Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại

Lịch sử Lập Quốc của Tổ Tiên Việt Nam - Vĩnh Trường

Nền văn hóa đầu tiên dựa vào những di chỉ tìm thấy được đặt tên là thời kỳ văn hóa Sơn Vi, hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Sơn Vi là tên một xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ của nền văn hóa này,


Lịch sử Lập Quốc của Tổ Tiên Việt Nam

Vĩnh Trường

 


Từ lúc con người hin din sinh sống hàng trăm ngàn năm trước công nguyên, thì t tiên chúng ta đã hin hu khai phá giang sơn ny. Nhưng nếu tính t khi tổ chức nhà nước được hình thành thì Lịch s Vit Nam đến nay độ khoảng gn 5000 năm (theo truyền thuyết). Đó là thời các vua Hùng thuc Họ Hng Bàng.

Cho đến nay, thời kỳ Hùng Vương được các nhà sử học khẳng định là thời kỳ có thật trong lịch sử. Tuy nhiên, không có một tư liệu thành văn nào ghi chép về thời kỳ này cho nên chúng ta tạm bằng lòng với việc “dựng” lại lịch sử bằng các truyền thuyết dân gian, dân tộc học, ngôn ngữ học, địa phương học kết hợp với kết quả của ngành Khảo cổ học. Vì vậy, nếu đề cập tới thời kỳ Tiền Hùng Vương thì còn khó khăn gấp bội phần. Tuy nhiên, chúng ta cắt nghĩa thế nào về những ghi chép của các sử gia Trung Hoa về một đất nước Việt Thường xuất hiện rất lâu trước thời kỳ Hùng Vương ? Chúng ta cắt nghĩa thế nào về một cố đô Ngàn Hống xuất hiện trước khi có Kinh đô Văn Lang, nhất là khi những ghi chép đó lại xuất hiện trong Ngọc phả Hùng Vương, như một sự truy niệm về kinh đô cũ ?

 


ng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc Phả cổ truyền (Ngọc phả 18 đời Hùng Vương hiện lưu tại viện Bảo Tàng Hùng Vương)

Truyền thuyết v thi kỳ dng nưc

Tục truyền, cha của Long Vương là Dương Vương, khi mới mở nước, đi xem phong cảnh núi sông, tìm nơi xây dựng kinh đô. Khi về phương Nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy phong cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, 99 ngọn (Ngọc phả Hùng Vương ghi là 199 ngọn) cao tận trời xanh, chân núi vờn đến gần cửa Đơn Hay (tức cửa Đan Nhai, tức Cửa Hội) có thế rồng  vây hổ chầu, Dương Vương rất lấy làm vừa ý. Vương bèn quyết định đắp thành dưới núi, lấy nơi này làm đô ấp, như vị trí ngày nay thì thành ấy là đất Nội Tả-Hữu Thiên Lộc thuộc Châu Hoan (nay thuộc phạm vi các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.

Dựng xong đô ấp, Dương Vương lại cưỡi thuyền thẳng về hướng Bắc, tiếp tục đi xem phong cảnh đất nước. Thuyền đang đi, bỗng có một người con gái “tóc dài ngài (người) đẹp, da phấn mặt hoa” từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long. Sau khi chào hỏi ân cần, vương mời nàng lên thuyền, đôi bên trò chuyện rất ăn ý. Dương Vương đưa nàng về đô ấp Ngàn Hống và cưới làm vợ.

Vương lại tiếp tục tuần thú phương Bắc. Đến vùng núi như ngày nay là Sơn Tây, vương thấy cảnh núi sông thật là hùng vĩ đặc biệt ngã ba Hạc là nơi thủy bộ thuận lợi, xem ra nhiều chỗ ưu việt hơn đất Hoan Châu. Vương bèn cho xây dựng đô ấp mới ở vùng Nghĩa Lĩnh, từ ngã ba Hạc đến vùng núi Hi Cương , làm nơi hành tại.

Dương Vương lại lên vùng Hưng Hóa- Tuyên Quang bây giờ, lấy thêm một người con gái họ Mã là nàng Ngọc Nương làm vợ và dựng một cung sở cho nàng ở, cung sở đó là vùng Tiên Cát, gần Việt Trì ngày nay.

Vương ở Tiên Cát ít lâu rồi trở về đô ấp Ngàn Hống. Lúc này, nàng Thần Long đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh con trai đầu lòng. Đó là Long Vương, con trưởng của Dương Vương, tức là Vua Hùng thứ nhất, sau này gọi là Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân)

Khi Long Vương lớn lên, Dương Vương giao cho đô ấp Nghĩa Lĩnh để trông coi việc nước ở phương Bắc. Trong thời gian ở kinh thành Nghĩa Lĩnh, nhân một chuyến đi tuần thú, Long Vương gặp nàng Âu Cơ ở vùng Sơn Tây và lấy làm vợ.

Long Vương đưa nàng Âu Cơ về động Hi Cương, còn mình thì ở luôn Phong Châu (gần ngã ba Hạc) làm việc nước.

Về sau Long Vương bỏ kinh đô Ngàn Hống, lấy Phong Châu làm kinh đô chính, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ. Từ đó cố đô Việt Thường ở Ngàn Hống bị thời gian xóa dần dấu vết.

Dân tộc ta sau thời kỳ dựng nước chưa được bao lâu thì mất nước. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc (từ năm 179 trước Công nguyên (TCN) đến năm 938), dưới sức mạnh đô hộ và đồng hóa, lịch sử văn hiến của người Việt đã gần như bị bôi xóa mọi dấu vết, không được ghi chép để truyền lại. Cái duy nhất mà kẻ thù không thể xóa được là ký ức của dân ta về lịch sử tổ tiên, ông cha ta. Bởi vậy, suốt một thời gian dài, thời kỳ lập quốc của dân tộc Việt Nam chỉ được phản ánh qua huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết dân gian, và thời kỳ tiền sử (trước thời Hồng Bàng) chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ.

 


 

Khu vực nay là Việt Nam đã có loài người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ, các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết con người cư ngụ tại hang Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), núi Đọ, Ninh BìnhNga Sơn, Thanh Hóa cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, SumatraKalimantan của Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ. Người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ (mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xã hội loài người chưa hình thành.

 

Văn hóa Sơn Vi

Nền văn hóa đầu tiên dựa vào những di chỉ tìm thấy được đặt tên là thời kỳ văn hóa Sơn Vi, hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Sơn Vi là tên một xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ của nền văn hóa này, những nhóm cư dân nguyên thủy tại đây đã sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.

Văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Những người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc. Họ sinh sống ngoài trời trên các ngọn đồi hay cao ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu.

Cách đây 15000-18000 năm trước đây là thời kỳ nước biển xuống thấp. Đồng bằng Bắc Vit bấy giờ kéo dài ra mãi đến tận đảo Hải Nam và các khu vực khác. Đến thời kỳ khoảng 15 nghìn năm trước Công Nguyên (cách đây khoảng 18 nghìn năm) là thời kỳ cuối của kỷ băng hà, nước biển dâng cao dần đến khoảng năm 8000 năm trước đây thì đột ngột dân cao khoảng khoảng 130m (đại Hng Thủy, Có th là s tích Sơn Tinh Thủy Tinh để ám chỉ thời đại nầy chăng ?). Nước biển ở lại suốt thời kỳ này và rút đi vào khoảng 5500 năm trước đây. Ứng với thời kỳ này cùng với các di chỉ khảo cổ cho thấy nước biển đã ngập toàn bộ khu vực đồng bằng sông Hồng ngày nay đến tận Vĩnh Phú trong suốt 3000 năm.

 


Di chỉ văn hoá Sơn Vi


 

Do chính đặc tính về địa chất ny nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc Vit không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại ở khoảng 8000 năm trước công nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5500 năm - 18000 năm trước.

 

Văn hóa Hòa Bình

Sau thời kỳ văn hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình, thuộc thời kỳ đồ đá cũ sang thi kỳ đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Việt, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Văn hóa Hòa Bình được ghi nhận là cái nôi của nền văn minh lúa nước, xuất phát từ Đông Nam Á có niên đại trễ được tìm thấy vào khoảng 15,000 năm trước đây. Do đặt tính địa chất về hồng thủy nên có thể một phần sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Hòa Bình đã chưa bao giờ được nhận ra và tìm thấy. Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm trước Công Nguyên). Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa Hòa Bình đã tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.


 


 Hình minh họa cư dân Văn hóa Hòa Bình

 

Văn hóa Bắc Sơn

tên gọi một nền văn hóa Việt Namthi kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một vạn đến tám ngàn năm. Bắc Sơn là đặt theo tên huyện Bắc Sơn, nơi phát hiện đầu tiên những di vật của nền văn hóa này.

Di chỉ của văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy ở các miền đất thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... ngày nay. Tính đến năm 1997, đã có 51 điểm văn hóa Bắc Sơn được khai quật. Trong số đó, có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người tiền sử.

Người nguyên thủy trong nền văn hóa Bắc Sơntrú trong hang động, mái đá gần sông, suối. Họ sống bằng săn bắn, hái lượm. Họ cũng bắt đầu canh tác nông nghiệp ở mức độ rất sơ khai. Dụng cụ để sinh hoạt của họ làm bằng đá đẽo hoặc mài và từ tre, gỗ. Các dụng cụ này tỏ ra tinh vi hơn so với dụng cụ của người nguyên thủy thời văn hóa Hòa Bình. Đặc biệt, người nguyên thủy thời văn hóa Bắc Sơn đã biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hơn so với người thời văn hóa Hòa Bình và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn.

 

Thời đại đồ đồng đá

Là một giai đoạn trong sự phát triển các nền văn hóa của con người, trong đó việc sữ dụng các dụng cụ bằng kim loại đã xuất hiện, đồng thời với việc sử dụng các dụng cụ bằng đá. Trong thời đại nầy các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của nền Văn Hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Phùng Nguyên là tên một làng ở ven sông Thao thuộc làng Phùng Nguyên, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này.

Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được tìm thấycác khu vc Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng. Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.

 


 

Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên (di tích ở xã Thiệu Vân, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Di tích thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở lưu vực Sông Mã), nền văn hóa Hoa Lộc (theo tên xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam, nơi phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình vào cuối 1973. Chủ nhân VHHL sống bằng nghề nông, chăn nuôi, săn bắn, đánh cá…), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2 Trung Việt), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam Việt).

 

Thời đại đồ đồng

Văn hoá Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng trên 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên. Tên được đặt theo khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, nơi các nhà khảo cổ học đã khám phá ra một nền văn hóa đồ đồng phong phú năm 1962.

 


Di chỉ văn hóa Đng Đu


 

Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các ngon đồi cao hay nổng vùng Trung du Bắc Việt với một nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa trên nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa màu. Các dấu tích luyện kim như xỉ đồng, các mảnh khuôn đúc (bằng đá) cho thấy nghề đúc đồng đã có và phát triển thời kỳ này.

Tiếp theo Đng Đu là Văn hóa Gò Mun ước chừng khoảng từ năm 1.000 - năm 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa này được đặt theo tên của địa điểm mà vào năm 1961, các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều di chỉ của nền văn hóa này tại gò Mun, xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.

Văn hóa Gò Mun được nhìn nhận như là nền văn hóa tiền văn hóa Đông Sơn. Thời kỳ này, người Việt cổ đã có những chuyển biến rõ rệt về một xã hội phức tạp và giàu có, thúc đẩy việc ra đời nhà nước sơ khai của người Việt.

 

Thời đại đồ sắt

Sau thời đại Đồ Đồng là thời đại Đồ Sắt. Trong thời nầy nền Văn hóa Đông Sơn nổi bật  vì sản phẩm Trống đồng của nó.  Cái tên  của văn hóa này xuất phát từ một số hiện vật  đồ đồng sắt ở làng Đông Sơn ven sông Mã, thuộc Tỉnh Thanh  Hóa  do  một người câu cá tên Nguyễn Văn Lắm đã ngẫu nhiên tìm được năm 1924, rồi do một viên thuế quan người Pháp tên là L. Paijot yêu khảo cổ, khai quật tìm thấy.

Đến khoảng năm 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng, các vũ khí, dụng cụ được khai quật minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầunhuộm răng đen.

