Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Mùa Hè Đỏ Lửa: PHẦN I: PHI VỤ MỞ MÀN; PHẦN II: NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE; PHẦN III: MẶT TRẬN KONTUM
Vĩnh Hiếu Phi Đoàn 215 Thần Tượng
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN I: PHI VỤ MỞ MÀN
Mở Đầu:
Để độc giả dễ dàng theo dõi những diễn tiến cũng như địa danh trong bài viết tôi xin khái lược về mặt trận vùng cao nguyên 1972. Trận chiến khốc liệt nhất trong chiến trường Việt Nam đã xảy ra trong những tuần lễ cuối mùa Xuân năm 72 kéo dài qua những tháng mùa Hè và đã được tác giả Phan Nhật Nam mô tả trong tác phẩm bi hùng tráng “Mùa Hè Đỏ Lửa”, mặt trận được gọi là “Easter Offensive”, danh từ của đồng minh Hoa Kỳ. Đó là trận chiến khốc liệt, Cộng quân cố thu hết tàn lực để mở một chiến dịch tổng công kích cuối cùng trên toàn cõi miền Nam hy vọng đạt được một thắng lợi nhằm tạo áp lực lên bàn hội nghị hòa bình ở Paris.
Ba mặt trận đồng loạt đánh vào miền Nam.
– Chiến dịch Nguyển Huệ, mũi dùi số một hơn 30,000 quân Cộng Sản tràn qua sông Thạch Hản, tiến chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên vùng I.
– Mặt trận B-2, miền Nam từ lãnh thổ Cam Bốt, mũi dùi thứ hai đánh thốc vào Lộc Ninh, Bình Long, chế ngự vùng III.
– Mặt trận B-3, mũi dùi thứ ba cắt ngang vùng II, nhắm vào Tân Cảnh, Kontum, Pleiku sau đó qua đường thung lũng Mật Khu An Lão, kéo xuống đồng bằng Bình Định, bởi hai Sư Đoàn tinh nhuệ của địch, Sư Đoàn Thép và Sư Đoàn Sao Vàng cùng Sư Đoàn F10 được yểm trợ bởi Lữ Đoàn chiến xa 203 và nhiều Trung Đoàn pháo binh.
Từ cuối tháng Giêng năm 1972, theo các nguồn tin tình báo, tù binh và hồi chánh, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ghi nhận có nhiều đơn vị Cộng Sản Bắc Việt từ Cam Bốt và Lào đã xâm nhập vào khu vực phía Bắc tỉnh Kontum. Đồng thời không thám của quân đội Hoa Kỳ cũng đã ghi nhận được những sự tập trung lớn của lực lượng Cộng Sản trong vùng thung lũng phía Tây Nam của Dak Tô, và Tây Bắc của thành phố Kontum. Kể từ khi được tin địch xuất hiện, các đơn vị không-kỵ và trực thăng võ trang Hoa kỳ đã nỗ lực thám sát và phát hiện được 6 lằn xích song hành và nhiều chiến xa Bắc Việt tại phía Đông căn cứ 609 và thung lũng Plei Trap, nằm về phía Tây của Rocket Ridge. Theo như dự đoán của bộ chỉ huy Quân Đoàn II và những cố vấn Hoa Kỳ thì địch có thể sẽ tấn công Cao Nguyên vào mùa khô.
Quân Đoàn II bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư Đoàn 22 được dời từ Bình Định lên Tân Cảnh -Dakto. Sư Đoàn 22 bộ binh gồm có 4 Trung Đoàn 40, 41, 42, 47, Tư Lệnh Đại Tá Lê Đức Đạt, trách nhiệm vùng Tân Cảnh và Dak Tô II. Thiết Đoàn 19 Kỵ Binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh.
Sư Đoàn 23 gồm 3 Trung Đoàn 44, 45, 53, tư Lệnh Đại Tá Lý Tòng Bá, từ Ban Mê Thuột được tăng viện thay thế Sư Đoàn 22 bị tan rã sau khi căn cứ hỏa lực Tân Cảnh bị thất thủ, để bảo vệ Kontum, đã lập phòng tuyến từ phía Bắc thành phố từ Đông sang Tây.
Lữ Đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân Đoàn II, chịu trách nhiệm vòng đai phía tây Quốc Lộ 14, đóng trên những cao điểm. Đóng dọc theo biên giới có 11 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân biên phòng, chịu trách nhiệm căn cứ Ben Het, ngay ngã ba biên giới, thường gọi là Tam Biên, cùng với tiền đồn Polei Kleng phía tây Kontum khoảng 20 cây số.
Riêng dãy Rocket Ridge là một dãy cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo phía tây Quốc Lộ 14 khoảng 12 cây số, tọa lạc hầu như ở giữa Tân Cảnh và Kontum, nơi những căn cứ hỏa lực mang tên Tiền Đồn Sáu, Tiền Đồn Năm, căn cứ Yankee, Charlie và Hotel đã nổi danh để đón nhận một định mệnh tàn khốc trong những trận chiến rực lửa mùa Hè 72. Đặc biệt nhất là căn cứ Charlie, qua bài ca bất hủ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, “Người ở lại Charlie” đã ca tụng và tiếc thương cái chết của người anh hùng Tiểu Đoàn trưởng TĐ/11 Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Tr/T Trần Đình Bảo.
Phi Vụ Mở Màn:
Căn Cứ Hỏa Lực, Tiền Đồn Sáu
– Oành…Oành..
Sau hai tiếng nổ như long trời lở đất, tôi mở choàng mắt dậy, chưa tỉnh hồn không biết mình đang ở đâu, tôi phóng đại về hướng trước mặt, được chừng vài chục bước tôi ngừng lại thấy mình đứng chơ vơ giữa phi đạo nhựa đường đen, hơi nóng bốc lên hừng hực, xung quanh không một bóng người. Biết mình vừa “bị tẩu hỏa nhập ma”, tôi vội vàng quay trở lại.
– Oành…
– Ê…ê…., hướng này nè, mẹ, thằng này nó khùng rồi… Tôi nghe tiếng la to phía sau lưng.
– Oành…
Một trái pháo khác nữa nổ ngay đầu phi đạo. Tôi rụt đầu “né” những mảnh đạn pháo đang bay xé trong không gian. Người trần trùng trục, chiếc áo bay “nomex” màu cứt ngựa “fermeture” kéo tới rốn cỡi ra ngang thắt lưng, hai cánh tay áo quấn vòng ngang bụng cột gút, tôi khom người phóng nước đại xuyên qua giữa khoảng trống của mấy chiếc trực thăng tắt máy đậu dọc theo phi đạo, hai tay khư khư ôm lấy quần cho khỏi tụt.
– Ê, tao đây này…lại đây mau lên…
Thấy Tr/u Thành “râu” đang ngồi trong hố đất cách mấy chục thước, thò đầu lên, nhe hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đen, tôi đổi hướng. Cái hố cá nhân đào vừa đủ cho một người, Thành đang ép sát chừa chỗ cho tôi, nhanh như cắt tôi phóng mình xuống đưa cả hai chân vào.
– Mẹ, mày ngủ mơ sao mà khùng thế…Tao thấy mày ở trần tay ôm quần chạy khơi khơi giữa phi đạo giống như thằng điên, tụi nó cười quá trời. Vừa nói xong Thành cười rộ.
Bây giờ tôi có phần hoàn hồn, tim đã bớt đập, tôi cố lấy giọng bình tĩnh đánh trống lảng cho bớt “quê”:
– Bố khỉ, tụi nó pháo dữ quá, đón tiếp phi hành đoàn 215 kiểu này thì chết mẹ mình rồi. Chân ướt chân ráo lên đây gặp cảnh này mất vui quá.
– Không biết tụi mình đáp đây làm cái đếch gì ở đây mà chờ lâu thế, nằm chờ để “ăn” pháo kích toi mạng. Thành “râu” rặc giọng Bắc kỳ, có vẻ sốt ruột.
– Mình đáp lúc hai giờ trưa phải không mày? Chờ cả tiếng đồng hồ rồi đó. Nói xong tôi đưa tay lên xem giờ vừa quẹt lau mồ hôi đổ hột trên mặt vừa phân bua cái vụ chạy “lộn sòng” lúc nãy:
– Tối hôm qua ở Phan Thiết đi chơi khuya mới về, lúc nãy chờ buồn ngủ quá tao chui ra sau tàu nằm thiếp đi ai dè tụi nó pháo tao làm tao giật cả mình tỉnh dậy không biết trời đất gì.
– Oành…Oành…hai trái pháo nổ gần đầu phi đạo, những cụm khói đen bốc lên lẫn bụi mù.
– Dzọt..dzọt… mày…Tôi nhảy phóc lên khỏi miệng hố vừa chạy vừa mở gút tay áo buộc ngang bụng xỏ tay hai tay kéo áo bay lên người. Vừa đến gần chiếc trực thăng võ trang đang đậu, mấy anh xạ thủ đã nai nịt sẳn sàng, tôi nhảy vọt lên ghế bay, không kịp bận áo giáp, cầm chiếc helmet treo sau lưng đội vội vào, kéo hai sợi giây “seatbelt” buộc vào bụng xong, tôi cho con tàu quay máy. Tiếng kêu O… O… đồng loạt của những chiếc trực thăng khác đang đậu gần đó vang lên trong bầu không khí oi ả. Những cánh quạt trực thăng uể oải lười biếng chuyển mình chầm chậm rồi nhanh lên dần. Tôi nóng ruột vặn tay ga, chiếc kim RPM ( rotation per minute ) trên đồng hồ tăng vọt, xong tôi kéo vội cần cao độ, con tàu đầy ắp đạn và rockets nặng nề rùng mình rời mặt đất khô nóng bỏng. Trước mặt những chiếc trực thăng cất cánh bay tứ tán loạn cào cào, không đội hình hàng ngũ…
Con tàu đã lên cao, nhìn xuống phi trường Phượng Hoàng hoang vắng nhỏ dần dưới ánh nắng mặt trời đang nung đốt, lác đác một vài trái đạn nổ tung lên những cụm khói nhỏ đen xám lẫn bụi đỏ…
– Hợp đoàn bay vòng chờ, hết pháo tụi mình xuống đáp lại nghe rõ. Chiếc C@C nhắc nhở. Năm chiếc trực thăng chúng tôi cùng với những chiếc của Không Kỵ Hoa Kỳ như một đàn diều đông đảo bay lượn trên bầu trời hanh nắng.
– Charlie đây Hổ… ( Mãnh Hổ tên gọi trực thăng võ trang 215), mình đang chờ gì ở đây vậy? Tôi tò mò hỏi.
– Sĩ quan liên lạc của quân bạn đang trên đường tới phi trường, mình sẽ làm phi vụ tiếp tế cho căn cứ hỏa lực vừa bị địch tấn công tối hôm qua. Đ/u Đức trả lời.
Ngày hôm kia tôi cùng phi đội 215 được chỉ thị đi biệt phái ở Phan Thiết một tuần lễ. Nghe tin đi Phan Thiết anh em tranh nhau tình nguyện nhất là trong biệt đội có mặt Tr/u Thành, cháu của ngài Đại Tá Tỉnh Trưởng. Anh ta về đó như “Hổ” về rừng, ở trên trời anh là “Hổ Hai” bay theo đuôi Hổ Một, nhưng ở dưới đất Phan Thiết anh là C@C dẫn đầu phi đội đi “bay….bướm”. Phi hành đoàn vừa đáp xuống ngay tỉnh đường đã có xe chờ sẵn mời đi ăn “điểm xấm” hay hủ tiếu mì phở, buổi trưa xe Jeep đón đưa đi ăn cơm tại những nhà hàng Tàu sang trọng, ăn xong còn thêm gói thuốc lá dắt lưng. Trong thời gian tại đó chúng tôi chỉ túc trực ứng chiến tại cư xá tỉnh dành cho khách vãng lai, phòng ốc khang trang, ai rảnh muốn đi phố uống cà phê, cà pháo hay thụt bi-da chỉ việc leo lên xe jeep chừng vài phút là tới. Ở tại thành phố này có những quán nước sát bên bờ sông cây râm bóng mát rất hữu tình, anh em phi hành đoàn “xum xoe” trong bộ đồ bay súng ống “lỏng dõng” thường ra ngồi đó để ngắm mấy em đi qua đi lại. Đó là những khoảng thời gian nhàn nhã “vui thú điền viên” khó kiếm trong thời buổi chiến chinh.
Sáng ngày hôm nay sau khi biệt đội đi ăn trở về thì nhận được tin “sét đánh ngang tai”, tất cả hợp đoàn phải thu xếp hành trang Pleiku trực chỉ, thời gian biệt phái sẽ cho biết sau. Tôi linh cảm đây là chuyện chẳng lành, một mặt trận nào đã xảy nữa đây? Không có sự lựa chọn tôi về phòng thu xếp hành trang, trong lòng ca câu “thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” rồi theo chân hợp đoàn cất cánh. Trên vòm trời Phan Thiết, bầu không khí thoang thoảng phảng phất mùi mắm ruốc thum thủm từ hàng trăm hãng sản xuất nước mắm bốc lên, tôi nghiêng đầu nhìn xuống những xóm làng chài lưới lúp xúp mái ngói đỏ cùng những mái tôn chấp chóa kế hàng dừa xanh sau bãi cát trắng vòng cung, hàng trăm chiếc thuyền đánh cá neo san sát trong vùng vịnh nhỏ. Ở đầu bãi một ngôi nhà gạch màu vàng nhạt nằm trên ngọn đồi thấp cô quạnh sát mé nước, trên cao trông như một “lô cốt” tí tẹo, đó là “Lầu ông Hoàng”, nơi mà nhà thơ Hàn mặc Tử đã nhiều lần dắt cô Mộng Cầm ra hóng mát. Điếu thuốc cháy dở trên môi, sợi khói trắng quyện vào mắt cay xè, tôi chắt lưỡi luyến tiếc trở lại với thực tại, trước mặt những chiếc trực thăng chổng mông nối đuôi nhấp nhô lên xuống.
Năm con chim sắt bắt đầu hướng về vùng lửa đạn, để lại sau lưng thành phố yên bình … Theo chỉ thị mới nhận được trên tần số cho biết chúng tôi phải bay lên đáp phi trường Phượng Hoàng cạnh thị xã Tân Cảnh, tỉnh Kontum để nhận lệnh hành quân. Sau hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ, bay đáp lấy xăng tại phi trường Cù Hanh, Pleiku, hợp đoàn gần đến điểm hẹn. Trên cao độ hai ngàn bộ, phi trường Phượng Hoàng thoáng hiện trong bầu không khí rực nắng oi ả. Hợp đoàn giảm cao độ nối đuôi đáp xuống dọc theo một phi đạo vừa đủ dài cho những phi cơ nhẹ đáp. Gọi là phi trường nhưng thật ra chỉ là một dải đất rộng nằm trơ trụi trên một địa thế cao và bằng phẳng, xung quanh toàn cỏ dại vàng cháy, không một công sự hay nhà cửa nào cả, xa xa chỉ thấy hàng rào kẽm gai vây bọc. Năm chiếc trực thăng chầm chậm nối đuôi nhau lướt trên mặt nhựa đường đen tháng năm đã loang lổ. Phía bên phải phi đạo đã có bảy tám chiếc trực thăng đậu hàng dọc tắt máy cùng hai chiếc gunships Cobra mình dẹp lép như con cá chình, mang đầy nhóc rockets dữ dằn. Đơn vị Lữ Đoàn Không Kỵ của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã có mặt tại đây không biết từ bao lâu. Tất cả hợp đoàn tắt máy chờ, tôi chui ra sau khoang tàu nằm và đánh một giấc ngủ say sưa…
Bay vòng vòng trên bầu trời địa đầu giới tuyến, chờ cơn pháo ngưng, tôi ngả người vào lưng ghế nghỉ mệt, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn ngủi nhưng cũng giúp tôi lấy lại sức lực sau chuyến bay dài từ Phan Thiết. Trong mơ hồ tôi suy nghĩ vẫn vơ tới những cuộc hành quân đã qua, yểm trợ bốc quân, đổ viễn thám, tiếp tế, cuộc hành quân hôm nay chắc cũng không khác gì những ngày tháng trước. Nhưng tôi đã không ngờ rằng cuộc diện bây giờ đã đổi thay, những sôi động đã ầm thầm biến chuyển ngoài sự hiểu biết cũa một hoa tiêu tầm thường. Phi vụ ngày hôm nay sẽ là một phi vụ mở màn cho những ngày tháng tới đối đầu với một trận chiến hoàn toàn khác hẳn những gì tôi đã kinh qua. Tôi sắp bước vào một trận chiến lịch sử, một trận chiến kinh hoàng khốc liệt nhất trong chiến trường từ khi bọn Cộng Sản khởi động xâm lấn miền Nam. Trận chiến được mang danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa” hay là “Trận chiến một trăm ngày”. Tôi sẽ là chứng nhân sống cho những ngày tháng sôi động, những cuộc giao tranh, thắng bại, dành nhau từng tấc đất, con tàu bốc cháy nổ tung trên không trung hay ngay giữa phi đạo, những bạn bè thân thương gãy cánh, lìa đàn, những giây phút căng thẳng thần kinh đến tột độ, những phi vụ mạng sống như chỉ mành treo chuông, những trận đại pháo ào ạt như mưa rào, như thác đổ, những xác người tan nát, cháy nám…Một mặt trận địch đã dốc hết toàn lực, khả năng gần như đã kiệt quệ để đánh một ván bài cuối cùng dứt điểm mục tiêu mà chúng đã kiên trì nổ lực bao năm qua, với sự hy sinh hàng trăm ngàn, hàng triệu sanh linh vô tội đã bị chúng lôi cuốn vào cuộc chiến tranh điên rồ này.
Có lẽ trận pháo mở màn để chào mừng phi đội 215 đã chấm dứt, sau mười lăm phút lòng vòng trên không, chúng tôi được lệnh đáp trở lại phi trường Phượng Hoàng. Tắt máy xong, tôi bước xuống đi nhanh về hướng Đ/u Đức đang đứng nói chuyện với Đ/u Vỹ, bay chiếc chở quân. Thấy tôi Đ/u Đức cất tiếng rặt giọng Trung kỳ:
– Hổ, hồi này mày làm gì mà chạy ra giữa phi đạo vậy, chưa ăn mảnh pháo là may đó. Nói xong anh cười thật tươi đưa hàm răng trắng đều.
Đ/u Đức người cao ráo, nở nang, khuôn mặt chữ điền, rất đẹp trai, chắc có lẽ đã có nhiều em theo chết mê mệt. Từ ngày về với Thần Tượng đến giờ phút này tôi đã bay nhiều phi vụ võ trang dưới sự điều động của vị niên trưởng này. Chung chia rất nhiều kỷ niệm trong thời gian biệt phái Phù Cát, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phan Rang, Phan Thiết… Chúng tôi gần bên nhau, cùng chung giới tuyến, chia sẻ những niềm vui lớn nhỏ, cũng như gian nguy cực khổ từ đó đã nẩy sinh những tình nghĩa vô cùng sâu đậm.
– Sa.o m.à..y tỉnh ngu..ủ chư.a đó… Đại uý Vỹ đứng kế lên tiếng chọc quê tôi trong giọng nói nhừa nhựa ê a rặc tiếng Bắc Nghệ Tỉnh nghe buồn cười quá… Tại phi đoàn anh em thường gọi anh là “Cụ Vỹ”, vì thân hình thấp thấp tướng đi hơi lom khom cọng lại thêm giọng nói khàn khàn kéo dài. “Cụ Vỹ” là một đề tài tiếu lâm cho anh em chọc ghẹo, con người vui vẻ xuề xòa nhưng đôi khi hơi nóng tánh. Tôi ưa nói đùa với bạn bè trong những lúc họp mặt, “Nếu tao vào vùng “hot” nghe “cụ Vỹ” kêu tần số báo cáo có phòng không của địch, chờ cho “cụ” nói xong thì tụi nó đã bắn tao banh xác rồi”. Một giai thoại với liên hệ tới “Cụ Vỹ” nghĩ tới tôi vẫn còn “sượng sùng”. Lúc còn chân ướt chân ráo làm lính mới tò te của phi đoàn, một buổi sáng đang đứng mua một ít đồ lặt vặt trên đường Nguyễn Hoàng cạnh chợ Xóm Mới Nha Trang, tôi vô tình gặp một cô bạn gái đi cùng với một người bạn đi ngang. Sau khi tay bắt mặt mừng, chào hỏi hai ba câu xong, cô bạn gái tôi hỏi, “Anh ở phi đoàn Thần Tượng có biết anh Vỹ không?” Tôi nhanh nhẩu, ra điều sành sỏi: ” Biết chớ, Trung Úy Trần thế Vỹ ai mà không biết, tụi này kêu là “cụ Vỹ già” đó mà… ” Nghe tôi nói xong bạn tôi mỉm cười, xoay qua chỉ cô gái tóc bỏ ngang vai với khuôn mặt trái xoan dễ thương, chưa ngoài hai mươi đang đứng kế bên nãy giờ im lặng :”Xin giới thiệu với anh đây là ” fiancée ” của anh Vỹ”. Tai lùng bùng, người đứng sượng trân thiếu điều muốn độn thổ… Tôi gật đầu chào, miệng lí nhí nói không ra hơi: ” Dạ…dạ…chào chị..”. Một thời gian sau đó, một bữa thằng bạn thân gặp tôi ở phi đoàn, anh ta kéo tôi ra một góc phòng ghé vào tai tôi thì thầm nói nhỏ, ra điều đang tiết lộ một chuyện gì quan trọng:” Tao nói cho mày biết chuyện này, để mày cẩn thận, hôm qua không có mày đây tao nghe “Cụ Vỹ” tuyên bố trước mặt bá quan văn võ rằng, ” Tụi mày nói lại với thằng H., nó mà còn lạng quạng mời con đào tao đi ăn phở một lần nữa thì tao bắn bỏ mẹ nó…” Thật là oan ơi ông Địa, tôi chỉ gặp đào “cụ” có một lần đó thôi làm sao mà có cơ hội mời mọc, vả lại lúc đó tôi đang ở tình trạng “thặng dư” đào “dùng” không “kịp” đâu đến nỗi mà phải đi cửa hậu với người nhà.
Trong khi mọi người đang đứng đấu láo thì từ xa bụi đỏ tung mù chiếc xe cam nhông cùng chiếc xe Jeep phom phom chạy đến. Chiếc Jeep dẫn đầu ngừng ngay bên hông tàu Charlie, vị Đại Úy Dù, đeo giây “ba chạc”, đầu đội nón sắt cùng người phụ tá vội vã nhảy xuống xe, trên khuôn mặt lộ vẻ khẩn trương .
– Chào quý vị. Viên Đại Úy đưa tay lên chào theo cung cách nhà binh, xong bắt tay từng người:
– Chào Đại Úy, sao giờ này mới đến, nằm chờ ở phi đạo bị tụi nó pháo quá…Đ/u Đức lên tiếng.
– Xin lỗi quý vị phi hành đoàn nghe, tôi phải chờ ở phòng hành quân lấy thêm chi tiết và điều động xin vài phi tuần khu trục yểm trợ xong rồi mới ra đây được.
Trong tay cầm mấy bản đồ, vị Đại Úy đi vòng phía trước chiếc xe jeep, trải rộng tấm bản đồ trên đầu xe xong đi ngay vào vấn đề:
– Tối hôm qua căn cứ hỏa lực Tiền Đồn Sáu đã bị địch pháo kích cả hàng trăm trái hỏa tiễn và tấn công nhiều đợt tới tấp. Quân bạn hiện đang ở tình trạng nguy ngập cần tiếp tế gấp đạn dược, nước uống gấp và chở một số thương binh về.
– Sao trực thăng Mỹ ở đây làm gì mà anh không nhờ họ vậy Đại Úy? Đ/u Đức chen vào.
– Tụi tôi đã làm việc với họ sáng hôm nay rồi, nhưng khi vào đáp bị bắn rát quá nên họ quay trở lại từ chối phi vụ. Tôi đã xin nhiều phi tuần khu trục dội bom yểm trợ, nhưng địch bám sát quân bạn quá gần nên khó lòng. Cứ điểm này có một vị trí chiến lược rất quan trọng, bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải giữ không để mất được, mong quý vị giúp cho một tay.
Vây quanh đầu xe jeep, Đ/u Đức cùng Đ/u Vỹ và mấy hoa tiêu khác chăm chú nhìn vào tấm bản đồ màu xanh nhạt, những vòng tròn cao độ vẽ chằng chịt, cùng những nét bút màu đen đỏ.
– Đây là căn cứ hỏa lực Sáu hiện thời đang bị địch bao vây áp đảo nặng- viên Đại Úy chỉ vào một vòng tròn đỏ- ngay bây giờ chỉ cần hai chuyến chở đồ tiếp tế và chở một số thương binh về là xong ngày hôm nay. Tôi sẽ cho vài người lính ngồi theo tàu để phụ. Quý vị có thể nhìn thấy rõ ràng Tiền Đồn Sáu từ đây.
Nói xong anh quay người lại chỉ tay về hướng Nam của phi trường. Xa khoảng chừng năm bảy cây số rặng núi đứng sừng sững nhô cao trên đồng bằng cao nguyên. Dưới ánh nắng chói chan, những ngọn núi đỉnh cao trọc màu xanh cỏ úa vàng. Trên bản đồ tôi ghi nhận những vòng cao độ vẽ hình của một rặng núi hình cánh cung trên đó những vòng đỏ có ghi chú những chữ 6, 5, Y, C, D, H, tôi hỏi:
– Đây là những tiền đồn? Tôi chỉ vào nhưng vòng tròn kế tiếp nhau…
– Đúng vậy…kế cận Tiền Đồn Sáu xuôi theo đỉnh núi về phía Nam là Tiền Đồn Năm rồi Yankee, Charlie, Delta và cuối cùng là Hotel, còn rặng núi này Mỹ họ kêu là Rocket Ridge. Tất cả căn cứ hỏa lực trên dãy núi Ridge này thuộc trách nhiệm của Lữ Đoàn II nhảy dù, bộ chỉ huy đóng tại Võ Định. Đó là những địa danh mới được đặt tên của những căn cứ hỏa lực nằm trên những chuỗi cao độ chập chùng vùng trên dãy núi Rocket Ridge khô cằn sỏi đá, nhưng những ngày tháng tới đây sẽ là những là những địa danh đi vào lịch sử vì những trận đánh bạo tàn, khủng khiếp, dằn co, dành giựt từng tấcđất, từng giao thông hào, máu đổ thành suối…
Mọi người đã sẵn sàng. Chiếc C@C cất cánh trước, tôi dẫn chiếc gun số hai của Thành “râu” theo sau. Chiếc hai chiếc slicks đang được quân bạn “load” lên sàn tàu những thùng đạn bằng gỗ và những ống sắt to đựng đạn đại bác bên trong chứa nước uống từ chiếc xe cam nhông đậu kế bên.
Chỉ trong vòng năm ba phút là hai chiếc trực thăng võ trang đã ở trên đầu căn cứ hỏa lực. Rặng Rocket Ridge hơi cong cong hình cánh cung, đầu cực Bắc cách biên giới Lào-Việt-Miên cỡ 15 cây số, chạy đến gần căn cứ Tân Cảnh rồi bẻ cong kéo dài về phía Nam, song song với QL 14, cuối cùng dừng lại tại phía Tây Kontum, khoảng chừng 20 cây số.
Trên cao độ cách đỉnh núi chừng ngàn bộ tôi nhìn xuống Tiền Đồn Sáu, xa xa về phía Nam là Tiền Đồn Năm, Yankee, Charlie, Delta sau cùng là Hotel qua làn hơi nóng mờ ẩn lung linh, nối tiếp nhau trên đỉnh núi của rặng Rocket Ridge.
Thận trọng bay vòng trên cao độ tôi quan sát phía bên dưới, Tiền Đồn Sáu hình tam giác màu đất đỏ nằm chơ vơ trên đỉnh, ngay chính giữa trại, lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu phất phơ trước gió, xung quanh đồn triền núi dựng đứng, rừng xanh mọc răng cưa đến ngang lưng chừng núi là ngừng lại, tiếp nối tới đỉnh chỉ là cỏ vàng cháy xém….Những vết bom đạn pháo kích lỗ chỗ khắp nơi, những công sự chiến đấu vỡ nát không nhận ra hình thù, còn ngun ngún khói bốc, hai khẩu đại bác 105 ly màu đen nổi bật lên trên nền đất đỏ. Sát về phía Bắc của đồn, gần ngay hàng rào phòng thủ là một vòng tròn bãi đáp của trực thăng, ở giữa một chữ H sơn màu trắng còn nhận ra lờ mờ. Tất cả là hình ảnh của một bãi chiến trường còn phảng phất mùi tử khí, hiện đang yên nghĩ trong sự căn thẳng, rình rập, đe dọa….
– Lead đây Charlie, hai bạn cất cánh lên là vừa rồi, đáp về hướng Bắc nghe..
Ngồi trên tàu tôi nhìn về hướng phi trường Phượng Hoàng, hai chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế nhỏ như hai con kiến li ti chạy dài trên phi đạo.
– Hổ cẩn thận…sáng nay trực thăng Mỹ bị “ground fire” chạy rồi đó. Charlie nhắc nhở.
– Chiếc lead vào trước, chiếc số hai “hold” trên trời chờ. Đ/u Đức chỉ thị cho hai chiếc “slicks”.
– Cha..a..arlie, đây lead.. go..ọi, đa..ang… va…aò đây , H..ổ…Hô..ổ… mày co.o..v.er cho kỹ gi..ù..m chút nghe…
Tiếng nói nhừa nhựa kéo lê thê bằng tiếng Bắc Nghệ Tịnh nghe trên tần số trong giây phút căng thẳng này, tôi vẫn không nín được cười… “Cụ Vỹ” đã bắt đầu vào trục đáp, tôi cho con tàu bay bên cánh phải trên cao phía sau, chiếc gun số hai của Thành “râu” kèm theo bên cánh trái. Chiếc trực thăng từ từ xuống cao độ, Tiền Đồn Sáu phơi bày trước mặt…
– Le..ad đa..ang ở “f i…n..a..l”, H..ổ…H…ổ…th.e.o sát ngh e.e.e…” Ở đàng sau nhìn xuống chiếc lead đang lơ lửng đưa bụng trên vòng vây vô hình của địch. Bỗng ở đâu đó, tôi nghe vọng tiếng “cóc…cóc…cóc…”, âm thanh quen thuộc của khẩu AK-47.
– Ơ…ơ… H..ô..ổ, ơ..ơ…tụi n..ó bắn tao…Trong tần số tiếng “cụ Vỹ” la. Lần này tiếng “cóc…cóc..cóc…cóc…cóc….” nổ tràng dài như bắp rang…
– Oành…Oành…Hai trái pháo rớt trong vòng rào phòng thủ, kế khẩu đại bác 105 ly, bụi đỏ lẫn khói đen bay tung lên.
– Pháo kích, pháo kích. Tôi la lớn…Go around…Go around… Chiếc lead cắm đầu, đuôi tàu chổng lên gần như dựng đứng lài xuống chân núi trước mặt. Tức thời tôi bấm nút, những trái rockets thi nhau lao xuống chung quanh chu vi hàng rào, nổ lốp đốp tung bụi…Bên trái thằng Hổ hai đang tuôn những lằn đạn lửa minigun vung vãi khắp nơi.
– Lead, lead, đây Charlie, Vỹ, anh OK không?…Cho biết tình trạng ?…
– Để tô..i ch.e..ck…Sau vài giây im lặng tôi nghe tiếp…Char..li..e..đồng h..ồ…bình thư..ờng chắc khô.ô..ng s…a….o? “Cụ Vỹ” lè nhè dứt đoạn trên tần số.
Tất cả hợp đoàn bay vòng chờ trên cao.
– Lead, ráng giúp một lần nữa đi. Quân bạn đề nghị mình bay “low
level” ngang bãi, để lính đạp đồ xuống, đừng đáp nghe, nghe rõ trả lời…
tình trạng khẩn trương lắm, tối nay không có đủ đạn dược, đồn sẽ bị
“over run “…ráng giúp họ nghe lead. Số hai, bạn vào trước đi, để cho
lead nghỉ sẽ vào chuyến sau.
Trong tần số, tôi nghe chiếc số hai trả lời cụt ngủn:
– Nghe năm…!!!
Chiếc số hai bay vòng chờ trên cao, bắt đầu vào “final”. Tất cả tần số im lặng theo dõi. Hai chiếc võ trang bay kè phía sau. Chiếc số hai xuống nhanh giảm dần tốc độ rồi tiếp tục bay chầm chậm lướt trên đầu mặt đất lổ chổ hố pháo kích, là sát trên hai khẩu 105 ly, trên cao nhìn xuyên qua cánh quạt quay chấp chóa, những thùng đạn gỗ trăng trắng vàng cùng những ống nước màu rêu nhỏ xíu được đạp vội vã xuống bãi, rơi vung vãi khắp mặt đất trong vòng rào. Xong nhiệm vụ, con tàu trống nhẹ cắm đầu vương mình nhanh lên không trung. Trên cao chiếc C@C vòng vòng quan sát, tiếng Đ/u Đức la to:
– Hai…hai…, sao bạn không chờ chở thương binh ở bãi.
– Tôi đâu có đáp đâu mà bốc họ được, mà tôi không thấy ai cả, họ núp trong công sự tôi không thấy…để chuyến sau đi…
– Thôi được, bạn về đáp Phượng Hoàng “load” một chuyến nữa, xong báo tôi biết.
Tiếng nói Th/đ có vẻ phấn khởi khi thấy đã đổ được một chuyến hàng cho quân bạn.
– Lead đâu rồi…vào đáp được rồi đó đó…Hổ ra đem vào đi..
Chiếc lead bây giờ có phần vững dạ hơn khi thấy chiếc số hai hoàn tất nhiệm vụ an toàn, vòng lại chuẩn bị hạ cao độ. Tôi bám theo sau, mắt láo liên đảo quanh chu vi đỉnh đồi hy vọng phát giác được vị trí nào khả nghi của địch. Kinh nghiệm tôi biết chắc địch đang chuẩn bị gờm súng chờ đợi con mồi mỏng manh chậm chạp này, để một chuyến tiếp tế vào an toàn đã làm chúng điên đầu, sôi máu. Mồ hôi rịn lấm tấm trên trán, tay tôi siết chặt cần lái, ngón tay để sẵn sàng trên nút bấm rocket. Con tàu của Đ/u Vỹ đang vào “final”, xuống thấp dần. Tôi nín thở theo dõi. Chỉ còn chừng vài chục bộ nữa là lead ở trên mặt đồn, chiếc trực thăng bay chậm là sát trên mặt những công sự, tôi nhìn thấy những người lính lấp ló trong khoang tàu đang chuẩn bị đạp những thùng đồ.
– Ground fire…Ground fire…tiếng la thất thanh trong tần số, không phải của Đ/u Vỹ mà tiếng của người hoa tiêu phụ.
Cùng lúc tôi nghe rõ ràng nhiều tiếng gõ từ nhiều phía: “Cóc…cóc…cóc..cóc…”. Những tiếng “Cóc…cóc…cóc” tiếp tục liên hồi.
Tôi bỗng nghe tiếng la chói lói của Đ/u Vỹ trên tần số:
– Á..á…ch.ế.t..chê…ết…tô..ô..i rồi…..Chỉ chừng đó rồi im bặt.
Như có một luồng điện chạy dọc theo xương sống, tai như nghe rõ từng tiếng đập thình thịch của trái tim trong lồng ngực, tôi nghiến răng hai tay siết chặt cần lái, mắt đổ lửa, ngón tay cái bấm liên tục vào nút đỏ…xoẹt…xoẹt….xoẹt….những trái rockets như những mũi tên lửa tranh nhau rời dàn phóng lao xuống triền núi trọc, nổ ầm..
Dưới thấp, chiếc trực thăng đang phơi mình trước những lằn đạn của địch, cắm đầu cất cánh lài xuống triền núi, những tiếng cóc cóc bắn vói theo….
– Lead, lead…nghe không trả lời!
Chiếc lead vẫn im bặt…
Đ/u Đức la to:”Hai Hổ bay theo lead cover..Nghe rõ…”
Trong sự im lặng ngột ngạt căng thẳng, tôi kéo hết tốc lực cố bám theo chiếc lead.
– Lead đây Hổ, nghe không trả lời…
Vẫn im bặt trên tần số, chiếc lead hướng về phi trường Phượng Hoàng hạ thấp cao độ.
– Charlie gọi lead nghe không trả lời…
Tôi đã bắt kịp tàu lead, cặp sát bên hông tàu. Nghiêng đầu nhìn, qua khung cửa ngay ghế bay, trên tấm thép dày chắn đạn, tôi thấy lấp ló chiếc nón bay của “cụ Vỹ”…
– Hổ gọi, lead… trả lời.
Bỗng trên tần số, vang lên tiếng nói người hoa tiêu phụ :
– Charlie, lead bị bắn nhiều viên trúng tàu, hiện tôi đang chuẩn bị đáp…, Charlie kêu xe cứu thương ra phi trường giùm…
Tôi cho con tàu đáp ngay sau đuôi tàu Đ/u Vỹ. Cánh quạt vẫn con quay vù vù, tôi mở cửa phóng xuống đất, trên đầu còn đội helmet, chạy nhanh về phía tàu lead. Trên sàn tàu của Đại Úy Vỹ một cảnh tượng hãi hùng, người lính bộ binh đi theo phụ nằm xoải hai tay, máu đỏ che gần hết cả khuôn mặt, đôi mắt vô hồn mở trừng trừng nhìn thẳng lên trần, trên sàn tàu máu lênh láng. Tôi ngoảnh mặt quay người lại. Đại Úy Vỹ vừa mở cửa bước xuống, máu đỏ tươi ướt đẫm trên ngực chiếc áo bay màu xám, người bước đi xiêu vẹo, khuôn mặt chưa hoàn hồn. Tôi hốt hoảng:
– Trời đất… chuyện gì vậy..? Tôi nói chưa dứt câu thì người hoa tiêu phụ mang lon Th/u vừa trên tàu bước xuống, trong giọng Nam kỳ đặc kẹo, anh ta chen vô:
– “Thầy Vỹ” OK, không sao đâu, máu của anh lính bộ bị bắn lúc nãy đó. Vừa nói anh vừa lấy tay sửa lại dây nịt đeo khẩu súng “rouleau” xệ xệ bên hông trông rất “phong độ”. Tôi nhìn người hoa tiêu mới trong cặp kính mát “Rayban”, cao ráo đẹp trai, đang kể lại với một giọng bình thản như không có gì xảy ra.
– Khi tôi nghe tụi nó bắn như bắp rang, biết không xong rồi, thế nào cũng ăn đạn, chạy đâu cho khỏi… Anh ta nói tiếp như đang kể lại một chuyện phim gay cấn nào đó, lúc tàu đang bay trên đồn sắp đạp hàng xuống đất, tôi nghe tụi nó bắn rần rần từ phía Đông của đồn, anh lính đang đứng khom khom sau ghế bay “thầy Vỹ” nhìn về phía trước “windshield”, bỗng đùng một cái anh ngã nguời về phía “cockpit”, ôm choàng lưng ghế Đại Úy, đầu gục trên vai “ông thầy” máu chảy ròng, tôi nghĩ chắc bị một viên vô đầu rồi. “Thầy Vỹ” kế bên có lẽ chưa hoàn hồn, đứng yên không nói gì nghe anh ta kể tiếp:
– Lúc té xuống tôi thấy tay anh ta nắm giựt đứt sợi giây intercom trên helmet của Đại Úy, bởi khi Charlie gọi, ổng không trả lời được là vậy…
Chăm chú lắng nghe, tôi quá đỗi ngạc nhiên khi không hề thấy người hoa tiêu mới này không hề tỏ một cảm xúc nào cả sau khi vừa trở về từ cõi chết. Vừa lúc người hoa tiêu trên tàu tôi đang bước tới, tôi ngoắc anh lại gần, xong bảo:
– Bạn thông báo với Charlie phi hành đoàn OK, sẽ check tàu và báo cáo chi tiết đầy đủ sau.
Xong tôi quay lại nhìn Đại Úy Vỹ, anh đang cúi đầu nhìn xuống chiếc áo bay bây giờ máu đã sậm màu:
– Mẹ…tiê..ên…sư cha..a chú..ng nó.., khô..ng biết giặt c..ó sạch máu..không đây? Ta..o đem the..o có hai bộ đồ, khô..ông biết co..òn ở đây bao la..âu…..Đại Úy Vỹ vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào chiếc áo bay đang bận trên người. Tôi không dấu được sự kinh ngạc:
-Trời đất ơi, “ông Thầy” ơi, chết sống đây không lo, lo chi bộ đồ bay giặt không sạch. Bỗng nghe tiếng trực thăng đang chém gió kêu “phành phạch” trên cao tôi ngững lên nhìn, chiếc Charlie bay vù nhanh ngang trên đầu phi đạo… Từ chổ chiếc xe cam nhông chở đạn, chiếc Jeep của bộ binh lăn bánh chạy đến ngừng lại kế chúng tôi, trên xe người lính Dù nhảy xuống nói:
– Đại Úy Đức bảo hợp đoàn cất cánh về Pleiku trước đi. Tàu ông phải đáp Võ Định thả người sẽ về sau.
Tôi quay người hướng về Tiền Đồn Sáu nhìn, rặng núi bình thản phơi mình trong nắng chiều, trên cao hai chiếc khu trục cơ nhỏ tí đang vần vũ nhào lộn, xa mãi tít trên cao nữa ba chiếc pháo đài B-52 như ba chấm đen bay lặng lẽ trên vòm trời xanh kéo sau theo sau đuôi những đường khói trắng….
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN II: NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE
Ngày 12 tháng 4 năm 72
Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Vâng, chính anh là loài chim quý
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý
Một lần dậy cánh bay
Người để cho người nước mắt trên tay…
Một buổi chiều miền Tây nguyên, một buổi chiều sau một ngày sôi động chiến tranh của “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Bầu không khí bắt đầu quyện đục sương đêm hòa lẫn khói rừng âm ĩ cháy, phảng phất khen khét đâu đây mùi thuốc súng… Ánh nắng vàng nhạt còn vương vấn trải dài trên những triền núi xa xa…
Hai chiếc trực thăng võ trang của Phi đoàn Thần Tượng trên đường về căn cứ Cù Hanh sau một ngày nhào lộn trên chiến trường nóng bỏng. Trong cockpit Th/u Nguyễn Thanh Hùng im lặng cầm cần lái, đôi mắt đăm chiêu trên khuôn mặt thể hiện một nét mệt mỏi. Ngồi bên cạnh tôi uể oải dựa ngửa đầu vào lưng ghế bay nhìn xuống Quốc lộ 14 chạy lùi dưới chân. Đây là con đường huyết mạch nối liền Kontum và thị trấn Pleiku chạy giữa vùng núi rừng xanh thẳm. Dọc theo hai bên đường được khai quang trống trải để đề phòng những cuộc phục kích của Việt Cộng, những người Thượng lưng đeo chiếc gù đầy củi đang lầm lủi bước nhanh cố tranh thủ với bóng đêm đang chầm chập tới. Một vài người ngững đầu lên đưa tay vẫy chào hai con tàu đang lướt qua trên đầu. Phía bên trái ngọn núi Chu Pao đứng sừng sững nhìn xuống QL 14 như một vọng canh chiến lược thiên nhiên , nơi đây sẽ khởi chiến những trận đánh đẫm máu của ta và địch trong những ngày sắp tới để dành chủ quyền kiểm soát con đường huyết mạch này. Xa xa một đoàn xe “công voa” nhà binh mở đèn pha chạy nối đuôi nhau chạy ngược về hướng Kontum. Con đường xa lạ này giờ đây nó đã trở thành một hình ảnh vô cùng quen thuộc với những con chim sắt ngày ngày tung cánh lao đi vào vùng lửa đạn.
