và những người bị tình nghi là đảng viên của các đảng phái quốc
gia- và thiết lập chế độ cộng sản. Và sau đó cũng là nội chiến và cũng
không có hòa giải dân tộc, Cách Mạng Tháng 8 vẫn được tôn vinh như một
ngày vui lớn, quốc kỳ vẫn là cờ đỏ sao vàng, quốc ca vẫn là bài Tiến
quân ca, những thủ phạm của cuộc thảm sát vẫn được tôn vinh như những
anh hùng dân tộc và những nạn nhân vẫn tiếp tục bị miệt thị. Kết quả là
chúng ta đã chia rẽ và tụt hậu bi đát như ngày nay.
Nhưng quan trọng hơn là ngay trong lúc này chúng ta cũng đang ở trong
một khúc quanh lịch sử lớn mà nếu không cảnh giác chúng ta có thể rơi
vào một giai đoạn xáo trộn thảm khốc tương tự giai đoạn 1945 thay vì mở
ra một kỷ nguyên dân chủ lành mạnh. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay
rất giống chế độ quân chủ của Pháp dưới Louis 16 vào năm 1789 về bản
chất: cả hai đều là những chế độ toàn trị từ lâu đã không còn lý do tồn
tại và đã đến lúc phải bị đào thải nhưng những người cầm quyền không
nhìn ra lối thoát.
Trước Cách Mạng 1789 nước Pháp có hai thành phần ăn trên ngồi
trước là lớp quí tộc và hàng giáo phẩm Công Giáo chiếm 3% dân số, bóc
lột 97% còn lại, nghĩa là quần chúng, mà họ gọi là thành phần thứ ba (le
tiers Etat). Các tiến bộ về kiến thức và tư tưởng đã khiến quan hệ giữa
quần chúng với hai thành phần được ưu đãi chuyển dần từ tôn sùng và nể
sợ sang phản bác và thù ghét. Nhưng các vua chúa vẫn cố tình không chịu
nhìn vào sự thực và tìm cách thích nghi...
Thực trạng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay cũng không khác, có lẽ còn tệ hơn. Thành phần đảng viên ưu đãi và tư sản đỏ chưa chắc đã được 2%; quan hệ giữa quần chúng và chính quyền từ lâu đã chuyển từ ngưỡng mộ và sợ hãi sang chán ghét và thù ghét, gần đây nó trở thành khinh bỉ và căm thù, nhất là sau khi sự lệ thuộc hổ nhục vào Trung Quốc bị phơi bày, từ mật ước Thành Đô đến vụ cá chết ở miền Trung qua những làm mất biển đảo, rừng đầu nguồn, Bôxit Tây Nguyên v.v. Và người ta cũng không còn giấu giếm sự phẫn nộ. Đảng Cộng Sản đã mất hết sự chính đáng, dù là về lý tưởng hay thành tích. Không còn ai có thể hãnh diện vì là đảng viên hay quan chức cộng sản, nhiều người bắt đầu cảm thấy xấu hổ. Chỉ cần một chút sáng suốt thôi những người lãnh đạo cộng sản cũng phải nhìn thấy tình trạng tuyệt vọng của chế độ, nhưng họ chỉ biết đáp lại sự phẫn nộ của nhân dân bằng đàn áp và thách thức.