 


Trống đồng Đông Sơn


 

Xã hi Đông Sơn là một xã hội đã phát triển về nông nghiệp. Cơ cấu xã hội cũng diễn biến nhiều phức tạp có phân chia thành nhiều giai cấp. những khí cụ tìm được cho thấy trong xã hội có phân chia giàu nghèo. Những loại vũ khí mới cho thấy thời Đông Sơn, Ông Cha ta đã phải đối phó với nhiều cuộc chiến tranh nội bộ hoặc chống ngoại xâm. Việc tìm thấy những quan tài hình thuyền cũng như những hình trang trí trên trống đồng như những người chèo thuyền, những chiến sĩ cầm vũ khí cũng như hình những con chim biển chứng tỏ người Đông Sơn đã có những giao tiếp mật thiết với biển hoặc xuất phát từ biển vào.

Những di tích của Đông Sơn tồn tại tới đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây Lịch trùng hợp với giai đoạn nước ta bị nội thuộc vào bọn Tàu khựa Hán tộc thời Tây Hán. Tới đây thời khuyết sữ của nước ta không còn nửa mà đã có những sử liệu thành văn đa số dựa vào sử liệu Trung Hoa.

 

Thời Hồng Bàng

Theo một số sách cổ sử, các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn từ phía Nam sông Trường Giang của Trung Hoa hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền Bắc Việt Nam vào thời Kinh Dương Vương và được đặt tên là Xích Quỷ. Xích nghĩa là đỏ, chỉ phương Nam. Theo Kinh Dịch, Phương Nam là nơi văn minh.

 


Nước Xích Quỷ dưới thời Lạc Long Quân


 

Truyền thuyết nước Xích Quỷ của các tộc người Việt cổ được hình thành từ năm 2879 TCN, phía Bắc giáp hồ Động Đình, phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên - Trung Quốc), phía Đông là biển Đông Hải và phía Nam là nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này). Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc (từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền Bắc Trung Hoa và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất dn lãnh thổ, một số bộ tộc Việt bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Cao điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía Nam Quảng Đông.

Thời nầy, Vương quốc của các tộc người Việt cổ có tên nước Xích Quỷ, là một liên bang lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền ViệtVân Nam, Dạ LangQuý Châu, Mân ViệtPhúc Kiến, Đông ViệtTriết Giang, Sơn ViệtGiang Tây, Nam ViệtQuảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việtmiền Bắc Việt Nam ...

Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của nhà nước liên minh của các tộc người Việt, từ thế kỷ 8 trước công nguyên trở đi. Các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền Nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như từng thời kỳ như: nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,... các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế nhà Hán khoảng thế kỷ 1 TCN các nhà nước Việt đều bị Tàu kha thôn tính.

 

Nước Văn Lang

Vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên, người Lạc Việt, một trong những nhóm tộc Việt ở phương Nam đã xây dựng nên nhà nước của mình, đó là nước Văn Lang do các vua Hùng cai trị, đóng đô ở Phong Châu (thuộc Phú Thọ ngày nay).

 


Nước Văn Lang thời Hùng Vương


 

Các tài liệu nghiên cứu hiện đại phần lớn đều đồng ý theo ghi chép của Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở Trung Hoa. Vương quốc này tồn tại khu vực ngày nay là miền Bắc Việt Nam và đã có giao lưu với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang.

Nhà nước Văn Lang theo thể chế quân chủ chuyên chế. Ở trung ương do vua Hùng đứng đầu. có các Lạc Hầu và Lạc Tướng giúp việc. Ở địa phương chia làm 15 bộ: Việt Thường (越裳), Giao Chỉ (交趾), Chu Diên (朱鳶), Vũ Ninh (武寧), Phúc Lộc (福祿), Ninh Hải (寧海), Dương Tuyền (陽泉), Lục Hải (陸海), Hoài Hoan (懷驩), Cửu Chân (九真), Nhật Nam (日南), Chân Định (真定), Văn Lang (文郎), Quế Lâm (桂林), Tượng Quận (象郡) do Lạc tướng cai quản. Dưới bộ là các làng do Bồ chính cai quản.

 

Nước Âu Lạc

Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Vào thời cuối các vua Hùng, nạn ngoại xâm càng trở thành mối đe dọa to lớn. Ở phía Bc, Việt Vương Câu Tiễn sau khi diệt nước Ngô năm 473 trước CN làm bá chủ miền Duyên Hải từ Sơn Đông đến Quảng Đông và đã sai sứ xuống dụ nước Văn Lang nhưng đã bị vua Hùng cự tuyệt.

Sự kiện này được các nhà sử học Việt Nam coi là cuộc đụng độ đầu tiên giữa nước ta với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán (Tàu khựa).

Truyền thuyết "Họ Hồng Bàng" trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng phản ánh phần nào cuộc tiếp xúc và đụng độ của người Việt với người Hoa Hạ ở phương Bắc. Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái rất xinh đẹp. Vua nước Thục ở về phía Bắc nước Văn Lang sang cầu hôn, Hùng Vương từ chối. Thục Vương đem lòng oán giận, cử binh đánh nhưng bị thua.

Khi sắp mất, Thục Vương dặn cháu là Thục Phán phải lo báo thù. Quả nhiên về sau, Thục Phán thừa lúc Hùng Vương không phòng bị, đánh chiếm được nước Văn Lang. Vua Hùng Vương 18 nhảy xuống giếng tự tử (258 trước tây lịch).

Sau khi thắng Vua Hùng Vương, Thục Phán, sát nhập lãnh thổ của Âu Việt và Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc (218 TCN), đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương. Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính năm 179TCN.

 

Nước Nam Việt

Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), đã cát cứ quận Nam Hải, sau đó ông đem quân thôn tính sát nhập các vương quốc Âu Lạc, Mân Việt, quận Quế Lâm lân cận và thành lập nước Nam Việt tồn tại trong giai đoạn 207 TCN - 111 TCN với kinh đô Phiên Ngung tại Quảng Châu.

Vương quốc Nam Việt trong thời Triệu Đà bao gồm ba quận phía Nam của nhà Tn: Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân. Biên giới phía Bắc là dãy núi Lĩnh Nam, biên giới phía Nam là dãy Hoành Sơn và được chia thành 9 quận (gồm Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Hoa, miền Bắc Việt Nam  Bắc Trung  Vit hiện nay

Sau khi nhà Hán của người Hoa Hạ được thành lập, ông đã đứng về phía những bộ tộc Bách Việt còn lại đối kháng lại sự bành trướng xâm lược của nhà Hán. Trong khoảng thời gian một thế kỷ (207-111 TCN), tuy có vua ngoại tộc là người phương Bắc nhưng vương quốc Nam Việt hoàn toàn độc lập tự chủ trước đế chế nhà Hán.

Các vua Triệu truyền ngôi được 5 đời đều xưng Đế, chỉ các sử gia Trung Hoa, vì khép Nam Việt là nước chư hầu, đều chép các vua Nam Việt tước "vương" gồm có:

1.      Triệu Vũ Đế  (Triệu Đà, 203-137 trước CN).

2.      Triệu Văn Đế  (Triệu Hồ, 137-125 TCN).

3.      Triệu Minh Đế (Triệu Anh Tề, 125-113 TCN).

4.      Triệu Ai Đế (Triệu Hưng, 113-112 TCN).

5.      Triệu Dương Đế (Tr Kiến Đức, 112-111 TCN).

 


Nước Nam Việt thời Triệu Đà

 

Thời Bắc thuộc


thời gian Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình phương Bắc, Tàu kha như: Bắc thuộc lần thứ nhất (-111 TCN đến +39): Hán thuc; Bắc thuộc lần thứ hai (43-541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương; Bắc thuộc lần thứ ba (602-905): nhà Tùy, nhà Đường; Bắc thuộc lần thứ tư (1407-1427): còn gọi là thời thuộc Minh.

Trong thi gian ny, chỉ có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ nhà Tiền Lý với nước Vạn Xuân (541-602). Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Tàu kha không ngừng thực hiện bc lt, đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Hoa nay cũng thế). Dưới thời kỳ này người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nng cho triều đình phương Bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương cũng tham lam bòn vét thêm của dân không thương tiếc.

Cũng có một số quan cai trị nghiêm chỉnh, đứng đắn, nhưng số này rt ít. Nền văn hóa Tàu kha cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán (187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có công truyền bá chữ nhođạo Khổng vào Việt Nam, mở đầu nền nho học của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Tàu đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt, và con cháu họ trở thành người Việt.

 

Thời Hán thuc (Bắc thuộc lần thứ Nhất)

Năm 111 TCN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức xua quân diệt nhà Triệu, chiếm c Nam Việt và chia đất chiếm được ra làm chín quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân Nhật Nam có trụ sở tại Long Biên. Riêng đối với quận Nhật Nam, trước khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn; quân xâm lăng nhà Hán sau đó sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán.

Đến năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt Châu Giao Chỉ thống suất 7 quận lục địa (trừ Châu Nhai và Đạm Nhĩ - đảo Hải Nam bị mt t đây) và đặt Châu trị khc nghit tại Giao Chỉ. Thứ sử đứng đầu Châu và trị sở đóng tại Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội), dưới cấp quận có Thái thú cai quản việc dân sự và Đô uý coi việc quân sự. Bên dưới cấp huyện, Tây Hán vẫn tiếp tục cho Lạc Tướng được trị dân theo chế độ cha truyền con nối.

Từ thế kỷ 2 TCN cho đến đầu Công nguyên dưới chính sách cai trị lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Tây Hán, cơ cấu tổ chức truyền thống của Âu Lạc mặc dù chịu sự kiềm chế, kiểm soát của chính quyền đô hộ, song về cơ bản không bị xáo trộn nhiều. Nền văn minh Việt cổ dựa trên mô hình kinh tế văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Đây là nền tảng quan trọng, là sức sống nội tại để người Việt vượt qua những thử thách của các chính sách nô dịch và đồng hoá ngày càng có quy mô, hệ thống của các chính quyền đô hộ trong những giai đoạn sau.

 

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm +40)

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, có nhiều cuộc khởi nghĩa anh dũng, trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi (sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm Giáp Tuất năm +14), là con gái của Lạc Tướng huyện Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện. Mồ côi cha sớm nhưng được mẹ quan tâm nuôi nấng, dạy cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, dạy con lòng yêu nước, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên (tỉnh Hà Tây ngày nay). Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang cai trị hà khắc nước Việt, viên Thái thú Tô Định là người vô cùng bạo ngược, tham lam. Hai bà cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng Thi Sách bị Tô Định giết chết. Hận giặc hãm hại nhân dân, giết hại chồng mình, Trưng Trắc đã cùng em gái Trưng Nhị phát động cuộc khởi nghĩa ở cửa Sông Hát trên Sông Hồng (thuộc địa phận huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây) với lời thề trước giờ xuất binh:

 


Hai bà Trưng khởi nghỉa

 

Một xin rửa sạch nước thù


Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này

(Theo Thiên Nam ngữ lục)

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được dân chúng khắp nơi ủng hộ, tạo thành sức mạnh như vũ bão, đánh đuổi Tô Định phải bỏ chạy về nước. Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành phong trào rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi. Khi đu nổ ra ở quận Giao Chỉ, sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ (tất cả 65 thành)

Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm được 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Hai bà được suy tôn lên làm vuac hiệu là  Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.

Anh hùng dân tộc Trưng nữ Vương đã lập nên và giữ vững nền độc lập, quyền tự chủ dân tộc trong gần 3 năm. Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc ta; thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn của phụ nữ Việt Nam “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” trong những năm 40 sau công nguyên.

Sau đó nhà Hán phái Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị Mã Viện đàn áp tàn bạo. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại Mã Viện, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết.

 


Cuộc tiến quân của Hai Bà Trưng


 

Bắc thuộc lần thứ 2

Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ. Về tổ chức bộ máy đô hộ, nhà Đông Hán vẫn đặt chức Thứ sử đứng đầu Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Dưới cấp quận, viên quan đứng đầu vẫn là Thái thú. Tuy nhiên, lúc này Thái thú kiêm coi cả việc dân sự và việc quân sự của một quận. Chức Đô uý chuyên trách việc quân sự trước đây không còn nữa. Ngoài ra, để giúp việc cho Thái thú, một số chức quan chuyên trách các phần việc cụ thể cũng được đặt ra.

Đặc biệt, chính quyền Đông Hán là chính quyền đô hộ đầu tiên đã cố sức vươn xuống cai quản cấp huyện. Danh hiệu Lạc Tướng bị xoá bỏ, thay vào đó, mỗi huyện do một viên Lệnh trưởng được chính quyền Đông Hán bổ nhiệm trực tiếp cai quản. Để thuận lợi hơn cho Lệnh trưởng cai trị các huyện đồng thời triệt tiêu dần quyền lực của các Lạc Tướng cũ của người Việt trên đất bản bộ của mình, nhà Đông Hán đã tiến hành điều chỉnh lại địa giới hành chính, chia tách và đặt thêm một số huyện mới. Mã Viện sau khi đánh bại Trưng Vương đã quyết định chia cắt huyện Tây Vu cũ thành 3 huyện mới là Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải và cắt bớt diện tích huyện Mê Linh...