Sau phi vụ tiếp tế đẫm máu mở màn tại Tiền Đồn Sáu, kế cận phi trường Phượng Hoàng, Tân Cảnh, phi đoàn 215 Thần Tượng đã được lệnh tăng phái lên Pleiku để yểm trợ cho mặt trận vùng cao nguyên. Nguyên phi đội được chỉ định ở trong một trong những barracks của Mỹ để lại trong phi trường cạnh một sân cỏ rộng, ở đó đậu tạm những chiếc trực thăng của biệt đội trong giai đoạn hành quân. Trong linh cảm, tất cả nhân viên phi hành đều biết rằng sẽ phải đối đầu với một trận chiến khốc liệt và có thể kéo dài. Phi trường Cù Hanh càng ngày càng bận rộn theo mức leo thang của chiến cuộc, sự sinh hoạt tại căn cứ mang một màu sắc nghiêm trọng khẩn trương hơn. Đứng trên tầng hai của biệt đội nằm trên một vùng đất khá cao, tôi có thể quan sát mọi sự hoạt động của phi trường vào mổi buổi sáng sớm. Trên những con đường những chiếc xe pick-up màu xanh chạy vội vã chở đầy phi công; những người lính Không Quân hối hả trên những chiếc xe gắn máy phóng đến phần sỡ cho kịp giờ; những hàng gánh rong bán thức ăn sáng rộn rịp ở những góc đường. Ngoài phi đạo máy bay sắp hàng để chuẩn bị cất cánh lên vùng, những chiếc khu trục thô kệch nặng nề, đeo đầy bom tiếng máy rú lên như con thú dữ, những chiếc máy bay quan sát mảnh mai như con hạc trắng nhẹ nhàng cất cánh lên không trung, mấy chiếc vận tải C-123, C-130 to lớn đậu trên “Tarmac” kế những “hangar” khổng lồ, cửa cargo sau đuôi tàu mở rộng, những kiện hàng nằm ngổn ngang. Tại mấy ụ đậu trực thăng, tiếng quay máy o..o… o… của những động cơ bán phản lực cùng tiếng chém gió “phần phật” của những chiếc tàu đang lơ lửng trên “taxiway” càng làm cho không khí thêm sôi động.
Vào những giờ ăn tại câu lạc bộ của Không Đoàn đầy người đủ mọi thành phần của các binh chủng. Hoa tiêu trong những bộ đồ bay tác chiến đủ kiểu, từ bộ đồ nomex hai mảnh của những hoa tiêu trực thăng, đội nón rằng ri như lính Lôi Hổ, đến những phi công khu trục với bộ đồ bay cam, xám hay kaki, cùng những người không phi hành ngồi tụm năm tụm ba trên bàn, trên khuôn mặt mọi người thể hiện lên nét khẩn trương phản ảnh một cuộc chiến đang đi vào giai đoạn quyết liệt.
Từ đầu năm 72 đến trung tuần tháng 3, địch đã đủ thời giờ dàn trận và bố trí ở những mặt trận mà chúng đã chọn, và đến bây giờ là giai đoạn tổng công kích. Quân đội VNCH bị ở trong thế cờ thụ động, dò dẫm nghe ngóng hoạt động của địch. Không lực của Đồng Minh cũng như Việt Nam liên tục ngày đêm oanh tạc những điểm tập trung của địch để tiêu hủy tiềm năng của Cộng quân trước khi chúng thực sự tổng tấn công. Riêng về hoạt động của các phi đoàn trực thăng đa số là tiếp tế cũng như đổ toán Lôi Hổ để thám sát, dò tìm tin tức sau phòng tuyến của địch. Những phi vụ bay gần vùng biên giới thường đem lại cho phi hành đoàn những cảm giác căng thẳng nếu không nói là lo ngại vì sự hiểm nghèo của nó.
Những phi vụ trong thời gian biệt phái tôi đã trải qua những kinh nghiệm vui buồn khó quên trong cuộc đời bay bổng. Nhớ lại một phi vụ thi hành khi sương mù đang còn lãng đãng trên đầu ngọn cây, hai chiếc gunship trong đội hình tác chiến, hướng về vùng biên giới, bay trên mặt rừng cây trùng điệp, tinh thần tập trung né tránh những bãi cỏ trống hay rừng thưa, bỗng dưng trước mặt một tàng cây đại thụ nổi bật nhô cao lên xuất hiện trước mũi con tàu, loáng thoáng dưới tàng cây rậm năm bảy bóng đen di động làm lung lay cành lá, giật mình tôi kéo ngược bật cần lái né tránh, con tàu bay vút lên cao… Tim đập thình thịch tôi la:
– Trời đất…., Việt Cộng… , tụi mày thấy không… mẹ… làm tao giật cả mình…
Người hoa tiêu phụ quay nhìn tôi khuôn mặt lộ vẻ rất ngạc nhiên, buột miệng:
– Việt Cộng ở đâu ông, khỉ đó, một đàn khỉ đu trên cây tôi thấy rõ ràng.
Tôi cắt lời:
-Bạn nói cái gi? Tao thấy năm bảy đứa bận đồ đen đang rình mà bạn nói là khỉ.
Không đồng ý với người hoa tiêu phụ tôi quay ra phía sau hỏi hai anh mê vô xạ thủ:
– Tụi mày thấy gì? Tao thấy rõ ràng lố nhố mấy thằng bận áo đen đang đeo trên cành cao. Bố chúng nó! Làm tao hết hồn…
Mấy anh xạ thủ sau nhe miệng cười:
– Ông giật cần lái làm tụi tui hết hồn thì đúng hơn, một bầy khỉ đó ông à, tụi này thấy rõ ràng mà.
Vì địa thế mặt rừng dày đặc vùng cao nguyên địch thường cho những khinh binh leo lên cây cao hay làm những chòi nhỏ trên đọt cây để quan sát sự di chuyển cũng như những hoạt động của máy bay và đôi lúc chúng cũng dùng súng trường để bắn sẻ vào những chiếc trực thăng bay ở độ thấp. Đến đây thì tôi mới biết rằng mình lầm, hồn vía trở lại
Trong một chuyến bay thả toán khác, sau khi thi hành xong phi vụ yểm trợ để thả một toán Lôi Hổ kế cạnh con đường mòn Hồ Chí Minh, trên đường trở về, trên mặt vùng rừng già dày đặc thình lình trước mặt mũi con tàu một bãi cỏ xanh rộng hiện ra, ngay góc rừng một khẩu phòng không được ngụy trang bằng những cành lá dây leo, nấp sát bìa cây cao, nòng súng đen ngòm to chỉa thẳng lên trời. Mặc dù đã xông pha trận mạc qua nhiều năm tôi vẫn không làm sao tránh được cái cảm giác bị giật mình làm tim đập mạnh khi gặp một yếu tố bất ngờ. Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một khẩu súng cao xạ cỡ lớn trong khoảng cách quá gần. Phản ứng đầu tiên tức thì tôi quẹo gắt phía bên phải để né bãi cỏ trống . Địch và chúng tôi đều bất ngờ đụng độ, hai bên không có thì giờ để phản ứng. Đó cũng là một đều may mắn cho phi hành đoàn. Tôi cho con tàu bay hướng về phía Nam. Hình ảnh khẩu phòng không nằm ở góc rừng như đang ngạo nghễ thách đố… Trước đây không lâu anh Phạm Thành Rinh, một người bạn chí thân của tôi cùng chung phi đội võ trang 215, và hoa tiêu phó Võ Diện đã bị bắn nổ tung trên bầu trời mịt mờ khói lửa cũa Võ Định, Tân cảnh. Rinh đã cùng phi hành đoàn thảng thốt ra đi, không kịp nói một lời trên tần số. Tôi đã mất một người bạn, một nghệ sĩ với cây đàn… Giọng hát ngọt ngào trầm ấm anh thường trình diễn trong những buổi dạ vũ của PD còn văng vẳng bên tai:
Em đến bên tôi một chiều khi nắng qua rồi…
Nắng ngừng bên chiếc cầu biên giới…
Xa xa tiếng đàn trầm vô tư…
Đâu đây dáng huyền bền duyên mơ…
Bên cầu biên giới…
Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi…
Anh Rinh đã vĩnh viễn ra đi, thân xác anh đã trở thành cát bụi trên vùng trời biên giới, anh không còn hiện hữu để “lặng nghe dòng đời từ từ trôi… “. Anh và tôi chỉ có hai người được chọn về với phi đoàn 215 trong tất cả các bạn cùng khóa. Anh ra đi vì khẩu phòng không oan nghiệt. Hình ảnh đau thương trở lại trong tâm trí, máu huyết trong người tôi sôi sục, tôi muốn quay trở lại ngay để trút lên đầu địch những hận thù chất chứa. Nhìn lại khả năng và vũ khí giới hạn trong tay, trực diện đối đầu với khẩu phòng không này quả là một sự điên rồ. Những sách vở kiến thức học ở trường bay chưa bao giờ dạy chúng tôi những chiến thuật, chiến lược để đối phó với hoàn cảnh này. Trực thăng vận quá mới mẽ đối với chiến tranh Việt Nam. Những hoa tiêu trực thăng của VN chỉ được dạy kỹ thuật bay bỗng, ngoài ra họ phải tự học hỏi lấy qua những kinh nghiệm bản thân để đối phó với mặt trận càng ngày càng leo thang.
Khẩu cao xạ phòng không vẩn đang chờ đợi. Tôi chợt nhớ trong sách lược của Khổng Minh đã có nhiều mưu kế để hạ kẻ thù và một phương thức tôi chợt nghĩ đến là chiến thuật “Dương Đông kích Tây”. Nếu tôi cho chiếc “gun” số hai bay vòng vòng sát đầu ngọn cây phía Bắc của địch, tiếng động cơ ồn ào cùng tiếng chém gió “phành phạch” của chiếc trực thăng sẽ gây sự chú ý của tên xạ thủ phòng không và sẽ quay hướng nòng súng phía Bắc chờ đợi. Bay nhanh sát trên đầu ngọn cây từ hướng Nam lên, tôi sẽ bất ngờ đột kích. Khẩu cao xạ nặng nề sẽ không kịp quay họng súng về hướng Nam để kịp tác xạ. Nếu sự suy luận của tôi đúng, tôi chỉ cần vài ba giây ngắn ngủi đó để hoàn tất sứ mạng,
Tôi liều lĩnh thực hành ý định. Hai chiếc gunships chúng tôi chia tay nhau, chiếc số hai thi hành nhiệm vụ “dương Bắc”, tôi ở lại chờ đợi sứ mạng “kích Nam”. Không đầy một hai phút sau chiếc gun số hai báo cho biết đã đến vùng. Thời cơ đã điểm, không một giây chậm trể, tôi lao con tàu về hướng khẩu phòng không. Chiếc tàu cắm đầu chúi mũi lướt vùn vụt trên đầu mặt rừng già gợn sóng nhấp nhô như mặt biển xanh. Chỉ còn cách bãi cỏ một khoảng ngắn, tôi kéo ngược cần lái, con tàu tức khắc ngóc đầu lên cao như con rắn hổ phùng mang trợn má trước khi mổ vào đầu địch. Xoẹt… Xoẹt… Xoẹt… Mười bốn trái rockets vội vã thi nhau rời con tàu lao thẳng tới dàn phòng không ẩn hiện trong đám cây góc rừng. Những tiếng nổ ầm vang dội núi đồi, bụi mù xen lẫn cành lá bay tung tóe khắp nơi. Tai nghe loáng thoáng tiếng cóc cóc đâu đó cũa những khẩu AK-47, tôi không còn thì giờ để nhìn thành quả, một tay đè mạnh cần cao độ, tay kia bẻ ngoặc cần lái, chiếc trực thăng tức thời nghiêng mình lài xuống về phía bờ cây cao. Trước sự ngở ngàng của địch quân con tàu chỉ xuất hiện năm ba giây rồi vụt biến mất dạng trên mặt rừng mênh mông, theo sau chiếc Hổ hai sát nhập lại nối đuôi nhau như hai con rắn độc hạ thủ xong lủi vào bụi cây rậm… Trên đường trở về căn cứ, tôi hình dung một nụ cười mãn nguyện đang nở trên môi của Rinh nơi chín suối…
– Mãnh Hổ, Charlie… Hai bạn ở đang ở đâu, cho biết vị trí-. Tiếng nói của Th/T Phạm Bính, phi đoàn trưởng của phi đoàn 215 đột ngột vang trong tần số VHF.
Ngạc nhiên khi nghe vị phi đoàn trưởng gọi tôi trong giờ phút này, tôi trả lời:
-Charlie đây Hổ… còn chừng mười phút nữa đáp Pleiku…
-Tôi vừa nhận được tin tức mới nhất, Căn cứ hỏa lực Charlie đang bị tấn công nguy kịch, tình trạng rất nguy ngập, quân bạn đang cần sự yểm trợ của tất cả những phi cơ nào đang có mặt trên vùng. Hai Hổ quay lại vùng Võ Định, hiện tôi đang có mặt tại đây với bộ chỉ huy Dù, hai bạn lúc nào đến cho tôi biết, sẽ có chỉ thị.
Vừa nghe Charlie dứt lời trên tần số Th/u Hùng quay sang nhìn tôi xong buột miệng:
-Trời đất.., trể quá rồi tới đó là quá tối thấy đường đâu mà đánh.
Trước thái độ của Hùng, tôi biết anh đã quá mệt mỏi sau một ngày dài, nhưng không có một sự lựa chọn, tôi trả lời C@C:
-Hổ nghe năm… , quay lại Võ Định.
Nói xong tôi ra dấu tay cho Hùng quay đầu con tầu trở lại hướng Bắc, sau lưng chiếc Hổ Hai bám sát. Quay nhìn bên ngoài, bầu trời mập mờ không còn bao lâu nữa thì tối hẳn. Lòng dấy lên một niềm e ngại, chưa bao giờ tôi thực sự tham dự một trận đánh đêm trong vùng rừng núi cao nguyên này cả. Tuy nhiên theo chỉ thị của cấp trên, tôi phải tuân lệnh. Tôi vỗ về người hoa tiêu bạn:
-Ráng tí đi Hùng, có lẽ mình sẽ đánh vài ‘pass’ rồi về thôi.
Trong phi đoàn anh hoa tiêu phụ của tôi có biệt danh là “Hùng kiềng”, chân anh hơi cong cong, anh có tướng đi khệnh khạng như “cao bồi” cỡi ngựa. Anh tánh bộc trực có gì nói nấy, lại có tội hơi lè phè. Tôi còn nhớ một buổi sáng đang mơ màn nằm ngủ trong phòng bỗng nghe vẳng vẳng tiếng đồng hồ báo thức của ai reo dai dẳng, liên tục. Tôi ngồi dậy bước ra khỏi gường, ngang phòng Hùng thuê cách tôi một căn, tiếng reo vang rền, tôi đẩy nhẹ vào cửa không khóa… Hùng đang nằm ngữa mình trần trùng trục mồ hôi đổ nhễ nhại, hả miệng gáy o… o… Hoa tiêu phụ có bổn phận phải có mặt trước để check tàu, trưởng phi cơ sẽ ra sau. Chiếc đồng hồ điện báo thức réo rắt từ sáu giờ sáng đến quá chín giờ mà anh vẩn còn chìm đắm trong giấc ngũ say.
Hùng là một hoa tiêu phụ bay với tôi rất nhiều phi vụ và đã chia sẻ với tôi nhiều giây phút đáng nhớ. Một lần trên đường bay ra Phù Cát, giao tay lái cho Hùng xong tôi ngồi dựa ngửa vào lưng ghế, mắt nhắm lại nghỉ mệt. Trong tiếng máy nổ đều đặn, con tàu rung nhẹ dần đưa tôi vào “chốn lãng du”… Đang phiêu diêu nơi “chốn tang bồng” con tàu chợt rung động mạnh, tôi hé mở mắt ra nhìn: tất cả xung quanh con tàu bao phủ một màu mây trắng xóa, không biết đâu là trời đất… Mơ mơ màng màng, tôi tự hỏi, ” Tàu bị lọt vô mây… , ai đang cầm lái đây?… Vertigo ? “. Những tư tưởng mơ hồ loáng thoáng trong đầu như tia điện làm tôi tỉnh hẳn người. Hốt hoảng tôi ngồi phắt dậy, tay chụp vội cần lái la to, ” Ê… , ê… , chết… , chết..chết… .” vừa chưa nói hết câu, đột nhiên bầu trời trở lại trong sáng, dưới chân mặt biển xanh ngát một màu. Con tàu vừa bay xuyên qua một đám mây nhỏ. Sượng sùng tôi trả cần lái lại cho Hùng… Cũng nên biết trực thăng thường bay VFR (Visual Flight Rules), chun vô mây là điều bất khả kháng.
Cuộc đời hoa tiêu trực thăng gian khổ, năm tháng đương đầu với nhưng giờ bay dài đăng đẳng. Một ngày ngồi trên chiếc ghế bay bảy tám tiếng là chuyện thường khi hợp đoàn phải di chuyển cả Tiểu Đoàn bạn vào vùng hành quân. Ngồi trên ghế chai cả mông, mồ hôi đổ ướt đít đến mọc mụn.
Một lần khác trên thung lũng “Buôn Mì Gà” vào buổi trưa hè nắng gắt, hai chiếc guns bay vòng trên trời chờ hợp đoàn trở về bốc thêm quân, Hùng cầm cần lái tôi ngửa đầu vào lưng ghế nghỉ rồi ngủ thiếp đi. Bay vòng chờ trên cao, mỗi khi con tàu hướng về phía mặt trời, ánh nắng dọi thẳng vào mặt nóng như thiêu đốt, bỗng dưng đưa tôi vào một cơn ác mộng, mơ thấy con tàu đang bị bốc cháy dữ dội, lửa ngọn lan tràn đến cockpit hốt hoảng tôi ngồi nhổm dậy la làng: “Cháy… cháy… .cháy… “. Mở mắt ra, tim đập thình thịch tôi ngơ ngác nhìn khoang tàu, mọi sự vẫn bình thường, bên ghế trái “Hùng kiềng” đang im lặng miệng phì phèo điếu thuốc lá trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên, rồi bật cười lớn… Biết là hố, tôi lấy tay áo quẹt lau mồ hôi đổ hột trên mặt, sửa lại thế ngồi, xong lui cui móc điếu thuốc lá châm hút, nhìn ra ngoài trời xanh, mây trắng không nói một lời…
-Sao ông thầy mình cần load thêm đạn không?- Tiếng nói của Hội xạ thủ hỏi tôi.
-À… thôi có lẽ còn chừng đó xài đủ rồi, để coi tình trạng như thế nào đã. Chắc không lâu đâu, đánh vài vòng rồi về, tối rồi.
Phía sau tàu Hội xạ thủ đang ngồi bệt trên sàn lúi húi sửa khẩu súng bị kẹt, chiếc áo bay phập phồng gió lộng trong khoang tàu mở cửa. Anh Song mê vô ngồi trên thùng đạn đang ưu tư nhìn vào khoảng không. Một niềm cảm xúc dấy lên trong lòng thương cho những người bạn đồng hành gần gũi qua bao nhiêu năm chung chia tất cả những vui buồn khổ cực. Trong những giây phút mạng sống như chỉ mành treo chuông trên mặt trận họ cũng hứng chịu không khác gì hoa tiêu, nhưng họ đã không được đề cao hay tưởng thưởng tương xứng với những gì họ đã đóng góp. Phi đội trực thăng võ trang trong phi đoàn chỉ là một nhóm nhỏ, rất thân tình gần gủi với nhau, anh em biết tánh tình từng người một. Tr/s Song xạ thủ theo đạo Phật, theo tôi biết anh kỵ sát sanh, một con kiến anh cũng không muốn giết vậy mà tôi không hiểu tại sao anh lại xin vào phi đội trực thăng võ trang. Trong một phi vụ phía Bắc Gia Nghĩa, đang bay quan sát bãi đáp ở độ cao vài trăm bộ, bất chợt một tên VC từ bụi cây giữa bãi cỏ trống phóng như cắt hướng về bìa rừng. Tôi hét lớn:
-Song, Song… bắn… bắn… .
Hàng ngàn viên đạn tuôn ra từ nòng súng cày lên mặt đất tung tóe xung quanh tên VC. Đạn vẫn tuôn ra như mưa Bấc, tên VC vẫn chạy mãi đến gần bìa rừng. Tay kềm con tàu, theo dỏi diễn tiến qua khung cửa, tôi điên “tiết vịt” lên lắc mạnh cần lái, con tàu chao đảo. Tôi hét:
-Hội… , Hội.. Hội… qua bên này bắn đi… nhanh lên… , coi chừng nó chạy mất… bắn như con c… .
Nhưng đã quá muộn tên VC đã biến mất dạng dưới những tàng cây rừng rậm rạp… Tôi lầm bầm một mình trong intercom:” Mẹ… sợ sát sanh mà đòi đi bay guns… ”
-Hổ tới đâu rồi, báo cáo…- Giọng nói của Th/T Bính nghe trên tần số.
-Chừng vài phút sẽ đến Võ Định, OK, tôi thấy Charlie rồi….
Cao trên thung lũng đậm màu đêm xuống bên con sông Pokor uốn khúc phía Tây QL 14, chiếc trực thăng C@C như một chấm đen trong bầu trời sẫm tối . Phía Đông là căn cứ chỉ huy Võ Định của Lữ Đoàn 2 Dù nằm sát con lộ, phía Tây là rặng núi Ridge cao mờ mờ ẩn hiện.
– Hổ “hold” chờ phía Đông đồi Charlie, bạn sẽ cùng bốn chiếc gunships của phi đoàn 235 và 229 vào yểm trợ, chừng vài phút nữa họ sẽ có mặt… .
Tôi cho con tàu bay vòng về phía Đông dãy núi trọc nhìn xuống cụm đồi phòng thủ của đồn Charlie hình yên ngựa. Từ cao tôi có thể thấy những trái đại pháo liên tục rớt trên mặt đất của đồn, nổ tóe lửa trong ánh hoàng hôn mờ ảo, trông lập lòe chớp lóe như pháo bông. Căn cứ hỏa lực này giờ hầu như đã thành bình địa, những công sự phòng thủ bị pháo nát, hòa lẫn với đất cát không nhận ra hình hài.
Tại căn cứ này, địch đã dùng chiến thuật công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung. Chúng tiêu hao tất cả những tiềm lực chiến đấu của quân bạn bằng những trái đạn đại pháo, những trái đạn nổ chậm chui xuống đất rồi nổ tung phá nát hầm sâu. Một mặt chúng ngăn chặn nguồn tiếp tế duy nhất là trực thăng bằng những khẩu phòng không bố trí xung quanh đỉnh núi hay những trái pháo đã được điều chỉnh sẵn nhắm vào bãi đáp.
Trong bóng chiều tà, từ đỉnh đồi Charlie nhìn thẳng xuống tới chân núi phía Đông tôi vẫn còn nhận rõ một khoảng đất cỏ cháy xém, ngay chính giữa là một khối sắt co dúm đen đủi, kế bên là một khúc đuôi trực thăng còn nguyên nằm lật ngược. Tất cả đó là những gì còn sót lại của một con chim sắt thuộc phi đoàn Thần Tượng đã gãy cánh cách đây mấy ngày. Hình ảnh còn mới mẽ của phi hành đoàn thân yêu đã ra đi trong bất ngờ, trong thảng thốt như một cuốn phim kinh hoàng bừng sống lại trước mắt tôi…
Mười giờ sáng hôm đó, năm phi hành đoàn Thần Tượng đáp tại bộ chỉ huy Dù ở căn cứ Vỏ Định, sát phía Đông QL 14. Chiếc Charlie do Th/t Khuu Văn Phát, phi đoàn phó, cầm lái. Vì Lữ Đoàn Dù chỉ đóng quân tại những căn cứ cố định trên những tiền đồn cao điểm nên những phi vụ thường là tản thương hoặc tiếp tế. Năm chiếc tầu đã tắt máy, tôi bước xuống đi lững thững vào bộ chỉ huy dọc theo hàng rào kẻm gai con đường đất đỏ quanh co. Những chiếc lều dã chiến màu xanh cứt ngựa thật lớn, trên nóc đầy những cột “ăng-ten” chĩa thẳng lên trời, không xa đó đặt vài khẩu trọng pháo thỉnh thoảng nổ đì đùng… Vòng vo một khoảng nữa thì tôi đến căn trại của bộ chỉ huy Lữ Đoàn II Dù. Tôi bước vào lều, Th/T Phát đã có mặt với một vài vị sĩ quan bạn ngồi kế bên một cái bàn dài trải những tấm bản đồ xanh lơ. Kế đó Trung Tá Đặng Duy Lạc, một hoa tiêu A-37, Không đoàn Trưởng KD62/CT tại Nha Trang, đang nói chuyện với một sĩ quan cấp tá Dù. Sự hiện diện của Tr/T Lạc làm cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi vừa đưa tay chào theo cung cách nhà binh vừa bước đến gần bên Th/T Phát kéo chiếc ghế trống ra ngồi, xong tôi ghé sát vào tai Th/T Phát hỏi nhỏ:
– Ông Tr/T Lạc làm gì ở đây vậy?
– À, ổng chỉ lên thăm và ủng hộ tinh thần anh em thôi, chiều ông về lại Nha Trang rồi.
Th/t Phát trả lời xong nói tiếp:
– Ngồi tí rồi mình đi, sáng hôm nay chỉ có hai phi vụ tiếp tế cho Charlie. Bạn còn nhớ vụ tôi bị bắn ở Tiền Đồn Sáu không? Phòng không đây nặng hơn nhiều, Hổ cẩn thận.
-Thầy quá may đó, nhìn chiếc tàu bị bắn, tôi không hiểu sao Thầy về kịp đáp Phượng Hoàng an toàn được.
Tôi đáp lời . Nhớ hình ảnh chiếc trực thăng khi đem về căn cứ, viên đạn 12 ly 7 xuyên qua sàn tầu, đâm lủng bình xăng đi thẳng lên làm một lổ lớn trên trần tàu rồi bay thẳng lên trời, may viên đạn trúng tàu không phải là đạn lửa không thì con tàu sẽ nổ tan xác pháo. Tôi cảm thấy cuộc đời bay bổng của hoa tiêu trực thăng thật mong manh, mạng sống như chỉ mành treo chuông, trong những trận chiến sôi động này, tương lai chỉ đếm từng ngày một.
Ngồi nói chuyện đôi ba câu xong, tôi đứng dậy bước khỏi lều hút thuốc lá. Trong ánh nắng chói chan, tôi để tầm mắt về hướng Tây, dãy núi Rocket Ridge đứng sừng sững bất động dưới bầu trời xanh. Đã mấy ngày nay tin tức cho biết Cộng quân đang áp đảo căn cứ trên đỉnh núi, cố tình muốn dứt nọc trước khi tổng tấn công vào vùng Tân Cảnh, dưới trách nhiệm của Sư Đoàn 22 bộ binh. Những viên đạn đại pháo 130 ly, những trái hỏa tiễn 122 ly cùng với những súng cối 82 ly ngày đêm không ngưng nghỉ rót vào những căn cứ hỏa lực.
– Lẹ đi, tao đá cái chết mẹ bây giờ! .
Đang đứng dựa gốc cột dưới căn lều dã chiến bộ chỉ huy, tôi quay lại thấy một anh Tr/s Dù, đầu đội nón “bê-rê” đỏ đi kế bên một thằng bé cỡ mười sáu tuổi mười bảy tuổi, bận bộ đồ màu xanh cứt ngựa của lính chính quy Cộng Sản, tóc tai bơ phờ, mặt mày ngơ ngáo. Thấy tôi anh ngừng lại chào, tôi hỏi:
– Anh đem nó đi đâu vậy?.
– Dạ, tôi đưa nó đi cầu-, xong anh nói tiếp: -Nó vừa mới bị bắt sống tối hôm qua đó, nó thuộc Sư Đoàn Thép, bộ chỉ huy cho chở về đây lấy tin tức. Tụi nó hết người rồi phải lấy toàn con nít hỉ mủi chưa sạch. Sư Đoàn Thép bây giờ toàn thứ này nhiều lắm.
Nhìn khuôn mặt non choẹt tái mét vì đã chui rúc trong rừng sâu nước độc, mỏng manh trong bộ quân phục xốc xếch, chân mang đôi dép quai râu, tôi thấy tội nghiệp cho những đứa trẻ “sinh Bắc tử Nam”. Anh lính Dù đứng một lát xong dục: “Đi mày!”. Gật đầu chào rồi bước ra chỗ bãi đậu, tôi lững thững đi ngang qua hai chiếc trực thăng chở tiếp tế, mấy phi hành đoàn đang tập tụ trong khoang tàu binh xập xám chờ phi vụ.
– Ê… , bao lâu nữa thì đi?- Tr/u Vân bay chiếc số một đang ngồi trong khoang tàu hỏi vọng ra.
– Sắp sửa rồi, chuẩn bị đi -. Tôi vừa bước gần Vân thấy có Th/u Long đứng kế bên, tôi hỏi một câu nửa chơi nửa thiệt :
– Sao Long, giải được bùa chưa?
Anh không trả lời chỉ nhếch mép cười. Nghe mấy người bạn kể lại vì tội dụ dỗ một cô gái Thượng ở Ba Mê Thuột, anh đã bị thư một cái dằm vào chân, mỗi đêm đều bị nhức nhối. Tôi nghe anh em nói tưởng họ đùa, nhưng khi gặp anh Long hỏi thì anh xác nhận chuyện đó có thật. Mỗi lần trong phi đoàn có phi vụ nào đi Ba Mê Thuột anh đều xin theo để gặp thầy pháp giải bùa chữa bệnh.
Từ ngày mặt trận bùng nổ, tôi bắt đầu cảm nhận rằng trong không khí chiến tranh càng leo thang, tâm tư anh em phi hành đoàn bắt đầu mang một nổi e dè, lo lắng. Tối hôm qua, ở tại biệt đội, trong khi anh em tụ tập bàn tán xôn xao về tin của một chiếc tàu của phi đoàn bạn bị bắn nổ trên không trung . Tr/u Vân vừa mới lên từ Nha Trang, ngồi trong phòng tại biệt đội, anh tâm sự với một người bạn thân rằng vợ anh mới sanh, tiền bạc chẳng có nhiều, mặt trận càng ngày càng sôi động làm anh rất quan tâm… Trước khi đi ngủ anh móc tất cả trong túi lấy ra được mấy ngàn đồng, cùng với cái đồng hồ rồi bỏ tất cả trong hộc tủ, nhờ người bạn nếu anh có mệnh hệ gì thì giao lại cho vợ anh. Nghe câu chuyện tôi linh cảm như là một điềm xấu có thể xảy ra cho Tr/u Vân.
Từ căn lều bộ chỉ huy, Trung tá Lạc bận bộ đồ bay màu xám, chiếc nón lưỡi trai đen trên đầu với hai nhành dương liễu trắng trông rất phong độ đi song đôi với Th/T Phát, phía sau Tr/T Nhảy Dù đầu đội nón sắt tay cầm bản đồ và mấy người tùy tùng, tất cả đang tiến ra bải đậu. Âm thanh o..o… quay máy của Charlie khởi đầu cho phi vụ tiếp tế. Hai chiếc trực thăng vừa quay máy, vừa nhận hàng của một chiếc xe cam nhông đậu kế bên hông. Những thùng bằng gổ thông chứa đạn dược, C-Ration ( khẩu phần ăn của nhà binh) cùng với những ống sắt đựng đại bác dùng để chứa nước được chất đầy trên bong tàu. Đợi tất cả cất cánh trước cho rộng chỗ, tôi từ từ nương con tàu nặng nề súng đạn rời khỏi bải, vượt qua hàng rào kẽm gai và những cây “ăng-ten” cao nghệu. Nhìn xuống, những căn lều lúp xúp của trung tâm hành quân Dù Võ Định vây quanh bởi hàng chục vòng kẽm gai nhỏ dần dưới ánh nắng mai gay gắt…
Bay chừng năm bảy phút, tất cả hợp đoàn đã đến vùng, rặng núi Rocket Ridge nằm im lìm dưới bầu trời trong xanh. Chiếc C@C bay vòng trên cao độ nhìn xuống, căn cứ Charlie gồm ba cứ điểm phòng ngự từ Nam lên Bắc, điểm thấp nhất đồi 960 cũng là bãi đậu trực thăng làm nơi tiếp tế, rồi tới đồi 1020, cao nhất phía Bắc là đỉnh Charlie, 1050. Tất cả tạo thành một địa thế từ xa nhìn giống như hình yên ngựa. Tại cụm phòng ngự này đã bị Cộng quân mở hàng loạt trận địa pháo 130 ly, 122 ly và hỏa tiễn đủ loại, chúng cố dứt điểm căn cứ này với mọi giá. Tại cao điểm này chúng có thể kiểm soát tất cả những di chuyển cũng như hoạt động dưới thung lủng sông Pokor cũng như QL 14 chạy dài tới thị xã Tân Cảnh, mục tiêu trọng yếu đầu tiên trước khi tiến chiếm Komtum. Trước đó mấy ngày căn cứ hỏa lực Yankee phía Bắc Charlie đã bị thất thủ.
Vòng vây địch siết chặc, áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, sau những trận mưa pháo dữ dội, địch quân xung phong ào ạt vào căn cứ, sau bao lần đều bị đẩy lui bởi sức kháng cự mãnh liệt của những chiến sĩ Dù và sự yểm trợ của phi pháo. Sự kiên nhẫn của địch quân có giới hạn, chúng trở thành như điên cuồng lao đầu vào trước những mủi súng của quân ta, xác của những tên Cộng quân nằm la liệt ngoài những hàng rào phòng thủ, tan nát cháy đen vì đạn pháo binh cũng như bom napal của những chiếc máy bay khu trục. Tình trạng đạn dược lương thực nước uống cạn dần đến mức tối thiểu, nếu không được tiếp tế trong ngày hôm nay, Tiểu Đoàn 11 của Tr/T Nguyển Đình Bảo sẽ không còn phương tiện để chống trã sức tấn công liên tục của địch.
Từ ngày Cộng Sản khởi động cuộc chiến tại miền Nam, chiến thuật trực thăng vận đã được đem ra áp dụng lần đầu tiên trong lịch sữ chiến tranh thế giới. Trực thăng vận đã hoạt động rất hửu hiệu trong chiến trường du kích chiến. Nhưng chiến tranh càng ngày càng leo thang, địch quân được tăng cường và trang bị thêm nhiều vũ khí tối tân hạng nặng, đặc biệt nhất là vũ khí phòng không. Trực thăng với tốc độ chậm dễ bị phương hại và đã trở thành những mục tiêu dễ dàng cho những loại súng cỡ lớn từ 12 ly 7, 37 ly và đặt biệt là những hỏa tiễn cầm tay như SA-7. Sự tổn thất chiến trường của ngành trực thăng càng ngày càng lên cao. Mấy ngày hôm nay những phi vụ tiếp tế đã gặp nhiều khó khăn trở ngại vì rừng phòng không và những trái đạn pháo kích chính xác địch đã điều chỉnh sẵn nhắm vào bãi đáp trực thăng, tôi cảm thấy bất lực trước hỏa lực cũng như khả năng của chiếc trực thăng võ trang này để bảo vệ hữu hiệu cho những người bạn đồng hành.
Chiếc tàu tiếp tế số một của Tr/u Vân bắt đầu vào “final”. Triền núi trơ trụi vì đạn pháo bao ngày qua từ màu xanh cỏ ủa đã trở thành màu đất đỏ lồi lõm những hố đạn pháo. Ba điểm phòng thủ đồi Charlie đã xơ xác hoang tàn gần như thành bình địa. Trong cái im lặng của sự chờ đợi nghe ngóng của địch, tôi cảm tưởng như tất cả những trái đại pháo đang chờ con tàu mong manh nay đi vào ổ phục kích. Tôi cho chiếc guns Hổ một bọc sau đuôi cánh trái, chiếc Hổ hai bên cánh phải. Từ sau lưng trên cao nhìn xuống tôi theo dỏi chiếc trực thăng của Tr/u Vân chậm chạp hạ cao độ rồi từ từ đáp xuống trên vòng tròn nhỏ của bãi trực thăng, bụi đỏ bốc lên dưới sức gió của cánh quạt. Từ vị thế trên cao phía sau tôi nhìn xuyên qua cánh quạt trực thăng những người lính trên tàu đạp vội vã những thùng đồ xuống bãi… Bỗng trên bãi đáp không xa hai ba trái pháo nổ bung khói đen cùng bụi đỏ bốc lên đồng thời những tiếng súng nổ vang rền lên từ triền núi kế cận. Con tàu chậm chạp từ từ quay đầu lại chuẩn bị cất cánh, đồng thời trên tần số tôi nghe tiếng của Tr/u Vân đứt đoạn:
– Charlie… , Charl… lie, ground… fi..ire… , ground..fi..ire… tầu… trúng đạn…
Từ những mỏm núi trọc mênh mông, những viên đạn pháo không biết nơi xuất phát, những viên đạn phòng không từ nhưng hang hóc của những ngọn đồi kế cận bắn tới tấp hướng tàu của Tr/u Vân. Phản ứng tự nhiên, tôi cắm đầu con tàu phóng những trái rockets rải rác trên triền núi. Những trái hỏa tiễn nổ lốm đốm trên sườn núi, tung lên những đám bụi đỏ, yếu ớt vô hiệu quả trước kẻ thù đang ẩn nấp sâu trong hang hố đâu đó.
Sau khi tác xạ xong tôi quay vòng lại nhìn tàu của Tr/u Vân vừa lên cao. Trên tần số tiếng la hốt hoảng của Th/tá Phát đang bay chiếc C@C:
– Lead, lead… tàu bạn đang bốc khói nghe không trả lời ?
Tôi nhìn theo chiếc lead đang lấy cao độ khỏi triền núi, làn khói đen bốc lên từ buồng máy. Phi hành đoàn vẫn im lặng. Không khí căng thẳng đến tột độ.
– Lead, lead… tàu bạn bị cháy… đáp ngay… đáp ngay..dưới chân bạn có bãi đáp trống trên triền đồi dưới thấp.- Giọng nói của Th/tá Phát đồn dập.
Từ xa, cùng cao độ tôi thấy con tàu của Tr/u Vân lửa bắt đầu ngún lên thành ngọn bao trùm buồng máy. Lửa lan dần đến giửa thân tàu, hai người xạ thủ đang chồm về phía trước phòng lái… Tôi phụ họa:
– Đáp… đáp..tàu cháy.., tàu cháy… .đáp dưới chân đồi.., nghe không Vân.
Cố đem chiếc gunship đến gần cặp sát con tàu đang bốc lửa mỗi lúc mỗi cao, khoang tàu mịt mù khói đen thấp thoáng hai anh mê vô xạ thủ chồm về phía cockpit để tránh sức nóng.
– Đáp… đáp ngay… đáp xuống triền núi có Hổ cover đây… .nghe rõ trả lời
Nhưng con tàu không còn liên lạc được với thế giới bên ngoài, nó đang trở thành một khối lửa cuồn cuộn rơi như hòn đá cuội, chạm triền núi vỡ bùng lên… .Tất cả chỉ còn là một đống sắt cháy ngùn ngụt… Trong cơn hốt hoảng phi hành đoàn chỉ muốn bay xa khỏi tầm sát hại của địch mà không ước lượng được tình trạng thiệt hại của con tàu đến khi quá trể. Tôi cho con tàu lượn thấp xuống nhìn trong tuyệt vọng. Hai chiếc guns bay vòng tròn trên chiếc tàu bị nạn và sau đó được lệnh rời vùng, tôi ngoái đầu nhìn đám cháy vẩn mịt mù một lần cuối rồi chuyển hướng bay, nước mắt lưng tròng.
– Mãnh Hổ, đây Charlie… Bốn chiếc guns của hai phi đoàn bạn đã đến vùng, bạn dẫn năm chiếc vào mục tiêu.
Tôi ngước đầu nhìn, từ xa bốn chấm đen từng cặp một đang bay đến trên nền trời sẫm tối.
– Charlie, đây Hổ. Cho biết vị trí tác xạ chính xác. Tôi hỏi.
– Hổ đây Charlie. Hiện tại địch đã tràn ngập khắp mọi nơi, hai cao điểm thấp đã bị địch chiếm, chỉ còn đỉnh đồi Charlie đang còn giao tranh cận chiến. Bạn tự do oanh khích ngay trên căn cứ Charlie, nghe rõ trả lời… Tiếng Th/tá Bính vừa dứt trên tần số, tôi bàng hoàng không tin những gì mình vừa nghe được:
– Charlie đây Hổ, Th/tá muốn tôi đánh ngay vào đỉnh đồi?…
– Đúng năm…
Tiếng nói rõ ràng và khẳng định của C@C không còn làm tôi nghi ngờ gì nữa. Lần đầu tiên chứng kiến sự thất thủ của quân bạn ngay trước mắt. Căn cứ được đóng và bảo vệ bởi một lực lượng tinh hoa và kinh nghiệm nhất của QLVN/CH, đã từng chiến thắng bao nhiêu mặt trận, đã làm cho địch nhiều phen kinh hoàng khiếp đảm, giờ đây đang bó tay trước những đợt tấn công thí mạng của đối phương. Với sự hiểu biết hạn chế của một hoa tiêu trực thăng võ trang, tôi thường tự hỏi về chiến thuật của bộ chỉ huy khi để một đơn vị tác chiến như Nhảy dù sở trường trong việc tấn công và chủ động trong chiến trường phải đóng trụ tại một cao điểm. Thụ động chờ đợi địch là sở đoản của binh chủng Nhảy Dù, họ được huấn luyện để tấn công, không phải để giữ đồn. Trong giờ phút này không thấy bóng dáng của một chiếc khu trục trên bầu trời, chắc không cần thiết nữa. Quân bạn có lẽ đã dùng hết tất cả mọi khả năng yểm trợ, sáu chiếc trực thăng võ trang bây giờ chỉ còn là những vớt vát cuối cùng cố gây cho sự tổn thức tối đa cho địch trước khi chúng hoàn thành mục đích của chúng.