Người ta thường nói cuộc Cách Mạng 1789 đã xảy ra là vì vua
Louis 16 cạn kiệt ngân sách sau khi yểm trợ cuộc chiến tranh giành độc
lập của Hoa Kỳ nên phải triệu tập Đại Hội Quốc Dân (Etats Généraux) với
hy vọng tăng thuế, nhưng Đại Hội Quốc Dân họp trong bối cảnh bất mãn lên
cao nên đã nhanh chóng biến thành Hội Đồng Cách Mạng. Nhưng đó chỉ là
giọt nước cuối cùng làm tràn một ly nước đã đầy. Lý do thực sự là chế độ
quân chủ chuyên chế thần quyền đã hết thời và các vua nước Pháp đã
không chịu thích nghi. Thế kỷ 18 được gọi là Thế Kỷ Ánh Sáng vì sự nở rộ
của các luồng tư tưởng khai phóng, điển hình là nhóm Bách Khoa của
d'Alembert và Diderot, hay Rousseau, Voltaire và nhiều người khác. Họ đã
làm thay đổi trí tuệ và tâm hồn của nước Pháp sau một cuộc phấn đấu
dũng cảm và kiên trì. Ý thức hệ Thiên Chúa Giáo đã lung lay và không thể
làm nền tảng cho chế độ quân chủ tuyệt đối được nữa. Mặt khác những
tiến bộ về công nghiệp và nông nghiệp cũng khiến quần chúng sung túc hơn
và có sức mạnh hơn trước. Không chỉ tư tưởng đã thay đổi mà so sánh lực
lượng cũng thay đổi. Và vì chế độ quân chủ không chịu thích nghi với
tình huống mới, như chuyển hóa thành quân chủ lập hiến chẳng hạn, nên
quan hệ giữa nhân dân và nhà vua chuyển dần từ sủng aí tới dửng dưng,
rồi thù ghét vì tham nhũng và bóc lột. Sự tàn bạo của Cách Mạng Pháp
1789 đã nhắc lại một sự thực không ngừng được lặp lại trong lịch sử thế
giới là một thay đổi bắt buộc phải đến mà bị trì hoãn quá lâu sẽ rất dữ
dội khi cuối cùng vẫn phải đến.
Tình trạng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay cũng không
khác. Chế độ cũng đang rất túng thiếu, chưa biết có thể vay ai hay tìm
đâu ra tiền. Sự phá sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng nếu vì thế
mà chế độ này sụp đổ thì đó cũng sẽ chỉ là giọt nước làm tràn ly. Lý do
thực sự là chế độ cộng sản này không còn bất cứ lý do nào để tiếp tục
tồn tại. Những tiến bộ dồn dập về giao thông và truyền thông đã mở cửa
Việt Nam ra với thế giới và đem thế giới tới Việt Nam. Con người Việt
Nam đã thay đổi hẳn. Chủ nghĩa Mác-Lênin không còn là đỉnh cao trí tuệ
đối với ai mà chỉ còn là một sự nhảm nhí đẫm máu đối với mọi
người. Những dối trá đã bị lật tẩy, những tội ác đã bị phơi bày và các
vĩ nhân của Đảng, kể cả Hồ Chí Minh, đã hiện nguyên hình là những con
người thiển cận, khi không vừa thiển cận vừa gian ác, duới mắt mọi người
Việt Nam, trừ một số người già. Không những thế tương quan lực lượng
cũng đã thay đổi, người dân ngày nay không còn lệ thuộc vào chính quyền
trong những nhu cầu sinh sống hàng ngày. Họ không chỉ khinh bỉ và căm
thù chính quyền mà còn có sức mạnh để đứng dậy. Tuy vậy chính quyền cộng
sản vẫn ngoan cố và hung bạo thay vì tìm cách hạ cánh an toàn. Chúng ta
đang đứng trước nguy cơ của một cuộc cách mạng dữ dội không khác Cách
Mạng Tháng 8/1945, nhưng lần này Đảng Cộng Sản không phải là thủ phạm mà
sẽ là nạn nhân.
Phải rất cảnh giác. Nếu chúng ta không thực hiện hòa giải dân
tộc và để cho thù hận nổ bùng thì một lần nữa chúng ta sẽ lại rơi vào
một thảm kịch tương tự như nước Pháp sau 1789. Chỉ khác một điều là Pháp
lúc đó là cường quốc mạnh nhất thế giới vượt xa tất cả các quốc gia
khác nên dù có đổ vỡ lớn và chia rẽ sau đó cũng vẫn là một nước giầu
mạnh và tiếp tục tồn tại. Đó không phải là trường hợp của chúng
ta. Chúng ta đã quá tụt hậu rồi, suy thoái hơn nữa đồng nghĩa với thua
kém vĩnh viễn. Và trong thế giới toàn cầu hóa này, khi khái niệm quốc
gia đang bị xét lại rất gay gắt, thua kém vĩnh viễn tất nhiên dẫn tới
giải thể quốc gia.
Mặt khác vũ khí cầm cự chính hiện nay của thành phần thủ cựu
ngoan cố trong ban lãnh đạo cộng sản là khai thác sự lo sợ của các đảng
viên cộng sản rằng sẽ có trả thù báo oán dữ dội nếu chế độ không còn.