Ách cai trị thắt chặt của nhà Đông Hán còn thể hiện rõ qua việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế và lao dịch. Nhiều diện tích đất đai của công xã người Việt ở Giao Chỉ đã bị các nhóm địa chủ, quan lại từ phương Bắc di cư xuống chiếm đoạt để lập trang trại, đồn điền. Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất như rèn sắt, mua bán muối... Nhà Đông Hán cũng ra sức áp dụng luật Hán trên đất Việt, bắt dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cố gắng xóa bỏ tận gốc truyền thống Việt. 

Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu dành độc lập.

Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc ĐạtTriệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường NhânLý Thúc Hiến từ thời Bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.

 

Lý Bí và Nước Vạn Xuân

Lý Bí xuất thân một hào trưởng, quê ở huyện Thái Bình. Một thời, ông có ra làm việc với chính quyền đô hộ, nhận một chức quan nhỏ: giám quận (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu. Yêu nước, thương dân, bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan, về quê ở Thái Bình. Vùng quê ông có Tinh Thiều, Con nhà quyn qúi, giỏi văn chương, lặn lội sang kinh đô nhà Lương (Nam Kinh) để xin một chức quan (trước năm 521). Nam triều Trung Quốc cho đến thời Lương, phân biệt tôn ti chặt chẽ giữa quý tộc và hàn môn (bình dân). Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sái Tôn bảo họ Tinh thuc giai cp hàn môn, không có tiên hiền, chỉ cho Thiều làm Quảng Dương môn lang tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều lấy thế làm xấu hổ, không nhận chức về quê, cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa, chiêu tập hiền tài.

Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân; liên kết với hào kiệt các nơi thuộc miền đất  Giao Châu nổi dậy chống nhà Lương. Thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên, Phạm Tu cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.

Tháng Giêng năm 542, Cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Hào kiệt nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, thanh thế nghĩa quân tăng lên nhanh chóng. Trưc thế khởi nghĩa lớn, có sự liên kết giữa các địa phương, Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư  khiếp hãi, không dám chống cự, chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu. Chưa đầy 3 tháng cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, chính quyền đô hộ bị lật đổ, nghĩa quân đã chiếm được thành Long Biên (Bắc Ninh).

Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hán, từ 2 phía Bắc Nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân lại thắng lớn, Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía Nam và vùng bán đảo Hợp Phố ở phía Bắc.

Tc gin vì thua to, Vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa Đông năm ấy. Bọn này khiếp đảm không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1/543).

 


 

Biết gic lo s, Nghĩa quân Lý Bí tổ chức một mt trận phục kích rng ln, chn đánh gic ngay khi va mi ti trên miền cực Bắc Giao Châu. Cuộc chiến diễn ra ở Hợp Phố. Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8 phần, bọn sống sót đều tan vỡ bỏ chạy. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng tờ khải về triều, vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng "giao thông với giặc, dùng dằng không tiến quân". Thấy quân lính bị thiệt hại quá nặng, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả 2 tên tướng cầm đầu đem x tử ở Quảng Châu.

Sau những  thắng lợi cả hai chiến trường biên giới Bắc, Nam. Mùa Xuân, tháng Giêng theo âm lịch (2-544), Lý Bí lên ngôi vua, t xưng là Lý Nam Đế hiu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, bãi bỏ lịch của Tàu, ông cũng đặt cho triều đại mới một niên hiệu riêngThiên Đức, (khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).

Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước.

Nhà nước Vạn Xuân, dù mới xây dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, "chùa Khai Quc" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa!

Đầu năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem 8 vạn quân sang xâm lược nước Vạn Xuân. Chính quyền độc lập lúc này còn non trẻ, lực lượng quốc phòng chưa được phát triển và củng cố. Lý Nam Đế qua kinh nghiệm hai lần đánh thắng giặc xâm lược, vẫn chủ trương chỉ dựa vào quân chủ lực với các thành lũy cố định, đánh dàn trận đối diện nhau nên không địch nổi quân địch đông và mạnh.

Lý Nam Đế dẫn 3 vạn quân ra chống giặc ở Chu Diên (Hải Dương, Hưng Yên), bị thua rút về cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy tn công chiếm được thành Tô Lịch.

Lý Nam Đế lui quân lên giữ thành Gia Ninh (Việt Trì). Giặc bao vây và phá được thành. Lý Nam Đế phải chạy vào miền Khuất Lão (Phú Thọ). Sau một thời gian được nhân dân miền Khuất Lão ủng hộ, Lý Nam Đế lại phục hồi được lực lượng.

Tháng 10/546, Lý Nam Đế kéo quân ra vùng hồ Điển Triệt (đầm Vạc, Vĩnh Yên). Một đêm nước sông lên to, chảy mạnh vào hồ, Trần Bá Tiên thừa cơ tiến đánh bất ngờ. Quân Vạn Xuân không kịp phòng bị nên tan vỡ. Các cánh quân khác cũng không chống được giặc phải rút vào vùng núi quận Cửu Chân. Cuộc kháng chiến của Lý Nam Đế thất bại. Ông giao binh quyền cho Triệu Quang Phục rồi bị đau ốm chết.

Triệu Quang Phục vốn là con của một thủ lĩnh vùng Chu Diên, hai cha con là người đầu tiên đem dân binh theo Lý Bí khởi nghĩa.

Triệu Quang Phục là một tướng tài được Lý Bí trao binh quyền ủy thác tiếp tục cuộc kháng chiến. Triệu Quang Phục thu thập số binh sĩ còn lại sau trận hồ Điển Triệt lui về lập căn cứ ở vùng đầm lầy Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên).

Triệu Quang Phục cho quân đóng rải rác ở các bãi nổi trong đm lầy được cỏ dại che phủ, ra vào bằng các con đường nhỏ bí mật; ban ngày tắt hết khói lửa, không lộ hình tính, ban đêm đi thuyền ra đánh úp quân Lương.

Nhờ cách đánh phù hợp, lực lượng của Triệu Quang Phục dần phục hồi, gây cho địch một số thiệt hại, cuộc kháng chiến được duy trì lâu dài. Năm 548, sau khi nghe tin Lý Nam Đế đã lâm bệnh mà qua đời tại động Khuất Lão, Triệu Quang Phục mới lên ngôi Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Việc lên ngôi này chủ yếu là để tạo ra ngọn cờ chính thống cho sự nghiệp tập hợp lực lượng để đánh đuổi quân xâm lăng, dân ta thường gọi là Dạ Trạch Vương.

Năm 550, nhân bên nhà Lương có loạn Hu Cảnh, quân Lương phải rút đại quân về nước dẹp loạn. Việc Trần Bá Tiên đem quân về Kiến Khang khiến cho tương quan thế lực đôi bên thay đổi theo xu hướng hoàn toàn có lợi cho Triệu Việt Vương. Được thời cơ thuận lợi này, tháng 1 năm Canh Ngọ (550), từ khu căn cứ mới xây dựng ở bãi Tự Nhiên trong đầm Dạ Trạch, Triệu Việt Vương đã bất ngờ tung quân đánh một trận quyết định với kẻ thù. Giặc không cách gì có thể chống đỡ nổi, Dương Sàn thua trận mà chết, quân Lương tan vỡ hốt hoảng tháo chạy về Bắc. Nước ta lại được giải phóng hoàn toàn. Nước Vạn Xuân giữ được độc lập trên nửa thế kỷ nữa.

Bc thuc ln th ba:

Thời Bắc thuộc lần thứ 3 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905. Năm 602, Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đem quân 27 dinh sang đánh nước Vạn Xuân, bức hàng Hậu Lý Nam Đế. Vua đời thứ 3 của Vạn Xuân là Lý Phật Tử quá s nên hàng gic bị bắt. Việt Nam bị xếp làm một châu của Tùy, gọi là châu Giao (交州). Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía Bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía Đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía Tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía Nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân.

Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lý Tự TiênĐinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ 7 đến thế kỷ 9.

 

Sóng Bạch Đng còn vang vang tiếng thét

M chôn quân ngoại tc s còn ghi

 


Từ sau loạn An Sử (756-763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía Nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi tên gọi là Tĩnh Hải.

Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán, mặc dù người Việt chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xã hội, văn hóa của Tàu, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản sắc nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ.

Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại Thừa đang phát triển ở Đông Á. Mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáoPhật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương.

Năm 905 Khúc Thừa Dụ một hào trưởng địa phương đã chiếm giữ thủ phủ Đại La xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập. Năm 939 Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước đoàn quân Nam Hán và nưc Vit khi thi t chủ t đây.

 

Bắc thuộc lần thứ tư:

Thời Bắc thuộc lần 4 hay thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thời kỳ thuộc Minh chỉ kéo dài 20 năm.

Cuối thế kỷ 14 nhà Trần sa sút, Hồ Quý Ly dần dần kiểm soát cả triều đình, ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Ông lên ngôi vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực hiện nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, do thực hiện quá nhiều thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được nhiều cựu thần nhà Trần cũng như dân chúng ủng hộ, lại thêm tình hình kinh tế và xã hội toàn quốc suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng. Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà MinhTrung Quốc dùng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để mang quân sang xâm lược nước Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại hoàn toàn vào giữa năm 1407. Nước Đại Ngu bị tiêu diệt và bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.

Ngay khi nhà Hồ thất bại, đã có rt nhiều phong trào chống Minh bắt đầu nổi lên. Trong các phong trào chống Minh, lớn nhất là sự nổi dậy của nhà Hậu Trần và khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.

Dù ban đầu lấy chiêu bài “Phù Trn dit Hnhưng sau đó nhà Minh lại sai lùng bắt con cháu nhà Trần. Sự nổi dậy của nhà Hậu Trần bắt dầu từ cuối năm 1407 với sự kiện Trn Giản Định Đế lên ngôi. Lực lượng này đã làm chủ từ Thuận Hóa tiến ra Bắc và đánh bại quân Minh một trận lớn ở Bô Cô cuối năm 1408. Nhưng sau đó hiềm khích chia rẽ trong nội bộ khiến lực lượng bị suy yếu nghiêm trọng. Cuối cùng đến năm 1413, vua Trn Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh bị bắt. Nhà Hậu Trần chấm dứt.

Sau khi dẹp được nhà Hậu Trần, quân Minh quay sang dẹp các cuộc khởi nghĩa nhỏ khác. Lúc này nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này.

 


Lê Lai liều mình cứu Chúa


 

Năm 1418, Lê Lợi dấy binh, bắt đầu khởi nghĩa ở Lam Sơn. Thời gian đầu, quân Lam Sơn gặp nhiều khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa. Từ năm 1424, quân Lam Sơn thay đổi chiến thuật: tiến vào Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng đất phía Nam. Sau đó Lê Lợi tiến ra Bắc, đánh bại các đạo quân sở tại và 4 đạo quân viện binh lần lượt sang từ năm 1426 đến 1427.

Cuối cùng, tướng nhà Minh là Vương Thông phải xin giảng hòa, rút quân về nước. Người Việt giành lại quyền độc lập tự chủ sau 20 năm. Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Lê, và kể từ đây nước Việt ta hoàn toàn tự chủ cho đến năm 1975 khi bọn tay sai Tàu khựa xâm lăng miền Nam Việt Nam và hin đặt nước Việt Nam thêm một lần đô hộ thứ năm hết sức nguy hiểm cho dân tộc ta.

 

·         Bắc thuộc lần thứ 5

Kể từ khi CSBV chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975, chúng ta ngày càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những kẻ lãnh đạo đất nước. Cuộc chiến “có tiếng súng” nổ ra ở biên giới Việt-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm của VC. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục dẳn dai dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn toàn của CS Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

 


Hội nghị Thành đô 1990, bán nước cho giặc

 

Và cuộc chiến không tiếng súng bắt đầu.


Hiệp ước biên giới được hai bên ký kết  (theo lịnh của TC) như sau:

Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam Ải Nam Quan và cách ải 280m.

Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý.

Quan trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới Việt-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng thân TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một khi có chiến tranh xảy ra.

Thật ra, những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm từ trước, Hội nghị Thành Đô năm ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990. Trong quá trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng xâm lấn Việt Nam của người Hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN đã chịu bốn lần ách đô hộ. Và hôm nay, dưới cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa, cuộc đô hộ mới đang xảy ra, thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô trên và s hèn hạ vi gic của tp đoàn VC.