Lấy tần số của Charlie, tôi liên lạc được với bốn chiếc guns của phi đoàn bạn và tất cả sáu chiếc guns theo nhau đi vào vùng. Bầu trời đã tối lắm rồi, triền núi của ngọn Rocket Ridge mờ ẩn hiện sau nền trời đen xám. Từ trên cao độ tôi tiến gần vào mục tiêu, chỗ trủng thấp yên ngựa bãi đáp trực thăng cao điểm 960 là một trong ba cao điểm quen thuộc của cụm đồi Charlie, nơi mà Tr/U Vân và phi hành đoàn đã bị bắn, và lên theo triền dốc và phía Bắc và trăm bộ là cao điểm thứ hai 1020 đã bị địch chiếm, chỉ còn lại cứ điểm cao nhất 1050 Charlie do Tr/T Nguyễn Đình Bảo chỉ huy là đang còn giao tranh. Bay đến gần đỉnh núi cao vô tri giác đó tôi như đã cảm nhận được những trái lựu đạn đang chuyền tay nhau nổ tung trên những giao thông hào bể nát, những viên đạn súng trường bắn thật gần, những người lính Dù đan vật lộn với kẻ thù đông đảo, cố chiến đấu đến hơi thở cuối cùng…
Bây giờ sự chính xác của những trái rockets của sáu chiếc gunships không còn cần thiết nữa, tại bãi chiến trường này mảnh đất nhỏ hẹp nào cũng là mục tiêu. Sau khi thông báo cho những chiếc guns đang theo sau, tôi cho con tàu cỡ ngàn bộ trên đỉnh cao điểm cắm đầu xuống mục tiêu, những trái hỏa tiễn cháy bùng nối đuôi lao xuống đỉnh núi, theo sau những vệt lửa dài chạm đất nổ tung tóe lửa, khẩu minigun quay vù tuôn những viên đạn lửa nối đuôi nhau tạo một đường đỏ dài uốn éo trong ánh sáng mờ ảo. Theo sau những chiếc guns tuần tự phóng những trái rockets xuống đỉnh núi, những đốm lửa tóe lên bởi những trái rockets trong bóng đêm chập choạng như đánh thức rừng phòng không của địch. Chung quanh đỉnh đồi bỗng lấp lánh chấp chóa ánh sáng rực rỡ như cây Noel trong đêm Giáng Sinh, một rừng tên lửa đỏ lao về hướng những chiếc trực thăng đang cắm đầu xạ kích. Tôi la lớn trong tần số:
– Phòng không… phòng không… Break..Break… Break… .
Nói xong tôi kéo ngược con tàu lên cao, những viên đạng lửa bay vút hướng lên bầu trời đen như những vì sao xẹt. Không cần thiết phải có sự chính xác nữa, tôi thông báo cho tất cả hợp đoàn guns xử dụng tất những đạn dược, rockets còn lại một lần cuối trước khi rời vùng. Từ khoảng cách khá an toàn xa tầm bắn của những khẩu phòng không, tôi kéo con tàu nhổng đầu lên phóng những trái rockets bắn vòng cầu như đạn pháo binh, những trái hỏa tiển biến mất vào khoảng không gian mù mịt rồi rơi rớt rải rác trên đỉnh đồi tóe lửa. Những mũi súng cao xạ của địch tức thì phản ứng, từ triền núi lấp lánh ánh lửa phòng không , những viên đạn đỏ như mưa rào bay ngược về hướng những con tàu ẩn hiện trong bóng tối.
Tất cả đều vô nghĩa. Trận đánh đã ngã ngũ. Những con chim sắt đang cố gắng thi hành phi vụ cuối cùng trong vô vọng. Ngọn đồi mang tên Charlie không còn nữa, chỉ còn lại là dư âm của những trận đánh kinh hoàng trong ngày tháng qua. Những người lính dù đã anh dũng chiến đấu tới giây phút cuối cùng với vị chỉ huy anh hùng của họ, Tr/tá Nguyễn đình Bảo.
– Hổ đây Charlie, các bạn có thể trở về căn cứ. Thông báo cho tất cả biết trong vòng mười lăm phút nữa sẽ có phi vụ B-52 đến trải thảm bom. Các bạn hảy mau rời vùng.
Tiếng nói của Th/tá Phạm Bính lạnh lùng trên tần số.
Tôi quay đầu con tàu quay rời vùng giao tranh, những đốm lửa lập lòe trên ngọn đồi Charlie đang chìm dần vào bóng tối. Tr/u Nguyễn Tường Vân, Th/u Trần Văn Long và phi hành đoàn cùng tất cả những chiến sĩ Dù đã ở lại Charlie, mải mải… Xa xa, thành phố Pleiku đã lên đèn, một vùng ánh sáng lấp lánh, nhạt nhòa ẩn hiện, không biết vì đêm đen hay vì dòng lệ đã trào dâng lên khóe mắt ?
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đă bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi,
Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Văng vẳng đâu đây âm thanh ì ầm rung chuyển bầu khí quyển của từ thảm bom của những chiếc pháo đài bay B-52 vang vọng…
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN III: MẶT TRẬN KONTUM
Lời Người Viết:
Bài viết này đặc biệt tưởng nhớ đến Th/tá Đặng Đình Vinh đã ra đi vào vòm trời miên viễn ngày 8 tháng 5 năm 2008.
Xin nghiêng mình tưởng niệm trước những vong linh của những anh hùng đã bỏ mình trong mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa.
Ghi chú: Cấp bậc của những nhân vật trong bài viết không nhất thiết là cấp bậc cuối cùng của họ cuộc chiến tranh tại miền Nam.
Mở đầu:
Sơ lược mặt Trận Kontum
Ngày 24 tháng 4 hai căn cứ hỏa lực Tân Cảnh và Dakto II, nút chặn chiến
lược về phía Bắc Kontum đã mất vào tay Cộng Sản. Đại Tá Lê Đức Đạt vị
Chỉ huy trưởng đã bị hy sinh tại mặt trận, Sư Đoàn 22/BB hầu như tan rã,
một số chết, một số bị bắt làm tù binh và một số thất lạc. Hai căn cứ
Diên Bình và Zulu lần lượt rơi vào tay địch, trung tâm hành quân Dù tại
Võ Định phải triệt thoái dần về hướng Nam, thị xã Kontum là mục tiêu kế
tiếp của Bắc Quân đang trên đà chiến thắng. Theo như sự ước đoán của Bộ
Chỉ Huy Quân Đoàn II, thì chỉ một tuần sau khi chiếm được Tân Cảnh, địch
sẽ tấn công thị xã Kontum. Nhưng vì Sư Đoàn 320 và Sư Đoàn 2 của Cộng
quân đã bị tổn thất khá nặng trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ
Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn 22 BB, Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận
Tây Nguyên, cần thời gian để củng cố lại đơn vị cho đến hai tuần lễ sau
mới mở cuộc tấn công vào Kontum. Nhờ vậy, Quân Đoàn II đã có đủ thời giờ
để thiết lập vòng đai phòng thủ vững chắc bảo vệ Kontum.
Sư Đoàn 23/BB dưới sự chỉ huy của Đại Tá Lý Tòng Bá, đang trú đóng tại vùng Ban Mê Thuột và các tỉnh kế cận, được lệnh tăng cường cấp tốc thay thế SĐ 22 lập phòng tuyến bảo vệ Kontum. Vòng đai hình cánh cung ba mặt Tây, Đông, Bắc bao quanh chu vi thị xã Kontum được bảo vệ bởi ba Trung Đoàn tinh nhuệ nhất 44, 45, 53 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Mặt phía Nam của thị xã được giao cho lực lượng địa phương quân đảm nhiệm vì có sông Dakpla là một chiến hào phòng thủ thiên nhiên sẽ làm khó khăn hơn khi địch quân xâm nhập. Ngày 14 tháng 5, mặt trận Kontum bắt đầu. Thị xã Kontum đang đi vào một giai đoạn hổn loạn. Những trận đánh ngay vùng phụ cận ngoại ô đang tiến dần vào thành phố, đôi co giành dựt từng tất đất, ngôi nhà, từng con đường. Những chiếc pháo đài bay B-52 liên tục trải những thảm bom sát ngay phòng tuyến bạn ngoài hàng rào phòng thủ, thành phố rung chuyển như những trận động đất kinh hoàng.
Trong khoảng thượng tuần tháng 5/72 thị xã Kontum ở trong cao độ nhất của cuộc chiến 100 ngày. Quốc Lộ huyết mạch 14 nối liền hai thành phố Pleiku và Kontum đã hoàn toàn bị địch cắt đứt khi Cộng quân chiếm và đóng chốt ngọn núi Chu Pao nằm án ngữ cạnh con lộ. Kontum hoàn toàn cô lập, hơn ba mươi ngàn người dân, cả Kinh lẩn Thượng trong thành phố và vùng phụ cận đang sống yên lành bất thần đối diện với cuộc chiến lan tràn… Kontum ngụt ngàn bốc lửa… Thành phố hiền hòa miền Tây nguyên, với những đồn điền cà phê, những vườn chè xanh mướt trên những ngọn đồi thoai thoải, nhưng mảnh ruộng canh tác quanh ngoại ô, những buông Thượng bỗng chốc trở thành bãi chiến trường đẩm máu. Bầu không khí trong lành nay nóng bỏng đượm mùi khói súng cùng tử khí của những xác người thiêu cháy trong lửa đạn…
Chánh quyền bắt đầu mở cầu không vận giửa Kontum và Pleiku do Không Quân Việt Nam và Đồng minh Hoa Kỳ đảm trách. Cảnh thảm sát hàng trăm ngàn người dân vô tội của bọn Cộng Sản khát máu trong dịp Tết Mậu Thân trước đây vẩn còn in sâu trong lòng người dân, họ thất thần, cuống cuồng hốt hoảng chạy tìm phương tiện để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân càng ngày càng siết chặt. Tại sân vận động giữa thành phố, trong bụi mù và tiếng nổ đạn đại pháo, hàng ngàn người chen lấn xô đẩy nhau như nước tràn qua bờ đê vỡ, bất chấp những hàng rào Quân Cảnh đang cố giữ gìn trật tự, cố tìm đến gần những chiếc trực thăng đang bay lượm nườm nượp lên xuống. Tất cả hình ảnh của cuộc chiến Cao nguyên đã được phơi bày ra như một cuốn phim địa ngục trần gian.
o O o
– Trung Úy! Trung Úy! Mua xe Honda tôi bán rẻ… .
Đang đứng bên lề đường trước cổng trại Lôi Hổ B-15 với Th/úy Thạch, nguời hoa tiêu phụ, một người đàn ông cỡ trạc bốn mươi, ngừng sát bên tôi, trên chiếc xe Honda chở ba đứa bé
– Trung Úy mua dùm tôi chiếc xe này… xe còn mới lắm… Ngạc nhiên tôi trố mắt nhìn… Người đàn ông nhỏ thó đầu đội nón vải dù, khuôn mặt sạm nắng gầy guộc trong chiếc quần lính, và chiếc áo đã bạc màu..
– Anh nói sao? Tôi không hiểu… , anh muốn bán xe hả ?
– Dạ, mua dùm đi Trung Úy, tôi để rẻ.
Ầm… Ầm… Ầm… tiếng vọng của mấy trái đạn pháo kích nổ từ xa vang rền. Từ chỗ đang đứng tôi có thể nhìn thấy những cột khói đen vươn lên cao trên đầu thị xã Kontum.Người đàn ông quay đầu lại nhìn, nét mặt lo âu:
– Trung Úy giúp giùm… giá trăm ngàn, tôi để rẻ sáu chục… Ngần ngừ một lúc anh nói tiếp:
– Còn nếu Tr/úy chở giùm cho tôi và ba đứa con về Pleiku thì Trung Úy cho bao nhiêu cũng được… Không để người đàn ông chờ đợi lâu tôi trả lời dứt khoát:
– Không mua đâu anh à, tiền đâu mà mua… mà tôi còn phải đi bay hành quân tới chiều mới về Pleiku lận đâu có chở anh được. Nói xong tôi tò mò hỏi:
– Bà xã anh đâu rồi, không đi với anh à ? Người đàn ông ngần ngừ một lúc, cúi mặt xuống đất:
– Vợ tôi chết rồi… , “nó” bị trúng mảnh đạn pháo kích chết tuần trước. Giọng anh ta run run đầy xúc cảm. Tôi ái ngại nhìn anh, trên chiếc xe Honda đứa bé trai chừng ba bốn tuổi ngồi phía trước, đôi mắt đen tròn xoe ngơ ngác, tay ôm túi xách để trên bình xăng, hai đứa bé gái gầy ốm, xanh xao, khoảng sáu bảy tuổi, trong bộ đồ bà ba bông, ngồi ép sát vào nhau ôm cứng lấy bụng bố.
Ình… Ình… Mấy khẩu đại bác 105 ly từ trong căn cứ B-15 sau lưng tôi nổ vang… Trước mặt tôi, con đường nhựa chạy dọc ngoại ô thành phố, vắng người, thỉnh thoảnh vài chiếc xe nhà bình phóng vù nhanh trước mặt. Không muốn đi sâu vào hoàn cảnh thương tâm của anh ta tôi đổi đề tài:
– Anh nên chạy ra sân vận động đi… trực thăng Mỹ đang chở người về Pleiku đó… Anh ta không trả lời, ngoái đầu lại nhìn hướng về phía đường cái rồi rú ga, chiếc xe Honda rồ máy vọt nhanh. Hình bóng bốn cha con đèo bồng nhau trên chiếc xe biến dần dưới làn hơi nóng lung linh trên mặt đường nhựa đen.
– Tội nghiệp… Thạch lên tiếng, nếu mà đúng lúc buổi chiều đổ xăng về, thì mình chắc chở giúp anh ta về Pleiku được đó… Rồi Thạch nói tiếp:
– Tôi có nghe tin đồn có một số anh em “lợi dụng” cơ hội này, mua xe rẻ bây giờ mới thấy tận mắt… .
Nhớ tới đôi mắt khẩn thiết của người đàn ông và thái độ gần như năn nỉ van nài để bán chiếc xe cho tôi trong giây phút hỗn loạn, “bỏ của chạy lấy người” đã làm tôi phân vân tự hỏi, hành động mua xe của những người nào đó trong hoàn cảnh này có phải là một hành động “lợi dụng” hay cứu giúp người dân đang hoạn nạn ?Thình lình một chiếc trực thăng cất cánh bay vù sát trên đầu chúng tôi, mang phù hiệu Con Voi Thần Tượng, tiếng động cơ nổ ầm ỉ…
Oành… Oành… Oành… ba bốn tiếng pháo kích rớt gần trên đường cái, tôi và Thạch co giò phóng xuyên qua những căn nhà trong trại lính, chạy đến bãi đậu trực thăng phía sau.Chiếc trực thăng võ trang số hai đã quay máy, bụi mù bay tung, trên ghế bay, Tr/úy Phạm Chí Thành, đưa ngón tay cái ra dấu OK… Người mê vô đứng sẳn cạnh cửa tàu tôi đưa phụ chiếc áo giáp nặng chịch, tôi tròng vội vào người rồi phóng lên ghế bay. Thiếu úy Thạch đã cho tàu nổ máy. Con tàu trang bị hai bó rockets loại lớn với 12 ngàn viên đạn đại liên, ì ạch nặng nề là đà sát mặt đất, chạy một khoảng dài tàu mới vừa đủ sức lướt mình trên đầu hàng kẻm gai phòng thủ. Chiếc gun số hai đang nối gót theo sau…
o O o
– Charlie… đây Mãnh Hổ… . Tôi gọi chiếc C@C (Command @ Control ).
– Hổ… , quân bạn đang đụng trận tại đỉnh núi Chu Pao, cần sự yểm trợ của trực thăng võ trang, hai bạn theo tôi… sẽ có chỉ thị… . Trên tần số tiếng nói của Th/tá Đặng Đình Vinh.
Hai chiếc trực thăng lên cao độ, tôi quay đầu nhìn về hướng Bắc, thành phố Kontum đang un khói trong ánh nắng trưa gay gắt của một mùa hè đỏ lửa, những cụm khói đen bốc cao đây đó; phía dưới chân con sông Dakpla ngoằng ngoèo uốn khúc như con rồng nằm ngửa ôm ấp thành phố nhỏ miền cực Bắc Cao nguyên. Trong những ngày gần đây, lực lượng Cộng quân nổ lực tấn công vòng đai phòng thủ ngoại ô, nhiều phòng tuyến đơn vị bạn đã bị chọc thủng , một số đặc công đã len lỏi trà trộn vào nội thành mặc trên người quân phục đã lấy được từ những binh sĩ Sư Đoàn 22 thất thủ tại Tân Cảnh với ám hiệu như tay áo cuốn khỏi cùi chỏ, miếng vải trắng cột ngang tay… Sự kiện đó đã gây hoang mang và khó khăn cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II vì thành phố đang có rất nhiều binh sĩ của Sư Đoàn 22 chạy thoát từ mặt trận Tân Cảnh về thành phố chưa kịp trình diện Quân Đoàn.
Giai đoạn thượng tuần tháng 5, cường độ pháo kích của địch quân càng gia tăng, đặc biệt nhắm vào phi trường Kontum, cố vô hiệu hóa nguồn tiếp tế độc nhất vào thành phố bằng đường không vận, sau khi con đường huyết mạch QL-14 đã bị cắt đứt tại ngọn núi Chu Pao. Đáp đổ xăng tại phi trường Kontum là những giây phút hiểm nghèo và “rứt tim” nhất cho phi hành đoàn hơn cả những giây phút bay cao trên vùng hỏa tuyến.
Vào ngày 20 tháng 5, một phi cơ C-123 của Không Quân Việt Nam đang đậu trên phi đạo đã bị trúng miểng pháo kích, cháy tiêu rụi, may mắn phi hành đoàn đã thoát ra được an toàn. Cảm giác ngồi trên con tàu tại bãi đậu chờ đổ xăng trong khi trái đạn hỏa tiễn rót xuống bất cứ lúc nào đã làm cho thần kinh căn thẳng, nhứt nhối.
Một buổi trưa hè điển hình, phi hành đoàn năm chiếc của Thần Tượng sau một phi vụ bốc quân cho Trung Đoàn 44, về đáp phi trường Kontum đổ xăng. Những chiếc trực thăng sắp hàng ngang tại bải P.O.L ( Petrol-Oil-Lubrication ) cánh quạt được duy trì với tốc cao đa sẵn sàng để cất cánh. Từ trong phòng lái tôi có thể nhìn thấy hai chiếc trực thăng Võ Trang Cobra của Mỹ bị đại pháo 122 ly làm hư hại nằm gần đấy. Đang ngồi “thủ” cần lái trên ghế bay để cho anh co-pilot đứng chân trên chân dưới trên càng tàu ” xả nước”, trong khi anh mê vô cũng đứng trên càng tàu, một tay vịn cánh cửa một tay cầm vòi đổ xăng, bất chợt âm thanh của những tiếng “rít” kinh hoàng xé nát không gian…
Oành… Oành… Oành… ba bốn trái pháo rơi tới tấp gần đó, bụi bay ngập trời. Năm chiếc trực thăng vội vã cất cánh bay tứ tán như đàn ong vở tổ, anh hoa tiêu phụ tôi nhảy thót lên ghế bay chưa kịp kéo “fermeture” quần. Ở cuối phi đạo một chiếc C-130 phơi xác cháy xém, một bên cánh gãy lìa. Mấy hôm trước đây, chiếc C-130 của Không lực Hoa kỳ đang “un-loaded” những kiện hàng trên đầu phi đạo thì bị hai trái hỏa tiễn 122 ly nổ sát bên. Người hoa tiêu Mỹ “hốt hoảng” tống ga cất cánh khi tấm bửng sau đuôi tàu ( Cargo Bay Door ) còn đang mở rộng, con tàu bị triệt nâng (?) không đủ sức rời mặt đất chạy lố ra khỏi phi đạo, một bên cánh bay chém vào một tòa nhà bốc cháy, chỉ có hai nhân viên phi hành đoàn sống sót…
Bay được hơn mười phút, hai chiếc trực thăng võ trang đã đến vùng hành quân. Ngọn núi Chu Pao sừng sững phía Đông nhìn xuống con Quốc lộ-14. Tôi nghiêng tàu nhìn xuống, vài chiếc xe hàng bị trúng đạn B-40 nằm cháy bên đường, những xác người rải rác kế bên. Từ trên cao hơn bốn ngàn bộ tôi có thể trông xuống con đường nhựa đen ôm sát chân núi Chu Pao, chạy dài lên hướng Bắc, giữa những cánh rừng xen kẽ những đám rẩy đủ màu, không một bóng dáng của một sinh vật, con đường huyết mạch này đã trở thành một tử lộ. Cuối tháng 4, một lực lượng cấp Trung Đoàn địch bất ngờ tấn công và đánh bật đơn vị Biệt Động Quân đang phòng thủ trên đỉnh Chu Pao. Chúng đào hầm hố, bám trụ, đóng chốt rải dài trên những triền núi chạy vài cây số dọc theo con lộ, với đủ các loại vũ khí phòng không, đại bác 75 ly không giật, súng cối cũng như B-40, mục đích tử thủ vị trí chiến lược này với bất cứ giá nào.
Được sự yểm trợ tối đa của Không Quân và Pháo binh, Bộ Binh và Thiết giáp đã tấn công dữ dội các chốt kiên cố của địch trên đỉnh núi. Sau hơn tuần lễ giao tranh các đơn vị của địch vẩn cố thủ bám trụ. Bổ Chỉ Huy Quân Đoàn II bắt đầu mất kiên nhẩn. Đ/tá Lý Tòng Bá Tư lệnh SĐ/23 đã ra lệnh phải lấy lại quyền kiểm soát con lộ với mọi giá. Đ/tá Tường, Tham Mưu Trưởng QĐ II, đã treo giải thưởng 1/3 tiền lương của mình cho người lính nào trong đơn vị phá vỡ được ổ phòng không 51 ly của địch đặt trên đỉnh núi đã thường xuyên bắn vào những chiếc phi cơ bay gần đó. Cho tới ngày hôm ngay, cuộc hành quân tái chiếm ngọn Chu Pao để khai thông quốc lộ vẩn dừng chân tại chỗ. Đoàn xe tiếp viện bổ xung cho lực lượng phe ta vừa tới dưới chân núi thì bị hàng loạt đại bác, súng cối và các loại súng của địch từ trên đỉnh Chu Pao tác xạ tới tấp, mấy chiếc xe chạy đầu trúng đạn bốc cháy.
Ở cao độ nhìn xuống tôi có thể thấy QL-14 được Công Binh khai quang sạch sẽ rộng ra cả trăm thước dọc theo hai bên đường để gia tăng an ninh, làm khó khăn hơn cho địch trong những cuộc phục kích những đoàn xe chạy .Trên con lộ này một tai nạn máy bay vô nghĩa đã giết chết một cố vấn cao cấp nhất Hoa Kỳ của Quân Đoàn II, ông John Paul Vann, vị sĩ quan Trung Tá Bộ Binh đã giải ngũ. Ông John Paul Vann là một huyền thoại trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa, một người có quyết định cho tất cả mọi không yểm của Không Quân Hoa Kỳ, và đặc biệt nhất là những phi vụ của Pháo đài bay B-52 từ căn cứ ở Thái Lan.
Nghe nói rằng ông John Paul Vann có một người bạn gái Việt Nam mà ông rất yêu thương. Ông đã có lần tâm sự với những người thân cận rằng, sau cuộc chiến Cao nguyên này ông sẽ làm đám cưới với nàng và ở lại Việt Nam cho hết cuộc đời còn lại. Bởi vậy sự hăng say và nhiệt thành của ông trong công việc đã làm cho mọi người cảm tưởng rằng ông đang say mê phục vụ cho quê hương Việt Nam của chính ông chứ không phải phục vụ cho quốc gia bạn dưới chức vụ cố vấn.
Nhiều người đã nói về sự gan dạ của ông trong những chuyến bay một mình với người co-pilot trên chiếc máy riêng, OH-58 Bell Ranger. Ông đã dùng phương tiện riêng này để bay những phi vụ mà dưới mắt những người thân cận coi như là “crazy” hoặc quá liều lỉnh và mạo hiểm (daredevil) cho một người đang giử một chức vụ quan trọng như ông. Ông Vann đã từng bay vào vùng lửa đạn trong chiếc trực thăng nhỏ bé đó để điều khiển không yểm, thả đồ tiếp tế trên những căn cứ hỏa lực (FBS) bị vây hảm. Đặc biệt trong một phi vụ chính tay ông đã đáp bốc vị cố vấn Hoa Kỳ, Ðại Tá Philip Kaplan của Sư Đoàn 22 BB khi căn cứ Tân Cảnh bị tràn ngập trong đêm khuya, ngay sau đó ông đã bị bắn rơi tại Dakto II và được giải cứu bởi một trực thăng của KQ Hoa Kỳ.
Định mệnh khắc nghiệt đã cướp đi cuộc đời một vị cố vấn quan trọng của Quân Đoàn II xảy ra vào ngày 9 tháng 6 năm 72, trong một đêm tối mù sương… Sau khi tham dự buổi tiệc tiễn đưa Tướng John Hill trở về Mỹ, khoảng 9 giờ tối, ông Vann cất cánh từ BCH Quân Đoàn II hướng về Kontum trên chiếc OH-58 với hoa tiêu phụ và một Đ/úy Bộ binh. Sau 15 phút bay, Bộ chỉ huy Sư Đoàn 23 nghe tiếng của ông Vann gọi về báo cáo thời tiết rất xấu ông phải bay cao độ thấp dọc theo QL-14. Đó là lần cuối cùng mọi người nghe tiếng ông trên tần số. Sáng hôm sau xác chiếc trực thăng OH-58 tìm thấy cháy giữa một đám cây cao gần sát bên đường nơi mà người địa phương đã lập một cái Miểu thờ từ trước. Theo sự suy luận của giới thẩm quyền thì có lẽ ông Vann vì sương mù cũng như trần mây quá thấp, ông đã bay theo dọc con đường và đâm tàu vào đám cây sát bên đường có dựng một cái Miểu thờ. Éo le thay, khi công binh khai quang hai bên đường thì đám cây có cái Miểu thờ đó được ông Vann đồng ý cho để lại để tỏ ra sự kính nể truyền thống và tập tục của người địa phương và chính đám cây đó đã giết chết ông và hai người nữa trên tàu.
o O o
– Charlie… Hổ đang ở cao độ phía Tây tọa độ mục tiêu… Xin chỉ thị…
– Hổ bay vòng chờ phía Tây chờ đi… Mấy phi tuần khu trục đang oanh kích yểm trợ quân bạn xong… . Hổ sẽ vào… Bay chiếc tàu chỉ huy hôm nay là Th/tá Đặng Đình Vinh, biệt đội trưởng 215 tại Pleiku. Th/tá Vinh có thể nói là một trong những vị niên trưởng mà tôi gần gủi nhất trong phi đoàn Thần Tượng. Anh là một người phi công tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, không những là về khả năng chuyên môn mà về cả tính tình của anh, can đảm, ngang tàng, phóng khoáng và hào hoa phong nhã…
Nha Trang là quê hương của anh Vinh và tôi. Ngoài những giây phút hiểm nghèo, sống chết trên mặt trận, chúng tôi đã chung chia vói nhau rất nhiều kỷ niệm sau những giờ phút bay bổng ở những nơi có ánh đèn màu nhấp nháy, tiếng nhạc chập chùng, chén anh chén tôi bên cạnh những người em gái vui vẻ dễ thương, để quên đi những gian khổ đã qua và những hiểm nguy sẽ tới. Trong thời gian biệt phái mùa hè đỏ lửa này, lúc những canh bài xập xám “giải trí” tại biệt đội đã lột tôi không còn một đồng xu dính túi, anh đã “cưu mang” chia xẻ với tôi những điếu thuốc lá, những ly cà phê tại câu lạc bộ Không Đoàn hay những bữa cơm ngoài “phố núi mù sương, đi dăm phút đã về chốn cũ”… Tôi còn nhớ rõ một sự kiện đáng tiếc đã xảy ra trong thời gian biệt phái đã nói lên tình đồng đội của anh Đặng Đình Vinh đối với anh em. Sau một ngày hành quân ròng rã, tôi, anh Vinh và Th/úy Thạch “nhí”, một hoa tiêu trẻ và rất “hippy” cùng nhau đến club Phượng Hoàng để giải trí. Trong lúc vui chơi, có một nhóm quân nhân đã hơi quá chén có những thái độ sỗ sàng với một người bạn gái của chúng tôi. Dĩ hòa vi quý tôi cố làm ngơ, nhưng những hành động “ngứa mắt” đó vẩn tiếp tục. Máu huyết tôi sôi sục. Đọc được tâm trạng tôi, anh Vinh ghé tai tôi nói nhỏ:”Mày kêu tụi nó ra ngoài nói chuyện, tao sẽ theo mày, đừng để tụi nó làm quá như vậy”. Tôi liền đứng dậy đến bàn nhóm người đang ồn ào say sưa, vỗ vai một anh to mồm nhất đám, bảo anh ra ngoài có chuyện muốn nói. Ba người trong bàn đồng loạt đứng dậy, tôi bước đi trước, Th/tá Vinh và Thạch “nhi’ ” đứng dậy đi sau cùng. Không biết tôi sẽ xử trí như thế nào khi ra tới ngoài trong khi túi áo bay tôi đang mang khẩu súng P-38 đầy đạn. Nhưng may mắn thay, mấy anh lính ngang ngược đó đã đổi thái độ khi ra tới cửa. Sau một đôi lời phân trần của họ, chúng tôi bắt tay nhau và trở lại bàn ngồi trong tình “huynh đệ chi binh”. Câu chuyện đáng tiếc nhỏ nhặt này đã nói lên tình nghĩa của một vị đàn anh, “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, và càng làm tôi gần gủi anh hơn.
– Hổ một Charlie gọi… , mục tiêu của gunships hôm nay là yểm trợ và tiêu diệt chốt đóng trụ của địch. Quân bạn cần nhổ cái chốt này với bất cứ giá nào… hiện tại đang dậm chân tại chỗ ngang lưng chừng núi. Khu trục không thể đánh chính xác được vì địch quá gần quân bạn… Hai Hổ quay lại vùng đi…
Đang bay vòng chờ trên cao, nghe tiếng Th/tá Vinh trên tần số, tôi sửa lại chiếc áo giáp đè nặng lên đùi, kiểm soát tất cả đồng hồ phi cụ một lần cuối rồi hướng vào vùng oanh kích.
– Charlie… Hổ sẵn sàng… -Sẽ có một trái khói đỏ ngay lưng chừng đỉnh núi đánh dấu vị trí quân bạn. Trên cao khoảng năm chục mét là vị trí đóng chốt của địch. Bạn sẽ đánh cách trái khói năm chục mét lên tới đỉnh… nghe rõ…
Một cụm khói đỏ bắt đầu vươn lên ở lưng chừng sườn núi rồi lan rộng trên những tàng cây rậm rạp… Trên triền núi dốc cao xen kẽ những khoảng đất đá cháy đen vì bom hay đạn pháo binh. Chốt đóng trụ của địch nằm lẫn lộn giữa những tảng đá lớn, trong những hang hốc đào sâu trong núi.
Ở cao độ ngang với đỉnh núi tôi cắm mũi con tàu, những trái rockets nối đuôi nhau lao vào mục tiêu. Tiếng nổ ầm vang từ triền núi, những bụi mù và khói xám bốc lên… Tôi kéo ngược con tàu quay lại 180 độ, chiếc Hổ Hai theo gót cắm đầu lao xuống, những trái hỏa tiễn nổ lốm đốm… Âm thanh của những khẩu súng bắn trả của địch nổ rang, đồng thời với những điểm sáng nhấp nháy từ những khẩu cao xạ đặt giữa những mỏm đá ngang lưng đồi.
– Hổ… .quân bạn báo cáo địch đang nhắm bắn hai tàu trực thăng võ trang, coi chừng đừng vào gần quá… Th/tá Vinh nhắc nhở…
Sau vài vòng tác xạ, tôi ghi nhận khả năng của những trái hỏa tiễn của hai chiếc võ trang này sẽ không đủ sức tiêu diệt sức kháng cự của địch quân trong những công sự đào sâu vào núi đá kiên cố mà chúng đã cố thủ trong nhiều ngày qua. Để tránh những mũi súng phòng không đang lăm le chực sẳn hai con tàu chậm chạp này, tôi đổi chiến thuật. Hai chiếc guns sẽ tấn công địch từ chân đồi trên đầu quân bạn, đánh lên, tránh những khẩu cao xạ cỡ lớn đặt trên sườn núi không chỉa mũi súng bắn xuống dưới được. Dưới chân núi những “con cua” sắt M-41 cùng những thiết vận xa M-113 đang sắp hàng ngang dọc theo bìa rừng, chỉa súng hướng về phía sườn núi, án binh bất động. Trên con đường nhựa, vài chiếc xe quân xa bị bắn cháy đen, vài xác chết nằm rải rác…
Bay từ phía Tây, băng qua con Quốc lộ, tôi ngước đầu nhìn mục tiêu trên sườn núi rồi kéo đầu con tàu lên bắt đầu bắn những trái hỏa tiển cuối cùng còn lại trong dàn phóng… Hàng trăm tiếng nổ đủ loại từ những họng súng của địch bắn trả vang rền. Thình lình tôi nghe hai tiếng “bụp, bụp” khô khan, như một vật cứng chạm vào thân tàu. Tôi quay qua hỏi người hoa tiêu phụ:” Có nghe gì không Thạch ? Hình như tàu mình bị trúng đạn đó… ?”. Thạch ngồi im bất động bên ghế trái im lặng không trả lời, đang chăm chú dán mắt vào những chiếc đồng hồ trên “cockpit” trước mặt, tất cả những chiếc kim màu trắng trên mặt đồng hồ phi cụ vẩn đang ở trong vạch màu xanh, tiếng động cơ vẫn nổ đều đặn.
– Charlie đây Hổ gọi… Hổ Một có thể bị trúng đạn “ground fire”… Sẽ báo cáo tình trạng sau khi đổ xăng và “re-load” rockets… -Nghe năm… Charlie “hold” chờ trên vùng… Lúc nào Hổ trở lại thông báo… Hai con tàu quay hướng trở về Pleiku… Giao cần lái cho Thạch, tôi lui cui móc điếu thuốc ra hút. Bổng thoang thoảng đâu đây tôi ngủi thấy một mùi khen khét phản phất trong không khí. Tôi liên tưởng tới viên đạn và tiếng động chạm vào tàu khi đang xạ kích. ” Trong tàu ai hửi thấy mùi gì cháy không?” Tôi vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn tất cả mọi người, hai anh mê vô và xạ thủ nhìn nhau không trả lời. Mùi khét càng rõ rệt hơn… Tim tôi đập mạnh… Cảm giác con tàu bị bắt lửa cháy trên không trung có lẽ là một cảm giác kinh hoàng nhất của những người đã từng cầm cần lái. Bỗng dưng Th/úy Thạch quay qua chỉ vào lưng tôi. Áo giáp sau lưng tôi đang ngún cháy… một làn khói trắng đang bốc lên, lưng tôi có cảm giác nóng như ai dí bàn ủi nóng vào da… Tôi vội vã giật phăng “seatbelt”, tháo chiếc áo giáp liệng vội ra sau sàn tàu. Anh mê-vô lanh trí, mở bi đông nước trà chế lên lưng áo dập tắt ngọn lửa… Một tàn lửa từ đuôi của chiếc hỏa tiễn phóng đi đã chui lọt vào sau lưng chiếc áo giáp tôi lúc nào không hay, ngun ngún cháy lớp bông độn bên trong… Giây phút xao động đã qua, tôi đã lấy lại được quân bình, nhìn lại thấy hai mê vô xạ thủ đang nhe răng cười, chọc quê…
Phi trường Cù Hanh xa xa trước mặt, căn cứ Pleiku đang nằm im lìm sưởi nắng hạ miền Cao. Gió lộng vào khung cửa nhỏ, tôi dựa vào lưng nghế nghỉ sau thời gian căng thẳng mệt mỏi, điếu thuốc trên tay, làn khói trắng quyện bay tan loảng vào khoảng không gian nhỏ hẹp của căn phòng lái quen thuộc này như đã dính liền vào đời tôi. Bao nhiêu hiểm nghèo gian khổ đã trải qua nhiều nhưng tôi cũng đã được đền bù xứng đáng với những cảm giác cao độ, những hạnh phúc chất ngất trên vòm trời cao, thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Tôi phải làm và đã làm những gì cần làm của một người trai thời loạn, như bao nhiêu người trai hùng khác cùng thế hệ. Cuộc đời của người hoa tiêu, mạng sống như chỉ mành treo chuông, những cái sống cái chết đến bất chợt, không báo trước, tương lai chỉ là hiện tại, thi hành những gì đã được giao phó, phần còn lại là số mệnh. Tôi sống nhưng không suy tư, tận hưởng những gì có thể có trong ngày hôm nay. Với quan niệm đó đôi lần đã đưa tôi vào những hành động liều lỉnh, quá đáng, đôi khi có thể nói vượt ra ngoài cương kỷ của một hoa tiêu…
Rít mạnh hơi thuốc lá vào lồng ngực, vị đắng của hơi thuốc thấm vào cơ thể, ngây ngất , tôi mơ màng đưa mắt nhìn vùng núi rừng phơi bày trước mắt. Những giây phút được xỏa cánh bay cao như cánh chim trên bầu trời xanh để được ngắm nhìn giang sơn cẩm tú của quê hương này thật là vô cùng quý giá. Bên dưới mặt Biển Hồ êm ả nằm cạnh con QL-14, một danh lam thắng cảnh cũng là một hạt ngoc quý của vùng Cao nguyên đất đỏ. Biển Hồ trước đây là một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động cách đây hàng triệu năm, là một huyền thoại của một buông Thượng tên Tơ-Nưng xưa kia thơ mộng và trù phú. Có một hôm bị núi lửa đổ ập vào vùi lấp, tất cả những người còn sống sót đã thương tiếc và khóc mãi không nguôi. Nước mắt tiếc thương đó đã chảy xuống ngập thành hồ, từ đó hồ được gọi là Biển hồ Tơ Nưng để nhớ đến ngôi làng xưa đó. Nói đến Biển Hồ ta không thể nào không nhắc đến núi Hàm Rồng, một ngọn “hải đăng” của những hoa tiêu trực thăng trên đường trở về căn cứ thành phố “em Pleiku má đỏ môi hồng… ” Hàm Rồng là một miệng núi lửa phía Nam bên kia thành phố, đối xứng với Biển Hồ như âm và dương, và còn thường được anh em phi hành gọi đùa là “Núi L… ” vì hình thể không chối cãi được của nó.
Con tàu hạ dần cao độ, bải nhiên liệu và đạn dược nằm sau lưng Quân Đoàn II. Đậu con tàu gần những “conex” để lấy thêm rockets. Nơi đây có đủ loại, đầu nổ thường (High explosive Warhead ), đầu nổ chống chiến xa (Anti-Tank Warhead , đầu nổ lân tinh (White phosphorous Warhead), đầu nổ đinh (Fletchette Warhead) chất đầy tận nóc. Tôi chỉ thị cho hai người mê vô xạ thủ “load” loại đầu đạn fletchette. Đây là loại hỏa tiễn đáng sợ nhất đối với Cộng quân, chuyên dùng để chống biển người. Mổi đầu đạn có gần 3 ngàn chiếc đinh thép, hình giống như những mũi phi tiêu nhỏ, dài cỡ hai inches. Sau khi hỏa tiễn được phóng ra khỏi bó rocket với vận tốc gần như siêu thanh trong 2 giây đầu tiên, đầu nổ thứ hai sẽ kích hỏa cách mặt đất chừng vài trăm bộ phóng mấy ngàn cây đinh nhọn xuống đầu địch với tốc độ nhanh gấp đôi, đồng thời tỏa ra một cụm bụi đỏ đánh dấu vị trí khởi điểm của những mũi tên thép.
Sau chừng nửa tiếng hai chiếc tàu võ trang của Thần Tượng đã trở lại chân núi Chu Pao. Mặt trời đã chếch bóng phương Tây, những tia nắng trưa hè vẫn còn gay gắt chiếu rọi thẳng xuống mặt sườn núi.
-Charlie, Hổ đã đến vùng… Chiếc C@C đang bay vòng cao tít trên trời xanh.
– Hổ vào đi… Quân bạn vẫn còn tại vị trí cũ…
– Báo với Charlie Hổ trang bị rockets đinh, chống biển người…
– Đầu đạn fletchettes… ? Giọng nói của Th/tá Vinh có vẻ ngạc nhiên… , không được đâu, coi chừng tụi mày sẽ giết luôn quân bạn đang bám sát đó…
– Không sao, … Charlie yên chí… tôi chỉ xin yêu cầu quân bạn rút phòng tuyến xuống dưới chân núi chừng năm chục mét là được rồi… nghe không trả lời ?… .
– Chờ đi… để tao liên lạc với Bộ binh đã…
Tôi kéo con tàu về xa hướng Tây bay vòng chờ… Tất cả những chiến thuật cũng như tiềm năng hạn hẹp của chiếc trực thăng võ trang này đã được tận dụng. Bảy mươi sáu trái rockets đinh của hai chiếc Mảnh Hổ này là nguồn hy vọng cuối cùng của tôi.
– Hổ… Charlie… , quân bạn đồng ý… , lúc nào thấy trái khói đỏ đánh dấu là Hổ có thể đánh được rồi. Kiểm soát lại tất cả phi cụ một lần cuối, bên cạnh Thạch đang ngồi im lặng nét mặt khẩn trương, phía sau Hổ Hai đang theo trong vị thế tác chiến. Tôi nhìn mặt trời và điểm đóng chốt của địch trên lưng chừng núi, con đường vô hình chênh chếch tôi ước lượng khoảng 45 độ, đó sẽ là trục đánh của hai chiếc trực thăng. Mặt trời sẽ ở trên cao sau lưng con tàu, chói xuống mắt địch thật vô cùng thuận lợi cho chúng tôi.