Chúng ta phải vô hiệu hóa vũ khí này bằng một khẳng định thật dứt khoát
rằng cuộc vận động dân chủ không hề nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai vì
tinh thần chỉ đạo của nó là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải và
hòa hợp dân tộc là đáp án cho cả hai bài toán thiết lập dân chủ và giữ
nước.
(ngưng trích)
Mong rằng lần này giấc mơ “hòa giải và hòa hợp dân tộc” của Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng không phải cũng lại vẫn chỉ là một giấc mơ vì “chúng ta” khác với cộng sản. “Chúng ta” không khát máu và không cuồng tín như “chúng nó”. Ông Kiểng hãy nhìn lại lịch sử những cuộc nổi dậy của dân các nước Đông Âu và Nga mấy tháng cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 của thế kỷ trước thì thấy đã không có máu đổ và không có trả thù, trừ nước Rô-ma-ni, “lãnh tụ kính yêu” Ceausescu và vợ đã bị chính quân đội của hắn ta xử bắn vì quá ngoan cố, dùng công an bắn giết thường dân tay không đứng lên đòi tự do và không bạo động.
Đó là bài học dành riêng cho “tứ trụ triều đình” của chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam.
Ký Thiệt
Nguyễn Mai Anh chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Ký Thiệt: Ông Nguyễn Gia Kiểng và giấc mơ “hòa giải dân tộc”
Ký Thiệt - Không bao lâu sau ngày 30.4.1975, Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng đã lập ra Nhóm Thông Luận ở Paris để kêu gọi “hòa giải” với “bên thắng cuộc”.
Nghĩ rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa với ngọn đuốc Mác-Lênin là trào lưu bách chiến bách thắng của thời đại, và mơ ước được Cộng sản Hà-nội hòa giải và hòa đàm với mình, ông Nguyễn Gia Kiểng đã tỏ ra rất thức thời và “tiến bộ”. Ông ta ca ngợi VC có công thống nhất đất nước và nhìn nhận Hồ Chí Minh là người ái quốc.
Bất chấp bị nhiều người Việt tị nạn ở hải ngoại đả kích, chế giễu là ngây thơ hay… dở hơi, ông Nguyễn Gia Kiểng vẫn giữ vững lập trường không giống ai, hy vọng một ngày đẹp trời “cách mạng” sẽ nhận ra chân lý và mời ông về Việt Nam tham chánh và... thực thi chính sách “hòa hợp hòa giải dân tộc”.
Nhưng, những gì xảy ra đã không giống như tiên tri của Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng, VC chẳng đoái hoài gì tới sự có mặt và tiếng nói của Nhóm Thông Luận, và Khối Cộng sản Đông Âu cùng hậu phương lớn của chủ nghĩa Mác-Lênin ở Liên-Sô đã theo nhau sụp đổ tan tành, chết tức tưởi. Cộng sản VN trở thành một trong mấy đứa con mồ côi của Lênin.
Từ đó ông Nguyễn Gia Kiểng ít khi lên tiếng về chuyện “hòa giải dân tộc” với người anh em trong nước, cho tới gần đây, nhân xảy ra vụ khủng bố dã man tại Nice, một thành phố biển yên bình của nước Pháp, trong lúc dân chúng đang tập họp ăn mừng ngày Quốc Khánh 14 tháng 7, ông Kiểng đã viết một bài phân tích tình hình nước Pháp ngày nay và mổ xẻ cuộc cách mạng đẫm máu năm 1789 để rồi từ đó tìm ra chân lý mới cho một cuộc hòa giải dân tộc tại Việt Nam như sau:
..... Vết thương của cuộc Cách Mạng 1789 vẫn chưa lành vì người Pháp đã không thực hiện hòa giải dân tộc sau đó. Đã không có phục hồi danh dự và công lý cho các nạn nhân; cuộc Cách Mạng 1789 dù đã làm hàng triệu người chết oan và khiến nước Pháp kiệt quệ vẫn còn được các chính quyền long trọng kỷ niệm như một này vui. Vẫn có duyệt binh rầm rộ, ca nhạc, khiêu vũ, pháo bông v.v. khắp nơi. Quốc kỳ của Pháp vẫn là lá cờ của Cách Mạng 1789, quốc ca của Pháp vẫn là bài La Marseillaise rùng rợn kêu gọi dân Pháp "Tiến lên! tiến lên! Để máu hôi tanh tràn ngập ruộng đồng!". Tại sao? Mới đầu có lẽ do sai lầm hoặc áp lực từ cánh tả, nhất là Đảng Cộng Sản Pháp bởi vì một trong những quái thai của sự giao cấu giữa ý niệm dân chủ và chủ nghĩa lãng mạn trong Cách Mạng 1789 là chủ nghĩa cộng sản. Sau đó vì các chính quyền sợ khơi lại một thảm kịch hoặc cho rằng thời gian đã làm xong công việc của nó, và cố tự thuyết phục mình rằng cứ để các sử gia làm công việc của họ và sự vui nhộn trong ngày 14/7 cũng có tác dụng hòa hợp dân tộc. Nhưng nghĩ như vậy là sai, không thể có hòa hợp dân tộc nếu không có hòa giải dân tộc trước và hòa giải dân tộc đòi hỏi phải sòng phẳng với quá khứ. Tôi mang ơn và nợ nước Pháp rất nhiều. Nhưng lý do chính khiến tôi nghĩ nhiều về Cách Mạng 1789 là vì Việt Nam.