Tại hi nghị nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng CS Việt Nam thời bấy giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước cho tới khi “bị” bật mí vào những ngày đầu năm 2013..

Ngày 5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cộng. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung – Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.

Tiếp theo sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cộng. Theo báo chí “l phải” của VC, Việt Nam có quan hệ mật thiết “môi hở răng lạnh” với Trung Cộng. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Cuối cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam thành Nam Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung Cộng… và ngôi sao thứ năm trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm 2011… để chờ ngày chính thức công bố tự trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân chuyến viếng thăm TC của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định “16 chữ vàng” một lần nữa là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”).

 


Bng chng bán nưc của VC


Chính quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự hèn hạ của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ thêm qua nhiều chỉ dấu từ đó đến nay.

 

Tài liệu tham khảo:

-          Vit Nam S lược ca Trn Trng Kim.

-          Nhìn li s Vit t tin s đến t ch.

-          Lch s lp quc ca VN ca nhiu tác gi.

-          Hình nh internet.

Vĩnh Trường  (Võ Trung Tín chuyển)

Bàn ra tán vào (1)

quang dinh
BÓNG CHIM TĂM CÁ * Hoà bình diễn tiến Đặng Tiểu Bình Đặng Dĩnh Siêu sinh Hồ Chí Minh Đả hổ đập ruồi Bành Lệ Viện Nguyễn Xuân Fuck niễng Nguyễn Thị Bình * Lê Bình học Tập Cận Bình làm xương cho sáo Ngọc Trinh sướng Hoàng Kiều Vua Lê Thái Tổ Yết Kiêu Yết hầu Hà Nội Thăng Long yết kiến hùa Buôn thần bán thánh cung vua Điện Biên Phủ chúa càng cua cáy càng còng * Lề dân báo đảng Nguyễn Như Phong Cùi không sợ lở bọ cóc phòng Lê Hồng Phong hủi Văn Trỗi Nguyễn Võ Thị Sáu chai bom úp lồng * Ba Đình tình phộc lồng tồng Kim Ngân Doan Phóng ước chồng Mao Trạch Đông Bá Quan văn võ ngủ công Bá Thanh nghi Phạm Văn Đồng Phùng Quang Thanh Hoàng Văn Hoan Trịnh Xuân Thanh bóng chim tăm cá phi hành Chùa Bà Đanh * TÂM THANH

----------------------------------------------------------------------------------

Comment




  • Input symbols

Lịch sử Lập Quốc của Tổ Tiên Việt Nam - Vĩnh Trường

Nền văn hóa đầu tiên dựa vào những di chỉ tìm thấy được đặt tên là thời kỳ văn hóa Sơn Vi, hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Sơn Vi là tên một xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ của nền văn hóa này,


Lịch sử Lập Quốc của Tổ Tiên Việt Nam

Vĩnh Trường

 


Từ lúc con người hin din sinh sống hàng trăm ngàn năm trước công nguyên, thì t tiên chúng ta đã hin hu khai phá giang sơn ny. Nhưng nếu tính t khi tổ chức nhà nước được hình thành thì Lịch s Vit Nam đến nay độ khoảng gn 5000 năm (theo truyền thuyết). Đó là thời các vua Hùng thuc Họ Hng Bàng.

Cho đến nay, thời kỳ Hùng Vương được các nhà sử học khẳng định là thời kỳ có thật trong lịch sử. Tuy nhiên, không có một tư liệu thành văn nào ghi chép về thời kỳ này cho nên chúng ta tạm bằng lòng với việc “dựng” lại lịch sử bằng các truyền thuyết dân gian, dân tộc học, ngôn ngữ học, địa phương học kết hợp với kết quả của ngành Khảo cổ học. Vì vậy, nếu đề cập tới thời kỳ Tiền Hùng Vương thì còn khó khăn gấp bội phần. Tuy nhiên, chúng ta cắt nghĩa thế nào về những ghi chép của các sử gia Trung Hoa về một đất nước Việt Thường xuất hiện rất lâu trước thời kỳ Hùng Vương ? Chúng ta cắt nghĩa thế nào về một cố đô Ngàn Hống xuất hiện trước khi có Kinh đô Văn Lang, nhất là khi những ghi chép đó lại xuất hiện trong Ngọc phả Hùng Vương, như một sự truy niệm về kinh đô cũ ?

 


ng đồ thập bát diệp Thánh Vương Ngọc Phả cổ truyền (Ngọc phả 18 đời Hùng Vương hiện lưu tại viện Bảo Tàng Hùng Vương)

Truyền thuyết v thi kỳ dng nưc

Tục truyền, cha của Long Vương là Dương Vương, khi mới mở nước, đi xem phong cảnh núi sông, tìm nơi xây dựng kinh đô. Khi về phương Nam, đến vùng Ngàn Hống, thấy phong cảnh núi non trùng trùng điệp điệp, 99 ngọn (Ngọc phả Hùng Vương ghi là 199 ngọn) cao tận trời xanh, chân núi vờn đến gần cửa Đơn Hay (tức cửa Đan Nhai, tức Cửa Hội) có thế rồng  vây hổ chầu, Dương Vương rất lấy làm vừa ý. Vương bèn quyết định đắp thành dưới núi, lấy nơi này làm đô ấp, như vị trí ngày nay thì thành ấy là đất Nội Tả-Hữu Thiên Lộc thuộc Châu Hoan (nay thuộc phạm vi các xã Thiên Lộc, Phúc Lộc, Tùng Lộc thuộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.

Dựng xong đô ấp, Dương Vương lại cưỡi thuyền thẳng về hướng Bắc, tiếp tục đi xem phong cảnh đất nước. Thuyền đang đi, bỗng có một người con gái “tóc dài ngài (người) đẹp, da phấn mặt hoa” từ dưới nước nổi lên, tự xưng là Thần Long. Sau khi chào hỏi ân cần, vương mời nàng lên thuyền, đôi bên trò chuyện rất ăn ý. Dương Vương đưa nàng về đô ấp Ngàn Hống và cưới làm vợ.

Vương lại tiếp tục tuần thú phương Bắc. Đến vùng núi như ngày nay là Sơn Tây, vương thấy cảnh núi sông thật là hùng vĩ đặc biệt ngã ba Hạc là nơi thủy bộ thuận lợi, xem ra nhiều chỗ ưu việt hơn đất Hoan Châu. Vương bèn cho xây dựng đô ấp mới ở vùng Nghĩa Lĩnh, từ ngã ba Hạc đến vùng núi Hi Cương , làm nơi hành tại.

Dương Vương lại lên vùng Hưng Hóa- Tuyên Quang bây giờ, lấy thêm một người con gái họ Mã là nàng Ngọc Nương làm vợ và dựng một cung sở cho nàng ở, cung sở đó là vùng Tiên Cát, gần Việt Trì ngày nay.

Vương ở Tiên Cát ít lâu rồi trở về đô ấp Ngàn Hống. Lúc này, nàng Thần Long đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa, sinh con trai đầu lòng. Đó là Long Vương, con trưởng của Dương Vương, tức là Vua Hùng thứ nhất, sau này gọi là Hùng Hiền Vương (tức Lạc Long Quân)

Khi Long Vương lớn lên, Dương Vương giao cho đô ấp Nghĩa Lĩnh để trông coi việc nước ở phương Bắc. Trong thời gian ở kinh thành Nghĩa Lĩnh, nhân một chuyến đi tuần thú, Long Vương gặp nàng Âu Cơ ở vùng Sơn Tây và lấy làm vợ.

Long Vương đưa nàng Âu Cơ về động Hi Cương, còn mình thì ở luôn Phong Châu (gần ngã ba Hạc) làm việc nước.

Về sau Long Vương bỏ kinh đô Ngàn Hống, lấy Phong Châu làm kinh đô chính, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ. Từ đó cố đô Việt Thường ở Ngàn Hống bị thời gian xóa dần dấu vết.

Dân tộc ta sau thời kỳ dựng nước chưa được bao lâu thì mất nước. Hơn một ngàn năm Bắc thuộc (từ năm 179 trước Công nguyên (TCN) đến năm 938), dưới sức mạnh đô hộ và đồng hóa, lịch sử văn hiến của người Việt đã gần như bị bôi xóa mọi dấu vết, không được ghi chép để truyền lại. Cái duy nhất mà kẻ thù không thể xóa được là ký ức của dân ta về lịch sử tổ tiên, ông cha ta. Bởi vậy, suốt một thời gian dài, thời kỳ lập quốc của dân tộc Việt Nam chỉ được phản ánh qua huyền thoại, cổ tích, truyền thuyết dân gian, và thời kỳ tiền sử (trước thời Hồng Bàng) chỉ được ghi nhận, dự đoán thông qua các di tích khảo cổ.

 


 

Khu vực nay là Việt Nam đã có loài người ở từ thời kỳ Đồ đá cũ, các nhà khảo cổ đã tìm ra các dấu vết con người cư ngụ tại hang Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (Lạng Sơn), núi Đọ, Ninh BìnhNga Sơn, Thanh Hóa cách đây hàng trăm nghìn năm. Thời kỳ này mực nước biển thấp hơn, và Việt Nam khi đó nối liền với bán đảo Malaysia, đảo Java, SumatraKalimantan của Indonesia, với khí hậu ẩm và mát hơn bây giờ. Người Việt cổ khai thác đá gốc (ba-dan) ở sườn núi, ghè đẽo thô sơ một mặt, tạo nên những công cụ mũi nhọn, rìa lưỡi dọc, rìa lưỡi ngang, nạo... bỏ lại nơi chế tác những mảnh đá vỡ (mảnh tước). Những di tích ở núi Đọ được coi là bằng chứng cổ xưa nhất về sự có mặt của con người tại vùng đất Việt, khi tổ chức xã hội loài người chưa hình thành.

 

Văn hóa Sơn Vi

Nền văn hóa đầu tiên dựa vào những di chỉ tìm thấy được đặt tên là thời kỳ văn hóa Sơn Vi, hậu kỳ thời đại đồ đá cũ cách nay khoảng 30 ngàn đến 11 ngàn năm. Sơn Vi là tên một xã thuộc huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra những di chỉ của nền văn hóa này, những nhóm cư dân nguyên thủy tại đây đã sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt - ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.

Văn hóa Sơn Vi bao trùm các vùng thuộc Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị. Những người nguyên thủy chủ nhân của văn hóa Sơn Vi sống thành từng bộ lạc. Họ sinh sống ngoài trời trên các ngọn đồi hay cao ở trung lưu sông Hồng, thượng lưu sông Lục Nam, thượng lưu sông Hiếu.

Cách đây 15000-18000 năm trước đây là thời kỳ nước biển xuống thấp. Đồng bằng Bắc Vit bấy giờ kéo dài ra mãi đến tận đảo Hải Nam và các khu vực khác. Đến thời kỳ khoảng 15 nghìn năm trước Công Nguyên (cách đây khoảng 18 nghìn năm) là thời kỳ cuối của kỷ băng hà, nước biển dâng cao dần đến khoảng năm 8000 năm trước đây thì đột ngột dân cao khoảng khoảng 130m (đại Hng Thủy, Có th là s tích Sơn Tinh Thủy Tinh để ám chỉ thời đại nầy chăng ?). Nước biển ở lại suốt thời kỳ này và rút đi vào khoảng 5500 năm trước đây. Ứng với thời kỳ này cùng với các di chỉ khảo cổ cho thấy nước biển đã ngập toàn bộ khu vực đồng bằng sông Hồng ngày nay đến tận Vĩnh Phú trong suốt 3000 năm.

 


Di chỉ văn hoá Sơn Vi


 

Do chính đặc tính về địa chất ny nên vùng đồng bằng sông Hồng, vịnh Bắc Vit không có điều kiện khai quật nền đất cổ đại ở khoảng 8000 năm trước công nguyên (trước khi có đại hồng thủy) để xác nhận dấu vết của các nền văn minh khác nếu có. Trang sử Việt có một khoảng trống không xác định được từ khoảng năm trước 5500 năm - 18000 năm trước.

 

Văn hóa Hòa Bình

Sau thời kỳ văn hóa Sơn Vi là văn hóa Hòa Bình, thuộc thời kỳ đồ đá cũ sang thi kỳ đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Việt, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Văn hóa Hòa Bình được ghi nhận là cái nôi của nền văn minh lúa nước, xuất phát từ Đông Nam Á có niên đại trễ được tìm thấy vào khoảng 15,000 năm trước đây. Do đặt tính địa chất về hồng thủy nên có thể một phần sự phát triển rực rỡ của nền văn hóa Hòa Bình đã chưa bao giờ được nhận ra và tìm thấy. Các nhà khảo cổ đã liên kết sự khởi đầu của nền văn minh người Việt ở cuối thời kỳ Đồ đá mới và đầu thời kỳ đồ đồng (vào khoảng hơn 5700 năm trước Công Nguyên). Các bộ lạc chủ nhân của văn hóa Hòa Bình đã tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.