– Hổ vào đi, trái khói thả rồi…
Ngọn núi Chu Pao sừng sững dưới bầu trời trong, hứng trọn ánh mặt trời gay gắt từ phương Tây. Cụm khói màu đỏ của quân bạn đang tỏa cao trên đầu tàng cây xanh. Trên cao nhìn xuống tất cả như án binh bất động, im lặng… , cái im lặng của sự rình rập, đợi chờ, căng thẳng mưu toan của địch quân… Hai chiếc trực thăng võ trang bắt đầu lao xuống mục tiêu. Tay nắm chặt cần lái, mồ hôi từ chân tóc trên nón bay rịn chảy xuống trán, mỏm núi đá lởm chởm hiện lên trên hồng tâm của máy nhắm, mười mấy trái rockets hối hả thi nhau rời dàn phóng… xoẹt… xoẹt… xoẹt… .Trước khi chạm đất, những trái rockets kích hỏa lần thứ hai tạo nên những tiếng nổ phụ “bụp… bụp… bụp… ” tống đi hàng chục ngàn mũi tên thép nhỏ xuống mục tiêu. Những cụm bụi đỏ hồng nở bung thành những đám mây nho nhỏ lơ lững treo trên đầu địch. Những tiếng nổ bắn trả của địch liên hồi nổ rền vang khắp triền đồi… .Chiếc Hổ Hai theo sau, cắm đầu… xoẹt… xoẹt… mười mấy trái hoả tiễn chống biển người lao vào trên đầu mục tiêu, hàng chục ngàn mũi tên thép lại tiếp tục mưa xuống công sự phòng thủ, những mỏm đá, hóc núi, xuyên qua những cành cây, qua những tấm thép, qua nón sắt, qua những thân người ẩn núp đâu đó… Tiếng súng bắn trả của địch quân ngưng bặt, còn lại một vài tiếng nổ nhỏ rời rạc…
– Hổ… Charlie, quá đẹp… Quân bạn đang theo dõi tụi mày đó… .Ngay “target”… Hổ làm một chuyến nữa đi… Không trả lời tôi vòng lại. Hình như địch đã “thấm đòn”, tôi không còn nghe tiếng bắn trả nữa… Tất cả rockets và đạn dược đã được xử dụng. Bộ Binh bắt đầu xung phong tấn công lên những chốt đóng trụ của địch… -Hai Hổ có thể trở về lấy thêm đạn dược trở lại vùng “stand-by”, nghe rõ… trả lời… Th/tá Vinh ra chỉ thị…
Hai chiếc guns kéo nhau về hạ cao độ xuống đáp bãi nhiên liệu sau lưng Quân Đoàn II. Bãi nhiên liệu được vây bọc bởi những hàng dây điện cao thế treo ngang trên những cột cây gỗ ngâm dầu đen là một trở ngại cho những chiếc tàu võ trang nặng nề của chúng tôi . Ở vùng cao nguyên không khí loãng lại thêm cái nóng mùa hè, những chiếc tàu gunships đã nặng nề lại càng chậm chạp hơn nữa. Trong một lần đổ xăng, con tàu trang bị hai bó rockets lớn và đạn dược đầy trong lúc cất cánh, hai cái càng chiếc máy bay của tôi suýt móc vào hàng dây điện cao thế này. Còn anh bạn Hổ Hai của tôi, Thành “râu” đã táo bạo cất cánh chui dưới hàng dây điện này, chong chóng đuôi đã chặt đứt sợi dây điện to bằng ngón tay rơi xuống bải cỏ khô, xẹt lửa cháy lan vào gần bãi nhiên liệu. Báo hại bửa đó nhân viên quản trị kho vũ khí bị một phen hú vía… Riêng anh bạn Hổ Hai của tôi được Phi đoàn trưởng “ưu ái” ký tặng cho 7 ngày tù ( hình phạt chỉ ghi trong hồ sơ, chứ không thực sự thi hành. Kể ra cũng dễ hiểu. Nhốt tù pilots rồi thì ai bay giết mấy tên Vẹm ? )
– Hổ… Charlie gọi… -Nghe năm… Đang đổ xăng tôi vội trả lời..-Hổ khỏi lên vùng lại. Về biệt đội đáp, tắt máy nghỉ luôn, xong ngày hôm nay… Hổ… Bộ binh đã nhổ được chốt của tụi nó rồi. Đếm gần hai mươi xác chết ghim đầy đinh sắt… Bộ chỉ huy có lời khen… … Hổ.., mấy thằng xạ thủ phòng không đứa nào cũng bị siềng chân vào khẩu súng, không chạy đi đâu được… Chiều về tao sẽ kể thêm cho nghe… Tôi không trả lời, trong lòng hứng khởi… Một ngày nữa trôi qua không biến cố…
o O o
Gần mười giờ sáng, phi trường Cù Hanh có vẻ bận rộn , nhiều xe cộ chạy qua lại hơn bình thường. Trên những con đường nhựa trong căn cứ thấy xuất hiện nhiều xe quân xa của Bộ Binh, những đơn vị bạn được gủi đến tăng cường làm việc cho căn cứ.
Hôm nay tôi được nghỉ, chỉ tình nguyện bay một phi vụ nhẹ nhàng buổi trưa là bới cơm lên vùng cho anh em đang hành quân. Tôi và Th/úy Thạch rủ nhau lên Câu lạc bộ Không Đoàn ăn sáng. Trong phòng ăn của KĐ, nhộn nhịp những người, từ những phi công trong bộ đồ tác chiến của đủ các phi đoàn khác nhau, đến những nhân viên làm việc trong phi trường hay những quân nhân bạn đủ mọi binh chủng… .Kéo ghế ngồi xuống bàn, sau khi gọi thức ăn sáng, Thạch mở lời với tôi:
– Anh có nhớ hôm kia mình tàu mình bị hai viên AK-47 tại núi Chu Pao không? Nhìn ở ngoài không thấy gì cả vậy mà mình suýt chết đó ?
– Tại sao vậy… , sau lúc đó mình bay cả nửa tiếng đồng hồ có sao đâu ? Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Thì đúng rồi… vì viên đạn nó chui ngang bụng tàu, xuyên qua cái “rod control” nối với “cyclic” ( ống nối tay lái với cánh quạt ) đứt gần 2/3, còn dính lại một chút à… Kỷ thuật báo cho tui nghe đó… Nếu nó đứt luôn thì tàu hết lái được… May quá !…
– Số cả bạn ơi… Trời kêu thì dạ… lo chi… À… .nghe nói hôm nay hợp đoàn của mình biệt phái làm việc cho Trung Đoàn 45 phải không ? Tôi đổi đề tài.
– Hình như vậy… Lúc xưa tụi mình đã làm việc với Trung Đoàn này hoài à… anh nhớ lúc họ còn đóng tại Nhơn Cơ, Gia Nghĩa không ? Thạch trã lời. -Nói đến Trung Đoàn 45 này, tôi còn nhớ một chuyện để tôi kể cho bạn nghe, rất tiếu lâm… Nghe cho vui đừng kể lại với ai làm chi nghe… Trước đây gần một năm, trong một phi vụ từ Nha Trang lên làm việc cho Trung Đoàn 45 đóng tại Nhơn Cơ, Gia Nghĩa. Trung Đoàn trưởng lúc đó nếu tôi không lầm là Trung Tá Quang, một vị chỉ huy tài giỏi và rất “chịu chơi”.Một buổi sáng đẹp, trời trong mây trắng, tàu chỉ huy của Đ/úy Tích đã bay trước đó vài phút, tôi bay chiếc Hổ Một, theo sau chiếc Hổ Hai Tr/úy Sơn, tự Sơn “Mực”. Người hoa tiêu phụ cho tôi là Tr/úy Tiêu Hạnh, một sĩ quan văn thư của phi đoàn có khuôn mặt bầu bỉnh, hai đôi má phính đỏ ửng mụn trứng cá. Thường thường anh Hạnh chỉ ở nhà lui cui lo ba việc sổ sách của phi đoàn mà bữa nay lại xin bay guns, chuyện thật lạ lùng. Con tàu đang ở trên rừng già Gia Nghĩa, tôi thì ngồi trên ghế bay nhìn trời nhìn đất bỗng kế bên vũng nước thấy một con nai “chà” đang đứng im không động đậy. Một tư tưởng thoáng qua trong đầu:” Hay là mình bắn con nai chà này tặng Tr/tá Quang cho anh em binh sĩ ăn?”
Nghĩ đến Đ/úy Tích đang bay chiếc chỉ huy, tôi lưởng lự giây lát, anh là một người hoa tiêu khuôn khổ, kỷ luật, ít khi ra ngoài cương kỷ. Trong giây phút này tôi phải có quyết định gấp, con nai không thể “kiên nhẩn đứng chờ” tôi mãi.Tôi dọ ý anh hoa tiêu phụ :”Nè… , bạn thấy con nai “chà” đang đứng dưới trảng không? Bự quá trời… , mình đem biếu Tr/tá Quang cho lính ăn thì hay biết mấy.”” Ông muốn làm thì cứ tự nhiên làm đi… có sao đâu, phe ta cả mà!” Nghe Hạnh nói tôi như mở cờ trong bụng, lái về hướng con mồi, khẩu minigun rống một tràng ngắn gọn, con nai to lộn nhào ngã quỵ trên bãi cỏ. Nằm trên sàn tàu, mùi hôi của con thú rừng cùng với mùi máu tươi quyện trong không khí xông lên mũi nồng nặc, những con “ve chó” đen thui cỡ ngón tay cái đeo đầy háng trông “ghê rợn”… Khoảng mười phút bay sau, trước mũi tàu hiện ra một giải đất đỏ của một phi trường dã chiến, kế bên là một doanh trại của Trung Đoàn 45. Tôi chỉ thị cho hai người phụ tá phía sau tàu thả con vật xuống đầu phi đạo.Hai anh phụ tà ì ạch đẩy con nai rơi xuống đất, đánh “ình” suýt đè sập căn lều cá nhân của hai ba người lính đang lui cui nấu nướng… Mấy anh lính giật mình vội vã nhảy qua một bên né tránh rồi trố mắt nhìn con tàu bay lướt qua, sát trên đầu…
Chiếc tàu của C@C đã đậu và tắt máy ngay cổng Trung Đoàn, Đ/úy Tích và người hoa tiêu phụ đã vào lều bộ chỉ huy. Tôi vào sau gặp Trung Tá Quang đang đứng gần đấy, liền rỉ tai:” Có con nai bắn được tặng Tr/tá để anh em ăn tẩm bổ… tôi thả đầu phi đạo… đừng cho Đ/úy Tích biết nghe Trung Tá”. Không quá mười phút sau, tôi đang ngồi với Đ/úy Tích trong lều bộ chỉ huy thì mấy anh lính gánh một con nai chà “diển hành” qua ngay trước cửa lều. Đ/úy Tích buộc miệng:” Trời… !.Nai chà… , ” Trung Tá Quang đứng gần đấy liền chêm vô:” Nó bị vướng dây mìn ngoài hàng rào phòng thủ sáng nay đó”…
Nghe tôi kể đến đây Thạch cười như nắc nẻ… -Sao có được Tr/tá Quang “lì xì” đồng nào không ?-Bậy nà, … ông chỉ mời tất cả phi hành đoàn ở lại ăn uống một bửa linh đình mà thôi..
Nói chuyện tới đây thì từ ngoài cửa Câu lạc Bộ bước vào hai ba pilots khu trục của phi đoàn Thái Dương 530, kéo ghế ngồi gần chiếc bàn kế bên, người nào cũng nai nịt súng ống, áo lưới trông rất “gồ ghề”. Hình ảnh này bổng nhắc tôi nhớ lại cũng tại đây, cỡ hơn tuần lễ trước, ngồi ăn sáng với Tr/úy Lý Hạnh, một hoa tiêu “bậm trợn” của phi đoàn 219 Bạch Mã, có bộ râu mép rậm rạp với khuôn mặt như tài tử Oma Sharif trong phim Doctor Zhivago. Đang ngồi nói chuyện thì từ ngoài CLB bước vào một vị Thiếu tá khu trục, dáng người cao lớn quá khổ, tóc húi cao, trông rất oai vệ trong bộ áo bay màu Kaki và chiếc áo lưới mặc trên người. Thấy tôi ngoái cổ nhìn theo, Hạnh liền nói: “Thặng Fulro phi đoàn 530 đó… mày biết không ? “. “Không… , tao nghe tiếng nhưng chưa gặp..” Tôi vừa trả lời vừa nhìn.Vị Th/tá người cao lớn, nước da ngăm đen, hai lưỡng quyền cao, đôi mắt quắc thước, người toát ra một nét uy nghi nào đó có thể làm cho người đối diện phải e dè… Anh có nét đẹp oai vệ của một chiến sĩ mọi da đỏ “Mohawk” tôi thường thấy trong những phim “cao bồi” hơn là cái tên “Fulro” của nhóm Thượng phản loạn chống chính quyền lúc xưa.
Khuôn mặt anh gợi lên một nét quen thuộc nào đó có lẽ tôi đã từng gặp trong quá khứ xa xưa. Tôi cố moi móc trong ký ức và nhớ lại… .Lúc xưa còn bé, đang còn ở cắp sách ở trường Tiểu học, trong những kỳ tham dự những trận tranh giải thể thao của các trường Trung học tại Huế, tôi đã gặp khuôn mặt này nhiều lần. Anh đại diện trong những đội thể thao của trường Trung học “Pellerin”, sau được gọi là Bình Linh. Trong trí óc tôi, anh đã gây một ấn tượng sâu đậm trong đầu của một cậu bé vẩn còn thơ dại. Mười mấy năm sau, quả đất tròn, tôi lại gặp anh nơi đây, đang cùng nhau trên một chiến tuyến chống quân thù… Buổi sáng hôm đó là buổi sáng cuối cùng tôi đã gặp Th/tá Phạm Văn Thặng, một người hùng của mặt trận Tây Nguyên qua những trận oanh kích sấm sét trên đầu địch quân. Ngày 26 tháng 5, vào một buổi xế chiều, Th/tá Thặng đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, sau khi anh cố lết chiếc khu trục bị trúng đạn phòng không ra khỏi vùng đông dân cư trong thành phố để đáp xuống một đám ruộng ngoại ô Kontum, chiếc khu trục cơ A-1 vấp vào bờ ruộng lật nhào và bốc cháy… .
Trận chiến càng ngày càng gia tăng, những phi vụ yểm trợ quân bạn càng ngày càng nguy hiểm. Các phi đoàn Trực thăng đã bị tổn hại rất nhiều. Nhớ những buổi chiều, những ngày nghỉ bay tại biệt đội, đứng trên lan can trước mặt barrack biệt đội tạm trú, chúng tôi thường nhìn lên trời đếm những chiếc trực thăng của biệt đội bay hành quân về đáp, hy vọng số tàu cất cánh ra đi buổi sáng sẽ về đầy đủ.
Một phi đoàn Trực thăng anh em là phi đoàn Lạc Long 229, đã đặc biệt tổn thất nặng về trực thăng Võ Trang. Trong những tuần lễ vừa qua, hai ngày liên tiếp phi đoàn Lạc Long 229 đã bị bắn cháy hai chiếc gunships, trưởng phi cơ là Tr/úy Dương Đức Luân Đôn và Tr/úy Nguyễn văn Tuấn. Một hoa tiêu khác của phi đoàn Lạc Long là Tr/úy Phan hữu Nghị đã may mắn sống sót khi con tàu gunship của anh bốc cháy trong phi vụ yểm trợ. Trên khuôn mặt anh vẩn còn ghi nhiều dấu vết tàn phá của phi vụ kinh hoàng đó. Vốn bản chất can trường, sau nhiều tháng tỉnh dưỡng, Tr/úy Nghị đã xin tiếp tục đi con đường anh đã chọn, anh được bổ nhiệm vào phi đội Võ Trang 215 của tôi sau đó.
Nói về cái chết của Tr/úy Tuấn “L.” trên chiếc trực thăng võ trang đã xãy ra trong một phi vụ tiếp cứu một phi công khu trục là Th/úy Nguyễn Tài Cơ, bị bắn rơi tại mặt trận gần căn cứ Diên Bình phía Bắc Võ Định năm bảy cây số. Tr/úy Lê Quang Vinh, một “tay chơi” thứ thiệt của phi đoàn Lạc Long, bay chiếc gun số hai, kể lại thì ngày hôm đó ba chiếc trực thăng 229 đang đáp tắt máy tại căn cứ Dù Võ Định. Đ/úy Phạm Công Cẩn, nguyên cựu nhân viên Phi Đoàn 215, đang họp với Bộ Chỉ Huy Dù, thì nghe hung tin, Đ/úy Cẩn vội vã cất cánh cùng với hai chiếc Gunships đi giải cứu. Ba chiếc tàu bay ở cao độ thấp dọc theo Quốc Lộ 14 lên hướng Bắc. Chỉ trong vòng năm bảy phút là đã đến vùng, cũng theo lời Vinh “râu”, ba chiếc tàu vừa vược qua Diên Bình thì một rừng phòng không cùng đủ mọi loại súng lớn nhỏ khác nhau nổ như bắp rang xung quanh ba chiếc trực thăng bay ở cao độ cỡ vài trăm feet trên mặt đường QL-14. Chiếc gun số một của Tr/úy Tuấn lãnh nguyên một băng đạn đại liên, cắm đầu lao xuống mặt đất nổ tung. Chiếc số hai của Vinh “râu” quẹo gắt 180 độ về phía Đông con lộ, cố lết về đáp khẩn cấp ở Võ Định. Vừa chạm đất thì tàu liền tự động tắt máy, xăng chảy ướt sủng mặt đất, đuôi tàu lổ chỗ hàng chục viên đạn như tổ ong, còn phi hành đoàn được bình an vô sự.
o O o
Nhìn đồng hồ đã gần 12 giờ trưa đã đến giờ đem cơm lên cho hợp đoàn, tôi đứng dậy trả tiền xong cùng Th/úy Thạch ra về . Hai anh em cất cánh từ bãi cỏ sân đá banh trước barrack của biệt đội cư ngụ. Trên tàu có hai anh “Path Finder” ( nhân viên liên lạc với Bộ binh của Phi đoàn) cùng với đồ ăn và nước uống cho hợp đoàn. Ngày hôm nay là một ngày đáng nhớ và cũng là một ngày đau buồn cho phi đoàn Thần Tượng trong một phi vụ hành quân sôi động, đầy máu lửa… Hợp đoàn hành quân gồm có Th/tá Phạm Bính phi đoàn trưởng và hoa tiêu phó là Đ/úy Nguyễn Minh Lương bay chiếc Charlie. Thêm hai chiếc đổ quân, và hai gunships. Tr/úy Tâm và Th/úy Hùng “Kiềng” bay chiếc Hổ Một, Tr/úy Thống và Thành “Râu” bay chiếc Hổ Hai… ” “Khoảng mười hai giờ trưa, tất cả hợp đoàn năm chiếc sau khi thi hành phi vụ tiếp tế cho Trung Đoàn 45 bị “ground fire” dữ dội, phải quay trở về đáp. Tất cả tắt máy đổ xăng và nghỉ trưa tại căn cứ B-15. Bãi đáp dã chiến được lót bằng những tấm sắt đục những lỗ tròn ( P.S.P viết tắt của Pierced Steel Plank ), móc lại với nhau, thường dùng cho những phi đạo tạm thời. Nơi đổ xăng là những ụ đất hình chữ U kế tiếp nhau, vây quanh những bọc cao su dày khổng lồ dã chiến màu đen, hình vuông no căng đựng đầy xăng phản lực, JP-4.
Năm chiếc trực thăng đậu theo hàng dọc tắt máy, chờ cơm trưa do biệt đội tại Pleiku đem lên. Một số anh em phi hành đoàn quây quần trong khoang tàu của chiếc Gunship của Thành “Râu” để tán gẫu đấu láo giết thời giờ.Tr/úy Nguyễn Ngọc Chung, thường được anh em gọi là “Chung Ghiền”, vì khuôn mặt gầy ốm, tóc hói cao, trưởng phi cơ chiếc tiếp tế số hai, lên tiếng trong giọng nói nhừa nhựa rặc tiếng Bắc Kỳ :
– Này Thành, sao tao lúc nào cũng thấy mày ăn diện “láng coóng”, râu ria tóc tai cắt tỉa cẩn thận như đi bát phố vậy, mày đang đi đánh giặc chứ đi chơi à… Còn bộ râu ăn tiền của mày chắc đã làm nhiều em “phê” lắm phải không ?Đang ngồi phì phèo điếu Quân Tiếp Vụ, Thành “Râu” phản đối:
– Thôi cám ơn, đừng nói chuyện em út với tao, có một con đào đã chết mẹ rồi, em với út gì… Trước khi tao đi lên đây biệt phái nó ôm tao khóc sướt mướt rồi ca cho tao nghe bài ” biệt kinh kỳ”, tao chán thấy mẹ, đang lo bấn người đây… Dính một đứa với nó là hết đường chạy…
Tr/úy Lê Viết Tánh biệt danh Tánh”xích lô”, tánh tình rất vui vẻ, tiếu lấm, người nhỏ thó nước da ngăm đen, đang ngồi xào bộ bài xập xám trên tay, chen vào trong tiếng Quảng Nam:
– Thôi đi “choa, có “en” có chịu, đừng “nóa” rứa… Vừa nghe Tánh “xích lô” nói xong mọi người cười rộ… .
Ngồi kế bên, Tr/úy Tâm bay chiếc Hổ Một, người ngắn đòn, mập mạp, khuôn mặt ngăm đen, râu mọc xanh hàm ba ngày chưa cạo. Anh đăm chiêu xa vắng :
– Lúc này mà tụi mày còn giỡn được sao, sáng hôm nay tiếp tế cho Trung Đoàn 45, thằng Huỳnh Râu bị tụi nó bắn tới tấp vào không được, chạy toe… Đ.m… Việt Cộng đầy xung quanh mà Bộ Binh lúc nào cũng nói là bãi đáp “clear”. Chút nữa tao biết tụi mình sẽ trở lại tiếp tế chỗ đó, tao chắc như vậy…
Từ chiếc tàu đậu kế bên, Tr/úy Huỳnh “Râu” bay chiếc chở hàng số một bước đến trong bộ đồ bay “nomex” hai mảnh, đầu đội nón vải hoa Dù, trông không khác gì một anh lính Biệt Kích, tay đang cầm bi đông nhựa đựng nước trà.
– Ê… , Huỳnh… cho tao miếng nước đi… Thành “Râu” vọng ra từ khoang tàu, vừa nói xong Thành phà ra từ miệng một làn khói thuốc lá mù mịt. Huỳnh “Râu” tay mở nắp bi đông trà vừa nói:
– Mày hút thuốc, uống hở miệng ra nghe đừng kê sát hôi thuốc lá lắm… Huỳnh nói tiếp, tụi mày biết không, mấy tuần trước, cũng tại bãi đậu tại đây, thằng Rinh trước khi bị bắn chết nó chạy qua tàu tao xin nước. Ngay sau đó tàu Gun nó bị bắn nổ cháy trên trời, tao bay về đáp, cái bi đông hôi rình mùi thuốc lá từ miệng nó làm tao không uống được phải đổ đi đó… Tr/úy Tôn Thất Kim, biệt danh “Kim nhi đồng”, đứng kế bên nghe xong cười sằng sặc:
– Ha..ha..ha..Bửa đó không có tao giật cần lái thì cả tàu chết chùm rồi. Kim hứng chí kể tiếp:
– Thấy tàu thằng Rinh nổ tung sát bên tao, xung quanh đạn phòng không nổ lốp đốp như pháo bông, “Thầy” Huỳnh “cứng” người không hề có một phản ứng, tao phải chụp cần lái “break” hợp đoàn, tan hàng… không kịp là banh xác pháo rồi… Nói xong Kim lại cười hô hố chọc quê.Th/úy Nguyển Thế Tòng bay chung với Huỳnh “Râu” ngày hôm nay, một hoa tiêu cao ráo đẹp trai, nãy giờ im lặng, đưa tay xem đồng hồ xong rồi lên tiếng :
– Trời đất ơi, sao giờ này mà chưa thấy “Cơm Sky” đâu hết cả “zdậy” nè, đói bụng lắm rồi! Theo thông lệ hằng ngày mỗi buổi trưa đều có tàu từ biệt đội Pleiku bới cơm trưa lên vùng cho phi hành đoàn đang hành quân. Phi vụ đó được anh em gọi đùa là phi vụ “Cơm Sky”. Cũng như “Red Sky” đi đổ quân, “Blue Sky” bay liên lạc, “Yellow Sky” bay tản thương v.v… Thức ăn được ban ẩm thực phi đội quản trị. Cơm gạo sấy được nấu chín, trộn với thịt hay cá khui ra từ trong phần ăn C-Ration ( khẩu phần ăn đồ hộp) hay đôi khi chan thêm nước thịt cà-ri, chế biến thành một loại cơm thập cẩm. Những gói nylon gạo sấy được dùng lại để đựng khẩu phần cơm chiên, đầu túm cột chặt giây cao su. Mỗi gói là khẩu phần cho hai ngươì ăn. Nước uống những túi trà đá đựng trong thùng nhựa pinic.
Bịch cơm “dương châu” gạo sấy và túi trà đá tuy đơn sơ nhưng đã gói ghém tình thương, từ bàn tay của anh em sống chết bên nhau, lo lắng cưu mang cho nhau từng bữa ăn thức uống. Cuộc đời hiểm nghèo, gian khổ của người hoa tiêu trực thăng đã làm cho tình đồng đội càng ngày càng đượm thắm, gần gủi thương yêu nhau như ruột thịt. Trong sự mong ngóng của tất cả phi hành đoàn, từ xa vọng về tiếng chém gió phành phạch, mọi người ngước đầu nhìn lên trời đồng loạt kêu lớn:” Cơm Xì-Cai tới… ”
Bay chiếc tàu “Cơm Sky”, từ trên cao tôi nhìn thấy năm chiếc Thần Tượng đáp theo hàng dọc, tôi cho tàu cơm đậu ngay chính giữa để anh em đến lãnh phần ăn cho gần. Mọi người vội vã bu quanh con tàu. Tôi ngồi trên phòng lái, cỡi nón bay ra hút thuốc, nhìn những người bạn chiến hữu đang chia xẻ nhau bữa cơm dã chiến… Khoảng mười lăm phút sau tôi thấy anh xạ thủ của chiếc tàu Charlie ra đứng giữa bãi đưa tay ra hiệu cho hợp đoàn cất cánh.Tr/úy Tánh “xích lô” ngồi trên ghế co-pilot tay cầm bọc nylon cơm sấy đã được cắt đôi chia với Tr/úy Chung, đang nhóp nhép nhai liền la làng:” Mèn đét ơi, “en” chưa xong chi cả mà đã phải bay “rồu”, cuộc đời bay bổng chi mà khổ rứa”… Vừa lẩm bẩm anh vừa túm túi cơm ăn dở cột sợi giây cao su xong quay người lại bỏ vào túi bay móc sau lưng ghế. Trên sàn tàu của anh, những thùng đạn dược gỗ thông vàng, những thùng đồ hộp C-Ration đã chất ngập đầy sẳn sàng để thả tiếp tế cho quân bạn.
Những cánh quạt của năm chiếc trực thăng bắt đầu quay vùn vụt, tiếng động cơ bán phản lực đồng loạt kêu o.o. vang động cả bãi đáp… Tất cả năm chiếc trực thăng lần lượt nhấc mình rời khỏi mặt đất, để lại sau lưng đám bụi mịt mờ… Nhìn những người bạn đồng sanh đồng tử hướng vào vùng dầu sôi lửa bỏng, tôi lo ngại… rồi kéo con tàu rời bãi trở về phi trường Cù Hanh.
– Hợp đoàn cất cánh theo tôi, đến vùng chờ sẽ có chỉ thị… Tiếng Th/tá Phạm Bính, con Voi đầu đàn vang trên tần số.
Từ căn cứ B-15 bay lên hướng Tây Bắc năm bảy phút là hợp đoàn đã tới vùng. Đây là một tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45/SĐ 23 BB, trải dài mặt hướng Tây-Bắc ngoại ô Kontum vài cây số. Địch quân đã tiến sát vòng đai bảo vệ thành phố, mặt đối mặt với quân bạn. Địa thế đây rừng cây thưa rải rác, trống trải xen lẫn những mảnh ruộng khô rất bất lợi cho những con tàu mỏng manh chậm chạp này. Hợp đoàn bay vòng chờ, dưới ánh nắng chói chan vị trí đóng quân của quân bạn được nhận rõ qua những vòng rào kẽm gai bao bọc những công sự bằng bao cát màu cứt ngựa, nửa nổi nửa chìm dưới mặt đất. Kế bên vòng rào phòng thủ là một bãi đất trống để trực thăng đáp thả đồ tiếp tế hay tản thương.
Từ phía Nam, hai chiếc chở đồ tiếp tế do Tr/úy Huỳnh bay chiếc lead và Tr/úy Chung bay chiếc số hai đang bay vòng chờ ở trên cao. -Lead đây Charlie.., sẽ có khói màu tím báo hiệu. Nếu có “ground fire” thì sẽ cất cánh trở lại phía Nam… Không cần đáp, “hover” đạp đồ xuống nếu cần…
– Chiếc số hai vào trước đi… Th/tá Bính ra chỉ thị cho chiếc Lead chờ ở vòng ngoài vì có lẽ sáng hôm nay Tr/úy Huỳnh đã vào đáp và bị “ground fire” rồi.Tiếng Th/tá Bính vừa dứt lời thì một làn khói tím vừa bốc lên ngay trong vòng rào của phòng tuyến quân bạn. Tàu của Tr/úy Chung chở đồ tiếp tế bay về hướng bãi đáp. Ở cao độ thấp chừng vài trăm bộ, hai chiếc trực thăng võ trang kè sát, bay hai vòng tròn “cover” hai bên của chiếc tiếp tế. Tất cả vẩn im lặng, không một tiếng súng hay một trái đạn pháo nổ.
– Hai Hổ coi chừng đừng bay quá về hướng Tây, nơi địch tập trung… nghe rõ … Charlie nhắc nhở. Chiếc tàu của Chung đáp xuống với tốc độ nhanh hơn thường lệ, những thùng đồ được hai người bộ binh trên tàu đạp xuống vung vãi trên mặt đất.
Sau khi thả hết đồ tiếp tế, tàu quay đầu 180 độ chúi đầu rời bãi đáp về hướng Nam, đám khói màu tím quyện mù không gian bao phủ con tàu. Vừa lên cao độ cỡ vài trăm feet thình lình từ những cụm cây thấp, trong những khóm tre bụi chuối những tràng đạn đồng loạt nổ vang như bắp rang… Từ mặt đất dưới bụng tàu “Chung Ghiền”, chấp chóa nổ như luống cải đang nở hoa hòa điệu với âm thanh của đủ loại súng, cóc… cóc..cóc… cóc… ục… ục…
– Á.., Á… .Charlie… Charlie… Tàu bị… ground fire… tàu trúng đạn… Charlie… groundfire… Tiếng của “Chung Ghiền” thất thanh… Trên cao hai chiếc Guns đang lượn theo vòng tròn gần đó tức thời phóng những trái rockets nổ ầm bên dưới con tàu của Chung đang hối hả lấy cao đô. Mấy khẩu miniguns quay vù vù phun hằng ngàn viên đạn đại liên vào những bụi rậm bên ngoài hàng rào phòng thủ…
– Hổ… Hổ… đây Charlie… có nhiều bóng đen… chạy trong những bụi rậm, … gần bụi tre… phía Nam, kế bên rẩy chuối… Hổ xạ kíck vào đó… nghe không… trả lời…
Trên tàu Hổ Một, không khi căn thẳng, hổn độn tiếng la trong intercom của Tr/úy Tâm lẩn lộn với tiếng động ầm ỉ cùng với tiếng phành phạch chém gió của cánh quạt:” Bắn minigun… bắn… bắn… bụi tre..nghe không..thấy mấy thằng chạy không?… Ở bụi chuối… bắn… bắn… ” Người xạ thủ chồm hẳn ra ngoài dí mũi súng sáu nòng quay vù, một bầu lửa đỏ trước nòng súng phun hàng ngàn viên đạn xuống đám ruộng, vườn cây phía dưới… Sau lưng chiếc Hổ Hai đang cắm đầu, những làn khói trắng kéo theo sau đuôi hai bên hông tàu, những trái hỏa tiễn phóng vụt xuống bãi nổ ầm… .Phía dưới địch tới tấp bắn trả, thấp thoáng nhiều bóng đen di chuyển vội vã từ các bụi cây… Những trái hỏa tiễn nổ tung, những bụi chuối, bụi tre trốc gốc… văng tứ phía… Trong không khí sôi động đó có tiếng la đồng loạt từ hai chiếc gunships.
– Hổ… Một… tàu trúng đạn… Charlie… tàu bị groundfire… … Tiếng của Tr/úy Tâm đứt đoạn…
– Á… Á… – Charlie… Hổ Hai, … tàu bị “hit” nhiều viên… .Tiếng nói của Tr/úy Thống trưởng phi cơ dồn dập… Co-pilot bị đạn vào đầu…
Từ triền đồi phía Tây, những khẩu súng lớn liên tiếp bắn vào hai con Hổ đang vẫy vùng gầm thét trong ổ phục kích của địch quân.
– Hổ Một… Hổ Một… tàu bạn có khói… – Đáp về hướng Nam gấp… có đám ruộng trống… Hổ Một nghe trả lời… Tất cả hợp đoàn còn lại về đáp B-15. Tiếng của Th/tá Bính chỉ thị…
Bài học của Tr/úy Vân bốc cháy rơi trên triền đồi căn cứ Charlie vừa mới đây vì cố bay ra khỏi vùng địch khi tàu bị trúng đạn còn rõ mồn một trong trí nhớ của tất cả mọi người. Chiếc trực thăng võ trang Hổ Một quay ngược trở lại về phía Nam bay rà theo mặt đất, cố lết ra khỏi vùng địch, theo sau kéo làn khói đen… Bay được chừng khoảng năm bảy trăm mét, cách con QL-14 gần một cây số, con tàu chậm dần rồi chạm mặt đất, chiếc càng trái vướng vào bờ đê ruộng khựng lại, nghiêng mình về phía trái rồi lật nhào, cánh quạt đập xuống mặt đất vỡ tung tóe mịt mù, động cơ bán phản lực của chiếc trực thăng tiếp tục nổ, rú lên âm thanh như heo bị cắt tiết… Hai bó rockets văng lăng lông lốc gần đó… Hùng “Kiềng”, người bị treo ngược trên ghế bay, đầu chúi xuống đất vùng vẫy… cố thoát ra, lấy chân đạp mạnh vào windshield phía trước. Bên cạnh Tr/úy Tâm chiếc helmet đập vào máy nhắm rockets, tấm kiếng vỡ từng mảnh vụn, loay hoay cố mở sợi dây seatbelts đang siết chặt anh vào chiếc ghế bay. Trong vài giây phút sau giật bung được sợi giây nịt bụng, người rơi như trái mít rụng xuống trần tàu, cả hai lồm cồm bò về phía sau tàu chạy thoát ra bên ngoài…
Sau đuôi tàu không xa, chừng vài chục mét, chiếc Charlie của Th/tá Bính đang đậu sẵn chờ từ lúc nào, cánh quạt quay vùn vụt ở tốc độ cao… Phi hành đoàn chiếc Hổ Một cắm đầu chạy nhanh trên mặt ruộng khô lồi lỏm về hướng chiếc trực thăng đang đợi, phóng lên sàn tàu cánh cửa đang mở rộng…
Ngồi trên ghế bay ghìm tay lái đang theo dõi tất cả diễn tiến, Th/tá Bính quay ra sau sàn tàu la lớn:
– Sao có ba người à… ? Còn một người nữa đâu… ? Tr/sĩ Linh đâu rồi ?
Ba người trong phi hành đoàn Hổ Một vừa mới nhảy lên tàu quay mặt nhìn nhau sửng sốt, trong khoảng khắc không ai nói ai một lời đồng loạt nhảy xuống đất chạy trở lại chiếc trực thăng võ trang đang lật ngửa trong đám bụi mịt mù chưa tan… Không xa hướng Bắc, tiếng cóc cóc của những khẩu súng AK mổi lúc mổi gần… Ngồi trên chiếc trực thăng chỉ huy, Th/tá Bính kiên nhẫn chờ… Không khí cực kỳ căng thẳng. Từ chiếc tàu bị nạn bụi mù chưa tan hẳn, khói đen bốc cao từ buồng máy, thấp thoáng bóng phi hành đoàn chui ra từ khoang tàu, kéo lê thân người bất động của Tr/sĩ Linh đang nằm co quắp kế bên khẩu minigun, chiếc helmet đã văng ra khỏi đầu. Tr/úy Tâm phía sau hai tay cầm hai cổ chân của xạ thủ Linh, Th/úy Hùng và Lan mê-vô chạy trước, mỗi người nắm một cánh tay, tư thế như đang khiêng một chiếc kiệu, cố chạy nhanh về chiếc tàu C@C đang đợi.Tất cả đã lên tàu, chiếc trực thăng vội vã nhấc mình rời mặt ruộng khô, vượt qua hàng cây xanh dọc theo con suối cạn… theo sau mấy tiếng cóc cóc… của những cây AK-47 bắn vói theo… Trên sàn tàu, Tr/sĩ Linh nằm xoải tay, mắt nhắm nghiền, không hơi thở, một lỗ lủng bằng đầu ngón tay ngay kế nách sát bìa chiếc áo giáp, máu đỏ loang ướt đẫm bộ áo bay màu xám… Định mệnh đã quá khắc khe cướp đi mạng sống của Linh chỉ một tuần lễ sau khi anh thành hôn với một người con gái mà anh hứa sẽ sống bên nhau suốt đời…
Tại bãi đáp Lôi Hổ B-15 chiếc Hổ Hai và hai chiếc tiếp tế đã đáp tắt máy. Huỳng “Râu” đang đi vòng quanh tàu đếm lỗ đạn, Chung “Ghiền ” chạy đến bên chiếc Hổ Hai, Thành “Râu” ngồi dựa ngã đầu vào lưng ghế bay, cửa mở rộng, trước bụng để chiếc nón bay, cái visor ( kiếng mát gắn trên helmet ) bể nát rơi trên sàn cockpit, phần trước nón một đường rãnh sâu kéo dài do viên đạn xuyên ngang. Anh vẫn còn ngơ ngác bàng hoàng chưa tỉnh hồn vì những giây phút đối đầu với lưỡi hái Tử thần trong ” đường tơ kẽ tóc”.
-Thành, mày có sao không ?
Đang nhắm mắt, Thành ngửng đầu dậy trả lời:
– Bố khỉ, mẹ… cám ơn mày, mày khen bộ râu tao đẹp, bây giờ cho mày xem này, nói xong Thành chỉ vào hàng ria mép một bên trái bị cháy xém tận da do viên đạn xẹt ngang trông rất ngộ nghĩnh… Nhìn khuôn mặt của Thành “râu”, “Chung ghiền” không nén được, cười rộ…
– May nhờ tao mang cái kiếng Rayban không thì giờ này chắc là mù mẹ rồi… Nói xong Thành đưa tay sờ những vết lủng lỗ chỗ như hạt gạo đọng máu đen trên má…
o O o
Ngày 25 tháng 5 Cộng quân mở nổ lực cuối cùng tấn công Kontum, lúc nửa đêm địch pháo dữ dội vào gần phi trường và phía Nam thành phố, hai Tiểu Đoàn đặc công đã xâm nhập lọt vào mặt Đông Nam do ĐPQ trấn giữ. Nhiều chiến xa địch đã tiến được vào nhiều vị trí quan trọng và đã gặp sức chống cự mãnh liệt của quân bạn.
Trong ngày 30-5, các vị trí do CS chiếm đã được lấy lại. Trưa 31-5 Cộng quân rút lui để lại 3000 xác chết theo lời Đ/tá Bá, mấy chục chiến xa bị bắn hạ, nổ lực cuối cùng của Cộng quân đã bị thảm bại. Từ ngày 1 tháng 6, tình hình chiến sự tại Kontum bắt đầu tiến triển khả quan khi mũi dùi xâm nhập thành phố của Bắc quân từ hướng Đông Nam đã bị đẩy lui hoặc bị tiêu diệt, Sư Đoàn 23 đã hoàn toàn kiểm soát phi trường cũng như những vùng phụ cận.Tổng thống Thiệu đã bay vào thị xã vinh danh tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ và thăng cấp cho Đại Tá Lý Tòng Bá lên Chuẩn tướng. Mặc dầu đã có nhiều ưu thế về quân số, vũ khí, xe tăng nhưng địch đã bị thảm bại vì lòng can đảm và sự chiến đấu dũng cảm của tất cả binh chủng VNCH. Gần 40.000 xác Bắc Quân đã bỏ lại chiến trường Tây Nguyên, ván bài cuối cùng của Bắc Việt trước khi lên bàn hội nghị Paris đã thất bại.
Lời kết: Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa, hay Eastern Offensive là một trận chiến lớn nhất đã xảy ra trong chiến tranh tại miền Nam Việt Nam mà địch quân đã bị thảm bại. Là một nhân chứng của những trận đánh khủng khiếp và kinh hoàng nhất của mặt trận Cao Nguyên, tôi muốn ghi lại tất cả đây hình ảnh của trận chiến qua cái nhìn của một hoa tiêu trực thăng võ trang. Đồng thời cũng muốn nói lên cho thế giới thấy sự can trường của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến này. Những trận đánh trên ngọn đồi lịch sử Charlie điển hình của binh chủng Nhảy Dù, mặc dầu ở trong một hoàn cảnh khó khăn, thất lợi đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và gây tổn thương tối đa cho quân địch. Những Trung Đoàn Biệt Động Quân biên phòng cũng như các Trung Đoàn tinh nhuệ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống đỡ tất cả mọi tấn công điên cuồng của địch quân vào Kontum và giử vững thành phố này trong giây phút cuối cùng trận chiến B-3 của Bắc Quân.
Nhưng chiến thắng của mặt trận này không thể có được nếu không có sự yểm trợ của Không Lực Đồng minh Hoa Kỳ, và nhất là tinh thần chiến đấu dũng cảm của tất cả các phi công Không Lực VNCH. Những con chim đơn độc của những chiếc máy bay quan sát bay trên mặt trận nóng bỏng ngày đêm để tìm kiếm dấu vết của địch; những chiếc phi cơ vận tải bay qua những lằn đạn phòng không, chuyên chở vật liệu, đạn dược để tiếp tế những thành phố bị vây hãm dưới hằng ngàn trái đạn pháo kích; những chiếc trực thăng sát cánh, ăn ngủ kế bên những đơn vị bạn, đối đầu trực diện với quân thù trong những khoảng không gian nhỏ hẹp; những chiếc máy bay khu trục lao mình xuống mục tiêu yểm trợ quân bạn, không hề quan tâm đến sinh mạng trước rừng phòng không dày đặc.
Mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa đã làm cho Bắc quân hầu như bị kiệt quệ trong tất cả mọi tiềm năng chiến đấu và không còn một khả năng nào để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lấn miền Nam. Nếu chúng ta tiếp tục được sự yểm trợ của những người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ thì cuộc diện chiến tranh có lẽ đã đổi chiều. Nhưng thực tại đã phủ phàng, trong khi Cộng Sản Miền Bắc vẩn được sự yểm trợ mạnh mẽ về khí giới của những nước đàn anh Cộng Sản để tiếp tục guồng máy chiến tranh của họ, thì chúng ta lại bị nguời bạn Đồng Minh Hoa Kỳ bỏ rơi, không thương tiếc. Thế cờ chính trị trên bình diện thế giới đã đổi thay, miền Nam Việt Nam đã trở thành một con cờ thí… Chúng ta đã thua cuộc chiến không phải là thiếu lòng can đảm, thiếu ý chí chiến đấu mà chúng ta đã thua cuộc vì quyền lợi của những nước Tư Bản.