Hơn lúc nào hết người Việt Nam chúng ta nên suy ngẫm về bài học
của cuộc Cách Mạng Pháp 1789. Từ 71 năm qua chúng ta đã sống một thảm
kịch tương tự như Cách Mạng Pháp 1789 ở qui mô Việt Nam và chúng ta cũng
đang đứng trước nguy cơ lặp lại một thảm kịch tương tự khác.
Trước hết cuộc Cách Mạng Tháng 8/1945 tại Việt Nam đã là một sự
sao chép của Cách Mạng 1789. Cũng tàn bạo, đẫm máu dưới ảnh hưởng của
phong trào lãng mạn nở rộ từ thập niên 1930. Người ta có thể nhận thấy
sự tìm kiếm cảm giác mạnh trong chiến tranh và đập phá qua những bài hát
rất được ưa chuộng vào lúc đó như "thề phanh thây uống máu quân thù",
hay "mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai", hay "lúc phá hết phố
phường biệt ly đời gấm hoa". Giai đoạn Cách Mạng Tháng 8 cũng đã là một
giai đoạn kinh hoàng. Hàng trăm nghìn người yêu nước hoặc vô tội đã bị
ám sát hoặc thủ tiêu. Chỉ khác một điều là những người lãnh đạo Đảng
Cộng Sản Việt Nam, trước hết là ông Hồ Chí Minh, không lãng mạn như
những người cách mạng Pháp năm 1789; họ chỉ lợi dụng tâm lý lãng mạn mê
cuồng bạo lực của thanh niên lúc đó để tàn sát các đối thủ - những đảng
viên và những người bị tình nghi là đảng viên của các đảng phái quốc
gia- và thiết lập chế độ cộng sản. Và sau đó cũng là nội chiến và cũng
không có hòa giải dân tộc, Cách Mạng Tháng 8 vẫn được tôn vinh như một
ngày vui lớn, quốc kỳ vẫn là cờ đỏ sao vàng, quốc ca vẫn là bài Tiến
quân ca, những thủ phạm của cuộc thảm sát vẫn được tôn vinh như những
anh hùng dân tộc và những nạn nhân vẫn tiếp tục bị miệt thị. Kết quả là
chúng ta đã chia rẽ và tụt hậu bi đát như ngày nay.
Nhưng quan trọng hơn là ngay trong lúc này chúng ta cũng đang ở trong
một khúc quanh lịch sử lớn mà nếu không cảnh giác chúng ta có thể rơi
vào một giai đoạn xáo trộn thảm khốc tương tự giai đoạn 1945 thay vì mở
ra một kỷ nguyên dân chủ lành mạnh. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay
rất giống chế độ quân chủ của Pháp dưới Louis 16 vào năm 1789 về bản
chất: cả hai đều là những chế độ toàn trị từ lâu đã không còn lý do tồn
tại và đã đến lúc phải bị đào thải nhưng những người cầm quyền không
nhìn ra lối thoát.