 


 Hình minh họa cư dân Văn hóa Hòa Bình

 

Văn hóa Bắc Sơn

tên gọi một nền văn hóa Việt Namthi kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một vạn đến tám ngàn năm. Bắc Sơn là đặt theo tên huyện Bắc Sơn, nơi phát hiện đầu tiên những di vật của nền văn hóa này.

Di chỉ của văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy ở các miền đất thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An... ngày nay. Tính đến năm 1997, đã có 51 điểm văn hóa Bắc Sơn được khai quật. Trong số đó, có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người tiền sử.

Người nguyên thủy trong nền văn hóa Bắc Sơntrú trong hang động, mái đá gần sông, suối. Họ sống bằng săn bắn, hái lượm. Họ cũng bắt đầu canh tác nông nghiệp ở mức độ rất sơ khai. Dụng cụ để sinh hoạt của họ làm bằng đá đẽo hoặc mài và từ tre, gỗ. Các dụng cụ này tỏ ra tinh vi hơn so với dụng cụ của người nguyên thủy thời văn hóa Hòa Bình. Đặc biệt, người nguyên thủy thời văn hóa Bắc Sơn đã biết làm đồ gốm. Họ thích trang sức hơn so với người thời văn hóa Hòa Bình và có nơi cư trú tương đối ổn định hơn.

 

Thời đại đồ đồng đá

Là một giai đoạn trong sự phát triển các nền văn hóa của con người, trong đó việc sữ dụng các dụng cụ bằng kim loại đã xuất hiện, đồng thời với việc sử dụng các dụng cụ bằng đá. Trong thời đại nầy các nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của nền Văn Hóa Phùng Nguyên.

Văn hóa Phùng Nguyên là một nền văn hóa thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, cuối thời đại đồ đá mới, cách đây chừng 4.000 năm đến 3.500 năm. Phùng Nguyên là tên một làng ở ven sông Thao thuộc làng Phùng Nguyên, xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, nơi đầu tiên tìm ra các di chỉ của nền văn hóa này.

Di chỉ văn hóa Phùng Nguyên đã được tìm thấycác khu vc Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng và một vài nơi khác trong lưu vực sông Hồng. Tính đến năm 1998, có khoảng 55 địa điểm đã được phát hiện có di chỉ văn hóa đồng dạng với các di chỉ tại Phùng Nguyên, trong đó có 3 địa điểm có di cốt người. Ở những nơi đây, trong tất cả các hiện vật khảo cổ khai quật được thuộc nền văn hóa này, ngoài ít mẩu xỉ đồng, hiện tại chưa hề tìm thấy bất kỳ công cụ bằng đồng nào. Công cụ bằng đá phổ biến và chiếm ưu thế tuyệt đối. Đồ trang sức bằng các loại đá, đá bán quý, ngọc được tìm thấy nhiều, đặc biệt là các vòng đá. Ngoài đồ đá, cư dân Phùng Nguyên đã biết chế tạo đồ gốm đặc sắc từ khâu làm đất, tạo dáng cho đến hoa văn trang trí.

 


 

Cùng thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở Việt Nam như văn hóa Phùng Nguyên còn có văn hóa Cồn Chân Tiên (di tích ở xã Thiệu Vân, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Di tích thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng ở lưu vực Sông Mã), nền văn hóa Hoa Lộc (theo tên xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá, Việt Nam, nơi phát hiện di chỉ đầu tiên và điển hình vào cuối 1973. Chủ nhân VHHL sống bằng nghề nông, chăn nuôi, săn bắn, đánh cá…), văn hóa của các bộ lạc người nguyên thủy ở lưu vực sông Lam, của các bộ lạc ở thượng lưu sông Mã (huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La), văn hóa Tiền Sa Huỳnh (là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm 1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2 Trung Việt), văn hóa Đồng Nai (Đông Nam Việt).

 

Thời đại đồ đồng

Văn hoá Đồng Đậu là nền văn hóa thuộc thời kỳ đồ đồng ở Việt Nam cách ngày nay khoảng trên 3.000 năm, sau văn hóa Phùng Nguyên. Tên được đặt theo khu di tích Đồng Đậu ở thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, nơi các nhà khảo cổ học đã khám phá ra một nền văn hóa đồ đồng phong phú năm 1962.

 


Di chỉ văn hóa Đng Đu


 

Người Đồng Đậu sống ngoài trời trên các ngon đồi cao hay nổng vùng Trung du Bắc Việt với một nền kinh tế khá ổn định và phát triển dựa trên nông nghiệp trồng lúa và các cây hoa màu. Các dấu tích luyện kim như xỉ đồng, các mảnh khuôn đúc (bằng đá) cho thấy nghề đúc đồng đã có và phát triển thời kỳ này.

Tiếp theo Đng Đu là Văn hóa Gò Mun ước chừng khoảng từ năm 1.000 - năm 700 TCN, thuộc cuối thời kỳ đồ đồng. Nền văn hóa này được đặt theo tên của địa điểm mà vào năm 1961, các nhà khảo cổ học đã khai quật được nhiều di chỉ của nền văn hóa này tại gò Mun, xã Tứ Xã, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ.

Văn hóa Gò Mun được nhìn nhận như là nền văn hóa tiền văn hóa Đông Sơn. Thời kỳ này, người Việt cổ đã có những chuyển biến rõ rệt về một xã hội phức tạp và giàu có, thúc đẩy việc ra đời nhà nước sơ khai của người Việt.

 

Thời đại đồ sắt

Sau thời đại Đồ Đồng là thời đại Đồ Sắt. Trong thời nầy nền Văn hóa Đông Sơn nổi bật  vì sản phẩm Trống đồng của nó.  Cái tên  của văn hóa này xuất phát từ một số hiện vật  đồ đồng sắt ở làng Đông Sơn ven sông Mã, thuộc Tỉnh Thanh  Hóa  do  một người câu cá tên Nguyễn Văn Lắm đã ngẫu nhiên tìm được năm 1924, rồi do một viên thuế quan người Pháp tên là L. Paijot yêu khảo cổ, khai quật tìm thấy.

Đến khoảng năm 1200 TCN, sự phát triển của kỹ thuật trồng lúa nước và đúc đồ đồng trong khu vực sông Mã và đồng bằng sông Hồng đã dẫn đến sự phát triển của nền văn hóa Đông Sơn, nổi bật với các trống đồng, các vũ khí, dụng cụ được khai quật minh chứng cho việc kỹ thuật đúc đồ đồng bắt nguồn từ đây, nhiều mỏ đồng nhỏ xưa đã được khai quật ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây các nhà khảo cổ đã tìm thấy quan tài và lọ chôn hình thuyền, nhà sàn, và bằng chứng về phong tục ăn trầunhuộm răng đen.

 


Trống đồng Đông Sơn


 

Xã hi Đông Sơn là một xã hội đã phát triển về nông nghiệp. Cơ cấu xã hội cũng diễn biến nhiều phức tạp có phân chia thành nhiều giai cấp. những khí cụ tìm được cho thấy trong xã hội có phân chia giàu nghèo. Những loại vũ khí mới cho thấy thời Đông Sơn, Ông Cha ta đã phải đối phó với nhiều cuộc chiến tranh nội bộ hoặc chống ngoại xâm. Việc tìm thấy những quan tài hình thuyền cũng như những hình trang trí trên trống đồng như những người chèo thuyền, những chiến sĩ cầm vũ khí cũng như hình những con chim biển chứng tỏ người Đông Sơn đã có những giao tiếp mật thiết với biển hoặc xuất phát từ biển vào.

Những di tích của Đông Sơn tồn tại tới đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Tây Lịch trùng hợp với giai đoạn nước ta bị nội thuộc vào bọn Tàu khựa Hán tộc thời Tây Hán. Tới đây thời khuyết sữ của nước ta không còn nửa mà đã có những sử liệu thành văn đa số dựa vào sử liệu Trung Hoa.

 

Thời Hồng Bàng

Theo một số sách cổ sử, các tộc người Việt cổ (Bách Việt) lập quốc đầu tiên ở miền Lĩnh Nam, bao gồm một vùng rộng lớn từ phía Nam sông Trường Giang của Trung Hoa hiện nay đến vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã ở miền Bắc Việt Nam vào thời Kinh Dương Vương và được đặt tên là Xích Quỷ. Xích nghĩa là đỏ, chỉ phương Nam. Theo Kinh Dịch, Phương Nam là nơi văn minh.

 


Nước Xích Quỷ dưới thời Lạc Long Quân


 

Truyền thuyết nước Xích Quỷ của các tộc người Việt cổ được hình thành từ năm 2879 TCN, phía Bắc giáp hồ Động Đình, phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên - Trung Quốc), phía Đông là biển Đông Hải và phía Nam là nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này). Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc (từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN) do các sức ép từ các vương quốc Sở, Tần ở miền Bắc Trung Hoa và làn sóng người Hoa Hạ chạy tỵ nạn chiến tranh từ miền Bắc xuống nên dần dần các tộc người Việt cổ bị mất dn lãnh thổ, một số bộ tộc Việt bị đồng hóa vào người Hoa Hạ. Cao điểm là vào thời Tần Thủy Hoàng lãnh thổ của Trung Hoa kéo xuống tận ven biển phía Nam Quảng Đông.

Thời nầy, Vương quốc của các tộc người Việt cổ có tên nước Xích Quỷ, là một liên bang lỏng lẻo giữa các nhóm tộc Việt khác nhau như Điền ViệtVân Nam, Dạ LangQuý Châu, Mân ViệtPhúc Kiến, Đông ViệtTriết Giang, Sơn ViệtGiang Tây, Nam ViệtQuảng Đông, Âu Việt (Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việtmiền Bắc Việt Nam ...

Những biến động trong thời kỳ này cũng dẫn tới sự tan rã của nhà nước liên minh của các tộc người Việt, từ thế kỷ 8 trước công nguyên trở đi. Các bộ tộc Việt cư trú tại các khu vực khác nhau ở miền Nam sông Dương Tử đã hình thành nên các nhà nước khác nhau ở từng khu vực cũng như từng thời kỳ như: nước Việt, Văn Lang, Việt Thường, Nam Việt, Âu Lạc, Quỳ Việt, Mân Việt, Đông Việt,... các nhà nước độc lập này từng bước bị các vương triều của người Hoa Hạ ở miền Bắc sông Dương Tử đánh bại thôn tính, hoặc là tự nội chiến với nhau dẫn tới suy yếu. Đến thời kỳ đế chế nhà Hán khoảng thế kỷ 1 TCN các nhà nước Việt đều bị Tàu kha thôn tính.

 

Nước Văn Lang

Vào khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên, người Lạc Việt, một trong những nhóm tộc Việt ở phương Nam đã xây dựng nên nhà nước của mình, đó là nước Văn Lang do các vua Hùng cai trị, đóng đô ở Phong Châu (thuộc Phú Thọ ngày nay).

 


Nước Văn Lang thời Hùng Vương


 

Các tài liệu nghiên cứu hiện đại phần lớn đều đồng ý theo ghi chép của Việt sử lược về một vương quốc Văn Lang của người Lạc Việt có niên đại thành lập vào thế kỷ 7 TCN cùng thời Chu Trang Vương (696 TCN - 682 TCN) ở Trung Hoa. Vương quốc này tồn tại khu vực ngày nay là miền Bắc Việt Nam và đã có giao lưu với nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn (Lạc Câu Tiễn) ở khu vực hạ lưu sông Trường Giang.

Nhà nước Văn Lang theo thể chế quân chủ chuyên chế. Ở trung ương do vua Hùng đứng đầu. có các Lạc Hầu và Lạc Tướng giúp việc. Ở địa phương chia làm 15 bộ: Việt Thường (越裳), Giao Chỉ (交趾), Chu Diên (朱鳶), Vũ Ninh (武寧), Phúc Lộc (福祿), Ninh Hải (寧海), Dương Tuyền (陽泉), Lục Hải (陸海), Hoài Hoan (懷驩), Cửu Chân (九真), Nhật Nam (日南), Chân Định (真定), Văn Lang (文郎), Quế Lâm (桂林), Tượng Quận (象郡) do Lạc tướng cai quản. Dưới bộ là các làng do Bồ chính cai quản.

