Có ai ngờ, thi sĩ Minh Ðức Hoài Trinh, người phụ nữ rất sợ hãi cô đơn trong thơ của bà, đã ra đi và phải lên đường một mình. Như một lời tiên tri, người con gái nhỏ bé, ăn mặc lịch lãm vững chãi, từng bước tự tin trên đại lộ thênh thang của thành phố Paris ngày nào, đã nức nở trong những lời thơ “Ðừng bỏ em một mình”, cuối cùng chịu thua, nằm xuống, thôi chống chỏi với cuộc sống và mặc cho côn trùng rúc rỉa.
Đừng bỏ em một mình
Cho côn trùng rúc rỉa
Cỏ dại phủ mộ trinh
Cho bão tố bấp bênh
Đừng bỏ em một mình
Môi vệ thần không linh
Tiếng thời gian rền rĩ
Đường nghĩa trang gập ghềnh
(trích Đừng bỏ em một mình-MĐHT)
Tôi thường gặp bà và phu quân, nhà văn Nguyễn Quang trong các buổi họp mặt văn nghệ. Bà gầy, nhỏ, mong manh và chịu đựng sự tàn phá của thời gian, mất đi trí nhớ, ngồi bên chồng, níu lấy ông, một cây tùng chở che vững chãi. Bà lặng lẽ, nét thanh lịch vẫn còn đó, nhưng chỉ còn như một cái bóng. Tôi không thể hình dung bao nhiêu năm trước sức sống và sự tranh đấu của người phụ nữ này kiên cường đến mức nào. Lịch sử cuộc đời bà là những trang hoạt động tích cực và có ý nghĩa biết là bao.
Minh Ðức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Mất ngày 9 tháng 6, 2017.
Tên tuổi của Minh Ðức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Ðốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học. Năm 1964 bà học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Ðông Phương La Sorbonne, Paris, đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . . Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 bà sang Trung Ðông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Ðại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975. Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhận hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979.
Bà đã dùng ngòi bút và khả năng của mình thường xuyên tranh đấu cho các văn nghệ sĩ bị cộng sản giam cầm phải được trả tự do, ngoài những bài báo, bà còn sáng tác hơn 25 tác phẩm giá trị, trong đó có truyện ngắn, thơ, văn…
Là một người đàn bà sống 87 năm qua các cuộc chiến, con người, thân phận, tư duy, thăng trầm của cuộc sống, có thể nói, đều thể hiện qua thơ, văn của bà. Năm 1948, ngày đó, người thiếu nữ thanh xuân như nụ hồng vừa hé, làm điên đảo thần hồn nam nhi đến nỗi Phạm Duy đã phải thốt lên, “Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Ðức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con… ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng Trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Ðức Hoài Trinh đã được Ðặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.”
Tình trường, cô đơn, được mất, tan nát, trắc trở, đã ghi đậm dấu ấn lên nhan sắc thơ mộng sâu sắc của người con gái sông Hương chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục Âu Á thế nào, mà chỉ 6 năm sau, ngày Phạm Duy gặp lại, nàng đã cho ra đời hai bài thơ chạm đến đáy hồn chàng du ca Phạm Duy.