Thắng thua là chuyện đương nhiên phải có trong một trận chiến, nhưng nguyên nhân của sự thất bại mới là điều đáng kể… .Chúng ta có quyền hãnh diện đã mang trên người bộ quân phục của một người chiến sĩ đã từng phục vụ dưới lá cờ của Tổ Quốc, Màu Vàng Ba Sọc Đỏ…
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215 Thần Tượng
Xin thành thật cám ơn những niên trưởng cũng như các chiến hữu đã đóng góp những chi tiết trong mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa:
* Tr/tá Khưu Văn Phát,
* Đ/úy Nguyễn Hồng Huỳnh,
* Tr/úy Nguyễn Ngọc Chung,
* Tr/úy Lê Quang Vinh,
* Tr/úy Tôn Thất Kim,
* Th/úy Nguyễn Thanh Hùng…
* và sau cùng là Đ/úy Phạm Vương Thục bào đệ của Cố Tr/tá Phạm Văn Thặng.
http://batkhuat.net/tl-mhdl72-matran-kontum.htm
https://dongsongcu.wordpress.com/2016/08/11/mua-he-do-lua-phan-i-phi-vu-mo-man-phan-ii-nguoi-o-lai-charlie-phan-iii-mat-tran-kontum/
Tân Sơn Hòa chuyển
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Mùa Hè Đỏ Lửa: PHẦN I: PHI VỤ MỞ MÀN; PHẦN II: NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE; PHẦN III: MẶT TRẬN KONTUM
Vĩnh Hiếu Phi Đoàn 215 Thần Tượng
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN I: PHI VỤ MỞ MÀN
Mở Đầu:
Để độc giả dễ dàng theo dõi những diễn tiến cũng như địa danh trong bài viết tôi xin khái lược về mặt trận vùng cao nguyên 1972. Trận chiến khốc liệt nhất trong chiến trường Việt Nam đã xảy ra trong những tuần lễ cuối mùa Xuân năm 72 kéo dài qua những tháng mùa Hè và đã được tác giả Phan Nhật Nam mô tả trong tác phẩm bi hùng tráng “Mùa Hè Đỏ Lửa”, mặt trận được gọi là “Easter Offensive”, danh từ của đồng minh Hoa Kỳ. Đó là trận chiến khốc liệt, Cộng quân cố thu hết tàn lực để mở một chiến dịch tổng công kích cuối cùng trên toàn cõi miền Nam hy vọng đạt được một thắng lợi nhằm tạo áp lực lên bàn hội nghị hòa bình ở Paris.
Ba mặt trận đồng loạt đánh vào miền Nam.
– Chiến dịch Nguyển Huệ, mũi dùi số một hơn 30,000 quân Cộng Sản tràn qua sông Thạch Hản, tiến chiếm Quảng Trị, Thừa Thiên vùng I.
– Mặt trận B-2, miền Nam từ lãnh thổ Cam Bốt, mũi dùi thứ hai đánh thốc vào Lộc Ninh, Bình Long, chế ngự vùng III.
– Mặt trận B-3, mũi dùi thứ ba cắt ngang vùng II, nhắm vào Tân Cảnh, Kontum, Pleiku sau đó qua đường thung lũng Mật Khu An Lão, kéo xuống đồng bằng Bình Định, bởi hai Sư Đoàn tinh nhuệ của địch, Sư Đoàn Thép và Sư Đoàn Sao Vàng cùng Sư Đoàn F10 được yểm trợ bởi Lữ Đoàn chiến xa 203 và nhiều Trung Đoàn pháo binh.
Từ cuối tháng Giêng năm 1972, theo các nguồn tin tình báo, tù binh và hồi chánh, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II ghi nhận có nhiều đơn vị Cộng Sản Bắc Việt từ Cam Bốt và Lào đã xâm nhập vào khu vực phía Bắc tỉnh Kontum. Đồng thời không thám của quân đội Hoa Kỳ cũng đã ghi nhận được những sự tập trung lớn của lực lượng Cộng Sản trong vùng thung lũng phía Tây Nam của Dak Tô, và Tây Bắc của thành phố Kontum. Kể từ khi được tin địch xuất hiện, các đơn vị không-kỵ và trực thăng võ trang Hoa kỳ đã nỗ lực thám sát và phát hiện được 6 lằn xích song hành và nhiều chiến xa Bắc Việt tại phía Đông căn cứ 609 và thung lũng Plei Trap, nằm về phía Tây của Rocket Ridge. Theo như dự đoán của bộ chỉ huy Quân Đoàn II và những cố vấn Hoa Kỳ thì địch có thể sẽ tấn công Cao Nguyên vào mùa khô.
Quân Đoàn II bắt đầu tăng cường phòng thủ Kontum và Pleiku. Bộ Tư lệnh tiền phương Sư Đoàn 22 được dời từ Bình Định lên Tân Cảnh -Dakto. Sư Đoàn 22 bộ binh gồm có 4 Trung Đoàn 40, 41, 42, 47, Tư Lệnh Đại Tá Lê Đức Đạt, trách nhiệm vùng Tân Cảnh và Dak Tô II. Thiết Đoàn 19 Kỵ Binh cũng được tăng cường đến Tân Cảnh.
Sư Đoàn 23 gồm 3 Trung Đoàn 44, 45, 53, tư Lệnh Đại Tá Lý Tòng Bá, từ Ban Mê Thuột được tăng viện thay thế Sư Đoàn 22 bị tan rã sau khi căn cứ hỏa lực Tân Cảnh bị thất thủ, để bảo vệ Kontum, đã lập phòng tuyến từ phía Bắc thành phố từ Đông sang Tây.
Lữ Đoàn 2 Dù được tăng cường cho Quân Đoàn II, chịu trách nhiệm vòng đai phía tây Quốc Lộ 14, đóng trên những cao điểm. Đóng dọc theo biên giới có 11 Tiểu Đoàn Biệt Động Quân biên phòng, chịu trách nhiệm căn cứ Ben Het, ngay ngã ba biên giới, thường gọi là Tam Biên, cùng với tiền đồn Polei Kleng phía tây Kontum khoảng 20 cây số.
Riêng dãy Rocket Ridge là một dãy cao điểm chạy dài từ Bắc xuống Nam, nằm dọc theo phía tây Quốc Lộ 14 khoảng 12 cây số, tọa lạc hầu như ở giữa Tân Cảnh và Kontum, nơi những căn cứ hỏa lực mang tên Tiền Đồn Sáu, Tiền Đồn Năm, căn cứ Yankee, Charlie và Hotel đã nổi danh để đón nhận một định mệnh tàn khốc trong những trận chiến rực lửa mùa Hè 72. Đặc biệt nhất là căn cứ Charlie, qua bài ca bất hủ của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, “Người ở lại Charlie” đã ca tụng và tiếc thương cái chết của người anh hùng Tiểu Đoàn trưởng TĐ/11 Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, Tr/T Trần Đình Bảo.
Phi Vụ Mở Màn:
Căn Cứ Hỏa Lực, Tiền Đồn Sáu
– Oành…Oành..
Sau hai tiếng nổ như long trời lở đất, tôi mở choàng mắt dậy, chưa tỉnh hồn không biết mình đang ở đâu, tôi phóng đại về hướng trước mặt, được chừng vài chục bước tôi ngừng lại thấy mình đứng chơ vơ giữa phi đạo nhựa đường đen, hơi nóng bốc lên hừng hực, xung quanh không một bóng người. Biết mình vừa “bị tẩu hỏa nhập ma”, tôi vội vàng quay trở lại.
– Oành…
– Ê…ê…., hướng này nè, mẹ, thằng này nó khùng rồi… Tôi nghe tiếng la to phía sau lưng.
– Oành…
Một trái pháo khác nữa nổ ngay đầu phi đạo. Tôi rụt đầu “né” những mảnh đạn pháo đang bay xé trong không gian. Người trần trùng trục, chiếc áo bay “nomex” màu cứt ngựa “fermeture” kéo tới rốn cỡi ra ngang thắt lưng, hai cánh tay áo quấn vòng ngang bụng cột gút, tôi khom người phóng nước đại xuyên qua giữa khoảng trống của mấy chiếc trực thăng tắt máy đậu dọc theo phi đạo, hai tay khư khư ôm lấy quần cho khỏi tụt.
– Ê, tao đây này…lại đây mau lên…
Thấy Tr/u Thành “râu” đang ngồi trong hố đất cách mấy chục thước, thò đầu lên, nhe hàm răng trắng bóc dưới bộ râu đen, tôi đổi hướng. Cái hố cá nhân đào vừa đủ cho một người, Thành đang ép sát chừa chỗ cho tôi, nhanh như cắt tôi phóng mình xuống đưa cả hai chân vào.
– Mẹ, mày ngủ mơ sao mà khùng thế…Tao thấy mày ở trần tay ôm quần chạy khơi khơi giữa phi đạo giống như thằng điên, tụi nó cười quá trời. Vừa nói xong Thành cười rộ.
Bây giờ tôi có phần hoàn hồn, tim đã bớt đập, tôi cố lấy giọng bình tĩnh đánh trống lảng cho bớt “quê”:
– Bố khỉ, tụi nó pháo dữ quá, đón tiếp phi hành đoàn 215 kiểu này thì chết mẹ mình rồi. Chân ướt chân ráo lên đây gặp cảnh này mất vui quá.
– Không biết tụi mình đáp đây làm cái đếch gì ở đây mà chờ lâu thế, nằm chờ để “ăn” pháo kích toi mạng. Thành “râu” rặc giọng Bắc kỳ, có vẻ sốt ruột.
– Mình đáp lúc hai giờ trưa phải không mày? Chờ cả tiếng đồng hồ rồi đó. Nói xong tôi đưa tay lên xem giờ vừa quẹt lau mồ hôi đổ hột trên mặt vừa phân bua cái vụ chạy “lộn sòng” lúc nãy:
– Tối hôm qua ở Phan Thiết đi chơi khuya mới về, lúc nãy chờ buồn ngủ quá tao chui ra sau tàu nằm thiếp đi ai dè tụi nó pháo tao làm tao giật cả mình tỉnh dậy không biết trời đất gì.
– Oành…Oành…hai trái pháo nổ gần đầu phi đạo, những cụm khói đen bốc lên lẫn bụi mù.
– Dzọt..dzọt… mày…Tôi nhảy phóc lên khỏi miệng hố vừa chạy vừa mở gút tay áo buộc ngang bụng xỏ tay hai tay kéo áo bay lên người. Vừa đến gần chiếc trực thăng võ trang đang đậu, mấy anh xạ thủ đã nai nịt sẳn sàng, tôi nhảy vọt lên ghế bay, không kịp bận áo giáp, cầm chiếc helmet treo sau lưng đội vội vào, kéo hai sợi giây “seatbelt” buộc vào bụng xong, tôi cho con tàu quay máy. Tiếng kêu O… O… đồng loạt của những chiếc trực thăng khác đang đậu gần đó vang lên trong bầu không khí oi ả. Những cánh quạt trực thăng uể oải lười biếng chuyển mình chầm chậm rồi nhanh lên dần. Tôi nóng ruột vặn tay ga, chiếc kim RPM ( rotation per minute ) trên đồng hồ tăng vọt, xong tôi kéo vội cần cao độ, con tàu đầy ắp đạn và rockets nặng nề rùng mình rời mặt đất khô nóng bỏng. Trước mặt những chiếc trực thăng cất cánh bay tứ tán loạn cào cào, không đội hình hàng ngũ…
Con tàu đã lên cao, nhìn xuống phi trường Phượng Hoàng hoang vắng nhỏ dần dưới ánh nắng mặt trời đang nung đốt, lác đác một vài trái đạn nổ tung lên những cụm khói nhỏ đen xám lẫn bụi đỏ…
– Hợp đoàn bay vòng chờ, hết pháo tụi mình xuống đáp lại nghe rõ. Chiếc C@C nhắc nhở. Năm chiếc trực thăng chúng tôi cùng với những chiếc của Không Kỵ Hoa Kỳ như một đàn diều đông đảo bay lượn trên bầu trời hanh nắng.
– Charlie đây Hổ… ( Mãnh Hổ tên gọi trực thăng võ trang 215), mình đang chờ gì ở đây vậy? Tôi tò mò hỏi.
– Sĩ quan liên lạc của quân bạn đang trên đường tới phi trường, mình sẽ làm phi vụ tiếp tế cho căn cứ hỏa lực vừa bị địch tấn công tối hôm qua. Đ/u Đức trả lời.
Ngày hôm kia tôi cùng phi đội 215 được chỉ thị đi biệt phái ở Phan Thiết một tuần lễ. Nghe tin đi Phan Thiết anh em tranh nhau tình nguyện nhất là trong biệt đội có mặt Tr/u Thành, cháu của ngài Đại Tá Tỉnh Trưởng. Anh ta về đó như “Hổ” về rừng, ở trên trời anh là “Hổ Hai” bay theo đuôi Hổ Một, nhưng ở dưới đất Phan Thiết anh là C@C dẫn đầu phi đội đi “bay….bướm”. Phi hành đoàn vừa đáp xuống ngay tỉnh đường đã có xe chờ sẵn mời đi ăn “điểm xấm” hay hủ tiếu mì phở, buổi trưa xe Jeep đón đưa đi ăn cơm tại những nhà hàng Tàu sang trọng, ăn xong còn thêm gói thuốc lá dắt lưng. Trong thời gian tại đó chúng tôi chỉ túc trực ứng chiến tại cư xá tỉnh dành cho khách vãng lai, phòng ốc khang trang, ai rảnh muốn đi phố uống cà phê, cà pháo hay thụt bi-da chỉ việc leo lên xe jeep chừng vài phút là tới. Ở tại thành phố này có những quán nước sát bên bờ sông cây râm bóng mát rất hữu tình, anh em phi hành đoàn “xum xoe” trong bộ đồ bay súng ống “lỏng dõng” thường ra ngồi đó để ngắm mấy em đi qua đi lại. Đó là những khoảng thời gian nhàn nhã “vui thú điền viên” khó kiếm trong thời buổi chiến chinh.
Sáng ngày hôm nay sau khi biệt đội đi ăn trở về thì nhận được tin “sét đánh ngang tai”, tất cả hợp đoàn phải thu xếp hành trang Pleiku trực chỉ, thời gian biệt phái sẽ cho biết sau. Tôi linh cảm đây là chuyện chẳng lành, một mặt trận nào đã xảy nữa đây? Không có sự lựa chọn tôi về phòng thu xếp hành trang, trong lòng ca câu “thân trai mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” rồi theo chân hợp đoàn cất cánh. Trên vòm trời Phan Thiết, bầu không khí thoang thoảng phảng phất mùi mắm ruốc thum thủm từ hàng trăm hãng sản xuất nước mắm bốc lên, tôi nghiêng đầu nhìn xuống những xóm làng chài lưới lúp xúp mái ngói đỏ cùng những mái tôn chấp chóa kế hàng dừa xanh sau bãi cát trắng vòng cung, hàng trăm chiếc thuyền đánh cá neo san sát trong vùng vịnh nhỏ. Ở đầu bãi một ngôi nhà gạch màu vàng nhạt nằm trên ngọn đồi thấp cô quạnh sát mé nước, trên cao trông như một “lô cốt” tí tẹo, đó là “Lầu ông Hoàng”, nơi mà nhà thơ Hàn mặc Tử đã nhiều lần dắt cô Mộng Cầm ra hóng mát. Điếu thuốc cháy dở trên môi, sợi khói trắng quyện vào mắt cay xè, tôi chắt lưỡi luyến tiếc trở lại với thực tại, trước mặt những chiếc trực thăng chổng mông nối đuôi nhấp nhô lên xuống.
Năm con chim sắt bắt đầu hướng về vùng lửa đạn, để lại sau lưng thành phố yên bình … Theo chỉ thị mới nhận được trên tần số cho biết chúng tôi phải bay lên đáp phi trường Phượng Hoàng cạnh thị xã Tân Cảnh, tỉnh Kontum để nhận lệnh hành quân. Sau hơn hai tiếng rưỡi đồng hồ, bay đáp lấy xăng tại phi trường Cù Hanh, Pleiku, hợp đoàn gần đến điểm hẹn. Trên cao độ hai ngàn bộ, phi trường Phượng Hoàng thoáng hiện trong bầu không khí rực nắng oi ả. Hợp đoàn giảm cao độ nối đuôi đáp xuống dọc theo một phi đạo vừa đủ dài cho những phi cơ nhẹ đáp. Gọi là phi trường nhưng thật ra chỉ là một dải đất rộng nằm trơ trụi trên một địa thế cao và bằng phẳng, xung quanh toàn cỏ dại vàng cháy, không một công sự hay nhà cửa nào cả, xa xa chỉ thấy hàng rào kẽm gai vây bọc. Năm chiếc trực thăng chầm chậm nối đuôi nhau lướt trên mặt nhựa đường đen tháng năm đã loang lổ. Phía bên phải phi đạo đã có bảy tám chiếc trực thăng đậu hàng dọc tắt máy cùng hai chiếc gunships Cobra mình dẹp lép như con cá chình, mang đầy nhóc rockets dữ dằn. Đơn vị Lữ Đoàn Không Kỵ của người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã có mặt tại đây không biết từ bao lâu. Tất cả hợp đoàn tắt máy chờ, tôi chui ra sau khoang tàu nằm và đánh một giấc ngủ say sưa…
Bay vòng vòng trên bầu trời địa đầu giới tuyến, chờ cơn pháo ngưng, tôi ngả người vào lưng ghế nghỉ mệt, giấc ngủ vừa qua tuy ngắn ngủi nhưng cũng giúp tôi lấy lại sức lực sau chuyến bay dài từ Phan Thiết. Trong mơ hồ tôi suy nghĩ vẫn vơ tới những cuộc hành quân đã qua, yểm trợ bốc quân, đổ viễn thám, tiếp tế, cuộc hành quân hôm nay chắc cũng không khác gì những ngày tháng trước. Nhưng tôi đã không ngờ rằng cuộc diện bây giờ đã đổi thay, những sôi động đã ầm thầm biến chuyển ngoài sự hiểu biết cũa một hoa tiêu tầm thường. Phi vụ ngày hôm nay sẽ là một phi vụ mở màn cho những ngày tháng tới đối đầu với một trận chiến hoàn toàn khác hẳn những gì tôi đã kinh qua. Tôi sắp bước vào một trận chiến lịch sử, một trận chiến kinh hoàng khốc liệt nhất trong chiến trường từ khi bọn Cộng Sản khởi động xâm lấn miền Nam. Trận chiến được mang danh là “Mùa Hè Đỏ Lửa” hay là “Trận chiến một trăm ngày”. Tôi sẽ là chứng nhân sống cho những ngày tháng sôi động, những cuộc giao tranh, thắng bại, dành nhau từng tấc đất, con tàu bốc cháy nổ tung trên không trung hay ngay giữa phi đạo, những bạn bè thân thương gãy cánh, lìa đàn, những giây phút căng thẳng thần kinh đến tột độ, những phi vụ mạng sống như chỉ mành treo chuông, những trận đại pháo ào ạt như mưa rào, như thác đổ, những xác người tan nát, cháy nám…Một mặt trận địch đã dốc hết toàn lực, khả năng gần như đã kiệt quệ để đánh một ván bài cuối cùng dứt điểm mục tiêu mà chúng đã kiên trì nổ lực bao năm qua, với sự hy sinh hàng trăm ngàn, hàng triệu sanh linh vô tội đã bị chúng lôi cuốn vào cuộc chiến tranh điên rồ này.
Có lẽ trận pháo mở màn để chào mừng phi đội 215 đã chấm dứt, sau mười lăm phút lòng vòng trên không, chúng tôi được lệnh đáp trở lại phi trường Phượng Hoàng. Tắt máy xong, tôi bước xuống đi nhanh về hướng Đ/u Đức đang đứng nói chuyện với Đ/u Vỹ, bay chiếc chở quân. Thấy tôi Đ/u Đức cất tiếng rặt giọng Trung kỳ:
– Hổ, hồi này mày làm gì mà chạy ra giữa phi đạo vậy, chưa ăn mảnh pháo là may đó. Nói xong anh cười thật tươi đưa hàm răng trắng đều.
Đ/u Đức người cao ráo, nở nang, khuôn mặt chữ điền, rất đẹp trai, chắc có lẽ đã có nhiều em theo chết mê mệt. Từ ngày về với Thần Tượng đến giờ phút này tôi đã bay nhiều phi vụ võ trang dưới sự điều động của vị niên trưởng này. Chung chia rất nhiều kỷ niệm trong thời gian biệt phái Phù Cát, Pleiku, Ban Mê Thuột, Phan Rang, Phan Thiết… Chúng tôi gần bên nhau, cùng chung giới tuyến, chia sẻ những niềm vui lớn nhỏ, cũng như gian nguy cực khổ từ đó đã nẩy sinh những tình nghĩa vô cùng sâu đậm.
– Sa.o m.à..y tỉnh ngu..ủ chư.a đó… Đại uý Vỹ đứng kế lên tiếng chọc quê tôi trong giọng nói nhừa nhựa ê a rặc tiếng Bắc Nghệ Tỉnh nghe buồn cười quá… Tại phi đoàn anh em thường gọi anh là “Cụ Vỹ”, vì thân hình thấp thấp tướng đi hơi lom khom cọng lại thêm giọng nói khàn khàn kéo dài. “Cụ Vỹ” là một đề tài tiếu lâm cho anh em chọc ghẹo, con người vui vẻ xuề xòa nhưng đôi khi hơi nóng tánh. Tôi ưa nói đùa với bạn bè trong những lúc họp mặt, “Nếu tao vào vùng “hot” nghe “cụ Vỹ” kêu tần số báo cáo có phòng không của địch, chờ cho “cụ” nói xong thì tụi nó đã bắn tao banh xác rồi”. Một giai thoại với liên hệ tới “Cụ Vỹ” nghĩ tới tôi vẫn còn “sượng sùng”. Lúc còn chân ướt chân ráo làm lính mới tò te của phi đoàn, một buổi sáng đang đứng mua một ít đồ lặt vặt trên đường Nguyễn Hoàng cạnh chợ Xóm Mới Nha Trang, tôi vô tình gặp một cô bạn gái đi cùng với một người bạn đi ngang. Sau khi tay bắt mặt mừng, chào hỏi hai ba câu xong, cô bạn gái tôi hỏi, “Anh ở phi đoàn Thần Tượng có biết anh Vỹ không?” Tôi nhanh nhẩu, ra điều sành sỏi: ” Biết chớ, Trung Úy Trần thế Vỹ ai mà không biết, tụi này kêu là “cụ Vỹ già” đó mà… ” Nghe tôi nói xong bạn tôi mỉm cười, xoay qua chỉ cô gái tóc bỏ ngang vai với khuôn mặt trái xoan dễ thương, chưa ngoài hai mươi đang đứng kế bên nãy giờ im lặng :”Xin giới thiệu với anh đây là ” fiancée ” của anh Vỹ”. Tai lùng bùng, người đứng sượng trân thiếu điều muốn độn thổ… Tôi gật đầu chào, miệng lí nhí nói không ra hơi: ” Dạ…dạ…chào chị..”. Một thời gian sau đó, một bữa thằng bạn thân gặp tôi ở phi đoàn, anh ta kéo tôi ra một góc phòng ghé vào tai tôi thì thầm nói nhỏ, ra điều đang tiết lộ một chuyện gì quan trọng:” Tao nói cho mày biết chuyện này, để mày cẩn thận, hôm qua không có mày đây tao nghe “Cụ Vỹ” tuyên bố trước mặt bá quan văn võ rằng, ” Tụi mày nói lại với thằng H., nó mà còn lạng quạng mời con đào tao đi ăn phở một lần nữa thì tao bắn bỏ mẹ nó…” Thật là oan ơi ông Địa, tôi chỉ gặp đào “cụ” có một lần đó thôi làm sao mà có cơ hội mời mọc, vả lại lúc đó tôi đang ở tình trạng “thặng dư” đào “dùng” không “kịp” đâu đến nỗi mà phải đi cửa hậu với người nhà.
Trong khi mọi người đang đứng đấu láo thì từ xa bụi đỏ tung mù chiếc xe cam nhông cùng chiếc xe Jeep phom phom chạy đến. Chiếc Jeep dẫn đầu ngừng ngay bên hông tàu Charlie, vị Đại Úy Dù, đeo giây “ba chạc”, đầu đội nón sắt cùng người phụ tá vội vã nhảy xuống xe, trên khuôn mặt lộ vẻ khẩn trương .
– Chào quý vị. Viên Đại Úy đưa tay lên chào theo cung cách nhà binh, xong bắt tay từng người:
– Chào Đại Úy, sao giờ này mới đến, nằm chờ ở phi đạo bị tụi nó pháo quá…Đ/u Đức lên tiếng.
– Xin lỗi quý vị phi hành đoàn nghe, tôi phải chờ ở phòng hành quân lấy thêm chi tiết và điều động xin vài phi tuần khu trục yểm trợ xong rồi mới ra đây được.
Trong tay cầm mấy bản đồ, vị Đại Úy đi vòng phía trước chiếc xe jeep, trải rộng tấm bản đồ trên đầu xe xong đi ngay vào vấn đề:
– Tối hôm qua căn cứ hỏa lực Tiền Đồn Sáu đã bị địch pháo kích cả hàng trăm trái hỏa tiễn và tấn công nhiều đợt tới tấp. Quân bạn hiện đang ở tình trạng nguy ngập cần tiếp tế gấp đạn dược, nước uống gấp và chở một số thương binh về.
– Sao trực thăng Mỹ ở đây làm gì mà anh không nhờ họ vậy Đại Úy? Đ/u Đức chen vào.
– Tụi tôi đã làm việc với họ sáng hôm nay rồi, nhưng khi vào đáp bị bắn rát quá nên họ quay trở lại từ chối phi vụ. Tôi đã xin nhiều phi tuần khu trục dội bom yểm trợ, nhưng địch bám sát quân bạn quá gần nên khó lòng. Cứ điểm này có một vị trí chiến lược rất quan trọng, bất cứ giá nào chúng tôi cũng phải giữ không để mất được, mong quý vị giúp cho một tay.
Vây quanh đầu xe jeep, Đ/u Đức cùng Đ/u Vỹ và mấy hoa tiêu khác chăm chú nhìn vào tấm bản đồ màu xanh nhạt, những vòng tròn cao độ vẽ chằng chịt, cùng những nét bút màu đen đỏ.
– Đây là căn cứ hỏa lực Sáu hiện thời đang bị địch bao vây áp đảo nặng- viên Đại Úy chỉ vào một vòng tròn đỏ- ngay bây giờ chỉ cần hai chuyến chở đồ tiếp tế và chở một số thương binh về là xong ngày hôm nay. Tôi sẽ cho vài người lính ngồi theo tàu để phụ. Quý vị có thể nhìn thấy rõ ràng Tiền Đồn Sáu từ đây.
Nói xong anh quay người lại chỉ tay về hướng Nam của phi trường. Xa khoảng chừng năm bảy cây số rặng núi đứng sừng sững nhô cao trên đồng bằng cao nguyên. Dưới ánh nắng chói chan, những ngọn núi đỉnh cao trọc màu xanh cỏ úa vàng. Trên bản đồ tôi ghi nhận những vòng cao độ vẽ hình của một rặng núi hình cánh cung trên đó những vòng đỏ có ghi chú những chữ 6, 5, Y, C, D, H, tôi hỏi:
– Đây là những tiền đồn? Tôi chỉ vào nhưng vòng tròn kế tiếp nhau…
– Đúng vậy…kế cận Tiền Đồn Sáu xuôi theo đỉnh núi về phía Nam là Tiền Đồn Năm rồi Yankee, Charlie, Delta và cuối cùng là Hotel, còn rặng núi này Mỹ họ kêu là Rocket Ridge. Tất cả căn cứ hỏa lực trên dãy núi Ridge này thuộc trách nhiệm của Lữ Đoàn II nhảy dù, bộ chỉ huy đóng tại Võ Định. Đó là những địa danh mới được đặt tên của những căn cứ hỏa lực nằm trên những chuỗi cao độ chập chùng vùng trên dãy núi Rocket Ridge khô cằn sỏi đá, nhưng những ngày tháng tới đây sẽ là những là những địa danh đi vào lịch sử vì những trận đánh bạo tàn, khủng khiếp, dằn co, dành giựt từng tấcđất, từng giao thông hào, máu đổ thành suối…
Mọi người đã sẵn sàng. Chiếc C@C cất cánh trước, tôi dẫn chiếc gun số hai của Thành “râu” theo sau. Chiếc hai chiếc slicks đang được quân bạn “load” lên sàn tàu những thùng đạn bằng gỗ và những ống sắt to đựng đạn đại bác bên trong chứa nước uống từ chiếc xe cam nhông đậu kế bên.
Chỉ trong vòng năm ba phút là hai chiếc trực thăng võ trang đã ở trên đầu căn cứ hỏa lực. Rặng Rocket Ridge hơi cong cong hình cánh cung, đầu cực Bắc cách biên giới Lào-Việt-Miên cỡ 15 cây số, chạy đến gần căn cứ Tân Cảnh rồi bẻ cong kéo dài về phía Nam, song song với QL 14, cuối cùng dừng lại tại phía Tây Kontum, khoảng chừng 20 cây số.
Trên cao độ cách đỉnh núi chừng ngàn bộ tôi nhìn xuống Tiền Đồn Sáu, xa xa về phía Nam là Tiền Đồn Năm, Yankee, Charlie, Delta sau cùng là Hotel qua làn hơi nóng mờ ẩn lung linh, nối tiếp nhau trên đỉnh núi của rặng Rocket Ridge.
Thận trọng bay vòng trên cao độ tôi quan sát phía bên dưới, Tiền Đồn Sáu hình tam giác màu đất đỏ nằm chơ vơ trên đỉnh, ngay chính giữa trại, lá cờ vàng ba sọc đỏ nhỏ xíu phất phơ trước gió, xung quanh đồn triền núi dựng đứng, rừng xanh mọc răng cưa đến ngang lưng chừng núi là ngừng lại, tiếp nối tới đỉnh chỉ là cỏ vàng cháy xém….Những vết bom đạn pháo kích lỗ chỗ khắp nơi, những công sự chiến đấu vỡ nát không nhận ra hình thù, còn ngun ngún khói bốc, hai khẩu đại bác 105 ly màu đen nổi bật lên trên nền đất đỏ. Sát về phía Bắc của đồn, gần ngay hàng rào phòng thủ là một vòng tròn bãi đáp của trực thăng, ở giữa một chữ H sơn màu trắng còn nhận ra lờ mờ. Tất cả là hình ảnh của một bãi chiến trường còn phảng phất mùi tử khí, hiện đang yên nghĩ trong sự căn thẳng, rình rập, đe dọa….
– Lead đây Charlie, hai bạn cất cánh lên là vừa rồi, đáp về hướng Bắc nghe..
Ngồi trên tàu tôi nhìn về hướng phi trường Phượng Hoàng, hai chiếc trực thăng chở đồ tiếp tế nhỏ như hai con kiến li ti chạy dài trên phi đạo.
– Hổ cẩn thận…sáng nay trực thăng Mỹ bị “ground fire” chạy rồi đó. Charlie nhắc nhở.
– Chiếc lead vào trước, chiếc số hai “hold” trên trời chờ. Đ/u Đức chỉ thị cho hai chiếc “slicks”.
– Cha..a..arlie, đây lead.. go..ọi, đa..ang… va…aò đây , H..ổ…Hô..ổ… mày co.o..v.er cho kỹ gi..ù..m chút nghe…
Tiếng nói nhừa nhựa kéo lê thê bằng tiếng Bắc Nghệ Tịnh nghe trên tần số trong giây phút căng thẳng này, tôi vẫn không nín được cười… “Cụ Vỹ” đã bắt đầu vào trục đáp, tôi cho con tàu bay bên cánh phải trên cao phía sau, chiếc gun số hai của Thành “râu” kèm theo bên cánh trái. Chiếc trực thăng từ từ xuống cao độ, Tiền Đồn Sáu phơi bày trước mặt…
– Le..ad đa..ang ở “f i…n..a..l”, H..ổ…H…ổ…th.e.o sát ngh e.e.e…” Ở đàng sau nhìn xuống chiếc lead đang lơ lửng đưa bụng trên vòng vây vô hình của địch. Bỗng ở đâu đó, tôi nghe vọng tiếng “cóc…cóc…cóc…”, âm thanh quen thuộc của khẩu AK-47.
– Ơ…ơ… H..ô..ổ, ơ..ơ…tụi n..ó bắn tao…Trong tần số tiếng “cụ Vỹ” la. Lần này tiếng “cóc…cóc..cóc…cóc…cóc….” nổ tràng dài như bắp rang…
– Oành…Oành…Hai trái pháo rớt trong vòng rào phòng thủ, kế khẩu đại bác 105 ly, bụi đỏ lẫn khói đen bay tung lên.
– Pháo kích, pháo kích. Tôi la lớn…Go around…Go around… Chiếc lead cắm đầu, đuôi tàu chổng lên gần như dựng đứng lài xuống chân núi trước mặt. Tức thời tôi bấm nút, những trái rockets thi nhau lao xuống chung quanh chu vi hàng rào, nổ lốp đốp tung bụi…Bên trái thằng Hổ hai đang tuôn những lằn đạn lửa minigun vung vãi khắp nơi.
– Lead, lead, đây Charlie, Vỹ, anh OK không?…Cho biết tình trạng ?…
– Để tô..i ch.e..ck…Sau vài giây im lặng tôi nghe tiếp…Char..li..e..đồng h..ồ…bình thư..ờng chắc khô.ô..ng s…a….o? “Cụ Vỹ” lè nhè dứt đoạn trên tần số.
Tất cả hợp đoàn bay vòng chờ trên cao.
– Lead, ráng giúp một lần nữa đi. Quân bạn đề nghị mình bay “low
level” ngang bãi, để lính đạp đồ xuống, đừng đáp nghe, nghe rõ trả lời…
tình trạng khẩn trương lắm, tối nay không có đủ đạn dược, đồn sẽ bị
“over run “…ráng giúp họ nghe lead. Số hai, bạn vào trước đi, để cho
lead nghỉ sẽ vào chuyến sau.
Trong tần số, tôi nghe chiếc số hai trả lời cụt ngủn:
– Nghe năm…!!!
Chiếc số hai bay vòng chờ trên cao, bắt đầu vào “final”. Tất cả tần số im lặng theo dõi. Hai chiếc võ trang bay kè phía sau. Chiếc số hai xuống nhanh giảm dần tốc độ rồi tiếp tục bay chầm chậm lướt trên đầu mặt đất lổ chổ hố pháo kích, là sát trên hai khẩu 105 ly, trên cao nhìn xuyên qua cánh quạt quay chấp chóa, những thùng đạn gỗ trăng trắng vàng cùng những ống nước màu rêu nhỏ xíu được đạp vội vã xuống bãi, rơi vung vãi khắp mặt đất trong vòng rào. Xong nhiệm vụ, con tàu trống nhẹ cắm đầu vương mình nhanh lên không trung. Trên cao chiếc C@C vòng vòng quan sát, tiếng Đ/u Đức la to:
– Hai…hai…, sao bạn không chờ chở thương binh ở bãi.
– Tôi đâu có đáp đâu mà bốc họ được, mà tôi không thấy ai cả, họ núp trong công sự tôi không thấy…để chuyến sau đi…
– Thôi được, bạn về đáp Phượng Hoàng “load” một chuyến nữa, xong báo tôi biết.
Tiếng nói Th/đ có vẻ phấn khởi khi thấy đã đổ được một chuyến hàng cho quân bạn.
– Lead đâu rồi…vào đáp được rồi đó đó…Hổ ra đem vào đi..
Chiếc lead bây giờ có phần vững dạ hơn khi thấy chiếc số hai hoàn tất nhiệm vụ an toàn, vòng lại chuẩn bị hạ cao độ. Tôi bám theo sau, mắt láo liên đảo quanh chu vi đỉnh đồi hy vọng phát giác được vị trí nào khả nghi của địch. Kinh nghiệm tôi biết chắc địch đang chuẩn bị gờm súng chờ đợi con mồi mỏng manh chậm chạp này, để một chuyến tiếp tế vào an toàn đã làm chúng điên đầu, sôi máu. Mồ hôi rịn lấm tấm trên trán, tay tôi siết chặt cần lái, ngón tay để sẵn sàng trên nút bấm rocket. Con tàu của Đ/u Vỹ đang vào “final”, xuống thấp dần. Tôi nín thở theo dõi. Chỉ còn chừng vài chục bộ nữa là lead ở trên mặt đồn, chiếc trực thăng bay chậm là sát trên mặt những công sự, tôi nhìn thấy những người lính lấp ló trong khoang tàu đang chuẩn bị đạp những thùng đồ.
– Ground fire…Ground fire…tiếng la thất thanh trong tần số, không phải của Đ/u Vỹ mà tiếng của người hoa tiêu phụ.
Cùng lúc tôi nghe rõ ràng nhiều tiếng gõ từ nhiều phía: “Cóc…cóc…cóc..cóc…”. Những tiếng “Cóc…cóc…cóc” tiếp tục liên hồi.
Tôi bỗng nghe tiếng la chói lói của Đ/u Vỹ trên tần số:
– Á..á…ch.ế.t..chê…ết…tô..ô..i rồi…..Chỉ chừng đó rồi im bặt.
Như có một luồng điện chạy dọc theo xương sống, tai như nghe rõ từng tiếng đập thình thịch của trái tim trong lồng ngực, tôi nghiến răng hai tay siết chặt cần lái, mắt đổ lửa, ngón tay cái bấm liên tục vào nút đỏ…xoẹt…xoẹt….xoẹt….những trái rockets như những mũi tên lửa tranh nhau rời dàn phóng lao xuống triền núi trọc, nổ ầm..
Dưới thấp, chiếc trực thăng đang phơi mình trước những lằn đạn của địch, cắm đầu cất cánh lài xuống triền núi, những tiếng cóc cóc bắn vói theo….
– Lead, lead…nghe không trả lời!
Chiếc lead vẫn im bặt…
Đ/u Đức la to:”Hai Hổ bay theo lead cover..Nghe rõ…”
Trong sự im lặng ngột ngạt căng thẳng, tôi kéo hết tốc lực cố bám theo chiếc lead.
– Lead đây Hổ, nghe không trả lời…
Vẫn im bặt trên tần số, chiếc lead hướng về phi trường Phượng Hoàng hạ thấp cao độ.
– Charlie gọi lead nghe không trả lời…
Tôi đã bắt kịp tàu lead, cặp sát bên hông tàu. Nghiêng đầu nhìn, qua khung cửa ngay ghế bay, trên tấm thép dày chắn đạn, tôi thấy lấp ló chiếc nón bay của “cụ Vỹ”…
– Hổ gọi, lead… trả lời.
Bỗng trên tần số, vang lên tiếng nói người hoa tiêu phụ :
– Charlie, lead bị bắn nhiều viên trúng tàu, hiện tôi đang chuẩn bị đáp…, Charlie kêu xe cứu thương ra phi trường giùm…
Tôi cho con tàu đáp ngay sau đuôi tàu Đ/u Vỹ. Cánh quạt vẫn con quay vù vù, tôi mở cửa phóng xuống đất, trên đầu còn đội helmet, chạy nhanh về phía tàu lead. Trên sàn tàu của Đại Úy Vỹ một cảnh tượng hãi hùng, người lính bộ binh đi theo phụ nằm xoải hai tay, máu đỏ che gần hết cả khuôn mặt, đôi mắt vô hồn mở trừng trừng nhìn thẳng lên trần, trên sàn tàu máu lênh láng. Tôi ngoảnh mặt quay người lại. Đại Úy Vỹ vừa mở cửa bước xuống, máu đỏ tươi ướt đẫm trên ngực chiếc áo bay màu xám, người bước đi xiêu vẹo, khuôn mặt chưa hoàn hồn. Tôi hốt hoảng:
– Trời đất… chuyện gì vậy..? Tôi nói chưa dứt câu thì người hoa tiêu phụ mang lon Th/u vừa trên tàu bước xuống, trong giọng Nam kỳ đặc kẹo, anh ta chen vô:
– “Thầy Vỹ” OK, không sao đâu, máu của anh lính bộ bị bắn lúc nãy đó. Vừa nói anh vừa lấy tay sửa lại dây nịt đeo khẩu súng “rouleau” xệ xệ bên hông trông rất “phong độ”. Tôi nhìn người hoa tiêu mới trong cặp kính mát “Rayban”, cao ráo đẹp trai, đang kể lại với một giọng bình thản như không có gì xảy ra.
– Khi tôi nghe tụi nó bắn như bắp rang, biết không xong rồi, thế nào cũng ăn đạn, chạy đâu cho khỏi… Anh ta nói tiếp như đang kể lại một chuyện phim gay cấn nào đó, lúc tàu đang bay trên đồn sắp đạp hàng xuống đất, tôi nghe tụi nó bắn rần rần từ phía Đông của đồn, anh lính đang đứng khom khom sau ghế bay “thầy Vỹ” nhìn về phía trước “windshield”, bỗng đùng một cái anh ngã nguời về phía “cockpit”, ôm choàng lưng ghế Đại Úy, đầu gục trên vai “ông thầy” máu chảy ròng, tôi nghĩ chắc bị một viên vô đầu rồi. “Thầy Vỹ” kế bên có lẽ chưa hoàn hồn, đứng yên không nói gì nghe anh ta kể tiếp:
– Lúc té xuống tôi thấy tay anh ta nắm giựt đứt sợi giây intercom trên helmet của Đại Úy, bởi khi Charlie gọi, ổng không trả lời được là vậy…
Chăm chú lắng nghe, tôi quá đỗi ngạc nhiên khi không hề thấy người hoa tiêu mới này không hề tỏ một cảm xúc nào cả sau khi vừa trở về từ cõi chết. Vừa lúc người hoa tiêu trên tàu tôi đang bước tới, tôi ngoắc anh lại gần, xong bảo:
– Bạn thông báo với Charlie phi hành đoàn OK, sẽ check tàu và báo cáo chi tiết đầy đủ sau.
Xong tôi quay lại nhìn Đại Úy Vỹ, anh đang cúi đầu nhìn xuống chiếc áo bay bây giờ máu đã sậm màu:
– Mẹ…tiê..ên…sư cha..a chú..ng nó.., khô..ng biết giặt c..ó sạch máu..không đây? Ta..o đem the..o có hai bộ đồ, khô..ông biết co..òn ở đây bao la..âu…..Đại Úy Vỹ vừa nói vừa cúi xuống nhìn vào chiếc áo bay đang bận trên người. Tôi không dấu được sự kinh ngạc:
-Trời đất ơi, “ông Thầy” ơi, chết sống đây không lo, lo chi bộ đồ bay giặt không sạch. Bỗng nghe tiếng trực thăng đang chém gió kêu “phành phạch” trên cao tôi ngững lên nhìn, chiếc Charlie bay vù nhanh ngang trên đầu phi đạo… Từ chổ chiếc xe cam nhông chở đạn, chiếc Jeep của bộ binh lăn bánh chạy đến ngừng lại kế chúng tôi, trên xe người lính Dù nhảy xuống nói:
– Đại Úy Đức bảo hợp đoàn cất cánh về Pleiku trước đi. Tàu ông phải đáp Võ Định thả người sẽ về sau.
Tôi quay người hướng về Tiền Đồn Sáu nhìn, rặng núi bình thản phơi mình trong nắng chiều, trên cao hai chiếc khu trục cơ nhỏ tí đang vần vũ nhào lộn, xa mãi tít trên cao nữa ba chiếc pháo đài B-52 như ba chấm đen bay lặng lẽ trên vòm trời xanh kéo sau theo sau đuôi những đường khói trắng….