 

Nước Âu Lạc

Đến thế kỷ thứ 3 TCN, Vào thời cuối các vua Hùng, nạn ngoại xâm càng trở thành mối đe dọa to lớn. Ở phía Bc, Việt Vương Câu Tiễn sau khi diệt nước Ngô năm 473 trước CN làm bá chủ miền Duyên Hải từ Sơn Đông đến Quảng Đông và đã sai sứ xuống dụ nước Văn Lang nhưng đã bị vua Hùng cự tuyệt.

Sự kiện này được các nhà sử học Việt Nam coi là cuộc đụng độ đầu tiên giữa nước ta với chủ nghĩa bành trướng Đại Hán (Tàu khựa).

Truyền thuyết "Họ Hồng Bàng" trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng phản ánh phần nào cuộc tiếp xúc và đụng độ của người Việt với người Hoa Hạ ở phương Bắc. Vua Hùng Vương thứ 18 có một người con gái rất xinh đẹp. Vua nước Thục ở về phía Bắc nước Văn Lang sang cầu hôn, Hùng Vương từ chối. Thục Vương đem lòng oán giận, cử binh đánh nhưng bị thua.

Khi sắp mất, Thục Vương dặn cháu là Thục Phán phải lo báo thù. Quả nhiên về sau, Thục Phán thừa lúc Hùng Vương không phòng bị, đánh chiếm được nước Văn Lang. Vua Hùng Vương 18 nhảy xuống giếng tự tử (258 trước tây lịch).

Sau khi thắng Vua Hùng Vương, Thục Phán, sát nhập lãnh thổ của Âu Việt và Lạc Việt lập ra nước Âu Lạc (218 TCN), đóng đô tại Cổ Loa, thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội ngày nay. Ông tự xưng là An Dương Vương. Nước Âu Lạc của An Dương Vương bị Triệu Đà thôn tính năm 179TCN.

 

Nước Nam Việt

Cuối thời Tần, Triệu Đà (người nước Triệu - thời Chiến Quốc) là quan úy quận Nam Hải (Quảng Đông ngày nay) nhân khi nhà Tần rối loạn sau cái chết của Tần Thủy Hoàng (210 TCN), đã cát cứ quận Nam Hải, sau đó ông đem quân thôn tính sát nhập các vương quốc Âu Lạc, Mân Việt, quận Quế Lâm lân cận và thành lập nước Nam Việt tồn tại trong giai đoạn 207 TCN - 111 TCN với kinh đô Phiên Ngung tại Quảng Châu.

Vương quốc Nam Việt trong thời Triệu Đà bao gồm ba quận phía Nam của nhà Tn: Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân. Biên giới phía Bắc là dãy núi Lĩnh Nam, biên giới phía Nam là dãy Hoành Sơn và được chia thành 9 quận (gồm Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Hoa, miền Bắc Việt Nam  Bắc Trung  Vit hiện nay

Sau khi nhà Hán của người Hoa Hạ được thành lập, ông đã đứng về phía những bộ tộc Bách Việt còn lại đối kháng lại sự bành trướng xâm lược của nhà Hán. Trong khoảng thời gian một thế kỷ (207-111 TCN), tuy có vua ngoại tộc là người phương Bắc nhưng vương quốc Nam Việt hoàn toàn độc lập tự chủ trước đế chế nhà Hán.

Các vua Triệu truyền ngôi được 5 đời đều xưng Đế, chỉ các sử gia Trung Hoa, vì khép Nam Việt là nước chư hầu, đều chép các vua Nam Việt tước "vương" gồm có:

1.      Triệu Vũ Đế  (Triệu Đà, 203-137 trước CN).

2.      Triệu Văn Đế  (Triệu Hồ, 137-125 TCN).

3.      Triệu Minh Đế (Triệu Anh Tề, 125-113 TCN).

4.      Triệu Ai Đế (Triệu Hưng, 113-112 TCN).

5.      Triệu Dương Đế (Tr Kiến Đức, 112-111 TCN).

 


Nước Nam Việt thời Triệu Đà

 

Thời Bắc thuộc


thời gian Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình phương Bắc, Tàu kha như: Bắc thuộc lần thứ nhất (-111 TCN đến +39): Hán thuc; Bắc thuộc lần thứ hai (43-541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương; Bắc thuộc lần thứ ba (602-905): nhà Tùy, nhà Đường; Bắc thuộc lần thứ tư (1407-1427): còn gọi là thời thuộc Minh.

Trong thi gian ny, chỉ có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ nhà Tiền Lý với nước Vạn Xuân (541-602). Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Tàu kha không ngừng thực hiện bc lt, đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Hoa nay cũng thế). Dưới thời kỳ này người dân Việt phải đóng sưu cao thuế nng cho triều đình phương Bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương cũng tham lam bòn vét thêm của dân không thương tiếc.

Cũng có một số quan cai trị nghiêm chỉnh, đứng đắn, nhưng số này rt ít. Nền văn hóa Tàu kha cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán (187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có công truyền bá chữ nhođạo Khổng vào Việt Nam, mở đầu nền nho học của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Tàu đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt, và con cháu họ trở thành người Việt.

 

Thời Hán thuc (Bắc thuộc lần thứ Nhất)

Năm 111 TCN, nhà Hán sai Lộ Bác Đức xua quân diệt nhà Triệu, chiếm c Nam Việt và chia đất chiếm được ra làm chín quận: Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Châu Nhai, Đạm Nhĩ, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân Nhật Nam có trụ sở tại Long Biên. Riêng đối với quận Nhật Nam, trước khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn; quân xâm lăng nhà Hán sau đó sáp nhập Nam Việt vào đế chế Hán.

Đến năm 106 TCN, nhà Tây Hán đặt Châu Giao Chỉ thống suất 7 quận lục địa (trừ Châu Nhai và Đạm Nhĩ - đảo Hải Nam bị mt t đây) và đặt Châu trị khc nghit tại Giao Chỉ. Thứ sử đứng đầu Châu và trị sở đóng tại Mê Linh (Hạ Lôi, Mê Linh, Hà Nội), dưới cấp quận có Thái thú cai quản việc dân sự và Đô uý coi việc quân sự. Bên dưới cấp huyện, Tây Hán vẫn tiếp tục cho Lạc Tướng được trị dân theo chế độ cha truyền con nối.

Từ thế kỷ 2 TCN cho đến đầu Công nguyên dưới chính sách cai trị lỏng lẻo của nhà Triệu và nhà Tây Hán, cơ cấu tổ chức truyền thống của Âu Lạc mặc dù chịu sự kiềm chế, kiểm soát của chính quyền đô hộ, song về cơ bản không bị xáo trộn nhiều. Nền văn minh Việt cổ dựa trên mô hình kinh tế văn hoá nông nghiệp lúa nước vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Đây là nền tảng quan trọng, là sức sống nội tại để người Việt vượt qua những thử thách của các chính sách nô dịch và đồng hoá ngày càng có quy mô, hệ thống của các chính quyền đô hộ trong những giai đoạn sau.

 

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm +40)

Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, có nhiều cuộc khởi nghĩa anh dũng, trong đó nổi bật là cuộc khởi nghĩa oanh liệt của Hai Bà Trưng.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi (sinh ngày mồng 1 tháng 8 năm Giáp Tuất năm +14), là con gái của Lạc Tướng huyện Mê Linh (thuộc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện. Mồ côi cha sớm nhưng được mẹ quan tâm nuôi nấng, dạy cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, dạy con lòng yêu nước, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên (tỉnh Hà Tây ngày nay). Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang cai trị hà khắc nước Việt, viên Thái thú Tô Định là người vô cùng bạo ngược, tham lam. Hai bà cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa, nhưng Thi Sách bị Tô Định giết chết. Hận giặc hãm hại nhân dân, giết hại chồng mình, Trưng Trắc đã cùng em gái Trưng Nhị phát động cuộc khởi nghĩa ở cửa Sông Hát trên Sông Hồng (thuộc địa phận huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây) với lời thề trước giờ xuất binh:

 


Hai bà Trưng khởi nghỉa

 

Một xin rửa sạch nước thù


Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kêu oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lệnh này

(Theo Thiên Nam ngữ lục)

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được dân chúng khắp nơi ủng hộ, tạo thành sức mạnh như vũ bão, đánh đuổi Tô Định phải bỏ chạy về nước. Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được thống nhất thành phong trào rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi. Khi đu nổ ra ở quận Giao Chỉ, sau đó là các quận Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố và các địa phương khác của vùng Lĩnh Nam bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ (tất cả 65 thành)

Chỉ trong một thời gian ngắn, Hai Bà Trưng đã đánh chiếm được 65 huyện thành, nghĩa là toàn bộ lãnh thổ nước Việt hồi đó. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Hai bà được suy tôn lên làm vuac hiệu là  Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.

Anh hùng dân tộc Trưng nữ Vương đã lập nên và giữ vững nền độc lập, quyền tự chủ dân tộc trong gần 3 năm. Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc ta; thể hiện truyền thống yêu nước nồng nàn của phụ nữ Việt Nam “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh” trong những năm 40 sau công nguyên.

Sau đó nhà Hán phái Mã Viện sang đàn áp cuộc khởi nghĩa này. Sau ba năm giành độc lập, cuộc khởi nghĩa bị Mã Viện đàn áp tàn bạo. Do bị cô lập và quân đội chưa tổ chức hoàn thiện nên không đủ sức chống cự lại Mã Viện, Hai Bà Trưng đã tuẫn tiết trên dòng sông Hát để giữ vẹn khí tiết.

 


Cuộc tiến quân của Hai Bà Trưng


 

Bắc thuộc lần thứ 2

Năm 43, sau khi dẹp tan cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nhà Đông Hán đã thắt chặt chính sách cai trị tại Giao Chỉ. Về tổ chức bộ máy đô hộ, nhà Đông Hán vẫn đặt chức Thứ sử đứng đầu Giao Chỉ (sau đổi thành Giao Châu). Dưới cấp quận, viên quan đứng đầu vẫn là Thái thú. Tuy nhiên, lúc này Thái thú kiêm coi cả việc dân sự và việc quân sự của một quận. Chức Đô uý chuyên trách việc quân sự trước đây không còn nữa. Ngoài ra, để giúp việc cho Thái thú, một số chức quan chuyên trách các phần việc cụ thể cũng được đặt ra.

Đặc biệt, chính quyền Đông Hán là chính quyền đô hộ đầu tiên đã cố sức vươn xuống cai quản cấp huyện. Danh hiệu Lạc Tướng bị xoá bỏ, thay vào đó, mỗi huyện do một viên Lệnh trưởng được chính quyền Đông Hán bổ nhiệm trực tiếp cai quản. Để thuận lợi hơn cho Lệnh trưởng cai trị các huyện đồng thời triệt tiêu dần quyền lực của các Lạc Tướng cũ của người Việt trên đất bản bộ của mình, nhà Đông Hán đã tiến hành điều chỉnh lại địa giới hành chính, chia tách và đặt thêm một số huyện mới. Mã Viện sau khi đánh bại Trưng Vương đã quyết định chia cắt huyện Tây Vu cũ thành 3 huyện mới là Tây Vu, Phong Khê, Vọng Hải và cắt bớt diện tích huyện Mê Linh...

Ách cai trị thắt chặt của nhà Đông Hán còn thể hiện rõ qua việc tăng cường các chính sách bóc lột, nô dịch và đẩy mạnh hàng loạt biện pháp đồng hoá có hệ thống với quy mô ngày càng lớn. Bên cạnh việc vơ vét tài nguyên, của ngon vật lạ để cống nạp về triều đình trung ương, các quan lại tại Giao Châu còn ra sức bóc lột người dân bằng nhiều loại tô thuế và lao dịch. Nhiều diện tích đất đai của công xã người Việt ở Giao Chỉ đã bị các nhóm địa chủ, quan lại từ phương Bắc di cư xuống chiếm đoạt để lập trang trại, đồn điền. Chính quyền cai trị nắm độc quyền nhiều ngành sản xuất như rèn sắt, mua bán muối... Nhà Đông Hán cũng ra sức áp dụng luật Hán trên đất Việt, bắt dân ta phải tuân theo lễ giáo phong kiến Hán, đồng thời cố gắng xóa bỏ tận gốc truyền thống Việt. 

Tiếp theo sau nhà Hán, các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp khác như Đông Ngô, nhà Tấn, Lưu Tống, Nam Tề, nhà Lương lần lượt thay nhau đô hộ Việt Nam, người Việt cũng đã nhiều lần nổi dậy chống lại sự cai trị của ngoại bang, tuy nhiên tất cả đều không thành công cho mục tiêu dành độc lập.