“Năm 1954, tôi gặp Minh Ðức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”. Thơ Minh Ðức Hoài Trinh và nhạc Phạm Duy đã cùng chắp cánh trong hai bản tình ca “Kiếp nào có yêu nhau” và “Ðừng bỏ em một mình” đánh dấu cho một dấu ấn trong tình ca tân nhạc Việt Nam mang đậm nét nức nở, bi lụy, rực rỡ nữ tính. Ngày ấy, khi làn sóng Ðài Phát Thanh Sài Gòn vang lên tiếng hát Khánh Ngọc với bài hát Kiếp Nào Có Yêu Nhau, những ai nghe được tiếng nức nở của một bài ca lòng mà tim không chùng xuống? Giọng Khánh Ngọc mạnh mẽ, uất nghẹn, đau đớn, tiếc nuối, mang mang nỗi cô đơn và hãi sợ …
Người đã quên ta rồi
Quên ta rồi hẳn chứ
Trăng mùa thu gãy đôi
Chim nào bay về xứ
Chim ơi có gặp người
Nhắn giùm ta vẫn nhớ
Hoa đời phai sắc tươi
Đêm gối sầu nức nở
Kiếp nào có yêu nhau
Nhớ tìm khi chưa nở
Hoa xanh tận nghìn sau
Tình xanh không lo sợ
Lệ nhòa trên gối trắng
Anh đâu, anh đâu rồi
Rượu yêu nồng cay đắng
Sao cạn mình em thôi
(trích Kiếp Nào Có Yêu Nhau-MĐHT)
Nghệ sĩ là người nhạy cảm, thấy được cái đẹp, cái đau trước người khác. Có người làm thơ hay viết nên một ca khúc bằng cảm xúc do câu chuyện thật đời mình. Có người chỉ cần chứng kiến hay nghe kể một câu chuyện thương tâm, cũng có thể xúc động và hư cấu nên một bài thơ, một ca khúc hay. Hai bài thơ của MÐHT được Phạm Duy phổ nhạc, không biết được viết lên bằng những cơn đau bà từng trải nghiệm hay do bà hư cấu mà thành. Tuy bà không nói hay kể nguyên nhân vì đâu hai bài thơ ấy được ra đời, nhưng đã có những huyền thoại vây quanh đoá hoa duyên dáng tài hoa ấy.
Sau khi bà mất, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân ở Hà Nội, trong một lời chia sẻ trên facebook về bài thơ Kiếp Nào Có Yêu Nhau, ông tiết lộ “Hồi năm 2000 có dịp ghé qua Ðại Học Cornell, Hoa Kỳ, thấy tại thư viện ÐH này khá nhiều sách của Minh Ðức Hoài Trinh, xuất bản tại miền Nam trước 75 và tại HK sau 75. Tôi cũng từng trò chuyện với bạn PTH, con gái nhà thơ Phan Khắc Khoan, mới biết bà M.Ð. Hoài Trinh là dì ruột bạn ấy. Ông Vũ Tú Nam từng kể với mình là bà Hoài Trinh cùng học với ông ở lớp văn hóa kháng chiến ở Quần Tín, Thanh Hóa, (cùng khóa có Ng. M. Cầm, sau là bộ trưởng Ngoại giao). Bạn PTH kể: đứng trong hàng ngũ Kháng Chiến, bà H. Trinh được cử vô thành để tiếp cận thuyết phục một nhân vật là Phan Văn Giáo. Sự tiếp cận do phía Kháng Chiến giao việc lại dẫn đến một tình yêu. Ðiều đau đớn là khi tình yêu đã nảy cành kết trái thì phía Kháng Chiến cử người ám sát Ph. V. Giáo. Khi ấy bà H.Trinh đã có thai, bị bất ngờ và cực kỳ thất vọng. Có lẽ bài thơ “Kiếp nào có yêu nhau” như là tiếng lòng bà trước nỗi đau kia, dù giọng rất kìm nén. Bạn PTH cũng cho biết, đứa con chung của họ, một cô gái, lớn lên sang Paris và đi tu. Mẹ bạn PTH tức chị bà Hoài Trinh cũng mới mất tại Hà Nội cách nay ít lâu; anh Ðặng Tiến có nhắc tên bà. Tôi từng tới nhà ông bà một vài lần, ở gần ngõ Hàng Hành.”
Và trong một chia sẻ khác trên facebook của nhà văn Nguyễn Hữu Nghĩa khi kể lại những kỷ niệm ông đã có với MÐHT, ông cho biết nguyên do bà viết Ðừng Bỏ Em Một Mình như sau, “Tôi chợt nhớ, ngày xưa, lâu lắm, chị nhìn thấy một đám tang đi ngang và xúc động viết bài thơ Ðừng Bỏ Em Một Mình”.
Tất cả những chia sẻ và chuyện kể tôi ghi nhận được ở trong bài viết này, dù hư hay thực, xin không kiểm chứng, và xin xem như những huyền thoại góp phấn, thêm hoa, điểm hương cho những thăng trầm trong cuộc sống của Minh Ðức Hoài Trinh