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN II: NGƯỜI Ở LẠI CHARLIE
Ngày 12 tháng 4 năm 72
Này anh! Anh! Hỡi anh ở lại Charlie
Anh! Vâng, chính anh là loài chim quý
Ôi, cánh chim trùng khơi vạn lý
Một lần dậy cánh bay
Người để cho người nước mắt trên tay…
Một buổi chiều miền Tây nguyên, một buổi chiều sau một ngày sôi động chiến tranh của “Mùa Hè Đỏ Lửa”. Bầu không khí bắt đầu quyện đục sương đêm hòa lẫn khói rừng âm ĩ cháy, phảng phất khen khét đâu đây mùi thuốc súng… Ánh nắng vàng nhạt còn vương vấn trải dài trên những triền núi xa xa…
Hai chiếc trực thăng võ trang của Phi đoàn Thần Tượng trên đường về căn cứ Cù Hanh sau một ngày nhào lộn trên chiến trường nóng bỏng. Trong cockpit Th/u Nguyễn Thanh Hùng im lặng cầm cần lái, đôi mắt đăm chiêu trên khuôn mặt thể hiện một nét mệt mỏi. Ngồi bên cạnh tôi uể oải dựa ngửa đầu vào lưng ghế bay nhìn xuống Quốc lộ 14 chạy lùi dưới chân. Đây là con đường huyết mạch nối liền Kontum và thị trấn Pleiku chạy giữa vùng núi rừng xanh thẳm. Dọc theo hai bên đường được khai quang trống trải để đề phòng những cuộc phục kích của Việt Cộng, những người Thượng lưng đeo chiếc gù đầy củi đang lầm lủi bước nhanh cố tranh thủ với bóng đêm đang chầm chập tới. Một vài người ngững đầu lên đưa tay vẫy chào hai con tàu đang lướt qua trên đầu. Phía bên trái ngọn núi Chu Pao đứng sừng sững nhìn xuống QL 14 như một vọng canh chiến lược thiên nhiên , nơi đây sẽ khởi chiến những trận đánh đẫm máu của ta và địch trong những ngày sắp tới để dành chủ quyền kiểm soát con đường huyết mạch này. Xa xa một đoàn xe “công voa” nhà binh mở đèn pha chạy nối đuôi nhau chạy ngược về hướng Kontum. Con đường xa lạ này giờ đây nó đã trở thành một hình ảnh vô cùng quen thuộc với những con chim sắt ngày ngày tung cánh lao đi vào vùng lửa đạn.
Sau phi vụ tiếp tế đẫm máu mở màn tại Tiền Đồn Sáu, kế cận phi trường Phượng Hoàng, Tân Cảnh, phi đoàn 215 Thần Tượng đã được lệnh tăng phái lên Pleiku để yểm trợ cho mặt trận vùng cao nguyên. Nguyên phi đội được chỉ định ở trong một trong những barracks của Mỹ để lại trong phi trường cạnh một sân cỏ rộng, ở đó đậu tạm những chiếc trực thăng của biệt đội trong giai đoạn hành quân. Trong linh cảm, tất cả nhân viên phi hành đều biết rằng sẽ phải đối đầu với một trận chiến khốc liệt và có thể kéo dài. Phi trường Cù Hanh càng ngày càng bận rộn theo mức leo thang của chiến cuộc, sự sinh hoạt tại căn cứ mang một màu sắc nghiêm trọng khẩn trương hơn. Đứng trên tầng hai của biệt đội nằm trên một vùng đất khá cao, tôi có thể quan sát mọi sự hoạt động của phi trường vào mổi buổi sáng sớm. Trên những con đường những chiếc xe pick-up màu xanh chạy vội vã chở đầy phi công; những người lính Không Quân hối hả trên những chiếc xe gắn máy phóng đến phần sỡ cho kịp giờ; những hàng gánh rong bán thức ăn sáng rộn rịp ở những góc đường. Ngoài phi đạo máy bay sắp hàng để chuẩn bị cất cánh lên vùng, những chiếc khu trục thô kệch nặng nề, đeo đầy bom tiếng máy rú lên như con thú dữ, những chiếc máy bay quan sát mảnh mai như con hạc trắng nhẹ nhàng cất cánh lên không trung, mấy chiếc vận tải C-123, C-130 to lớn đậu trên “Tarmac” kế những “hangar” khổng lồ, cửa cargo sau đuôi tàu mở rộng, những kiện hàng nằm ngổn ngang. Tại mấy ụ đậu trực thăng, tiếng quay máy o..o… o… của những động cơ bán phản lực cùng tiếng chém gió “phần phật” của những chiếc tàu đang lơ lửng trên “taxiway” càng làm cho không khí thêm sôi động.
Vào những giờ ăn tại câu lạc bộ của Không Đoàn đầy người đủ mọi thành phần của các binh chủng. Hoa tiêu trong những bộ đồ bay tác chiến đủ kiểu, từ bộ đồ nomex hai mảnh của những hoa tiêu trực thăng, đội nón rằng ri như lính Lôi Hổ, đến những phi công khu trục với bộ đồ bay cam, xám hay kaki, cùng những người không phi hành ngồi tụm năm tụm ba trên bàn, trên khuôn mặt mọi người thể hiện lên nét khẩn trương phản ảnh một cuộc chiến đang đi vào giai đoạn quyết liệt.
Từ đầu năm 72 đến trung tuần tháng 3, địch đã đủ thời giờ dàn trận và bố trí ở những mặt trận mà chúng đã chọn, và đến bây giờ là giai đoạn tổng công kích. Quân đội VNCH bị ở trong thế cờ thụ động, dò dẫm nghe ngóng hoạt động của địch. Không lực của Đồng Minh cũng như Việt Nam liên tục ngày đêm oanh tạc những điểm tập trung của địch để tiêu hủy tiềm năng của Cộng quân trước khi chúng thực sự tổng tấn công. Riêng về hoạt động của các phi đoàn trực thăng đa số là tiếp tế cũng như đổ toán Lôi Hổ để thám sát, dò tìm tin tức sau phòng tuyến của địch. Những phi vụ bay gần vùng biên giới thường đem lại cho phi hành đoàn những cảm giác căng thẳng nếu không nói là lo ngại vì sự hiểm nghèo của nó.
Những phi vụ trong thời gian biệt phái tôi đã trải qua những kinh nghiệm vui buồn khó quên trong cuộc đời bay bổng. Nhớ lại một phi vụ thi hành khi sương mù đang còn lãng đãng trên đầu ngọn cây, hai chiếc gunship trong đội hình tác chiến, hướng về vùng biên giới, bay trên mặt rừng cây trùng điệp, tinh thần tập trung né tránh những bãi cỏ trống hay rừng thưa, bỗng dưng trước mặt một tàng cây đại thụ nổi bật nhô cao lên xuất hiện trước mũi con tàu, loáng thoáng dưới tàng cây rậm năm bảy bóng đen di động làm lung lay cành lá, giật mình tôi kéo ngược bật cần lái né tránh, con tàu bay vút lên cao… Tim đập thình thịch tôi la:
– Trời đất…., Việt Cộng… , tụi mày thấy không… mẹ… làm tao giật cả mình…
Người hoa tiêu phụ quay nhìn tôi khuôn mặt lộ vẻ rất ngạc nhiên, buột miệng:
– Việt Cộng ở đâu ông, khỉ đó, một đàn khỉ đu trên cây tôi thấy rõ ràng.
Tôi cắt lời:
-Bạn nói cái gi? Tao thấy năm bảy đứa bận đồ đen đang rình mà bạn nói là khỉ.
Không đồng ý với người hoa tiêu phụ tôi quay ra phía sau hỏi hai anh mê vô xạ thủ:
– Tụi mày thấy gì? Tao thấy rõ ràng lố nhố mấy thằng bận áo đen đang đeo trên cành cao. Bố chúng nó! Làm tao hết hồn…
Mấy anh xạ thủ sau nhe miệng cười:
– Ông giật cần lái làm tụi tui hết hồn thì đúng hơn, một bầy khỉ đó ông à, tụi này thấy rõ ràng mà.
Vì địa thế mặt rừng dày đặc vùng cao nguyên địch thường cho những khinh binh leo lên cây cao hay làm những chòi nhỏ trên đọt cây để quan sát sự di chuyển cũng như những hoạt động của máy bay và đôi lúc chúng cũng dùng súng trường để bắn sẻ vào những chiếc trực thăng bay ở độ thấp. Đến đây thì tôi mới biết rằng mình lầm, hồn vía trở lại
Trong một chuyến bay thả toán khác, sau khi thi hành xong phi vụ yểm trợ để thả một toán Lôi Hổ kế cạnh con đường mòn Hồ Chí Minh, trên đường trở về, trên mặt vùng rừng già dày đặc thình lình trước mặt mũi con tàu một bãi cỏ xanh rộng hiện ra, ngay góc rừng một khẩu phòng không được ngụy trang bằng những cành lá dây leo, nấp sát bìa cây cao, nòng súng đen ngòm to chỉa thẳng lên trời. Mặc dù đã xông pha trận mạc qua nhiều năm tôi vẫn không làm sao tránh được cái cảm giác bị giật mình làm tim đập mạnh khi gặp một yếu tố bất ngờ. Đây là lần đầu tiên tôi được chứng kiến một khẩu súng cao xạ cỡ lớn trong khoảng cách quá gần. Phản ứng đầu tiên tức thì tôi quẹo gắt phía bên phải để né bãi cỏ trống . Địch và chúng tôi đều bất ngờ đụng độ, hai bên không có thì giờ để phản ứng. Đó cũng là một đều may mắn cho phi hành đoàn. Tôi cho con tàu bay hướng về phía Nam. Hình ảnh khẩu phòng không nằm ở góc rừng như đang ngạo nghễ thách đố… Trước đây không lâu anh Phạm Thành Rinh, một người bạn chí thân của tôi cùng chung phi đội võ trang 215, và hoa tiêu phó Võ Diện đã bị bắn nổ tung trên bầu trời mịt mờ khói lửa cũa Võ Định, Tân cảnh. Rinh đã cùng phi hành đoàn thảng thốt ra đi, không kịp nói một lời trên tần số. Tôi đã mất một người bạn, một nghệ sĩ với cây đàn… Giọng hát ngọt ngào trầm ấm anh thường trình diễn trong những buổi dạ vũ của PD còn văng vẳng bên tai:
Em đến bên tôi một chiều khi nắng qua rồi…
Nắng ngừng bên chiếc cầu biên giới…
Xa xa tiếng đàn trầm vô tư…
Đâu đây dáng huyền bền duyên mơ…
Bên cầu biên giới…
Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi…
Anh Rinh đã vĩnh viễn ra đi, thân xác anh đã trở thành cát bụi trên vùng trời biên giới, anh không còn hiện hữu để “lặng nghe dòng đời từ từ trôi… “. Anh và tôi chỉ có hai người được chọn về với phi đoàn 215 trong tất cả các bạn cùng khóa. Anh ra đi vì khẩu phòng không oan nghiệt. Hình ảnh đau thương trở lại trong tâm trí, máu huyết trong người tôi sôi sục, tôi muốn quay trở lại ngay để trút lên đầu địch những hận thù chất chứa. Nhìn lại khả năng và vũ khí giới hạn trong tay, trực diện đối đầu với khẩu phòng không này quả là một sự điên rồ. Những sách vở kiến thức học ở trường bay chưa bao giờ dạy chúng tôi những chiến thuật, chiến lược để đối phó với hoàn cảnh này. Trực thăng vận quá mới mẽ đối với chiến tranh Việt Nam. Những hoa tiêu trực thăng của VN chỉ được dạy kỹ thuật bay bỗng, ngoài ra họ phải tự học hỏi lấy qua những kinh nghiệm bản thân để đối phó với mặt trận càng ngày càng leo thang.
Khẩu cao xạ phòng không vẩn đang chờ đợi. Tôi chợt nhớ trong sách lược của Khổng Minh đã có nhiều mưu kế để hạ kẻ thù và một phương thức tôi chợt nghĩ đến là chiến thuật “Dương Đông kích Tây”. Nếu tôi cho chiếc “gun” số hai bay vòng vòng sát đầu ngọn cây phía Bắc của địch, tiếng động cơ ồn ào cùng tiếng chém gió “phành phạch” của chiếc trực thăng sẽ gây sự chú ý của tên xạ thủ phòng không và sẽ quay hướng nòng súng phía Bắc chờ đợi. Bay nhanh sát trên đầu ngọn cây từ hướng Nam lên, tôi sẽ bất ngờ đột kích. Khẩu cao xạ nặng nề sẽ không kịp quay họng súng về hướng Nam để kịp tác xạ. Nếu sự suy luận của tôi đúng, tôi chỉ cần vài ba giây ngắn ngủi đó để hoàn tất sứ mạng,
Tôi liều lĩnh thực hành ý định. Hai chiếc gunships chúng tôi chia tay nhau, chiếc số hai thi hành nhiệm vụ “dương Bắc”, tôi ở lại chờ đợi sứ mạng “kích Nam”. Không đầy một hai phút sau chiếc gun số hai báo cho biết đã đến vùng. Thời cơ đã điểm, không một giây chậm trể, tôi lao con tàu về hướng khẩu phòng không. Chiếc tàu cắm đầu chúi mũi lướt vùn vụt trên đầu mặt rừng già gợn sóng nhấp nhô như mặt biển xanh. Chỉ còn cách bãi cỏ một khoảng ngắn, tôi kéo ngược cần lái, con tàu tức khắc ngóc đầu lên cao như con rắn hổ phùng mang trợn má trước khi mổ vào đầu địch. Xoẹt… Xoẹt… Xoẹt… Mười bốn trái rockets vội vã thi nhau rời con tàu lao thẳng tới dàn phòng không ẩn hiện trong đám cây góc rừng. Những tiếng nổ ầm vang dội núi đồi, bụi mù xen lẫn cành lá bay tung tóe khắp nơi. Tai nghe loáng thoáng tiếng cóc cóc đâu đó cũa những khẩu AK-47, tôi không còn thì giờ để nhìn thành quả, một tay đè mạnh cần cao độ, tay kia bẻ ngoặc cần lái, chiếc trực thăng tức thời nghiêng mình lài xuống về phía bờ cây cao. Trước sự ngở ngàng của địch quân con tàu chỉ xuất hiện năm ba giây rồi vụt biến mất dạng trên mặt rừng mênh mông, theo sau chiếc Hổ hai sát nhập lại nối đuôi nhau như hai con rắn độc hạ thủ xong lủi vào bụi cây rậm… Trên đường trở về căn cứ, tôi hình dung một nụ cười mãn nguyện đang nở trên môi của Rinh nơi chín suối…
– Mãnh Hổ, Charlie… Hai bạn ở đang ở đâu, cho biết vị trí-. Tiếng nói của Th/T Phạm Bính, phi đoàn trưởng của phi đoàn 215 đột ngột vang trong tần số VHF.
Ngạc nhiên khi nghe vị phi đoàn trưởng gọi tôi trong giờ phút này, tôi trả lời:
-Charlie đây Hổ… còn chừng mười phút nữa đáp Pleiku…
-Tôi vừa nhận được tin tức mới nhất, Căn cứ hỏa lực Charlie đang bị tấn công nguy kịch, tình trạng rất nguy ngập, quân bạn đang cần sự yểm trợ của tất cả những phi cơ nào đang có mặt trên vùng. Hai Hổ quay lại vùng Võ Định, hiện tôi đang có mặt tại đây với bộ chỉ huy Dù, hai bạn lúc nào đến cho tôi biết, sẽ có chỉ thị.
Vừa nghe Charlie dứt lời trên tần số Th/u Hùng quay sang nhìn tôi xong buột miệng:
-Trời đất.., trể quá rồi tới đó là quá tối thấy đường đâu mà đánh.
Trước thái độ của Hùng, tôi biết anh đã quá mệt mỏi sau một ngày dài, nhưng không có một sự lựa chọn, tôi trả lời C@C:
-Hổ nghe năm… , quay lại Võ Định.
Nói xong tôi ra dấu tay cho Hùng quay đầu con tầu trở lại hướng Bắc, sau lưng chiếc Hổ Hai bám sát. Quay nhìn bên ngoài, bầu trời mập mờ không còn bao lâu nữa thì tối hẳn. Lòng dấy lên một niềm e ngại, chưa bao giờ tôi thực sự tham dự một trận đánh đêm trong vùng rừng núi cao nguyên này cả. Tuy nhiên theo chỉ thị của cấp trên, tôi phải tuân lệnh. Tôi vỗ về người hoa tiêu bạn:
-Ráng tí đi Hùng, có lẽ mình sẽ đánh vài ‘pass’ rồi về thôi.
Trong phi đoàn anh hoa tiêu phụ của tôi có biệt danh là “Hùng kiềng”, chân anh hơi cong cong, anh có tướng đi khệnh khạng như “cao bồi” cỡi ngựa. Anh tánh bộc trực có gì nói nấy, lại có tội hơi lè phè. Tôi còn nhớ một buổi sáng đang mơ màn nằm ngủ trong phòng bỗng nghe vẳng vẳng tiếng đồng hồ báo thức của ai reo dai dẳng, liên tục. Tôi ngồi dậy bước ra khỏi gường, ngang phòng Hùng thuê cách tôi một căn, tiếng reo vang rền, tôi đẩy nhẹ vào cửa không khóa… Hùng đang nằm ngữa mình trần trùng trục mồ hôi đổ nhễ nhại, hả miệng gáy o… o… Hoa tiêu phụ có bổn phận phải có mặt trước để check tàu, trưởng phi cơ sẽ ra sau. Chiếc đồng hồ điện báo thức réo rắt từ sáu giờ sáng đến quá chín giờ mà anh vẩn còn chìm đắm trong giấc ngũ say.
Hùng là một hoa tiêu phụ bay với tôi rất nhiều phi vụ và đã chia sẻ với tôi nhiều giây phút đáng nhớ. Một lần trên đường bay ra Phù Cát, giao tay lái cho Hùng xong tôi ngồi dựa ngửa vào lưng ghế, mắt nhắm lại nghỉ mệt. Trong tiếng máy nổ đều đặn, con tàu rung nhẹ dần đưa tôi vào “chốn lãng du”… Đang phiêu diêu nơi “chốn tang bồng” con tàu chợt rung động mạnh, tôi hé mở mắt ra nhìn: tất cả xung quanh con tàu bao phủ một màu mây trắng xóa, không biết đâu là trời đất… Mơ mơ màng màng, tôi tự hỏi, ” Tàu bị lọt vô mây… , ai đang cầm lái đây?… Vertigo ? “. Những tư tưởng mơ hồ loáng thoáng trong đầu như tia điện làm tôi tỉnh hẳn người. Hốt hoảng tôi ngồi phắt dậy, tay chụp vội cần lái la to, ” Ê… , ê… , chết… , chết..chết… .” vừa chưa nói hết câu, đột nhiên bầu trời trở lại trong sáng, dưới chân mặt biển xanh ngát một màu. Con tàu vừa bay xuyên qua một đám mây nhỏ. Sượng sùng tôi trả cần lái lại cho Hùng… Cũng nên biết trực thăng thường bay VFR (Visual Flight Rules), chun vô mây là điều bất khả kháng.
Cuộc đời hoa tiêu trực thăng gian khổ, năm tháng đương đầu với nhưng giờ bay dài đăng đẳng. Một ngày ngồi trên chiếc ghế bay bảy tám tiếng là chuyện thường khi hợp đoàn phải di chuyển cả Tiểu Đoàn bạn vào vùng hành quân. Ngồi trên ghế chai cả mông, mồ hôi đổ ướt đít đến mọc mụn.
Một lần khác trên thung lũng “Buôn Mì Gà” vào buổi trưa hè nắng gắt, hai chiếc guns bay vòng trên trời chờ hợp đoàn trở về bốc thêm quân, Hùng cầm cần lái tôi ngửa đầu vào lưng ghế nghỉ rồi ngủ thiếp đi. Bay vòng chờ trên cao, mỗi khi con tàu hướng về phía mặt trời, ánh nắng dọi thẳng vào mặt nóng như thiêu đốt, bỗng dưng đưa tôi vào một cơn ác mộng, mơ thấy con tàu đang bị bốc cháy dữ dội, lửa ngọn lan tràn đến cockpit hốt hoảng tôi ngồi nhổm dậy la làng: “Cháy… cháy… .cháy… “. Mở mắt ra, tim đập thình thịch tôi ngơ ngác nhìn khoang tàu, mọi sự vẫn bình thường, bên ghế trái “Hùng kiềng” đang im lặng miệng phì phèo điếu thuốc lá trố mắt nhìn tôi ngạc nhiên, rồi bật cười lớn… Biết là hố, tôi lấy tay áo quẹt lau mồ hôi đổ hột trên mặt, sửa lại thế ngồi, xong lui cui móc điếu thuốc lá châm hút, nhìn ra ngoài trời xanh, mây trắng không nói một lời…
-Sao ông thầy mình cần load thêm đạn không?- Tiếng nói của Hội xạ thủ hỏi tôi.
-À… thôi có lẽ còn chừng đó xài đủ rồi, để coi tình trạng như thế nào đã. Chắc không lâu đâu, đánh vài vòng rồi về, tối rồi.
Phía sau tàu Hội xạ thủ đang ngồi bệt trên sàn lúi húi sửa khẩu súng bị kẹt, chiếc áo bay phập phồng gió lộng trong khoang tàu mở cửa. Anh Song mê vô ngồi trên thùng đạn đang ưu tư nhìn vào khoảng không. Một niềm cảm xúc dấy lên trong lòng thương cho những người bạn đồng hành gần gũi qua bao nhiêu năm chung chia tất cả những vui buồn khổ cực. Trong những giây phút mạng sống như chỉ mành treo chuông trên mặt trận họ cũng hứng chịu không khác gì hoa tiêu, nhưng họ đã không được đề cao hay tưởng thưởng tương xứng với những gì họ đã đóng góp. Phi đội trực thăng võ trang trong phi đoàn chỉ là một nhóm nhỏ, rất thân tình gần gủi với nhau, anh em biết tánh tình từng người một. Tr/s Song xạ thủ theo đạo Phật, theo tôi biết anh kỵ sát sanh, một con kiến anh cũng không muốn giết vậy mà tôi không hiểu tại sao anh lại xin vào phi đội trực thăng võ trang. Trong một phi vụ phía Bắc Gia Nghĩa, đang bay quan sát bãi đáp ở độ cao vài trăm bộ, bất chợt một tên VC từ bụi cây giữa bãi cỏ trống phóng như cắt hướng về bìa rừng. Tôi hét lớn:
-Song, Song… bắn… bắn… .
Hàng ngàn viên đạn tuôn ra từ nòng súng cày lên mặt đất tung tóe xung quanh tên VC. Đạn vẫn tuôn ra như mưa Bấc, tên VC vẫn chạy mãi đến gần bìa rừng. Tay kềm con tàu, theo dỏi diễn tiến qua khung cửa, tôi điên “tiết vịt” lên lắc mạnh cần lái, con tàu chao đảo. Tôi hét:
-Hội… , Hội.. Hội… qua bên này bắn đi… nhanh lên… , coi chừng nó chạy mất… bắn như con c… .
Nhưng đã quá muộn tên VC đã biến mất dạng dưới những tàng cây rừng rậm rạp… Tôi lầm bầm một mình trong intercom:” Mẹ… sợ sát sanh mà đòi đi bay guns… ”
-Hổ tới đâu rồi, báo cáo…- Giọng nói của Th/T Bính nghe trên tần số.
-Chừng vài phút sẽ đến Võ Định, OK, tôi thấy Charlie rồi….
Cao trên thung lũng đậm màu đêm xuống bên con sông Pokor uốn khúc phía Tây QL 14, chiếc trực thăng C@C như một chấm đen trong bầu trời sẫm tối . Phía Đông là căn cứ chỉ huy Võ Định của Lữ Đoàn 2 Dù nằm sát con lộ, phía Tây là rặng núi Ridge cao mờ mờ ẩn hiện.
– Hổ “hold” chờ phía Đông đồi Charlie, bạn sẽ cùng bốn chiếc gunships của phi đoàn 235 và 229 vào yểm trợ, chừng vài phút nữa họ sẽ có mặt… .
Tôi cho con tàu bay vòng về phía Đông dãy núi trọc nhìn xuống cụm đồi phòng thủ của đồn Charlie hình yên ngựa. Từ cao tôi có thể thấy những trái đại pháo liên tục rớt trên mặt đất của đồn, nổ tóe lửa trong ánh hoàng hôn mờ ảo, trông lập lòe chớp lóe như pháo bông. Căn cứ hỏa lực này giờ hầu như đã thành bình địa, những công sự phòng thủ bị pháo nát, hòa lẫn với đất cát không nhận ra hình hài.
Tại căn cứ này, địch đã dùng chiến thuật công đồn đả viện, tiền pháo hậu xung. Chúng tiêu hao tất cả những tiềm lực chiến đấu của quân bạn bằng những trái đạn đại pháo, những trái đạn nổ chậm chui xuống đất rồi nổ tung phá nát hầm sâu. Một mặt chúng ngăn chặn nguồn tiếp tế duy nhất là trực thăng bằng những khẩu phòng không bố trí xung quanh đỉnh núi hay những trái pháo đã được điều chỉnh sẵn nhắm vào bãi đáp.
Trong bóng chiều tà, từ đỉnh đồi Charlie nhìn thẳng xuống tới chân núi phía Đông tôi vẫn còn nhận rõ một khoảng đất cỏ cháy xém, ngay chính giữa là một khối sắt co dúm đen đủi, kế bên là một khúc đuôi trực thăng còn nguyên nằm lật ngược. Tất cả đó là những gì còn sót lại của một con chim sắt thuộc phi đoàn Thần Tượng đã gãy cánh cách đây mấy ngày. Hình ảnh còn mới mẽ của phi hành đoàn thân yêu đã ra đi trong bất ngờ, trong thảng thốt như một cuốn phim kinh hoàng bừng sống lại trước mắt tôi…
Mười giờ sáng hôm đó, năm phi hành đoàn Thần Tượng đáp tại bộ chỉ huy Dù ở căn cứ Vỏ Định, sát phía Đông QL 14. Chiếc Charlie do Th/t Khuu Văn Phát, phi đoàn phó, cầm lái. Vì Lữ Đoàn Dù chỉ đóng quân tại những căn cứ cố định trên những tiền đồn cao điểm nên những phi vụ thường là tản thương hoặc tiếp tế. Năm chiếc tầu đã tắt máy, tôi bước xuống đi lững thững vào bộ chỉ huy dọc theo hàng rào kẻm gai con đường đất đỏ quanh co. Những chiếc lều dã chiến màu xanh cứt ngựa thật lớn, trên nóc đầy những cột “ăng-ten” chĩa thẳng lên trời, không xa đó đặt vài khẩu trọng pháo thỉnh thoảng nổ đì đùng… Vòng vo một khoảng nữa thì tôi đến căn trại của bộ chỉ huy Lữ Đoàn II Dù. Tôi bước vào lều, Th/T Phát đã có mặt với một vài vị sĩ quan bạn ngồi kế bên một cái bàn dài trải những tấm bản đồ xanh lơ. Kế đó Trung Tá Đặng Duy Lạc, một hoa tiêu A-37, Không đoàn Trưởng KD62/CT tại Nha Trang, đang nói chuyện với một sĩ quan cấp tá Dù. Sự hiện diện của Tr/T Lạc làm cho tôi rất ngạc nhiên. Tôi vừa đưa tay chào theo cung cách nhà binh vừa bước đến gần bên Th/T Phát kéo chiếc ghế trống ra ngồi, xong tôi ghé sát vào tai Th/T Phát hỏi nhỏ:
– Ông Tr/T Lạc làm gì ở đây vậy?
– À, ổng chỉ lên thăm và ủng hộ tinh thần anh em thôi, chiều ông về lại Nha Trang rồi.
Th/t Phát trả lời xong nói tiếp:
– Ngồi tí rồi mình đi, sáng hôm nay chỉ có hai phi vụ tiếp tế cho Charlie. Bạn còn nhớ vụ tôi bị bắn ở Tiền Đồn Sáu không? Phòng không đây nặng hơn nhiều, Hổ cẩn thận.
-Thầy quá may đó, nhìn chiếc tàu bị bắn, tôi không hiểu sao Thầy về kịp đáp Phượng Hoàng an toàn được.
Tôi đáp lời . Nhớ hình ảnh chiếc trực thăng khi đem về căn cứ, viên đạn 12 ly 7 xuyên qua sàn tầu, đâm lủng bình xăng đi thẳng lên làm một lổ lớn trên trần tàu rồi bay thẳng lên trời, may viên đạn trúng tàu không phải là đạn lửa không thì con tàu sẽ nổ tan xác pháo. Tôi cảm thấy cuộc đời bay bổng của hoa tiêu trực thăng thật mong manh, mạng sống như chỉ mành treo chuông, trong những trận chiến sôi động này, tương lai chỉ đếm từng ngày một.
Ngồi nói chuyện đôi ba câu xong, tôi đứng dậy bước khỏi lều hút thuốc lá. Trong ánh nắng chói chan, tôi để tầm mắt về hướng Tây, dãy núi Rocket Ridge đứng sừng sững bất động dưới bầu trời xanh. Đã mấy ngày nay tin tức cho biết Cộng quân đang áp đảo căn cứ trên đỉnh núi, cố tình muốn dứt nọc trước khi tổng tấn công vào vùng Tân Cảnh, dưới trách nhiệm của Sư Đoàn 22 bộ binh. Những viên đạn đại pháo 130 ly, những trái hỏa tiễn 122 ly cùng với những súng cối 82 ly ngày đêm không ngưng nghỉ rót vào những căn cứ hỏa lực.
– Lẹ đi, tao đá cái chết mẹ bây giờ! .
Đang đứng dựa gốc cột dưới căn lều dã chiến bộ chỉ huy, tôi quay lại thấy một anh Tr/s Dù, đầu đội nón “bê-rê” đỏ đi kế bên một thằng bé cỡ mười sáu tuổi mười bảy tuổi, bận bộ đồ màu xanh cứt ngựa của lính chính quy Cộng Sản, tóc tai bơ phờ, mặt mày ngơ ngáo. Thấy tôi anh ngừng lại chào, tôi hỏi:
– Anh đem nó đi đâu vậy?.
– Dạ, tôi đưa nó đi cầu-, xong anh nói tiếp: -Nó vừa mới bị bắt sống tối hôm qua đó, nó thuộc Sư Đoàn Thép, bộ chỉ huy cho chở về đây lấy tin tức. Tụi nó hết người rồi phải lấy toàn con nít hỉ mủi chưa sạch. Sư Đoàn Thép bây giờ toàn thứ này nhiều lắm.
Nhìn khuôn mặt non choẹt tái mét vì đã chui rúc trong rừng sâu nước độc, mỏng manh trong bộ quân phục xốc xếch, chân mang đôi dép quai râu, tôi thấy tội nghiệp cho những đứa trẻ “sinh Bắc tử Nam”. Anh lính Dù đứng một lát xong dục: “Đi mày!”. Gật đầu chào rồi bước ra chỗ bãi đậu, tôi lững thững đi ngang qua hai chiếc trực thăng chở tiếp tế, mấy phi hành đoàn đang tập tụ trong khoang tàu binh xập xám chờ phi vụ.
– Ê… , bao lâu nữa thì đi?- Tr/u Vân bay chiếc số một đang ngồi trong khoang tàu hỏi vọng ra.
– Sắp sửa rồi, chuẩn bị đi -. Tôi vừa bước gần Vân thấy có Th/u Long đứng kế bên, tôi hỏi một câu nửa chơi nửa thiệt :
– Sao Long, giải được bùa chưa?
Anh không trả lời chỉ nhếch mép cười. Nghe mấy người bạn kể lại vì tội dụ dỗ một cô gái Thượng ở Ba Mê Thuột, anh đã bị thư một cái dằm vào chân, mỗi đêm đều bị nhức nhối. Tôi nghe anh em nói tưởng họ đùa, nhưng khi gặp anh Long hỏi thì anh xác nhận chuyện đó có thật. Mỗi lần trong phi đoàn có phi vụ nào đi Ba Mê Thuột anh đều xin theo để gặp thầy pháp giải bùa chữa bệnh.
Từ ngày mặt trận bùng nổ, tôi bắt đầu cảm nhận rằng trong không khí chiến tranh càng leo thang, tâm tư anh em phi hành đoàn bắt đầu mang một nổi e dè, lo lắng. Tối hôm qua, ở tại biệt đội, trong khi anh em tụ tập bàn tán xôn xao về tin của một chiếc tàu của phi đoàn bạn bị bắn nổ trên không trung . Tr/u Vân vừa mới lên từ Nha Trang, ngồi trong phòng tại biệt đội, anh tâm sự với một người bạn thân rằng vợ anh mới sanh, tiền bạc chẳng có nhiều, mặt trận càng ngày càng sôi động làm anh rất quan tâm… Trước khi đi ngủ anh móc tất cả trong túi lấy ra được mấy ngàn đồng, cùng với cái đồng hồ rồi bỏ tất cả trong hộc tủ, nhờ người bạn nếu anh có mệnh hệ gì thì giao lại cho vợ anh. Nghe câu chuyện tôi linh cảm như là một điềm xấu có thể xảy ra cho Tr/u Vân.
Từ căn lều bộ chỉ huy, Trung tá Lạc bận bộ đồ bay màu xám, chiếc nón lưỡi trai đen trên đầu với hai nhành dương liễu trắng trông rất phong độ đi song đôi với Th/T Phát, phía sau Tr/T Nhảy Dù đầu đội nón sắt tay cầm bản đồ và mấy người tùy tùng, tất cả đang tiến ra bải đậu. Âm thanh o..o… quay máy của Charlie khởi đầu cho phi vụ tiếp tế. Hai chiếc trực thăng vừa quay máy, vừa nhận hàng của một chiếc xe cam nhông đậu kế bên hông. Những thùng bằng gổ thông chứa đạn dược, C-Ration ( khẩu phần ăn của nhà binh) cùng với những ống sắt đựng đại bác dùng để chứa nước được chất đầy trên bong tàu. Đợi tất cả cất cánh trước cho rộng chỗ, tôi từ từ nương con tàu nặng nề súng đạn rời khỏi bải, vượt qua hàng rào kẽm gai và những cây “ăng-ten” cao nghệu. Nhìn xuống, những căn lều lúp xúp của trung tâm hành quân Dù Võ Định vây quanh bởi hàng chục vòng kẽm gai nhỏ dần dưới ánh nắng mai gay gắt…
Bay chừng năm bảy phút, tất cả hợp đoàn đã đến vùng, rặng núi Rocket Ridge nằm im lìm dưới bầu trời trong xanh. Chiếc C@C bay vòng trên cao độ nhìn xuống, căn cứ Charlie gồm ba cứ điểm phòng ngự từ Nam lên Bắc, điểm thấp nhất đồi 960 cũng là bãi đậu trực thăng làm nơi tiếp tế, rồi tới đồi 1020, cao nhất phía Bắc là đỉnh Charlie, 1050. Tất cả tạo thành một địa thế từ xa nhìn giống như hình yên ngựa. Tại cụm phòng ngự này đã bị Cộng quân mở hàng loạt trận địa pháo 130 ly, 122 ly và hỏa tiễn đủ loại, chúng cố dứt điểm căn cứ này với mọi giá. Tại cao điểm này chúng có thể kiểm soát tất cả những di chuyển cũng như hoạt động dưới thung lủng sông Pokor cũng như QL 14 chạy dài tới thị xã Tân Cảnh, mục tiêu trọng yếu đầu tiên trước khi tiến chiếm Komtum. Trước đó mấy ngày căn cứ hỏa lực Yankee phía Bắc Charlie đã bị thất thủ.
Vòng vây địch siết chặc, áp dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung, sau những trận mưa pháo dữ dội, địch quân xung phong ào ạt vào căn cứ, sau bao lần đều bị đẩy lui bởi sức kháng cự mãnh liệt của những chiến sĩ Dù và sự yểm trợ của phi pháo. Sự kiên nhẫn của địch quân có giới hạn, chúng trở thành như điên cuồng lao đầu vào trước những mủi súng của quân ta, xác của những tên Cộng quân nằm la liệt ngoài những hàng rào phòng thủ, tan nát cháy đen vì đạn pháo binh cũng như bom napal của những chiếc máy bay khu trục. Tình trạng đạn dược lương thực nước uống cạn dần đến mức tối thiểu, nếu không được tiếp tế trong ngày hôm nay, Tiểu Đoàn 11 của Tr/T Nguyển Đình Bảo sẽ không còn phương tiện để chống trã sức tấn công liên tục của địch.
Từ ngày Cộng Sản khởi động cuộc chiến tại miền Nam, chiến thuật trực thăng vận đã được đem ra áp dụng lần đầu tiên trong lịch sữ chiến tranh thế giới. Trực thăng vận đã hoạt động rất hửu hiệu trong chiến trường du kích chiến. Nhưng chiến tranh càng ngày càng leo thang, địch quân được tăng cường và trang bị thêm nhiều vũ khí tối tân hạng nặng, đặc biệt nhất là vũ khí phòng không. Trực thăng với tốc độ chậm dễ bị phương hại và đã trở thành những mục tiêu dễ dàng cho những loại súng cỡ lớn từ 12 ly 7, 37 ly và đặt biệt là những hỏa tiễn cầm tay như SA-7. Sự tổn thất chiến trường của ngành trực thăng càng ngày càng lên cao. Mấy ngày hôm nay những phi vụ tiếp tế đã gặp nhiều khó khăn trở ngại vì rừng phòng không và những trái đạn pháo kích chính xác địch đã điều chỉnh sẵn nhắm vào bãi đáp trực thăng, tôi cảm thấy bất lực trước hỏa lực cũng như khả năng của chiếc trực thăng võ trang này để bảo vệ hữu hiệu cho những người bạn đồng hành.
Chiếc tàu tiếp tế số một của Tr/u Vân bắt đầu vào “final”. Triền núi trơ trụi vì đạn pháo bao ngày qua từ màu xanh cỏ ủa đã trở thành màu đất đỏ lồi lõm những hố đạn pháo. Ba điểm phòng thủ đồi Charlie đã xơ xác hoang tàn gần như thành bình địa. Trong cái im lặng của sự chờ đợi nghe ngóng của địch, tôi cảm tưởng như tất cả những trái đại pháo đang chờ con tàu mong manh nay đi vào ổ phục kích. Tôi cho chiếc guns Hổ một bọc sau đuôi cánh trái, chiếc Hổ hai bên cánh phải. Từ sau lưng trên cao nhìn xuống tôi theo dỏi chiếc trực thăng của Tr/u Vân chậm chạp hạ cao độ rồi từ từ đáp xuống trên vòng tròn nhỏ của bãi trực thăng, bụi đỏ bốc lên dưới sức gió của cánh quạt. Từ vị thế trên cao phía sau tôi nhìn xuyên qua cánh quạt trực thăng những người lính trên tàu đạp vội vã những thùng đồ xuống bãi… Bỗng trên bãi đáp không xa hai ba trái pháo nổ bung khói đen cùng bụi đỏ bốc lên đồng thời những tiếng súng nổ vang rền lên từ triền núi kế cận. Con tàu chậm chạp từ từ quay đầu lại chuẩn bị cất cánh, đồng thời trên tần số tôi nghe tiếng của Tr/u Vân đứt đoạn:
– Charlie… , Charl… lie, ground… fi..ire… , ground..fi..ire… tầu… trúng đạn…
Từ những mỏm núi trọc mênh mông, những viên đạn pháo không biết nơi xuất phát, những viên đạn phòng không từ nhưng hang hóc của những ngọn đồi kế cận bắn tới tấp hướng tàu của Tr/u Vân. Phản ứng tự nhiên, tôi cắm đầu con tàu phóng những trái rockets rải rác trên triền núi. Những trái hỏa tiễn nổ lốm đốm trên sườn núi, tung lên những đám bụi đỏ, yếu ớt vô hiệu quả trước kẻ thù đang ẩn nấp sâu trong hang hố đâu đó.
Sau khi tác xạ xong tôi quay vòng lại nhìn tàu của Tr/u Vân vừa lên cao. Trên tần số tiếng la hốt hoảng của Th/tá Phát đang bay chiếc C@C:
– Lead, lead… tàu bạn đang bốc khói nghe không trả lời ?
Tôi nhìn theo chiếc lead đang lấy cao độ khỏi triền núi, làn khói đen bốc lên từ buồng máy. Phi hành đoàn vẫn im lặng. Không khí căng thẳng đến tột độ.
– Lead, lead… tàu bạn bị cháy… đáp ngay… đáp ngay..dưới chân bạn có bãi đáp trống trên triền đồi dưới thấp.- Giọng nói của Th/tá Phát đồn dập.
Từ xa, cùng cao độ tôi thấy con tàu của Tr/u Vân lửa bắt đầu ngún lên thành ngọn bao trùm buồng máy. Lửa lan dần đến giửa thân tàu, hai người xạ thủ đang chồm về phía trước phòng lái… Tôi phụ họa:
– Đáp… đáp..tàu cháy.., tàu cháy… .đáp dưới chân đồi.., nghe không Vân.
Cố đem chiếc gunship đến gần cặp sát con tàu đang bốc lửa mỗi lúc mỗi cao, khoang tàu mịt mù khói đen thấp thoáng hai anh mê vô xạ thủ chồm về phía cockpit để tránh sức nóng.
– Đáp… đáp ngay… đáp xuống triền núi có Hổ cover đây… .nghe rõ trả lời
Nhưng con tàu không còn liên lạc được với thế giới bên ngoài, nó đang trở thành một khối lửa cuồn cuộn rơi như hòn đá cuội, chạm triền núi vỡ bùng lên… .Tất cả chỉ còn là một đống sắt cháy ngùn ngụt… Trong cơn hốt hoảng phi hành đoàn chỉ muốn bay xa khỏi tầm sát hại của địch mà không ước lượng được tình trạng thiệt hại của con tàu đến khi quá trể. Tôi cho con tàu lượn thấp xuống nhìn trong tuyệt vọng. Hai chiếc guns bay vòng tròn trên chiếc tàu bị nạn và sau đó được lệnh rời vùng, tôi ngoái đầu nhìn đám cháy vẩn mịt mù một lần cuối rồi chuyển hướng bay, nước mắt lưng tròng.
– Mãnh Hổ, đây Charlie… Bốn chiếc guns của hai phi đoàn bạn đã đến vùng, bạn dẫn năm chiếc vào mục tiêu.
Tôi ngước đầu nhìn, từ xa bốn chấm đen từng cặp một đang bay đến trên nền trời sẫm tối.
– Charlie, đây Hổ. Cho biết vị trí tác xạ chính xác. Tôi hỏi.