Các cuộc nổi dậy tiêu biểu như khởi nghĩa anh em Triệu Quốc ĐạtTriệu Thị Trinh vào thời thuộc Đông Ngô. Cuộc nổi dậy của anh em Lý Trường NhânLý Thúc Hiến từ thời Bắc thuộc Lưu Tống, Nam Tề từ năm 468 đến 485.

 

Lý Bí và Nước Vạn Xuân

Lý Bí xuất thân một hào trưởng, quê ở huyện Thái Bình. Một thời, ông có ra làm việc với chính quyền đô hộ, nhận một chức quan nhỏ: giám quận (kiểm soát quân sự) ở Cửu Đức, Đức Châu. Yêu nước, thương dân, bất bình với bè lũ đô hộ, ông sớm bỏ quan, về quê ở Thái Bình. Vùng quê ông có Tinh Thiều, Con nhà quyn qúi, giỏi văn chương, lặn lội sang kinh đô nhà Lương (Nam Kinh) để xin một chức quan (trước năm 521). Nam triều Trung Quốc cho đến thời Lương, phân biệt tôn ti chặt chẽ giữa quý tộc và hàn môn (bình dân). Lại bộ thượng thư nhà Lương là Sái Tôn bảo họ Tinh thuc giai cp hàn môn, không có tiên hiền, chỉ cho Thiều làm Quảng Dương môn lang tức là chân canh cổng thành phía tây kinh đô Kiến Khang. Tinh Thiều lấy thế làm xấu hổ, không nhận chức về quê, cùng Lý Bí mưu tính việc khởi nghĩa, chiêu tập hiền tài.

Lý Bí, nhân lòng oán hận của dân; liên kết với hào kiệt các nơi thuộc miền đất  Giao Châu nổi dậy chống nhà Lương. Thủ lĩnh Chu Diên (vùng Đan Hoài, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) là Triệu Túc và con là Triệu Quang Phục, phục tài đức Lý Bí đã đem quân theo trước tiên, Phạm Tu cũng là một tướng tài của Lý Bí từ buổi đầu khởi nghĩa.

Tháng Giêng năm 542, Cuộc khởi nghĩa bùng nổ. Hào kiệt nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, thanh thế nghĩa quân tăng lên nhanh chóng. Trưc thế khởi nghĩa lớn, có sự liên kết giữa các địa phương, Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư  khiếp hãi, không dám chống cự, chạy trốn về Việt Châu (bắc Hợp Phố) và Quảng Châu. Chưa đầy 3 tháng cuộc khởi nghĩa hoàn toàn thắng lợi, chính quyền đô hộ bị lật đổ, nghĩa quân đã chiếm được thành Long Biên (Bắc Ninh).

Tháng 4 năm 542 vua Lương sai thứ sử Việt Châu là Trần Hầu, thứ sử La Châu là Nịnh Cư, thứ sử An Châu là Lý Trí, thứ sử Ái Châu là Nguyễn Hán, từ 2 phía Bắc Nam Giao Châu cùng tiến đánh nghĩa quân Lý Bí. Cuộc phản kích này của giặc Lương đã hoàn toàn thất bại. Nghĩa quân lại thắng lớn, Lý Bí đã kiểm soát được tới vùng Đức Châu (Hà Tĩnh) ở phía Nam và vùng bán đảo Hợp Phố ở phía Bắc.

Tc gin vì thua to, Vua Lương lại sai thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh, thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng điều khiển binh mã đi đánh Lý Bí vào mùa Đông năm ấy. Bọn này khiếp đảm không chịu tiến quân, lấy cớ mùa xuân lam chướng, xin đợi mùa thu hẵng khởi binh song vẫn bất đắc dĩ phải động binh (tháng 1/543).

 


 

Biết gic lo s, Nghĩa quân Lý Bí tổ chức một mt trận phục kích rng ln, chn đánh gic ngay khi va mi ti trên miền cực Bắc Giao Châu. Cuộc chiến diễn ra ở Hợp Phố. Quân giặc, 10 phần chết tới 7,8 phần, bọn sống sót đều tan vỡ bỏ chạy. Bọn Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng phải dẫn tàn binh quay về Quảng Châu. Tiêu Tư dâng tờ khải về triều, vu cho Tôn Quýnh, Tử Hùng "giao thông với giặc, dùng dằng không tiến quân". Thấy quân lính bị thiệt hại quá nặng, Lương Vũ Đế xuống chiếu bắt cả 2 tên tướng cầm đầu đem x tử ở Quảng Châu.

Sau những  thắng lợi cả hai chiến trường biên giới Bắc, Nam. Mùa Xuân, tháng Giêng theo âm lịch (2-544), Lý Bí lên ngôi vua, t xưng là Lý Nam Đế hiu là Thiên Đức, đặt quốc hiệu Vạn Xuân, đóng đô ở miền cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Lý Bí là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế, bãi bỏ lịch của Tàu, ông cũng đặt cho triều đại mới một niên hiệu riêngThiên Đức, (khảo cổ học đã tìm thấy những đồng tiền Thiên Đức đúc thời Lý Nam Đế).

Xưng đế, định niên hiệu riêng, đúc tiền riêng, lấy Nam đối chọi với Bắc, lấy Việt đối sánh với Hoa, những điều đó nói lên sự trưởng thành của ý thức dân tộc, lòng tự tin vững chắc ở khả năng tự mình vươn lên, phát triển một cách độc lập. Đó là sự ngang nhiên phủ định quyền làm "bá chủ toàn thiên hạ" của hoàng đế phương Bắc, vạch rõ sơn hà, cương vực, và là sự khẳng định dứt khoát rằng nòi giống Việt phương Nam là một thực thể độc lập, là chủ nhân của đất nước và nhất quyết giành quyền làm chủ vận mệnh của mình.

Lý Nam Đế cũng là người đầu tiên nhận ra vị trí địa lý trung tâm đất nước của miền sông nước Tô Lịch. Hà Nội cổ, từ giữa thế kỷ 6, bước lên hàng đầu của lịch sử đất nước.

Nhà nước Vạn Xuân, dù mới xây dựng, cũng bỏ tiền xây một ngôi chùa lớn, sau trở thành một trung tâm Phật giáo và Phật học lớn của Việt Nam. Đó là chùa Khai Quốc, tiền thân của chùa Trấn Quốc ở Hà Nội ngày nay. Ngay cái tên, "chùa Khai Quc" cũng đã hàm chứa nhiều ý nghĩa!

Đầu năm 545, nhà Lương sai Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem 8 vạn quân sang xâm lược nước Vạn Xuân. Chính quyền độc lập lúc này còn non trẻ, lực lượng quốc phòng chưa được phát triển và củng cố. Lý Nam Đế qua kinh nghiệm hai lần đánh thắng giặc xâm lược, vẫn chủ trương chỉ dựa vào quân chủ lực với các thành lũy cố định, đánh dàn trận đối diện nhau nên không địch nổi quân địch đông và mạnh.

Lý Nam Đế dẫn 3 vạn quân ra chống giặc ở Chu Diên (Hải Dương, Hưng Yên), bị thua rút về cửa sông Tô Lịch (Hà Nội). Quân Lương do Trần Bá Tiên chỉ huy tn công chiếm được thành Tô Lịch.

Lý Nam Đế lui quân lên giữ thành Gia Ninh (Việt Trì). Giặc bao vây và phá được thành. Lý Nam Đế phải chạy vào miền Khuất Lão (Phú Thọ). Sau một thời gian được nhân dân miền Khuất Lão ủng hộ, Lý Nam Đế lại phục hồi được lực lượng.

Tháng 10/546, Lý Nam Đế kéo quân ra vùng hồ Điển Triệt (đầm Vạc, Vĩnh Yên). Một đêm nước sông lên to, chảy mạnh vào hồ, Trần Bá Tiên thừa cơ tiến đánh bất ngờ. Quân Vạn Xuân không kịp phòng bị nên tan vỡ. Các cánh quân khác cũng không chống được giặc phải rút vào vùng núi quận Cửu Chân. Cuộc kháng chiến của Lý Nam Đế thất bại. Ông giao binh quyền cho Triệu Quang Phục rồi bị đau ốm chết.

Triệu Quang Phục vốn là con của một thủ lĩnh vùng Chu Diên, hai cha con là người đầu tiên đem dân binh theo Lý Bí khởi nghĩa.

Triệu Quang Phục là một tướng tài được Lý Bí trao binh quyền ủy thác tiếp tục cuộc kháng chiến. Triệu Quang Phục thu thập số binh sĩ còn lại sau trận hồ Điển Triệt lui về lập căn cứ ở vùng đầm lầy Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng Yên).

Triệu Quang Phục cho quân đóng rải rác ở các bãi nổi trong đm lầy được cỏ dại che phủ, ra vào bằng các con đường nhỏ bí mật; ban ngày tắt hết khói lửa, không lộ hình tính, ban đêm đi thuyền ra đánh úp quân Lương.

Nhờ cách đánh phù hợp, lực lượng của Triệu Quang Phục dần phục hồi, gây cho địch một số thiệt hại, cuộc kháng chiến được duy trì lâu dài. Năm 548, sau khi nghe tin Lý Nam Đế đã lâm bệnh mà qua đời tại động Khuất Lão, Triệu Quang Phục mới lên ngôi Vương, xưng là Triệu Việt Vương. Việc lên ngôi này chủ yếu là để tạo ra ngọn cờ chính thống cho sự nghiệp tập hợp lực lượng để đánh đuổi quân xâm lăng, dân ta thường gọi là Dạ Trạch Vương.

Năm 550, nhân bên nhà Lương có loạn Hu Cảnh, quân Lương phải rút đại quân về nước dẹp loạn. Việc Trần Bá Tiên đem quân về Kiến Khang khiến cho tương quan thế lực đôi bên thay đổi theo xu hướng hoàn toàn có lợi cho Triệu Việt Vương. Được thời cơ thuận lợi này, tháng 1 năm Canh Ngọ (550), từ khu căn cứ mới xây dựng ở bãi Tự Nhiên trong đầm Dạ Trạch, Triệu Việt Vương đã bất ngờ tung quân đánh một trận quyết định với kẻ thù. Giặc không cách gì có thể chống đỡ nổi, Dương Sàn thua trận mà chết, quân Lương tan vỡ hốt hoảng tháo chạy về Bắc. Nước ta lại được giải phóng hoàn toàn. Nước Vạn Xuân giữ được độc lập trên nửa thế kỷ nữa.

Bc thuc ln th ba:

Thời Bắc thuộc lần thứ 3 trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905. Năm 602, Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đem quân 27 dinh sang đánh nước Vạn Xuân, bức hàng Hậu Lý Nam Đế. Vua đời thứ 3 của Vạn Xuân là Lý Phật Tử quá s nên hàng gic bị bắt. Việt Nam bị xếp làm một châu của Tùy, gọi là châu Giao (交州). Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Nhà Đường đô hộ Việt Nam gần 300 năm. Trung Quốc đến thời Đường đạt tới cực thịnh, bành trướng ra 4 phía, phía Bắc lập ra An Bắc đô hộ phủ, phía Đông đánh nước Cao Ly lập ra An Đông đô hộ phủ, phía Tây lập ra An Tây đô hộ phủ và phía Nam lập ra An Nam đô hộ phủ, tức là lãnh thổ nước Vạn Xuân.

Trong thời kỳ thuộc nhà Đường, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc của người Việt như khởi nghĩa Lý Tự TiênĐinh Kiến, khởi nghĩa Mai Hắc Đế, khởi nghĩa Phùng Hưng và khởi nghĩa Dương Thanh từ cuối thế kỷ 7 đến thế kỷ 9.

 

Sóng Bạch Đng còn vang vang tiếng thét

M chôn quân ngoại tc s còn ghi

 


Từ sau loạn An Sử (756-763), nhà Đường suy yếu và bị mất thực quyền kiểm soát với nhiều địa phương do các phiên trấn cát cứ, không kiểm soát nổi phía Nam. An Nam đô hộ phủ bị các nước láng giềng Nam Chiếu, Chăm Pa, Sailendra vào cướp phá và giết hại người bản địa rất nhiều, riêng Nam Chiếu đã giết và bắt đến 15 vạn người, quân Đường bị đánh bại nhiều lần. Tới năm 866, nhà Đường kiểm soát trở lại và đổi tên gọi là Tĩnh Hải.