Trước Cách Mạng 1789 nước Pháp có hai thành phần ăn trên ngồi
trước là lớp quí tộc và hàng giáo phẩm Công Giáo chiếm 3% dân số, bóc
lột 97% còn lại, nghĩa là quần chúng, mà họ gọi là thành phần thứ ba (le
tiers Etat). Các tiến bộ về kiến thức và tư tưởng đã khiến quan hệ giữa
quần chúng với hai thành phần được ưu đãi chuyển dần từ tôn sùng và nể
sợ sang phản bác và thù ghét. Nhưng các vua chúa vẫn cố tình không chịu
nhìn vào sự thực và tìm cách thích nghi...
Thực trạng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay cũng không khác, có lẽ còn tệ hơn. Thành phần đảng viên ưu đãi và tư sản đỏ chưa chắc đã được 2%; quan hệ giữa quần chúng và chính quyền từ lâu đã chuyển từ ngưỡng mộ và sợ hãi sang chán ghét và thù ghét, gần đây nó trở thành khinh bỉ và căm thù, nhất là sau khi sự lệ thuộc hổ nhục vào Trung Quốc bị phơi bày, từ mật ước Thành Đô đến vụ cá chết ở miền Trung qua những làm mất biển đảo, rừng đầu nguồn, Bôxit Tây Nguyên v.v. Và người ta cũng không còn giấu giếm sự phẫn nộ. Đảng Cộng Sản đã mất hết sự chính đáng, dù là về lý tưởng hay thành tích. Không còn ai có thể hãnh diện vì là đảng viên hay quan chức cộng sản, nhiều người bắt đầu cảm thấy xấu hổ. Chỉ cần một chút sáng suốt thôi những người lãnh đạo cộng sản cũng phải nhìn thấy tình trạng tuyệt vọng của chế độ, nhưng họ chỉ biết đáp lại sự phẫn nộ của nhân dân bằng đàn áp và thách thức.
Người ta thường nói cuộc Cách Mạng 1789 đã xảy ra là vì vua
Louis 16 cạn kiệt ngân sách sau khi yểm trợ cuộc chiến tranh giành độc
lập của Hoa Kỳ nên phải triệu tập Đại Hội Quốc Dân (Etats Généraux) với
hy vọng tăng thuế, nhưng Đại Hội Quốc Dân họp trong bối cảnh bất mãn lên
cao nên đã nhanh chóng biến thành Hội Đồng Cách Mạng. Nhưng đó chỉ là
giọt nước cuối cùng làm tràn một ly nước đã đầy. Lý do thực sự là chế độ
quân chủ chuyên chế thần quyền đã hết thời và các vua nước Pháp đã
không chịu thích nghi. Thế kỷ 18 được gọi là Thế Kỷ Ánh Sáng vì sự nở rộ
của các luồng tư tưởng khai phóng, điển hình là nhóm Bách Khoa của
d'Alembert và Diderot, hay Rousseau, Voltaire và nhiều người khác. Họ đã
làm thay đổi trí tuệ và tâm hồn của nước Pháp sau một cuộc phấn đấu
dũng cảm và kiên trì. Ý thức hệ Thiên Chúa Giáo đã lung lay và không thể
làm nền tảng cho chế độ quân chủ tuyệt đối được nữa. Mặt khác những
tiến bộ về công nghiệp và nông nghiệp cũng khiến quần chúng sung túc hơn
và có sức mạnh hơn trước. Không chỉ tư tưởng đã thay đổi mà so sánh lực
lượng cũng thay đổi. Và vì chế độ quân chủ không chịu thích nghi với
tình huống mới, như chuyển hóa thành quân chủ lập hiến chẳng hạn, nên
quan hệ giữa nhân dân và nhà vua chuyển dần từ sủng aí tới dửng dưng,
rồi thù ghét vì tham nhũng và bóc lột. Sự tàn bạo của Cách Mạng Pháp
1789 đã nhắc lại một sự thực không ngừng được lặp lại trong lịch sử thế
giới là một thay đổi bắt buộc phải đến mà bị trì hoãn quá lâu sẽ rất dữ
dội khi cuối cùng vẫn phải đến.