– Hổ đây Charlie. Hiện tại địch đã tràn ngập khắp mọi nơi, hai cao điểm thấp đã bị địch chiếm, chỉ còn đỉnh đồi Charlie đang còn giao tranh cận chiến. Bạn tự do oanh khích ngay trên căn cứ Charlie, nghe rõ trả lời… Tiếng Th/tá Bính vừa dứt trên tần số, tôi bàng hoàng không tin những gì mình vừa nghe được:
– Charlie đây Hổ, Th/tá muốn tôi đánh ngay vào đỉnh đồi?…
– Đúng năm…
Tiếng nói rõ ràng và khẳng định của C@C không còn làm tôi nghi ngờ gì nữa. Lần đầu tiên chứng kiến sự thất thủ của quân bạn ngay trước mắt. Căn cứ được đóng và bảo vệ bởi một lực lượng tinh hoa và kinh nghiệm nhất của QLVN/CH, đã từng chiến thắng bao nhiêu mặt trận, đã làm cho địch nhiều phen kinh hoàng khiếp đảm, giờ đây đang bó tay trước những đợt tấn công thí mạng của đối phương. Với sự hiểu biết hạn chế của một hoa tiêu trực thăng võ trang, tôi thường tự hỏi về chiến thuật của bộ chỉ huy khi để một đơn vị tác chiến như Nhảy dù sở trường trong việc tấn công và chủ động trong chiến trường phải đóng trụ tại một cao điểm. Thụ động chờ đợi địch là sở đoản của binh chủng Nhảy Dù, họ được huấn luyện để tấn công, không phải để giữ đồn. Trong giờ phút này không thấy bóng dáng của một chiếc khu trục trên bầu trời, chắc không cần thiết nữa. Quân bạn có lẽ đã dùng hết tất cả mọi khả năng yểm trợ, sáu chiếc trực thăng võ trang bây giờ chỉ còn là những vớt vát cuối cùng cố gây cho sự tổn thức tối đa cho địch trước khi chúng hoàn thành mục đích của chúng.
Lấy tần số của Charlie, tôi liên lạc được với bốn chiếc guns của phi đoàn bạn và tất cả sáu chiếc guns theo nhau đi vào vùng. Bầu trời đã tối lắm rồi, triền núi của ngọn Rocket Ridge mờ ẩn hiện sau nền trời đen xám. Từ trên cao độ tôi tiến gần vào mục tiêu, chỗ trủng thấp yên ngựa bãi đáp trực thăng cao điểm 960 là một trong ba cao điểm quen thuộc của cụm đồi Charlie, nơi mà Tr/U Vân và phi hành đoàn đã bị bắn, và lên theo triền dốc và phía Bắc và trăm bộ là cao điểm thứ hai 1020 đã bị địch chiếm, chỉ còn lại cứ điểm cao nhất 1050 Charlie do Tr/T Nguyễn Đình Bảo chỉ huy là đang còn giao tranh. Bay đến gần đỉnh núi cao vô tri giác đó tôi như đã cảm nhận được những trái lựu đạn đang chuyền tay nhau nổ tung trên những giao thông hào bể nát, những viên đạn súng trường bắn thật gần, những người lính Dù đan vật lộn với kẻ thù đông đảo, cố chiến đấu đến hơi thở cuối cùng…
Bây giờ sự chính xác của những trái rockets của sáu chiếc gunships không còn cần thiết nữa, tại bãi chiến trường này mảnh đất nhỏ hẹp nào cũng là mục tiêu. Sau khi thông báo cho những chiếc guns đang theo sau, tôi cho con tàu cỡ ngàn bộ trên đỉnh cao điểm cắm đầu xuống mục tiêu, những trái hỏa tiễn cháy bùng nối đuôi lao xuống đỉnh núi, theo sau những vệt lửa dài chạm đất nổ tung tóe lửa, khẩu minigun quay vù tuôn những viên đạn lửa nối đuôi nhau tạo một đường đỏ dài uốn éo trong ánh sáng mờ ảo. Theo sau những chiếc guns tuần tự phóng những trái rockets xuống đỉnh núi, những đốm lửa tóe lên bởi những trái rockets trong bóng đêm chập choạng như đánh thức rừng phòng không của địch. Chung quanh đỉnh đồi bỗng lấp lánh chấp chóa ánh sáng rực rỡ như cây Noel trong đêm Giáng Sinh, một rừng tên lửa đỏ lao về hướng những chiếc trực thăng đang cắm đầu xạ kích. Tôi la lớn trong tần số:
– Phòng không… phòng không… Break..Break… Break… .
Nói xong tôi kéo ngược con tàu lên cao, những viên đạng lửa bay vút hướng lên bầu trời đen như những vì sao xẹt. Không cần thiết phải có sự chính xác nữa, tôi thông báo cho tất cả hợp đoàn guns xử dụng tất những đạn dược, rockets còn lại một lần cuối trước khi rời vùng. Từ khoảng cách khá an toàn xa tầm bắn của những khẩu phòng không, tôi kéo con tàu nhổng đầu lên phóng những trái rockets bắn vòng cầu như đạn pháo binh, những trái hỏa tiển biến mất vào khoảng không gian mù mịt rồi rơi rớt rải rác trên đỉnh đồi tóe lửa. Những mũi súng cao xạ của địch tức thì phản ứng, từ triền núi lấp lánh ánh lửa phòng không , những viên đạn đỏ như mưa rào bay ngược về hướng những con tàu ẩn hiện trong bóng tối.
Tất cả đều vô nghĩa. Trận đánh đã ngã ngũ. Những con chim sắt đang cố gắng thi hành phi vụ cuối cùng trong vô vọng. Ngọn đồi mang tên Charlie không còn nữa, chỉ còn lại là dư âm của những trận đánh kinh hoàng trong ngày tháng qua. Những người lính dù đã anh dũng chiến đấu tới giây phút cuối cùng với vị chỉ huy anh hùng của họ, Tr/tá Nguyễn đình Bảo.
– Hổ đây Charlie, các bạn có thể trở về căn cứ. Thông báo cho tất cả biết trong vòng mười lăm phút nữa sẽ có phi vụ B-52 đến trải thảm bom. Các bạn hảy mau rời vùng.
Tiếng nói của Th/tá Phạm Bính lạnh lùng trên tần số.
Tôi quay đầu con tàu quay rời vùng giao tranh, những đốm lửa lập lòe trên ngọn đồi Charlie đang chìm dần vào bóng tối. Tr/u Nguyễn Tường Vân, Th/u Trần Văn Long và phi hành đoàn cùng tất cả những chiến sĩ Dù đã ở lại Charlie, mải mải… Xa xa, thành phố Pleiku đã lên đèn, một vùng ánh sáng lấp lánh, nhạt nhòa ẩn hiện, không biết vì đêm đen hay vì dòng lệ đã trào dâng lên khóe mắt ?
Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đă bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè, không có ai
Không có ai, từng ngày, không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi,
Mùa mưa tới trong nghĩa trang này có loài chim thôi!
Văng vẳng đâu đây âm thanh ì ầm rung chuyển bầu khí quyển của từ thảm bom của những chiếc pháo đài bay B-52 vang vọng…
Mùa Hè Đỏ Lửa – PHẦN III: MẶT TRẬN KONTUM
Lời Người Viết:
Bài viết này đặc biệt tưởng nhớ đến Th/tá Đặng Đình Vinh đã ra đi vào vòm trời miên viễn ngày 8 tháng 5 năm 2008.
Xin nghiêng mình tưởng niệm trước những vong linh của những anh hùng đã bỏ mình trong mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa.
Ghi chú: Cấp bậc của những nhân vật trong bài viết không nhất thiết là cấp bậc cuối cùng của họ cuộc chiến tranh tại miền Nam.
Mở đầu:
Sơ lược mặt Trận Kontum
Ngày 24 tháng 4 hai căn cứ hỏa lực Tân Cảnh và Dakto II, nút chặn chiến
lược về phía Bắc Kontum đã mất vào tay Cộng Sản. Đại Tá Lê Đức Đạt vị
Chỉ huy trưởng đã bị hy sinh tại mặt trận, Sư Đoàn 22/BB hầu như tan rã,
một số chết, một số bị bắt làm tù binh và một số thất lạc. Hai căn cứ
Diên Bình và Zulu lần lượt rơi vào tay địch, trung tâm hành quân Dù tại
Võ Định phải triệt thoái dần về hướng Nam, thị xã Kontum là mục tiêu kế
tiếp của Bắc Quân đang trên đà chiến thắng. Theo như sự ước đoán của Bộ
Chỉ Huy Quân Đoàn II, thì chỉ một tuần sau khi chiếm được Tân Cảnh, địch
sẽ tấn công thị xã Kontum. Nhưng vì Sư Đoàn 320 và Sư Đoàn 2 của Cộng
quân đã bị tổn thất khá nặng trong các cuộc chạm súng trước đây với Lữ
Đoàn Nhảy Dù và Sư Đoàn 22 BB, Tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh mặt trận
Tây Nguyên, cần thời gian để củng cố lại đơn vị cho đến hai tuần lễ sau
mới mở cuộc tấn công vào Kontum. Nhờ vậy, Quân Đoàn II đã có đủ thời giờ
để thiết lập vòng đai phòng thủ vững chắc bảo vệ Kontum.
Sư Đoàn 23/BB dưới sự chỉ huy của Đại Tá Lý Tòng Bá, đang trú đóng tại vùng Ban Mê Thuột và các tỉnh kế cận, được lệnh tăng cường cấp tốc thay thế SĐ 22 lập phòng tuyến bảo vệ Kontum. Vòng đai hình cánh cung ba mặt Tây, Đông, Bắc bao quanh chu vi thị xã Kontum được bảo vệ bởi ba Trung Đoàn tinh nhuệ nhất 44, 45, 53 của Sư Đoàn 23 Bộ Binh. Mặt phía Nam của thị xã được giao cho lực lượng địa phương quân đảm nhiệm vì có sông Dakpla là một chiến hào phòng thủ thiên nhiên sẽ làm khó khăn hơn khi địch quân xâm nhập. Ngày 14 tháng 5, mặt trận Kontum bắt đầu. Thị xã Kontum đang đi vào một giai đoạn hổn loạn. Những trận đánh ngay vùng phụ cận ngoại ô đang tiến dần vào thành phố, đôi co giành dựt từng tất đất, ngôi nhà, từng con đường. Những chiếc pháo đài bay B-52 liên tục trải những thảm bom sát ngay phòng tuyến bạn ngoài hàng rào phòng thủ, thành phố rung chuyển như những trận động đất kinh hoàng.
Trong khoảng thượng tuần tháng 5/72 thị xã Kontum ở trong cao độ nhất của cuộc chiến 100 ngày. Quốc Lộ huyết mạch 14 nối liền hai thành phố Pleiku và Kontum đã hoàn toàn bị địch cắt đứt khi Cộng quân chiếm và đóng chốt ngọn núi Chu Pao nằm án ngữ cạnh con lộ. Kontum hoàn toàn cô lập, hơn ba mươi ngàn người dân, cả Kinh lẩn Thượng trong thành phố và vùng phụ cận đang sống yên lành bất thần đối diện với cuộc chiến lan tràn… Kontum ngụt ngàn bốc lửa… Thành phố hiền hòa miền Tây nguyên, với những đồn điền cà phê, những vườn chè xanh mướt trên những ngọn đồi thoai thoải, nhưng mảnh ruộng canh tác quanh ngoại ô, những buông Thượng bỗng chốc trở thành bãi chiến trường đẩm máu. Bầu không khí trong lành nay nóng bỏng đượm mùi khói súng cùng tử khí của những xác người thiêu cháy trong lửa đạn…
Chánh quyền bắt đầu mở cầu không vận giửa Kontum và Pleiku do Không Quân Việt Nam và Đồng minh Hoa Kỳ đảm trách. Cảnh thảm sát hàng trăm ngàn người dân vô tội của bọn Cộng Sản khát máu trong dịp Tết Mậu Thân trước đây vẩn còn in sâu trong lòng người dân, họ thất thần, cuống cuồng hốt hoảng chạy tìm phương tiện để thoát khỏi vòng vây của Cộng quân càng ngày càng siết chặt. Tại sân vận động giữa thành phố, trong bụi mù và tiếng nổ đạn đại pháo, hàng ngàn người chen lấn xô đẩy nhau như nước tràn qua bờ đê vỡ, bất chấp những hàng rào Quân Cảnh đang cố giữ gìn trật tự, cố tìm đến gần những chiếc trực thăng đang bay lượm nườm nượp lên xuống. Tất cả hình ảnh của cuộc chiến Cao nguyên đã được phơi bày ra như một cuốn phim địa ngục trần gian.
o O o
– Trung Úy! Trung Úy! Mua xe Honda tôi bán rẻ… .
Đang đứng bên lề đường trước cổng trại Lôi Hổ B-15 với Th/úy Thạch, nguời hoa tiêu phụ, một người đàn ông cỡ trạc bốn mươi, ngừng sát bên tôi, trên chiếc xe Honda chở ba đứa bé
– Trung Úy mua dùm tôi chiếc xe này… xe còn mới lắm… Ngạc nhiên tôi trố mắt nhìn… Người đàn ông nhỏ thó đầu đội nón vải dù, khuôn mặt sạm nắng gầy guộc trong chiếc quần lính, và chiếc áo đã bạc màu..
– Anh nói sao? Tôi không hiểu… , anh muốn bán xe hả ?
– Dạ, mua dùm đi Trung Úy, tôi để rẻ.
Ầm… Ầm… Ầm… tiếng vọng của mấy trái đạn pháo kích nổ từ xa vang rền. Từ chỗ đang đứng tôi có thể nhìn thấy những cột khói đen vươn lên cao trên đầu thị xã Kontum.Người đàn ông quay đầu lại nhìn, nét mặt lo âu:
– Trung Úy giúp giùm… giá trăm ngàn, tôi để rẻ sáu chục… Ngần ngừ một lúc anh nói tiếp:
– Còn nếu Tr/úy chở giùm cho tôi và ba đứa con về Pleiku thì Trung Úy cho bao nhiêu cũng được… Không để người đàn ông chờ đợi lâu tôi trả lời dứt khoát:
– Không mua đâu anh à, tiền đâu mà mua… mà tôi còn phải đi bay hành quân tới chiều mới về Pleiku lận đâu có chở anh được. Nói xong tôi tò mò hỏi:
– Bà xã anh đâu rồi, không đi với anh à ? Người đàn ông ngần ngừ một lúc, cúi mặt xuống đất:
– Vợ tôi chết rồi… , “nó” bị trúng mảnh đạn pháo kích chết tuần trước. Giọng anh ta run run đầy xúc cảm. Tôi ái ngại nhìn anh, trên chiếc xe Honda đứa bé trai chừng ba bốn tuổi ngồi phía trước, đôi mắt đen tròn xoe ngơ ngác, tay ôm túi xách để trên bình xăng, hai đứa bé gái gầy ốm, xanh xao, khoảng sáu bảy tuổi, trong bộ đồ bà ba bông, ngồi ép sát vào nhau ôm cứng lấy bụng bố.
Ình… Ình… Mấy khẩu đại bác 105 ly từ trong căn cứ B-15 sau lưng tôi nổ vang… Trước mặt tôi, con đường nhựa chạy dọc ngoại ô thành phố, vắng người, thỉnh thoảnh vài chiếc xe nhà bình phóng vù nhanh trước mặt. Không muốn đi sâu vào hoàn cảnh thương tâm của anh ta tôi đổi đề tài:
– Anh nên chạy ra sân vận động đi… trực thăng Mỹ đang chở người về Pleiku đó… Anh ta không trả lời, ngoái đầu lại nhìn hướng về phía đường cái rồi rú ga, chiếc xe Honda rồ máy vọt nhanh. Hình bóng bốn cha con đèo bồng nhau trên chiếc xe biến dần dưới làn hơi nóng lung linh trên mặt đường nhựa đen.
– Tội nghiệp… Thạch lên tiếng, nếu mà đúng lúc buổi chiều đổ xăng về, thì mình chắc chở giúp anh ta về Pleiku được đó… Rồi Thạch nói tiếp:
– Tôi có nghe tin đồn có một số anh em “lợi dụng” cơ hội này, mua xe rẻ bây giờ mới thấy tận mắt… .
Nhớ tới đôi mắt khẩn thiết của người đàn ông và thái độ gần như năn nỉ van nài để bán chiếc xe cho tôi trong giây phút hỗn loạn, “bỏ của chạy lấy người” đã làm tôi phân vân tự hỏi, hành động mua xe của những người nào đó trong hoàn cảnh này có phải là một hành động “lợi dụng” hay cứu giúp người dân đang hoạn nạn ?Thình lình một chiếc trực thăng cất cánh bay vù sát trên đầu chúng tôi, mang phù hiệu Con Voi Thần Tượng, tiếng động cơ nổ ầm ỉ…
Oành… Oành… Oành… ba bốn tiếng pháo kích rớt gần trên đường cái, tôi và Thạch co giò phóng xuyên qua những căn nhà trong trại lính, chạy đến bãi đậu trực thăng phía sau.Chiếc trực thăng võ trang số hai đã quay máy, bụi mù bay tung, trên ghế bay, Tr/úy Phạm Chí Thành, đưa ngón tay cái ra dấu OK… Người mê vô đứng sẳn cạnh cửa tàu tôi đưa phụ chiếc áo giáp nặng chịch, tôi tròng vội vào người rồi phóng lên ghế bay. Thiếu úy Thạch đã cho tàu nổ máy. Con tàu trang bị hai bó rockets loại lớn với 12 ngàn viên đạn đại liên, ì ạch nặng nề là đà sát mặt đất, chạy một khoảng dài tàu mới vừa đủ sức lướt mình trên đầu hàng kẻm gai phòng thủ. Chiếc gun số hai đang nối gót theo sau…
o O o
– Charlie… đây Mãnh Hổ… . Tôi gọi chiếc C@C (Command @ Control ).
– Hổ… , quân bạn đang đụng trận tại đỉnh núi Chu Pao, cần sự yểm trợ của trực thăng võ trang, hai bạn theo tôi… sẽ có chỉ thị… . Trên tần số tiếng nói của Th/tá Đặng Đình Vinh.
Hai chiếc trực thăng lên cao độ, tôi quay đầu nhìn về hướng Bắc, thành phố Kontum đang un khói trong ánh nắng trưa gay gắt của một mùa hè đỏ lửa, những cụm khói đen bốc cao đây đó; phía dưới chân con sông Dakpla ngoằng ngoèo uốn khúc như con rồng nằm ngửa ôm ấp thành phố nhỏ miền cực Bắc Cao nguyên. Trong những ngày gần đây, lực lượng Cộng quân nổ lực tấn công vòng đai phòng thủ ngoại ô, nhiều phòng tuyến đơn vị bạn đã bị chọc thủng , một số đặc công đã len lỏi trà trộn vào nội thành mặc trên người quân phục đã lấy được từ những binh sĩ Sư Đoàn 22 thất thủ tại Tân Cảnh với ám hiệu như tay áo cuốn khỏi cùi chỏ, miếng vải trắng cột ngang tay… Sự kiện đó đã gây hoang mang và khó khăn cho Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II vì thành phố đang có rất nhiều binh sĩ của Sư Đoàn 22 chạy thoát từ mặt trận Tân Cảnh về thành phố chưa kịp trình diện Quân Đoàn.
Giai đoạn thượng tuần tháng 5, cường độ pháo kích của địch quân càng gia tăng, đặc biệt nhắm vào phi trường Kontum, cố vô hiệu hóa nguồn tiếp tế độc nhất vào thành phố bằng đường không vận, sau khi con đường huyết mạch QL-14 đã bị cắt đứt tại ngọn núi Chu Pao. Đáp đổ xăng tại phi trường Kontum là những giây phút hiểm nghèo và “rứt tim” nhất cho phi hành đoàn hơn cả những giây phút bay cao trên vùng hỏa tuyến.
Vào ngày 20 tháng 5, một phi cơ C-123 của Không Quân Việt Nam đang đậu trên phi đạo đã bị trúng miểng pháo kích, cháy tiêu rụi, may mắn phi hành đoàn đã thoát ra được an toàn. Cảm giác ngồi trên con tàu tại bãi đậu chờ đổ xăng trong khi trái đạn hỏa tiễn rót xuống bất cứ lúc nào đã làm cho thần kinh căn thẳng, nhứt nhối.
Một buổi trưa hè điển hình, phi hành đoàn năm chiếc của Thần Tượng sau một phi vụ bốc quân cho Trung Đoàn 44, về đáp phi trường Kontum đổ xăng. Những chiếc trực thăng sắp hàng ngang tại bải P.O.L ( Petrol-Oil-Lubrication ) cánh quạt được duy trì với tốc cao đa sẵn sàng để cất cánh. Từ trong phòng lái tôi có thể nhìn thấy hai chiếc trực thăng Võ Trang Cobra của Mỹ bị đại pháo 122 ly làm hư hại nằm gần đấy. Đang ngồi “thủ” cần lái trên ghế bay để cho anh co-pilot đứng chân trên chân dưới trên càng tàu ” xả nước”, trong khi anh mê vô cũng đứng trên càng tàu, một tay vịn cánh cửa một tay cầm vòi đổ xăng, bất chợt âm thanh của những tiếng “rít” kinh hoàng xé nát không gian…
Oành… Oành… Oành… ba bốn trái pháo rơi tới tấp gần đó, bụi bay ngập trời. Năm chiếc trực thăng vội vã cất cánh bay tứ tán như đàn ong vở tổ, anh hoa tiêu phụ tôi nhảy thót lên ghế bay chưa kịp kéo “fermeture” quần. Ở cuối phi đạo một chiếc C-130 phơi xác cháy xém, một bên cánh gãy lìa. Mấy hôm trước đây, chiếc C-130 của Không lực Hoa kỳ đang “un-loaded” những kiện hàng trên đầu phi đạo thì bị hai trái hỏa tiễn 122 ly nổ sát bên. Người hoa tiêu Mỹ “hốt hoảng” tống ga cất cánh khi tấm bửng sau đuôi tàu ( Cargo Bay Door ) còn đang mở rộng, con tàu bị triệt nâng (?) không đủ sức rời mặt đất chạy lố ra khỏi phi đạo, một bên cánh bay chém vào một tòa nhà bốc cháy, chỉ có hai nhân viên phi hành đoàn sống sót…
Bay được hơn mười phút, hai chiếc trực thăng võ trang đã đến vùng hành quân. Ngọn núi Chu Pao sừng sững phía Đông nhìn xuống con Quốc lộ-14. Tôi nghiêng tàu nhìn xuống, vài chiếc xe hàng bị trúng đạn B-40 nằm cháy bên đường, những xác người rải rác kế bên. Từ trên cao hơn bốn ngàn bộ tôi có thể trông xuống con đường nhựa đen ôm sát chân núi Chu Pao, chạy dài lên hướng Bắc, giữa những cánh rừng xen kẽ những đám rẩy đủ màu, không một bóng dáng của một sinh vật, con đường huyết mạch này đã trở thành một tử lộ. Cuối tháng 4, một lực lượng cấp Trung Đoàn địch bất ngờ tấn công và đánh bật đơn vị Biệt Động Quân đang phòng thủ trên đỉnh Chu Pao. Chúng đào hầm hố, bám trụ, đóng chốt rải dài trên những triền núi chạy vài cây số dọc theo con lộ, với đủ các loại vũ khí phòng không, đại bác 75 ly không giật, súng cối cũng như B-40, mục đích tử thủ vị trí chiến lược này với bất cứ giá nào.
Được sự yểm trợ tối đa của Không Quân và Pháo binh, Bộ Binh và Thiết giáp đã tấn công dữ dội các chốt kiên cố của địch trên đỉnh núi. Sau hơn tuần lễ giao tranh các đơn vị của địch vẩn cố thủ bám trụ. Bổ Chỉ Huy Quân Đoàn II bắt đầu mất kiên nhẩn. Đ/tá Lý Tòng Bá Tư lệnh SĐ/23 đã ra lệnh phải lấy lại quyền kiểm soát con lộ với mọi giá. Đ/tá Tường, Tham Mưu Trưởng QĐ II, đã treo giải thưởng 1/3 tiền lương của mình cho người lính nào trong đơn vị phá vỡ được ổ phòng không 51 ly của địch đặt trên đỉnh núi đã thường xuyên bắn vào những chiếc phi cơ bay gần đó. Cho tới ngày hôm ngay, cuộc hành quân tái chiếm ngọn Chu Pao để khai thông quốc lộ vẩn dừng chân tại chỗ. Đoàn xe tiếp viện bổ xung cho lực lượng phe ta vừa tới dưới chân núi thì bị hàng loạt đại bác, súng cối và các loại súng của địch từ trên đỉnh Chu Pao tác xạ tới tấp, mấy chiếc xe chạy đầu trúng đạn bốc cháy.
Ở cao độ nhìn xuống tôi có thể thấy QL-14 được Công Binh khai quang sạch sẽ rộng ra cả trăm thước dọc theo hai bên đường để gia tăng an ninh, làm khó khăn hơn cho địch trong những cuộc phục kích những đoàn xe chạy .Trên con lộ này một tai nạn máy bay vô nghĩa đã giết chết một cố vấn cao cấp nhất Hoa Kỳ của Quân Đoàn II, ông John Paul Vann, vị sĩ quan Trung Tá Bộ Binh đã giải ngũ. Ông John Paul Vann là một huyền thoại trong cuộc chiến Mùa Hè Đỏ Lửa, một người có quyết định cho tất cả mọi không yểm của Không Quân Hoa Kỳ, và đặc biệt nhất là những phi vụ của Pháo đài bay B-52 từ căn cứ ở Thái Lan.
Nghe nói rằng ông John Paul Vann có một người bạn gái Việt Nam mà ông rất yêu thương. Ông đã có lần tâm sự với những người thân cận rằng, sau cuộc chiến Cao nguyên này ông sẽ làm đám cưới với nàng và ở lại Việt Nam cho hết cuộc đời còn lại. Bởi vậy sự hăng say và nhiệt thành của ông trong công việc đã làm cho mọi người cảm tưởng rằng ông đang say mê phục vụ cho quê hương Việt Nam của chính ông chứ không phải phục vụ cho quốc gia bạn dưới chức vụ cố vấn.
Nhiều người đã nói về sự gan dạ của ông trong những chuyến bay một mình với người co-pilot trên chiếc máy riêng, OH-58 Bell Ranger. Ông đã dùng phương tiện riêng này để bay những phi vụ mà dưới mắt những người thân cận coi như là “crazy” hoặc quá liều lỉnh và mạo hiểm (daredevil) cho một người đang giử một chức vụ quan trọng như ông. Ông Vann đã từng bay vào vùng lửa đạn trong chiếc trực thăng nhỏ bé đó để điều khiển không yểm, thả đồ tiếp tế trên những căn cứ hỏa lực (FBS) bị vây hảm. Đặc biệt trong một phi vụ chính tay ông đã đáp bốc vị cố vấn Hoa Kỳ, Ðại Tá Philip Kaplan của Sư Đoàn 22 BB khi căn cứ Tân Cảnh bị tràn ngập trong đêm khuya, ngay sau đó ông đã bị bắn rơi tại Dakto II và được giải cứu bởi một trực thăng của KQ Hoa Kỳ.
Định mệnh khắc nghiệt đã cướp đi cuộc đời một vị cố vấn quan trọng của Quân Đoàn II xảy ra vào ngày 9 tháng 6 năm 72, trong một đêm tối mù sương… Sau khi tham dự buổi tiệc tiễn đưa Tướng John Hill trở về Mỹ, khoảng 9 giờ tối, ông Vann cất cánh từ BCH Quân Đoàn II hướng về Kontum trên chiếc OH-58 với hoa tiêu phụ và một Đ/úy Bộ binh. Sau 15 phút bay, Bộ chỉ huy Sư Đoàn 23 nghe tiếng của ông Vann gọi về báo cáo thời tiết rất xấu ông phải bay cao độ thấp dọc theo QL-14. Đó là lần cuối cùng mọi người nghe tiếng ông trên tần số. Sáng hôm sau xác chiếc trực thăng OH-58 tìm thấy cháy giữa một đám cây cao gần sát bên đường nơi mà người địa phương đã lập một cái Miểu thờ từ trước. Theo sự suy luận của giới thẩm quyền thì có lẽ ông Vann vì sương mù cũng như trần mây quá thấp, ông đã bay theo dọc con đường và đâm tàu vào đám cây sát bên đường có dựng một cái Miểu thờ. Éo le thay, khi công binh khai quang hai bên đường thì đám cây có cái Miểu thờ đó được ông Vann đồng ý cho để lại để tỏ ra sự kính nể truyền thống và tập tục của người địa phương và chính đám cây đó đã giết chết ông và hai người nữa trên tàu.
o O o
– Charlie… Hổ đang ở cao độ phía Tây tọa độ mục tiêu… Xin chỉ thị…
– Hổ bay vòng chờ phía Tây chờ đi… Mấy phi tuần khu trục đang oanh kích yểm trợ quân bạn xong… . Hổ sẽ vào… Bay chiếc tàu chỉ huy hôm nay là Th/tá Đặng Đình Vinh, biệt đội trưởng 215 tại Pleiku. Th/tá Vinh có thể nói là một trong những vị niên trưởng mà tôi gần gủi nhất trong phi đoàn Thần Tượng. Anh là một người phi công tôi rất ngưỡng mộ và kính phục, không những là về khả năng chuyên môn mà về cả tính tình của anh, can đảm, ngang tàng, phóng khoáng và hào hoa phong nhã…
Nha Trang là quê hương của anh Vinh và tôi. Ngoài những giây phút hiểm nghèo, sống chết trên mặt trận, chúng tôi đã chung chia vói nhau rất nhiều kỷ niệm sau những giờ phút bay bổng ở những nơi có ánh đèn màu nhấp nháy, tiếng nhạc chập chùng, chén anh chén tôi bên cạnh những người em gái vui vẻ dễ thương, để quên đi những gian khổ đã qua và những hiểm nguy sẽ tới. Trong thời gian biệt phái mùa hè đỏ lửa này, lúc những canh bài xập xám “giải trí” tại biệt đội đã lột tôi không còn một đồng xu dính túi, anh đã “cưu mang” chia xẻ với tôi những điếu thuốc lá, những ly cà phê tại câu lạc bộ Không Đoàn hay những bữa cơm ngoài “phố núi mù sương, đi dăm phút đã về chốn cũ”… Tôi còn nhớ rõ một sự kiện đáng tiếc đã xảy ra trong thời gian biệt phái đã nói lên tình đồng đội của anh Đặng Đình Vinh đối với anh em. Sau một ngày hành quân ròng rã, tôi, anh Vinh và Th/úy Thạch “nhí”, một hoa tiêu trẻ và rất “hippy” cùng nhau đến club Phượng Hoàng để giải trí. Trong lúc vui chơi, có một nhóm quân nhân đã hơi quá chén có những thái độ sỗ sàng với một người bạn gái của chúng tôi. Dĩ hòa vi quý tôi cố làm ngơ, nhưng những hành động “ngứa mắt” đó vẩn tiếp tục. Máu huyết tôi sôi sục. Đọc được tâm trạng tôi, anh Vinh ghé tai tôi nói nhỏ:”Mày kêu tụi nó ra ngoài nói chuyện, tao sẽ theo mày, đừng để tụi nó làm quá như vậy”. Tôi liền đứng dậy đến bàn nhóm người đang ồn ào say sưa, vỗ vai một anh to mồm nhất đám, bảo anh ra ngoài có chuyện muốn nói. Ba người trong bàn đồng loạt đứng dậy, tôi bước đi trước, Th/tá Vinh và Thạch “nhi’ ” đứng dậy đi sau cùng. Không biết tôi sẽ xử trí như thế nào khi ra tới ngoài trong khi túi áo bay tôi đang mang khẩu súng P-38 đầy đạn. Nhưng may mắn thay, mấy anh lính ngang ngược đó đã đổi thái độ khi ra tới cửa. Sau một đôi lời phân trần của họ, chúng tôi bắt tay nhau và trở lại bàn ngồi trong tình “huynh đệ chi binh”. Câu chuyện đáng tiếc nhỏ nhặt này đã nói lên tình nghĩa của một vị đàn anh, “không bỏ anh em không bỏ bạn bè”, và càng làm tôi gần gủi anh hơn.
– Hổ một Charlie gọi… , mục tiêu của gunships hôm nay là yểm trợ và tiêu diệt chốt đóng trụ của địch. Quân bạn cần nhổ cái chốt này với bất cứ giá nào… hiện tại đang dậm chân tại chỗ ngang lưng chừng núi. Khu trục không thể đánh chính xác được vì địch quá gần quân bạn… Hai Hổ quay lại vùng đi…
Đang bay vòng chờ trên cao, nghe tiếng Th/tá Vinh trên tần số, tôi sửa lại chiếc áo giáp đè nặng lên đùi, kiểm soát tất cả đồng hồ phi cụ một lần cuối rồi hướng vào vùng oanh kích.
– Charlie… Hổ sẵn sàng… -Sẽ có một trái khói đỏ ngay lưng chừng đỉnh núi đánh dấu vị trí quân bạn. Trên cao khoảng năm chục mét là vị trí đóng chốt của địch. Bạn sẽ đánh cách trái khói năm chục mét lên tới đỉnh… nghe rõ…
Một cụm khói đỏ bắt đầu vươn lên ở lưng chừng sườn núi rồi lan rộng trên những tàng cây rậm rạp… Trên triền núi dốc cao xen kẽ những khoảng đất đá cháy đen vì bom hay đạn pháo binh. Chốt đóng trụ của địch nằm lẫn lộn giữa những tảng đá lớn, trong những hang hốc đào sâu trong núi.
Ở cao độ ngang với đỉnh núi tôi cắm mũi con tàu, những trái rockets nối đuôi nhau lao vào mục tiêu. Tiếng nổ ầm vang từ triền núi, những bụi mù và khói xám bốc lên… Tôi kéo ngược con tàu quay lại 180 độ, chiếc Hổ Hai theo gót cắm đầu lao xuống, những trái hỏa tiễn nổ lốm đốm… Âm thanh của những khẩu súng bắn trả của địch nổ rang, đồng thời với những điểm sáng nhấp nháy từ những khẩu cao xạ đặt giữa những mỏm đá ngang lưng đồi.
– Hổ… .quân bạn báo cáo địch đang nhắm bắn hai tàu trực thăng võ trang, coi chừng đừng vào gần quá… Th/tá Vinh nhắc nhở…
Sau vài vòng tác xạ, tôi ghi nhận khả năng của những trái hỏa tiễn của hai chiếc võ trang này sẽ không đủ sức tiêu diệt sức kháng cự của địch quân trong những công sự đào sâu vào núi đá kiên cố mà chúng đã cố thủ trong nhiều ngày qua. Để tránh những mũi súng phòng không đang lăm le chực sẳn hai con tàu chậm chạp này, tôi đổi chiến thuật. Hai chiếc guns sẽ tấn công địch từ chân đồi trên đầu quân bạn, đánh lên, tránh những khẩu cao xạ cỡ lớn đặt trên sườn núi không chỉa mũi súng bắn xuống dưới được. Dưới chân núi những “con cua” sắt M-41 cùng những thiết vận xa M-113 đang sắp hàng ngang dọc theo bìa rừng, chỉa súng hướng về phía sườn núi, án binh bất động. Trên con đường nhựa, vài chiếc xe quân xa bị bắn cháy đen, vài xác chết nằm rải rác…
Bay từ phía Tây, băng qua con Quốc lộ, tôi ngước đầu nhìn mục tiêu trên sườn núi rồi kéo đầu con tàu lên bắt đầu bắn những trái hỏa tiển cuối cùng còn lại trong dàn phóng… Hàng trăm tiếng nổ đủ loại từ những họng súng của địch bắn trả vang rền. Thình lình tôi nghe hai tiếng “bụp, bụp” khô khan, như một vật cứng chạm vào thân tàu. Tôi quay qua hỏi người hoa tiêu phụ:” Có nghe gì không Thạch ? Hình như tàu mình bị trúng đạn đó… ?”. Thạch ngồi im bất động bên ghế trái im lặng không trả lời, đang chăm chú dán mắt vào những chiếc đồng hồ trên “cockpit” trước mặt, tất cả những chiếc kim màu trắng trên mặt đồng hồ phi cụ vẩn đang ở trong vạch màu xanh, tiếng động cơ vẫn nổ đều đặn.
– Charlie đây Hổ gọi… Hổ Một có thể bị trúng đạn “ground fire”… Sẽ báo cáo tình trạng sau khi đổ xăng và “re-load” rockets… -Nghe năm… Charlie “hold” chờ trên vùng… Lúc nào Hổ trở lại thông báo… Hai con tàu quay hướng trở về Pleiku… Giao cần lái cho Thạch, tôi lui cui móc điếu thuốc ra hút. Bổng thoang thoảng đâu đây tôi ngủi thấy một mùi khen khét phản phất trong không khí. Tôi liên tưởng tới viên đạn và tiếng động chạm vào tàu khi đang xạ kích. ” Trong tàu ai hửi thấy mùi gì cháy không?” Tôi vừa hỏi vừa đưa mắt nhìn tất cả mọi người, hai anh mê vô và xạ thủ nhìn nhau không trả lời. Mùi khét càng rõ rệt hơn… Tim tôi đập mạnh… Cảm giác con tàu bị bắt lửa cháy trên không trung có lẽ là một cảm giác kinh hoàng nhất của những người đã từng cầm cần lái. Bỗng dưng Th/úy Thạch quay qua chỉ vào lưng tôi. Áo giáp sau lưng tôi đang ngún cháy… một làn khói trắng đang bốc lên, lưng tôi có cảm giác nóng như ai dí bàn ủi nóng vào da… Tôi vội vã giật phăng “seatbelt”, tháo chiếc áo giáp liệng vội ra sau sàn tàu. Anh mê-vô lanh trí, mở bi đông nước trà chế lên lưng áo dập tắt ngọn lửa… Một tàn lửa từ đuôi của chiếc hỏa tiễn phóng đi đã chui lọt vào sau lưng chiếc áo giáp tôi lúc nào không hay, ngun ngún cháy lớp bông độn bên trong… Giây phút xao động đã qua, tôi đã lấy lại được quân bình, nhìn lại thấy hai mê vô xạ thủ đang nhe răng cười, chọc quê…
Phi trường Cù Hanh xa xa trước mặt, căn cứ Pleiku đang nằm im lìm sưởi nắng hạ miền Cao. Gió lộng vào khung cửa nhỏ, tôi dựa vào lưng nghế nghỉ sau thời gian căng thẳng mệt mỏi, điếu thuốc trên tay, làn khói trắng quyện bay tan loảng vào khoảng không gian nhỏ hẹp của căn phòng lái quen thuộc này như đã dính liền vào đời tôi. Bao nhiêu hiểm nghèo gian khổ đã trải qua nhiều nhưng tôi cũng đã được đền bù xứng đáng với những cảm giác cao độ, những hạnh phúc chất ngất trên vòm trời cao, thỏa chí tang bồng hồ thỉ. Tôi phải làm và đã làm những gì cần làm của một người trai thời loạn, như bao nhiêu người trai hùng khác cùng thế hệ. Cuộc đời của người hoa tiêu, mạng sống như chỉ mành treo chuông, những cái sống cái chết đến bất chợt, không báo trước, tương lai chỉ là hiện tại, thi hành những gì đã được giao phó, phần còn lại là số mệnh. Tôi sống nhưng không suy tư, tận hưởng những gì có thể có trong ngày hôm nay. Với quan niệm đó đôi lần đã đưa tôi vào những hành động liều lỉnh, quá đáng, đôi khi có thể nói vượt ra ngoài cương kỷ của một hoa tiêu…
Rít mạnh hơi thuốc lá vào lồng ngực, vị đắng của hơi thuốc thấm vào cơ thể, ngây ngất , tôi mơ màng đưa mắt nhìn vùng núi rừng phơi bày trước mắt. Những giây phút được xỏa cánh bay cao như cánh chim trên bầu trời xanh để được ngắm nhìn giang sơn cẩm tú của quê hương này thật là vô cùng quý giá. Bên dưới mặt Biển Hồ êm ả nằm cạnh con QL-14, một danh lam thắng cảnh cũng là một hạt ngoc quý của vùng Cao nguyên đất đỏ. Biển Hồ trước đây là một miệng núi lửa đã ngưng hoạt động cách đây hàng triệu năm, là một huyền thoại của một buông Thượng tên Tơ-Nưng xưa kia thơ mộng và trù phú. Có một hôm bị núi lửa đổ ập vào vùi lấp, tất cả những người còn sống sót đã thương tiếc và khóc mãi không nguôi. Nước mắt tiếc thương đó đã chảy xuống ngập thành hồ, từ đó hồ được gọi là Biển hồ Tơ Nưng để nhớ đến ngôi làng xưa đó. Nói đến Biển Hồ ta không thể nào không nhắc đến núi Hàm Rồng, một ngọn “hải đăng” của những hoa tiêu trực thăng trên đường trở về căn cứ thành phố “em Pleiku má đỏ môi hồng… ” Hàm Rồng là một miệng núi lửa phía Nam bên kia thành phố, đối xứng với Biển Hồ như âm và dương, và còn thường được anh em phi hành gọi đùa là “Núi L… ” vì hình thể không chối cãi được của nó.
Con tàu hạ dần cao độ, bải nhiên liệu và đạn dược nằm sau lưng Quân Đoàn II. Đậu con tàu gần những “conex” để lấy thêm rockets. Nơi đây có đủ loại, đầu nổ thường (High explosive Warhead ), đầu nổ chống chiến xa (Anti-Tank Warhead , đầu nổ lân tinh (White phosphorous Warhead), đầu nổ đinh (Fletchette Warhead) chất đầy tận nóc. Tôi chỉ thị cho hai người mê vô xạ thủ “load” loại đầu đạn fletchette. Đây là loại hỏa tiễn đáng sợ nhất đối với Cộng quân, chuyên dùng để chống biển người. Mổi đầu đạn có gần 3 ngàn chiếc đinh thép, hình giống như những mũi phi tiêu nhỏ, dài cỡ hai inches. Sau khi hỏa tiễn được phóng ra khỏi bó rocket với vận tốc gần như siêu thanh trong 2 giây đầu tiên, đầu nổ thứ hai sẽ kích hỏa cách mặt đất chừng vài trăm bộ phóng mấy ngàn cây đinh nhọn xuống đầu địch với tốc độ nhanh gấp đôi, đồng thời tỏa ra một cụm bụi đỏ đánh dấu vị trí khởi điểm của những mũi tên thép.
Sau chừng nửa tiếng hai chiếc tàu võ trang của Thần Tượng đã trở lại chân núi Chu Pao. Mặt trời đã chếch bóng phương Tây, những tia nắng trưa hè vẫn còn gay gắt chiếu rọi thẳng xuống mặt sườn núi.
-Charlie, Hổ đã đến vùng… Chiếc C@C đang bay vòng cao tít trên trời xanh.
– Hổ vào đi… Quân bạn vẫn còn tại vị trí cũ…
– Báo với Charlie Hổ trang bị rockets đinh, chống biển người…
– Đầu đạn fletchettes… ? Giọng nói của Th/tá Vinh có vẻ ngạc nhiên… , không được đâu, coi chừng tụi mày sẽ giết luôn quân bạn đang bám sát đó…
– Không sao, … Charlie yên chí… tôi chỉ xin yêu cầu quân bạn rút phòng tuyến xuống dưới chân núi chừng năm chục mét là được rồi… nghe không trả lời ?… .