Các triều đại này cố gắng đồng hóa dân tộc Việt Nam theo tộc Hán, mặc dù người Việt chịu nhiều ảnh hưởng về tổ chức thể chế chính trị, xã hội, văn hóa của Tàu, nhưng người Việt Nam vẫn giữ được nhiều bản sắc nền tảng văn hóa dân tộc vốn có của mình sau một nghìn năm đô hộ.

Người Việt cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại Thừa đang phát triển ở Đông Á. Mặc dù lúc đó Đông Nam Á đã chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáoPhật giáo Nguyên thủy. Phật giáo Đại thừa được hòa trộn với Nho giáo, Lão giáo và thêm vào đó là các tín ngưỡng dân gian địa phương.

Năm 905 Khúc Thừa Dụ một hào trưởng địa phương đã chiếm giữ thủ phủ Đại La xây dựng chính quyền tự chủ của người Việt nhân khi nhà Đường suy yếu, đặt nền móng cho Việt Nam giành độc lập. Năm 939 Ngô Quyền xưng vương sau trận chiến lịch sử trên sông Bạch Đằng trước đoàn quân Nam Hán và nưc Vit khi thi t chủ t đây.

 

Bắc thuộc lần thứ tư:

Thời Bắc thuộc lần 4 hay thời thuộc Minh trong lịch sử Việt Nam từ năm 1407 khi nhà Minh đánh bại nhà Hồ và chấm dứt năm 1427 khi Lê Lợi đánh đuổi được quân Minh ra khỏi bờ cõi, giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thời kỳ thuộc Minh chỉ kéo dài 20 năm.

Cuối thế kỷ 14 nhà Trần sa sút, Hồ Quý Ly dần dần kiểm soát cả triều đình, ra nhiều biện pháp thanh trừng những người trung thành với triều Trần. Ông lên ngôi vua năm 1400, đặt tên nước là Đại Ngu, bắt đầu thực hiện nhiều cải tổ trong hệ thống chính trị và xã hội. Tuy nhiên, do thực hiện quá nhiều thay đổi trong thời gian ngắn, lại không được nhiều cựu thần nhà Trần cũng như dân chúng ủng hộ, lại thêm tình hình kinh tế và xã hội toàn quốc suy yếu vì nhiều nguyên nhân, nên đất nước rơi vào khủng hoảng. Nhân cơ hội đó, năm 1406 nhà MinhTrung Quốc dùng chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để mang quân sang xâm lược nước Đại Ngu. Nhà Hồ nhanh chóng thất bại hoàn toàn vào giữa năm 1407. Nước Đại Ngu bị tiêu diệt và bị sát nhập vào lãnh thổ Trung Quốc. Việt Nam bị Trung Quốc đô hộ trở lại sau 500 năm độc lập tự chủ.

Ngay khi nhà Hồ thất bại, đã có rt nhiều phong trào chống Minh bắt đầu nổi lên. Trong các phong trào chống Minh, lớn nhất là sự nổi dậy của nhà Hậu Trần và khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi.

Dù ban đầu lấy chiêu bài “Phù Trn dit Hnhưng sau đó nhà Minh lại sai lùng bắt con cháu nhà Trần. Sự nổi dậy của nhà Hậu Trần bắt dầu từ cuối năm 1407 với sự kiện Trn Giản Định Đế lên ngôi. Lực lượng này đã làm chủ từ Thuận Hóa tiến ra Bắc và đánh bại quân Minh một trận lớn ở Bô Cô cuối năm 1408. Nhưng sau đó hiềm khích chia rẽ trong nội bộ khiến lực lượng bị suy yếu nghiêm trọng. Cuối cùng đến năm 1413, vua Trn Trùng Quang Đế và các tướng lĩnh bị bắt. Nhà Hậu Trần chấm dứt.

Sau khi dẹp được nhà Hậu Trần, quân Minh quay sang dẹp các cuộc khởi nghĩa nhỏ khác. Lúc này nhà Minh cho rằng sự bình định ở Giao Chỉ cơ bản đã hoàn thành, nên điều Trương Phụ cùng một phần lớn đạo quân viễn chinh về nước. Việc đánh dẹp và chiếm giữ được giao lại cho các đạo quân phần nhiều gồm binh lính mộ bản xứ và có các chỉ huy là người Việt. Đây có lẽ là lý do sự chiếm đóng của nhà Minh nhanh chóng sụp đổ khi các binh lính người Việt này nổi dậy hoặc hưởng ứng các cuộc nổi dậy sau này.

 


Lê Lai liều mình cứu Chúa


 

Năm 1418, Lê Lợi dấy binh, bắt đầu khởi nghĩa ở Lam Sơn. Thời gian đầu, quân Lam Sơn gặp nhiều khó khăn ở vùng núi Thanh Hóa. Từ năm 1424, quân Lam Sơn thay đổi chiến thuật: tiến vào Nghệ An, giải phóng toàn bộ vùng đất phía Nam. Sau đó Lê Lợi tiến ra Bắc, đánh bại các đạo quân sở tại và 4 đạo quân viện binh lần lượt sang từ năm 1426 đến 1427.

Cuối cùng, tướng nhà Minh là Vương Thông phải xin giảng hòa, rút quân về nước. Người Việt giành lại quyền độc lập tự chủ sau 20 năm. Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra nhà Hậu Lê, và kể từ đây nước Việt ta hoàn toàn tự chủ cho đến năm 1975 khi bọn tay sai Tàu khựa xâm lăng miền Nam Việt Nam và hin đặt nước Việt Nam thêm một lần đô hộ thứ năm hết sức nguy hiểm cho dân tộc ta.

 

·         Bắc thuộc lần thứ 5

Kể từ khi CSBV chiếm miền Nam Việt Nam ngày 30/4/1975, chúng ta ngày càng thấy lộ rõ tính nô lệ Trung cộng (TC) của những kẻ lãnh đạo đất nước. Cuộc chiến “có tiếng súng” nổ ra ở biên giới Việt-Trung ngày 17 tháng 2 năm 1979 chỉ là sự khởi đầu cho tiến trình Bắc thuộc lần thứ năm của VC. Cuộc chiến không phải chấm dứt 10 ngày sau đó, mà vẫn tiếp tục dẳn dai dọc theo biên giới mãi cho đến năm 1988 qua sự quy phục hoàn toàn của CS Bắc Việt khi TC tiến chiếm quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

 


Hội nghị Thành đô 1990, bán nước cho giặc

 

Và cuộc chiến không tiếng súng bắt đầu.


Hiệp ước biên giới được hai bên ký kết  (theo lịnh của TC) như sau:

Cột mốc biên giới số 1116 đã được chính thức cấm vào phía Nam Ải Nam Quan và cách ải 280m.

Thác Bản Giốc trở thành một trung tâm du lịch do TC quản lý.

Quan trọng hơn cả là sự hiện diện của người thiểu số Tày dọc theo chiều dài biên giới Việt-Trung tới tận tỉnh Quảng Đông. Người Tày có khuynh hướng thân TC và đã được TC khuyến dụ như là một đạo quân thứ năm của TC một khi có chiến tranh xảy ra.

Thật ra, những sự kiện vừa nêu trên có thể nói là kết quả của những mật đàm từ trước, Hội nghị Thành Đô năm ngày 3 và 4 tháng 9 năm1990. Trong quá trình lịch sử, chúng ta thấy rất rõ tham vọng xâm lấn Việt Nam của người Hán đã xảy ra hàng ngàn năm trước và VN đã chịu bốn lần ách đô hộ. Và hôm nay, dưới cuộc chiến không tiếng súng, lại thêm một lần nữa, cuộc đô hộ mới đang xảy ra, thể hiện quyết định của Hội nghị Thành Đô trên và s hèn hạ vi gic của tp đoàn VC.

Tại hi nghị nầy, Việt Nam có Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng CS Việt Nam thời bấy giờ, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Bên Trung Cộng có Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng. Hai bên ký kết Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước. Cuộc gặp mặt bí mật này không được công bố trong nước cho tới khi “bị” bật mí vào những ngày đầu năm 2013..

Ngày 5/11/1991, Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến Trung Cộng. Ngày 7/11/1991, hiệp định mậu dịch Trung – Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh.

Tiếp theo sau, dưới thời Tổng Bí thư cs Lê Khả Phiêu, Việt Nam ký hai Hiệp định biên giới trên bộ và phân chia vịnh Bắc Bộ với Trung Cộng. Theo báo chí “l phải” của VC, Việt Nam có quan hệ mật thiết “môi hở răng lạnh” với Trung Cộng. Hai nước đều do hai Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Cuối cùng, công cuộc thực hiện Bắc thuộc hoàn toàn bằng cách biến Việt Nam thành Nam Việt, một tỉnh theo quy chế tự trị phía Nam thuộc Trung Cộng… và ngôi sao thứ năm trên lá cờ TC đã xuất hiện trong các cuộc giao tiếp hòa đàm giữa TC và VN từ năm 2011… để chờ ngày chính thức công bố tự trị vào năm 2020? (Lá cờ TC với 5 ngôi sao xuất hiện lần đầu tiên trên truyền hình Việt Nam vào ngày 11/10/2011 nhân chuyến viếng thăm TC của Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư cs VN để xác định “16 chữ vàng” một lần nữa là: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”).

 


Bng chng bán nưc của VC


Chính quan hệ mật thiết môi hở răng lạnh của hai đảng cộng sản cộng thêm sự hèn hạ của cs Bắc Việt khiến cho tiến trình Bắc thuộc ngày càng hiện rõ thêm qua nhiều chỉ dấu từ đó đến nay.

 

Tài liệu tham khảo:

-          Vit Nam S lược ca Trn Trng Kim.

-          Nhìn li s Vit t tin s đến t ch.

-          Lch s lp quc ca VN ca nhiu tác gi.

-          Hình nh internet.

Vĩnh Trường  (Võ Trung Tín chuyển)

BÀN RA TÁN VÀO

Đề bài :"Tiếng Việt, yêu & ghét" - Lê Hữu ( Trần Văn Giang ghi lại )

'vô hình trung' là nghĩa gì vậy, sao cứ thích dùng, hình như có nghĩa là 'vô tình'

Xem Thêm

Đề bài :TIN CHIẾN SỰ MỚI NHẤT[ CẬP NHẬT NGÀY 20 -5 - 2022 ]

Suu cao,thue nang,nhu yeu pham tang gia.Kinh te eo seo...Vay ma dang Lua van lay tien cua dan tro giup linh tinh.Mo cua bien gioi.Ung ho toi ac truc tiep khi sua luat cho phep trom cuop o muc do <1.000 dollars thi vo toi....Neu vao thoi diem Trump,bon Lua da ho hoan nhu the nao ??? Nhung nguoi bau ban vi chut tu loi ,nghi gi ve dat nuoc ??? Phai chang day khong phai la dat nuoc minh ??? bat qua,lai tro ve que huong cu...Neu vay,ban la thang cho chet ! mien ban !

Xem Thêm

Đề bài :Tin Mới Nhất Về Chiến Sư Ucraina [ CẬP NHẬT NGÀY 14-5-2022 ]

Chung nao moi vet nho cua ho nha Dan da duoc tay xoa trang boc,thi Uk moi co hy vong...ngung chien.Cung vay,ngay nao ma cac cong ty ,co goc gac tu cac dang bac nu luu-anh hao cua khoi tu do va ong chief police va dang Lua thi moi giai xong phuong trinh tau cong !

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Người Việt Nam Nghĩ Gì? -Từ Đức Minh ( Trần Văn Giang ghi lại )

Nhan dinh cua saigonpots ma bac Tran van Giang ghi lai.Doc xong nghe cay dang nao long.Du su that no ranh ranh.Nhung tuoi gia cung co mot hy vong cho du la mong manh va mo ao. hy vong con hon la that vong ?

Xem Thêm

Đề bài :Hình cũ - Hà Thượng Thủ

Ngắm lại hình xưa chịu mấy ông Những Linh, Tùng, Duẫn với Mười, Đồng Mặt mày ai lại đi hồ hởi Phấn khởi khi Tàu cướp Biển Đông Phải chăng “quý” mặt đã thành mông Con mắt nay đà có nhưng không Nên mới chổng khu vào hải đảo Gia tài gấm vóc của tổ tông?

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm

Đề bài :Nói thật - Hà Thượng Thủ

Loi tuyen bo cua Bo truong han la phai dung ! Vay ra tu truoc toi nay,bang gia- hoc gia- tu nghiep gia...tat ca deu gia. Vay cai gi la that ?chang phai duoi che do CS,tat ca deu la gia tra,.gian doi,lua dao...Tat ca deu da duoc dao tao bang lao toet ngay tu khi con la thieu nhi .

Xem Thêm