Tình trạng của chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay cũng không
khác. Chế độ cũng đang rất túng thiếu, chưa biết có thể vay ai hay tìm
đâu ra tiền. Sự phá sản có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng nếu vì thế
mà chế độ này sụp đổ thì đó cũng sẽ chỉ là giọt nước làm tràn ly. Lý do
thực sự là chế độ cộng sản này không còn bất cứ lý do nào để tiếp tục
tồn tại. Những tiến bộ dồn dập về giao thông và truyền thông đã mở cửa
Việt Nam ra với thế giới và đem thế giới tới Việt Nam. Con người Việt
Nam đã thay đổi hẳn. Chủ nghĩa Mác-Lênin không còn là đỉnh cao trí tuệ
đối với ai mà chỉ còn là một sự nhảm nhí đẫm máu đối với mọi
người. Những dối trá đã bị lật tẩy, những tội ác đã bị phơi bày và các
vĩ nhân của Đảng, kể cả Hồ Chí Minh, đã hiện nguyên hình là những con
người thiển cận, khi không vừa thiển cận vừa gian ác, duới mắt mọi người
Việt Nam, trừ một số người già. Không những thế tương quan lực lượng
cũng đã thay đổi, người dân ngày nay không còn lệ thuộc vào chính quyền
trong những nhu cầu sinh sống hàng ngày. Họ không chỉ khinh bỉ và căm
thù chính quyền mà còn có sức mạnh để đứng dậy. Tuy vậy chính quyền cộng
sản vẫn ngoan cố và hung bạo thay vì tìm cách hạ cánh an toàn. Chúng ta
đang đứng trước nguy cơ của một cuộc cách mạng dữ dội không khác Cách
Mạng Tháng 8/1945, nhưng lần này Đảng Cộng Sản không phải là thủ phạm mà
sẽ là nạn nhân.
Phải rất cảnh giác. Nếu chúng ta không thực hiện hòa giải dân
tộc và để cho thù hận nổ bùng thì một lần nữa chúng ta sẽ lại rơi vào
một thảm kịch tương tự như nước Pháp sau 1789. Chỉ khác một điều là Pháp
lúc đó là cường quốc mạnh nhất thế giới vượt xa tất cả các quốc gia
khác nên dù có đổ vỡ lớn và chia rẽ sau đó cũng vẫn là một nước giầu
mạnh và tiếp tục tồn tại. Đó không phải là trường hợp của chúng
ta. Chúng ta đã quá tụt hậu rồi, suy thoái hơn nữa đồng nghĩa với thua
kém vĩnh viễn. Và trong thế giới toàn cầu hóa này, khi khái niệm quốc
gia đang bị xét lại rất gay gắt, thua kém vĩnh viễn tất nhiên dẫn tới
giải thể quốc gia.
Mặt khác vũ khí cầm cự chính hiện nay của thành phần thủ cựu
ngoan cố trong ban lãnh đạo cộng sản là khai thác sự lo sợ của các đảng
viên cộng sản rằng sẽ có trả thù báo oán dữ dội nếu chế độ không còn.
Chúng ta phải vô hiệu hóa vũ khí này bằng một khẳng định thật dứt khoát
rằng cuộc vận động dân chủ không hề nhắm tiêu diệt hay hạ nhục một ai vì
tinh thần chỉ đạo của nó là hòa giải và hòa hợp dân tộc. Hòa giải và
hòa hợp dân tộc là đáp án cho cả hai bài toán thiết lập dân chủ và giữ
nước.
(ngưng trích)
Mong rằng lần này giấc mơ “hòa giải và hòa hợp dân tộc” của Kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng không phải cũng lại vẫn chỉ là một giấc mơ vì “chúng ta” khác với cộng sản. “Chúng ta” không khát máu và không cuồng tín như “chúng nó”. Ông Kiểng hãy nhìn lại lịch sử những cuộc nổi dậy của dân các nước Đông Âu và Nga mấy tháng cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 của thế kỷ trước thì thấy đã không có máu đổ và không có trả thù, trừ nước Rô-ma-ni, “lãnh tụ kính yêu” Ceausescu và vợ đã bị chính quân đội của hắn ta xử bắn vì quá ngoan cố, dùng công an bắn giết thường dân tay không đứng lên đòi tự do và không bạo động.
Đó là bài học dành riêng cho “tứ trụ triều đình” của chế độ cộng sản hiện nay tại Việt Nam.
Ký Thiệt
Nguyễn Mai Anh chuyển