– Chờ đi… để tao liên lạc với Bộ binh đã…
Tôi kéo con tàu về xa hướng Tây bay vòng chờ… Tất cả những chiến thuật cũng như tiềm năng hạn hẹp của chiếc trực thăng võ trang này đã được tận dụng. Bảy mươi sáu trái rockets đinh của hai chiếc Mảnh Hổ này là nguồn hy vọng cuối cùng của tôi.
– Hổ… Charlie… , quân bạn đồng ý… , lúc nào thấy trái khói đỏ đánh dấu là Hổ có thể đánh được rồi. Kiểm soát lại tất cả phi cụ một lần cuối, bên cạnh Thạch đang ngồi im lặng nét mặt khẩn trương, phía sau Hổ Hai đang theo trong vị thế tác chiến. Tôi nhìn mặt trời và điểm đóng chốt của địch trên lưng chừng núi, con đường vô hình chênh chếch tôi ước lượng khoảng 45 độ, đó sẽ là trục đánh của hai chiếc trực thăng. Mặt trời sẽ ở trên cao sau lưng con tàu, chói xuống mắt địch thật vô cùng thuận lợi cho chúng tôi.
– Hổ vào đi, trái khói thả rồi…
Ngọn núi Chu Pao sừng sững dưới bầu trời trong, hứng trọn ánh mặt trời gay gắt từ phương Tây. Cụm khói màu đỏ của quân bạn đang tỏa cao trên đầu tàng cây xanh. Trên cao nhìn xuống tất cả như án binh bất động, im lặng… , cái im lặng của sự rình rập, đợi chờ, căng thẳng mưu toan của địch quân… Hai chiếc trực thăng võ trang bắt đầu lao xuống mục tiêu. Tay nắm chặt cần lái, mồ hôi từ chân tóc trên nón bay rịn chảy xuống trán, mỏm núi đá lởm chởm hiện lên trên hồng tâm của máy nhắm, mười mấy trái rockets hối hả thi nhau rời dàn phóng… xoẹt… xoẹt… xoẹt… .Trước khi chạm đất, những trái rockets kích hỏa lần thứ hai tạo nên những tiếng nổ phụ “bụp… bụp… bụp… ” tống đi hàng chục ngàn mũi tên thép nhỏ xuống mục tiêu. Những cụm bụi đỏ hồng nở bung thành những đám mây nho nhỏ lơ lững treo trên đầu địch. Những tiếng nổ bắn trả của địch liên hồi nổ rền vang khắp triền đồi… .Chiếc Hổ Hai theo sau, cắm đầu… xoẹt… xoẹt… mười mấy trái hoả tiễn chống biển người lao vào trên đầu mục tiêu, hàng chục ngàn mũi tên thép lại tiếp tục mưa xuống công sự phòng thủ, những mỏm đá, hóc núi, xuyên qua những cành cây, qua những tấm thép, qua nón sắt, qua những thân người ẩn núp đâu đó… Tiếng súng bắn trả của địch quân ngưng bặt, còn lại một vài tiếng nổ nhỏ rời rạc…
– Hổ… Charlie, quá đẹp… Quân bạn đang theo dõi tụi mày đó… .Ngay “target”… Hổ làm một chuyến nữa đi… Không trả lời tôi vòng lại. Hình như địch đã “thấm đòn”, tôi không còn nghe tiếng bắn trả nữa… Tất cả rockets và đạn dược đã được xử dụng. Bộ Binh bắt đầu xung phong tấn công lên những chốt đóng trụ của địch… -Hai Hổ có thể trở về lấy thêm đạn dược trở lại vùng “stand-by”, nghe rõ… trả lời… Th/tá Vinh ra chỉ thị…
Hai chiếc guns kéo nhau về hạ cao độ xuống đáp bãi nhiên liệu sau lưng Quân Đoàn II. Bãi nhiên liệu được vây bọc bởi những hàng dây điện cao thế treo ngang trên những cột cây gỗ ngâm dầu đen là một trở ngại cho những chiếc tàu võ trang nặng nề của chúng tôi . Ở vùng cao nguyên không khí loãng lại thêm cái nóng mùa hè, những chiếc tàu gunships đã nặng nề lại càng chậm chạp hơn nữa. Trong một lần đổ xăng, con tàu trang bị hai bó rockets lớn và đạn dược đầy trong lúc cất cánh, hai cái càng chiếc máy bay của tôi suýt móc vào hàng dây điện cao thế này. Còn anh bạn Hổ Hai của tôi, Thành “râu” đã táo bạo cất cánh chui dưới hàng dây điện này, chong chóng đuôi đã chặt đứt sợi dây điện to bằng ngón tay rơi xuống bải cỏ khô, xẹt lửa cháy lan vào gần bãi nhiên liệu. Báo hại bửa đó nhân viên quản trị kho vũ khí bị một phen hú vía… Riêng anh bạn Hổ Hai của tôi được Phi đoàn trưởng “ưu ái” ký tặng cho 7 ngày tù ( hình phạt chỉ ghi trong hồ sơ, chứ không thực sự thi hành. Kể ra cũng dễ hiểu. Nhốt tù pilots rồi thì ai bay giết mấy tên Vẹm ? )
– Hổ… Charlie gọi… -Nghe năm… Đang đổ xăng tôi vội trả lời..-Hổ khỏi lên vùng lại. Về biệt đội đáp, tắt máy nghỉ luôn, xong ngày hôm nay… Hổ… Bộ binh đã nhổ được chốt của tụi nó rồi. Đếm gần hai mươi xác chết ghim đầy đinh sắt… Bộ chỉ huy có lời khen… … Hổ.., mấy thằng xạ thủ phòng không đứa nào cũng bị siềng chân vào khẩu súng, không chạy đi đâu được… Chiều về tao sẽ kể thêm cho nghe… Tôi không trả lời, trong lòng hứng khởi… Một ngày nữa trôi qua không biến cố…
o O o
Gần mười giờ sáng, phi trường Cù Hanh có vẻ bận rộn , nhiều xe cộ chạy qua lại hơn bình thường. Trên những con đường nhựa trong căn cứ thấy xuất hiện nhiều xe quân xa của Bộ Binh, những đơn vị bạn được gủi đến tăng cường làm việc cho căn cứ.
Hôm nay tôi được nghỉ, chỉ tình nguyện bay một phi vụ nhẹ nhàng buổi trưa là bới cơm lên vùng cho anh em đang hành quân. Tôi và Th/úy Thạch rủ nhau lên Câu lạc bộ Không Đoàn ăn sáng. Trong phòng ăn của KĐ, nhộn nhịp những người, từ những phi công trong bộ đồ tác chiến của đủ các phi đoàn khác nhau, đến những nhân viên làm việc trong phi trường hay những quân nhân bạn đủ mọi binh chủng… .Kéo ghế ngồi xuống bàn, sau khi gọi thức ăn sáng, Thạch mở lời với tôi:
– Anh có nhớ hôm kia mình tàu mình bị hai viên AK-47 tại núi Chu Pao không? Nhìn ở ngoài không thấy gì cả vậy mà mình suýt chết đó ?
– Tại sao vậy… , sau lúc đó mình bay cả nửa tiếng đồng hồ có sao đâu ? Tôi ngạc nhiên hỏi.
– Thì đúng rồi… vì viên đạn nó chui ngang bụng tàu, xuyên qua cái “rod control” nối với “cyclic” ( ống nối tay lái với cánh quạt ) đứt gần 2/3, còn dính lại một chút à… Kỷ thuật báo cho tui nghe đó… Nếu nó đứt luôn thì tàu hết lái được… May quá !…
– Số cả bạn ơi… Trời kêu thì dạ… lo chi… À… .nghe nói hôm nay hợp đoàn của mình biệt phái làm việc cho Trung Đoàn 45 phải không ? Tôi đổi đề tài.
– Hình như vậy… Lúc xưa tụi mình đã làm việc với Trung Đoàn này hoài à… anh nhớ lúc họ còn đóng tại Nhơn Cơ, Gia Nghĩa không ? Thạch trã lời. -Nói đến Trung Đoàn 45 này, tôi còn nhớ một chuyện để tôi kể cho bạn nghe, rất tiếu lâm… Nghe cho vui đừng kể lại với ai làm chi nghe… Trước đây gần một năm, trong một phi vụ từ Nha Trang lên làm việc cho Trung Đoàn 45 đóng tại Nhơn Cơ, Gia Nghĩa. Trung Đoàn trưởng lúc đó nếu tôi không lầm là Trung Tá Quang, một vị chỉ huy tài giỏi và rất “chịu chơi”.Một buổi sáng đẹp, trời trong mây trắng, tàu chỉ huy của Đ/úy Tích đã bay trước đó vài phút, tôi bay chiếc Hổ Một, theo sau chiếc Hổ Hai Tr/úy Sơn, tự Sơn “Mực”. Người hoa tiêu phụ cho tôi là Tr/úy Tiêu Hạnh, một sĩ quan văn thư của phi đoàn có khuôn mặt bầu bỉnh, hai đôi má phính đỏ ửng mụn trứng cá. Thường thường anh Hạnh chỉ ở nhà lui cui lo ba việc sổ sách của phi đoàn mà bữa nay lại xin bay guns, chuyện thật lạ lùng. Con tàu đang ở trên rừng già Gia Nghĩa, tôi thì ngồi trên ghế bay nhìn trời nhìn đất bỗng kế bên vũng nước thấy một con nai “chà” đang đứng im không động đậy. Một tư tưởng thoáng qua trong đầu:” Hay là mình bắn con nai chà này tặng Tr/tá Quang cho anh em binh sĩ ăn?”
Nghĩ đến Đ/úy Tích đang bay chiếc chỉ huy, tôi lưởng lự giây lát, anh là một người hoa tiêu khuôn khổ, kỷ luật, ít khi ra ngoài cương kỷ. Trong giây phút này tôi phải có quyết định gấp, con nai không thể “kiên nhẩn đứng chờ” tôi mãi.Tôi dọ ý anh hoa tiêu phụ :”Nè… , bạn thấy con nai “chà” đang đứng dưới trảng không? Bự quá trời… , mình đem biếu Tr/tá Quang cho lính ăn thì hay biết mấy.”” Ông muốn làm thì cứ tự nhiên làm đi… có sao đâu, phe ta cả mà!” Nghe Hạnh nói tôi như mở cờ trong bụng, lái về hướng con mồi, khẩu minigun rống một tràng ngắn gọn, con nai to lộn nhào ngã quỵ trên bãi cỏ. Nằm trên sàn tàu, mùi hôi của con thú rừng cùng với mùi máu tươi quyện trong không khí xông lên mũi nồng nặc, những con “ve chó” đen thui cỡ ngón tay cái đeo đầy háng trông “ghê rợn”… Khoảng mười phút bay sau, trước mũi tàu hiện ra một giải đất đỏ của một phi trường dã chiến, kế bên là một doanh trại của Trung Đoàn 45. Tôi chỉ thị cho hai người phụ tá phía sau tàu thả con vật xuống đầu phi đạo.Hai anh phụ tà ì ạch đẩy con nai rơi xuống đất, đánh “ình” suýt đè sập căn lều cá nhân của hai ba người lính đang lui cui nấu nướng… Mấy anh lính giật mình vội vã nhảy qua một bên né tránh rồi trố mắt nhìn con tàu bay lướt qua, sát trên đầu…
Chiếc tàu của C@C đã đậu và tắt máy ngay cổng Trung Đoàn, Đ/úy Tích và người hoa tiêu phụ đã vào lều bộ chỉ huy. Tôi vào sau gặp Trung Tá Quang đang đứng gần đấy, liền rỉ tai:” Có con nai bắn được tặng Tr/tá để anh em ăn tẩm bổ… tôi thả đầu phi đạo… đừng cho Đ/úy Tích biết nghe Trung Tá”. Không quá mười phút sau, tôi đang ngồi với Đ/úy Tích trong lều bộ chỉ huy thì mấy anh lính gánh một con nai chà “diển hành” qua ngay trước cửa lều. Đ/úy Tích buộc miệng:” Trời… !.Nai chà… , ” Trung Tá Quang đứng gần đấy liền chêm vô:” Nó bị vướng dây mìn ngoài hàng rào phòng thủ sáng nay đó”…
Nghe tôi kể đến đây Thạch cười như nắc nẻ… -Sao có được Tr/tá Quang “lì xì” đồng nào không ?-Bậy nà, … ông chỉ mời tất cả phi hành đoàn ở lại ăn uống một bửa linh đình mà thôi..
Nói chuyện tới đây thì từ ngoài cửa Câu lạc Bộ bước vào hai ba pilots khu trục của phi đoàn Thái Dương 530, kéo ghế ngồi gần chiếc bàn kế bên, người nào cũng nai nịt súng ống, áo lưới trông rất “gồ ghề”. Hình ảnh này bổng nhắc tôi nhớ lại cũng tại đây, cỡ hơn tuần lễ trước, ngồi ăn sáng với Tr/úy Lý Hạnh, một hoa tiêu “bậm trợn” của phi đoàn 219 Bạch Mã, có bộ râu mép rậm rạp với khuôn mặt như tài tử Oma Sharif trong phim Doctor Zhivago. Đang ngồi nói chuyện thì từ ngoài CLB bước vào một vị Thiếu tá khu trục, dáng người cao lớn quá khổ, tóc húi cao, trông rất oai vệ trong bộ áo bay màu Kaki và chiếc áo lưới mặc trên người. Thấy tôi ngoái cổ nhìn theo, Hạnh liền nói: “Thặng Fulro phi đoàn 530 đó… mày biết không ? “. “Không… , tao nghe tiếng nhưng chưa gặp..” Tôi vừa trả lời vừa nhìn.Vị Th/tá người cao lớn, nước da ngăm đen, hai lưỡng quyền cao, đôi mắt quắc thước, người toát ra một nét uy nghi nào đó có thể làm cho người đối diện phải e dè… Anh có nét đẹp oai vệ của một chiến sĩ mọi da đỏ “Mohawk” tôi thường thấy trong những phim “cao bồi” hơn là cái tên “Fulro” của nhóm Thượng phản loạn chống chính quyền lúc xưa.
Khuôn mặt anh gợi lên một nét quen thuộc nào đó có lẽ tôi đã từng gặp trong quá khứ xa xưa. Tôi cố moi móc trong ký ức và nhớ lại… .Lúc xưa còn bé, đang còn ở cắp sách ở trường Tiểu học, trong những kỳ tham dự những trận tranh giải thể thao của các trường Trung học tại Huế, tôi đã gặp khuôn mặt này nhiều lần. Anh đại diện trong những đội thể thao của trường Trung học “Pellerin”, sau được gọi là Bình Linh. Trong trí óc tôi, anh đã gây một ấn tượng sâu đậm trong đầu của một cậu bé vẩn còn thơ dại. Mười mấy năm sau, quả đất tròn, tôi lại gặp anh nơi đây, đang cùng nhau trên một chiến tuyến chống quân thù… Buổi sáng hôm đó là buổi sáng cuối cùng tôi đã gặp Th/tá Phạm Văn Thặng, một người hùng của mặt trận Tây Nguyên qua những trận oanh kích sấm sét trên đầu địch quân. Ngày 26 tháng 5, vào một buổi xế chiều, Th/tá Thặng đã anh dũng hy sinh trên chiến trường, sau khi anh cố lết chiếc khu trục bị trúng đạn phòng không ra khỏi vùng đông dân cư trong thành phố để đáp xuống một đám ruộng ngoại ô Kontum, chiếc khu trục cơ A-1 vấp vào bờ ruộng lật nhào và bốc cháy… .
Trận chiến càng ngày càng gia tăng, những phi vụ yểm trợ quân bạn càng ngày càng nguy hiểm. Các phi đoàn Trực thăng đã bị tổn hại rất nhiều. Nhớ những buổi chiều, những ngày nghỉ bay tại biệt đội, đứng trên lan can trước mặt barrack biệt đội tạm trú, chúng tôi thường nhìn lên trời đếm những chiếc trực thăng của biệt đội bay hành quân về đáp, hy vọng số tàu cất cánh ra đi buổi sáng sẽ về đầy đủ.
Một phi đoàn Trực thăng anh em là phi đoàn Lạc Long 229, đã đặc biệt tổn thất nặng về trực thăng Võ Trang. Trong những tuần lễ vừa qua, hai ngày liên tiếp phi đoàn Lạc Long 229 đã bị bắn cháy hai chiếc gunships, trưởng phi cơ là Tr/úy Dương Đức Luân Đôn và Tr/úy Nguyễn văn Tuấn. Một hoa tiêu khác của phi đoàn Lạc Long là Tr/úy Phan hữu Nghị đã may mắn sống sót khi con tàu gunship của anh bốc cháy trong phi vụ yểm trợ. Trên khuôn mặt anh vẩn còn ghi nhiều dấu vết tàn phá của phi vụ kinh hoàng đó. Vốn bản chất can trường, sau nhiều tháng tỉnh dưỡng, Tr/úy Nghị đã xin tiếp tục đi con đường anh đã chọn, anh được bổ nhiệm vào phi đội Võ Trang 215 của tôi sau đó.
Nói về cái chết của Tr/úy Tuấn “L.” trên chiếc trực thăng võ trang đã xãy ra trong một phi vụ tiếp cứu một phi công khu trục là Th/úy Nguyễn Tài Cơ, bị bắn rơi tại mặt trận gần căn cứ Diên Bình phía Bắc Võ Định năm bảy cây số. Tr/úy Lê Quang Vinh, một “tay chơi” thứ thiệt của phi đoàn Lạc Long, bay chiếc gun số hai, kể lại thì ngày hôm đó ba chiếc trực thăng 229 đang đáp tắt máy tại căn cứ Dù Võ Định. Đ/úy Phạm Công Cẩn, nguyên cựu nhân viên Phi Đoàn 215, đang họp với Bộ Chỉ Huy Dù, thì nghe hung tin, Đ/úy Cẩn vội vã cất cánh cùng với hai chiếc Gunships đi giải cứu. Ba chiếc tàu bay ở cao độ thấp dọc theo Quốc Lộ 14 lên hướng Bắc. Chỉ trong vòng năm bảy phút là đã đến vùng, cũng theo lời Vinh “râu”, ba chiếc tàu vừa vược qua Diên Bình thì một rừng phòng không cùng đủ mọi loại súng lớn nhỏ khác nhau nổ như bắp rang xung quanh ba chiếc trực thăng bay ở cao độ cỡ vài trăm feet trên mặt đường QL-14. Chiếc gun số một của Tr/úy Tuấn lãnh nguyên một băng đạn đại liên, cắm đầu lao xuống mặt đất nổ tung. Chiếc số hai của Vinh “râu” quẹo gắt 180 độ về phía Đông con lộ, cố lết về đáp khẩn cấp ở Võ Định. Vừa chạm đất thì tàu liền tự động tắt máy, xăng chảy ướt sủng mặt đất, đuôi tàu lổ chỗ hàng chục viên đạn như tổ ong, còn phi hành đoàn được bình an vô sự.
o O o
Nhìn đồng hồ đã gần 12 giờ trưa đã đến giờ đem cơm lên cho hợp đoàn, tôi đứng dậy trả tiền xong cùng Th/úy Thạch ra về . Hai anh em cất cánh từ bãi cỏ sân đá banh trước barrack của biệt đội cư ngụ. Trên tàu có hai anh “Path Finder” ( nhân viên liên lạc với Bộ binh của Phi đoàn) cùng với đồ ăn và nước uống cho hợp đoàn. Ngày hôm nay là một ngày đáng nhớ và cũng là một ngày đau buồn cho phi đoàn Thần Tượng trong một phi vụ hành quân sôi động, đầy máu lửa… Hợp đoàn hành quân gồm có Th/tá Phạm Bính phi đoàn trưởng và hoa tiêu phó là Đ/úy Nguyễn Minh Lương bay chiếc Charlie. Thêm hai chiếc đổ quân, và hai gunships. Tr/úy Tâm và Th/úy Hùng “Kiềng” bay chiếc Hổ Một, Tr/úy Thống và Thành “Râu” bay chiếc Hổ Hai… ” “Khoảng mười hai giờ trưa, tất cả hợp đoàn năm chiếc sau khi thi hành phi vụ tiếp tế cho Trung Đoàn 45 bị “ground fire” dữ dội, phải quay trở về đáp. Tất cả tắt máy đổ xăng và nghỉ trưa tại căn cứ B-15. Bãi đáp dã chiến được lót bằng những tấm sắt đục những lỗ tròn ( P.S.P viết tắt của Pierced Steel Plank ), móc lại với nhau, thường dùng cho những phi đạo tạm thời. Nơi đổ xăng là những ụ đất hình chữ U kế tiếp nhau, vây quanh những bọc cao su dày khổng lồ dã chiến màu đen, hình vuông no căng đựng đầy xăng phản lực, JP-4.
Năm chiếc trực thăng đậu theo hàng dọc tắt máy, chờ cơm trưa do biệt đội tại Pleiku đem lên. Một số anh em phi hành đoàn quây quần trong khoang tàu của chiếc Gunship của Thành “Râu” để tán gẫu đấu láo giết thời giờ.Tr/úy Nguyễn Ngọc Chung, thường được anh em gọi là “Chung Ghiền”, vì khuôn mặt gầy ốm, tóc hói cao, trưởng phi cơ chiếc tiếp tế số hai, lên tiếng trong giọng nói nhừa nhựa rặc tiếng Bắc Kỳ :
– Này Thành, sao tao lúc nào cũng thấy mày ăn diện “láng coóng”, râu ria tóc tai cắt tỉa cẩn thận như đi bát phố vậy, mày đang đi đánh giặc chứ đi chơi à… Còn bộ râu ăn tiền của mày chắc đã làm nhiều em “phê” lắm phải không ?Đang ngồi phì phèo điếu Quân Tiếp Vụ, Thành “Râu” phản đối:
– Thôi cám ơn, đừng nói chuyện em út với tao, có một con đào đã chết mẹ rồi, em với út gì… Trước khi tao đi lên đây biệt phái nó ôm tao khóc sướt mướt rồi ca cho tao nghe bài ” biệt kinh kỳ”, tao chán thấy mẹ, đang lo bấn người đây… Dính một đứa với nó là hết đường chạy…
Tr/úy Lê Viết Tánh biệt danh Tánh”xích lô”, tánh tình rất vui vẻ, tiếu lấm, người nhỏ thó nước da ngăm đen, đang ngồi xào bộ bài xập xám trên tay, chen vào trong tiếng Quảng Nam:
– Thôi đi “choa, có “en” có chịu, đừng “nóa” rứa… Vừa nghe Tánh “xích lô” nói xong mọi người cười rộ… .
Ngồi kế bên, Tr/úy Tâm bay chiếc Hổ Một, người ngắn đòn, mập mạp, khuôn mặt ngăm đen, râu mọc xanh hàm ba ngày chưa cạo. Anh đăm chiêu xa vắng :
– Lúc này mà tụi mày còn giỡn được sao, sáng hôm nay tiếp tế cho Trung Đoàn 45, thằng Huỳnh Râu bị tụi nó bắn tới tấp vào không được, chạy toe… Đ.m… Việt Cộng đầy xung quanh mà Bộ Binh lúc nào cũng nói là bãi đáp “clear”. Chút nữa tao biết tụi mình sẽ trở lại tiếp tế chỗ đó, tao chắc như vậy…
Từ chiếc tàu đậu kế bên, Tr/úy Huỳnh “Râu” bay chiếc chở hàng số một bước đến trong bộ đồ bay “nomex” hai mảnh, đầu đội nón vải hoa Dù, trông không khác gì một anh lính Biệt Kích, tay đang cầm bi đông nhựa đựng nước trà.
– Ê… , Huỳnh… cho tao miếng nước đi… Thành “Râu” vọng ra từ khoang tàu, vừa nói xong Thành phà ra từ miệng một làn khói thuốc lá mù mịt. Huỳnh “Râu” tay mở nắp bi đông trà vừa nói:
– Mày hút thuốc, uống hở miệng ra nghe đừng kê sát hôi thuốc lá lắm… Huỳnh nói tiếp, tụi mày biết không, mấy tuần trước, cũng tại bãi đậu tại đây, thằng Rinh trước khi bị bắn chết nó chạy qua tàu tao xin nước. Ngay sau đó tàu Gun nó bị bắn nổ cháy trên trời, tao bay về đáp, cái bi đông hôi rình mùi thuốc lá từ miệng nó làm tao không uống được phải đổ đi đó… Tr/úy Tôn Thất Kim, biệt danh “Kim nhi đồng”, đứng kế bên nghe xong cười sằng sặc:
– Ha..ha..ha..Bửa đó không có tao giật cần lái thì cả tàu chết chùm rồi. Kim hứng chí kể tiếp:
– Thấy tàu thằng Rinh nổ tung sát bên tao, xung quanh đạn phòng không nổ lốp đốp như pháo bông, “Thầy” Huỳnh “cứng” người không hề có một phản ứng, tao phải chụp cần lái “break” hợp đoàn, tan hàng… không kịp là banh xác pháo rồi… Nói xong Kim lại cười hô hố chọc quê.Th/úy Nguyển Thế Tòng bay chung với Huỳnh “Râu” ngày hôm nay, một hoa tiêu cao ráo đẹp trai, nãy giờ im lặng, đưa tay xem đồng hồ xong rồi lên tiếng :
– Trời đất ơi, sao giờ này mà chưa thấy “Cơm Sky” đâu hết cả “zdậy” nè, đói bụng lắm rồi! Theo thông lệ hằng ngày mỗi buổi trưa đều có tàu từ biệt đội Pleiku bới cơm trưa lên vùng cho phi hành đoàn đang hành quân. Phi vụ đó được anh em gọi đùa là phi vụ “Cơm Sky”. Cũng như “Red Sky” đi đổ quân, “Blue Sky” bay liên lạc, “Yellow Sky” bay tản thương v.v… Thức ăn được ban ẩm thực phi đội quản trị. Cơm gạo sấy được nấu chín, trộn với thịt hay cá khui ra từ trong phần ăn C-Ration ( khẩu phần ăn đồ hộp) hay đôi khi chan thêm nước thịt cà-ri, chế biến thành một loại cơm thập cẩm. Những gói nylon gạo sấy được dùng lại để đựng khẩu phần cơm chiên, đầu túm cột chặt giây cao su. Mỗi gói là khẩu phần cho hai ngươì ăn. Nước uống những túi trà đá đựng trong thùng nhựa pinic.
Bịch cơm “dương châu” gạo sấy và túi trà đá tuy đơn sơ nhưng đã gói ghém tình thương, từ bàn tay của anh em sống chết bên nhau, lo lắng cưu mang cho nhau từng bữa ăn thức uống. Cuộc đời hiểm nghèo, gian khổ của người hoa tiêu trực thăng đã làm cho tình đồng đội càng ngày càng đượm thắm, gần gủi thương yêu nhau như ruột thịt. Trong sự mong ngóng của tất cả phi hành đoàn, từ xa vọng về tiếng chém gió phành phạch, mọi người ngước đầu nhìn lên trời đồng loạt kêu lớn:” Cơm Xì-Cai tới… ”
Bay chiếc tàu “Cơm Sky”, từ trên cao tôi nhìn thấy năm chiếc Thần Tượng đáp theo hàng dọc, tôi cho tàu cơm đậu ngay chính giữa để anh em đến lãnh phần ăn cho gần. Mọi người vội vã bu quanh con tàu. Tôi ngồi trên phòng lái, cỡi nón bay ra hút thuốc, nhìn những người bạn chiến hữu đang chia xẻ nhau bữa cơm dã chiến… Khoảng mười lăm phút sau tôi thấy anh xạ thủ của chiếc tàu Charlie ra đứng giữa bãi đưa tay ra hiệu cho hợp đoàn cất cánh.Tr/úy Tánh “xích lô” ngồi trên ghế co-pilot tay cầm bọc nylon cơm sấy đã được cắt đôi chia với Tr/úy Chung, đang nhóp nhép nhai liền la làng:” Mèn đét ơi, “en” chưa xong chi cả mà đã phải bay “rồu”, cuộc đời bay bổng chi mà khổ rứa”… Vừa lẩm bẩm anh vừa túm túi cơm ăn dở cột sợi giây cao su xong quay người lại bỏ vào túi bay móc sau lưng ghế. Trên sàn tàu của anh, những thùng đạn dược gỗ thông vàng, những thùng đồ hộp C-Ration đã chất ngập đầy sẳn sàng để thả tiếp tế cho quân bạn.
Những cánh quạt của năm chiếc trực thăng bắt đầu quay vùn vụt, tiếng động cơ bán phản lực đồng loạt kêu o.o. vang động cả bãi đáp… Tất cả năm chiếc trực thăng lần lượt nhấc mình rời khỏi mặt đất, để lại sau lưng đám bụi mịt mờ… Nhìn những người bạn đồng sanh đồng tử hướng vào vùng dầu sôi lửa bỏng, tôi lo ngại… rồi kéo con tàu rời bãi trở về phi trường Cù Hanh.
– Hợp đoàn cất cánh theo tôi, đến vùng chờ sẽ có chỉ thị… Tiếng Th/tá Phạm Bính, con Voi đầu đàn vang trên tần số.
Từ căn cứ B-15 bay lên hướng Tây Bắc năm bảy phút là hợp đoàn đã tới vùng. Đây là một tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 45/SĐ 23 BB, trải dài mặt hướng Tây-Bắc ngoại ô Kontum vài cây số. Địch quân đã tiến sát vòng đai bảo vệ thành phố, mặt đối mặt với quân bạn. Địa thế đây rừng cây thưa rải rác, trống trải xen lẫn những mảnh ruộng khô rất bất lợi cho những con tàu mỏng manh chậm chạp này. Hợp đoàn bay vòng chờ, dưới ánh nắng chói chan vị trí đóng quân của quân bạn được nhận rõ qua những vòng rào kẽm gai bao bọc những công sự bằng bao cát màu cứt ngựa, nửa nổi nửa chìm dưới mặt đất. Kế bên vòng rào phòng thủ là một bãi đất trống để trực thăng đáp thả đồ tiếp tế hay tản thương.
Từ phía Nam, hai chiếc chở đồ tiếp tế do Tr/úy Huỳnh bay chiếc lead và Tr/úy Chung bay chiếc số hai đang bay vòng chờ ở trên cao. -Lead đây Charlie.., sẽ có khói màu tím báo hiệu. Nếu có “ground fire” thì sẽ cất cánh trở lại phía Nam… Không cần đáp, “hover” đạp đồ xuống nếu cần…
– Chiếc số hai vào trước đi… Th/tá Bính ra chỉ thị cho chiếc Lead chờ ở vòng ngoài vì có lẽ sáng hôm nay Tr/úy Huỳnh đã vào đáp và bị “ground fire” rồi.Tiếng Th/tá Bính vừa dứt lời thì một làn khói tím vừa bốc lên ngay trong vòng rào của phòng tuyến quân bạn. Tàu của Tr/úy Chung chở đồ tiếp tế bay về hướng bãi đáp. Ở cao độ thấp chừng vài trăm bộ, hai chiếc trực thăng võ trang kè sát, bay hai vòng tròn “cover” hai bên của chiếc tiếp tế. Tất cả vẩn im lặng, không một tiếng súng hay một trái đạn pháo nổ.
– Hai Hổ coi chừng đừng bay quá về hướng Tây, nơi địch tập trung… nghe rõ … Charlie nhắc nhở. Chiếc tàu của Chung đáp xuống với tốc độ nhanh hơn thường lệ, những thùng đồ được hai người bộ binh trên tàu đạp xuống vung vãi trên mặt đất.
Sau khi thả hết đồ tiếp tế, tàu quay đầu 180 độ chúi đầu rời bãi đáp về hướng Nam, đám khói màu tím quyện mù không gian bao phủ con tàu. Vừa lên cao độ cỡ vài trăm feet thình lình từ những cụm cây thấp, trong những khóm tre bụi chuối những tràng đạn đồng loạt nổ vang như bắp rang… Từ mặt đất dưới bụng tàu “Chung Ghiền”, chấp chóa nổ như luống cải đang nở hoa hòa điệu với âm thanh của đủ loại súng, cóc… cóc..cóc… cóc… ục… ục…
– Á.., Á… .Charlie… Charlie… Tàu bị… ground fire… tàu trúng đạn… Charlie… groundfire… Tiếng của “Chung Ghiền” thất thanh… Trên cao hai chiếc Guns đang lượn theo vòng tròn gần đó tức thời phóng những trái rockets nổ ầm bên dưới con tàu của Chung đang hối hả lấy cao đô. Mấy khẩu miniguns quay vù vù phun hằng ngàn viên đạn đại liên vào những bụi rậm bên ngoài hàng rào phòng thủ…
– Hổ… Hổ… đây Charlie… có nhiều bóng đen… chạy trong những bụi rậm, … gần bụi tre… phía Nam, kế bên rẩy chuối… Hổ xạ kíck vào đó… nghe không… trả lời…
Trên tàu Hổ Một, không khi căn thẳng, hổn độn tiếng la trong intercom của Tr/úy Tâm lẩn lộn với tiếng động ầm ỉ cùng với tiếng phành phạch chém gió của cánh quạt:” Bắn minigun… bắn… bắn… bụi tre..nghe không..thấy mấy thằng chạy không?… Ở bụi chuối… bắn… bắn… ” Người xạ thủ chồm hẳn ra ngoài dí mũi súng sáu nòng quay vù, một bầu lửa đỏ trước nòng súng phun hàng ngàn viên đạn xuống đám ruộng, vườn cây phía dưới… Sau lưng chiếc Hổ Hai đang cắm đầu, những làn khói trắng kéo theo sau đuôi hai bên hông tàu, những trái hỏa tiễn phóng vụt xuống bãi nổ ầm… .Phía dưới địch tới tấp bắn trả, thấp thoáng nhiều bóng đen di chuyển vội vã từ các bụi cây… Những trái hỏa tiễn nổ tung, những bụi chuối, bụi tre trốc gốc… văng tứ phía… Trong không khí sôi động đó có tiếng la đồng loạt từ hai chiếc gunships.
– Hổ… Một… tàu trúng đạn… Charlie… tàu bị groundfire… … Tiếng của Tr/úy Tâm đứt đoạn…
– Á… Á… – Charlie… Hổ Hai, … tàu bị “hit” nhiều viên… .Tiếng nói của Tr/úy Thống trưởng phi cơ dồn dập… Co-pilot bị đạn vào đầu…
Từ triền đồi phía Tây, những khẩu súng lớn liên tiếp bắn vào hai con Hổ đang vẫy vùng gầm thét trong ổ phục kích của địch quân.
– Hổ Một… Hổ Một… tàu bạn có khói… – Đáp về hướng Nam gấp… có đám ruộng trống… Hổ Một nghe trả lời… Tất cả hợp đoàn còn lại về đáp B-15. Tiếng của Th/tá Bính chỉ thị…
Bài học của Tr/úy Vân bốc cháy rơi trên triền đồi căn cứ Charlie vừa mới đây vì cố bay ra khỏi vùng địch khi tàu bị trúng đạn còn rõ mồn một trong trí nhớ của tất cả mọi người. Chiếc trực thăng võ trang Hổ Một quay ngược trở lại về phía Nam bay rà theo mặt đất, cố lết ra khỏi vùng địch, theo sau kéo làn khói đen… Bay được chừng khoảng năm bảy trăm mét, cách con QL-14 gần một cây số, con tàu chậm dần rồi chạm mặt đất, chiếc càng trái vướng vào bờ đê ruộng khựng lại, nghiêng mình về phía trái rồi lật nhào, cánh quạt đập xuống mặt đất vỡ tung tóe mịt mù, động cơ bán phản lực của chiếc trực thăng tiếp tục nổ, rú lên âm thanh như heo bị cắt tiết… Hai bó rockets văng lăng lông lốc gần đó… Hùng “Kiềng”, người bị treo ngược trên ghế bay, đầu chúi xuống đất vùng vẫy… cố thoát ra, lấy chân đạp mạnh vào windshield phía trước. Bên cạnh Tr/úy Tâm chiếc helmet đập vào máy nhắm rockets, tấm kiếng vỡ từng mảnh vụn, loay hoay cố mở sợi dây seatbelts đang siết chặt anh vào chiếc ghế bay. Trong vài giây phút sau giật bung được sợi giây nịt bụng, người rơi như trái mít rụng xuống trần tàu, cả hai lồm cồm bò về phía sau tàu chạy thoát ra bên ngoài…
Sau đuôi tàu không xa, chừng vài chục mét, chiếc Charlie của Th/tá Bính đang đậu sẵn chờ từ lúc nào, cánh quạt quay vùn vụt ở tốc độ cao… Phi hành đoàn chiếc Hổ Một cắm đầu chạy nhanh trên mặt ruộng khô lồi lỏm về hướng chiếc trực thăng đang đợi, phóng lên sàn tàu cánh cửa đang mở rộng…
Ngồi trên ghế bay ghìm tay lái đang theo dõi tất cả diễn tiến, Th/tá Bính quay ra sau sàn tàu la lớn:
– Sao có ba người à… ? Còn một người nữa đâu… ? Tr/sĩ Linh đâu rồi ?
Ba người trong phi hành đoàn Hổ Một vừa mới nhảy lên tàu quay mặt nhìn nhau sửng sốt, trong khoảng khắc không ai nói ai một lời đồng loạt nhảy xuống đất chạy trở lại chiếc trực thăng võ trang đang lật ngửa trong đám bụi mịt mù chưa tan… Không xa hướng Bắc, tiếng cóc cóc của những khẩu súng AK mổi lúc mổi gần… Ngồi trên chiếc trực thăng chỉ huy, Th/tá Bính kiên nhẫn chờ… Không khí cực kỳ căng thẳng. Từ chiếc tàu bị nạn bụi mù chưa tan hẳn, khói đen bốc cao từ buồng máy, thấp thoáng bóng phi hành đoàn chui ra từ khoang tàu, kéo lê thân người bất động của Tr/sĩ Linh đang nằm co quắp kế bên khẩu minigun, chiếc helmet đã văng ra khỏi đầu. Tr/úy Tâm phía sau hai tay cầm hai cổ chân của xạ thủ Linh, Th/úy Hùng và Lan mê-vô chạy trước, mỗi người nắm một cánh tay, tư thế như đang khiêng một chiếc kiệu, cố chạy nhanh về chiếc tàu C@C đang đợi.Tất cả đã lên tàu, chiếc trực thăng vội vã nhấc mình rời mặt ruộng khô, vượt qua hàng cây xanh dọc theo con suối cạn… theo sau mấy tiếng cóc cóc… của những cây AK-47 bắn vói theo… Trên sàn tàu, Tr/sĩ Linh nằm xoải tay, mắt nhắm nghiền, không hơi thở, một lỗ lủng bằng đầu ngón tay ngay kế nách sát bìa chiếc áo giáp, máu đỏ loang ướt đẫm bộ áo bay màu xám… Định mệnh đã quá khắc khe cướp đi mạng sống của Linh chỉ một tuần lễ sau khi anh thành hôn với một người con gái mà anh hứa sẽ sống bên nhau suốt đời…
Tại bãi đáp Lôi Hổ B-15 chiếc Hổ Hai và hai chiếc tiếp tế đã đáp tắt máy. Huỳng “Râu” đang đi vòng quanh tàu đếm lỗ đạn, Chung “Ghiền ” chạy đến bên chiếc Hổ Hai, Thành “Râu” ngồi dựa ngã đầu vào lưng ghế bay, cửa mở rộng, trước bụng để chiếc nón bay, cái visor ( kiếng mát gắn trên helmet ) bể nát rơi trên sàn cockpit, phần trước nón một đường rãnh sâu kéo dài do viên đạn xuyên ngang. Anh vẫn còn ngơ ngác bàng hoàng chưa tỉnh hồn vì những giây phút đối đầu với lưỡi hái Tử thần trong ” đường tơ kẽ tóc”.
-Thành, mày có sao không ?
Đang nhắm mắt, Thành ngửng đầu dậy trả lời:
– Bố khỉ, mẹ… cám ơn mày, mày khen bộ râu tao đẹp, bây giờ cho mày xem này, nói xong Thành chỉ vào hàng ria mép một bên trái bị cháy xém tận da do viên đạn xẹt ngang trông rất ngộ nghĩnh… Nhìn khuôn mặt của Thành “râu”, “Chung ghiền” không nén được, cười rộ…
– May nhờ tao mang cái kiếng Rayban không thì giờ này chắc là mù mẹ rồi… Nói xong Thành đưa tay sờ những vết lủng lỗ chỗ như hạt gạo đọng máu đen trên má…
o O o
Ngày 25 tháng 5 Cộng quân mở nổ lực cuối cùng tấn công Kontum, lúc nửa đêm địch pháo dữ dội vào gần phi trường và phía Nam thành phố, hai Tiểu Đoàn đặc công đã xâm nhập lọt vào mặt Đông Nam do ĐPQ trấn giữ. Nhiều chiến xa địch đã tiến được vào nhiều vị trí quan trọng và đã gặp sức chống cự mãnh liệt của quân bạn.
Trong ngày 30-5, các vị trí do CS chiếm đã được lấy lại. Trưa 31-5 Cộng quân rút lui để lại 3000 xác chết theo lời Đ/tá Bá, mấy chục chiến xa bị bắn hạ, nổ lực cuối cùng của Cộng quân đã bị thảm bại. Từ ngày 1 tháng 6, tình hình chiến sự tại Kontum bắt đầu tiến triển khả quan khi mũi dùi xâm nhập thành phố của Bắc quân từ hướng Đông Nam đã bị đẩy lui hoặc bị tiêu diệt, Sư Đoàn 23 đã hoàn toàn kiểm soát phi trường cũng như những vùng phụ cận.Tổng thống Thiệu đã bay vào thị xã vinh danh tinh thần chiến đấu của anh em binh sĩ và thăng cấp cho Đại Tá Lý Tòng Bá lên Chuẩn tướng. Mặc dầu đã có nhiều ưu thế về quân số, vũ khí, xe tăng nhưng địch đã bị thảm bại vì lòng can đảm và sự chiến đấu dũng cảm của tất cả binh chủng VNCH. Gần 40.000 xác Bắc Quân đã bỏ lại chiến trường Tây Nguyên, ván bài cuối cùng của Bắc Việt trước khi lên bàn hội nghị Paris đã thất bại.
Lời kết: Trận chiến Mùa Hè Đỏ Lửa, hay Eastern Offensive là một trận chiến lớn nhất đã xảy ra trong chiến tranh tại miền Nam Việt Nam mà địch quân đã bị thảm bại. Là một nhân chứng của những trận đánh khủng khiếp và kinh hoàng nhất của mặt trận Cao Nguyên, tôi muốn ghi lại tất cả đây hình ảnh của trận chiến qua cái nhìn của một hoa tiêu trực thăng võ trang. Đồng thời cũng muốn nói lên cho thế giới thấy sự can trường của những người lính Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến này. Những trận đánh trên ngọn đồi lịch sử Charlie điển hình của binh chủng Nhảy Dù, mặc dầu ở trong một hoàn cảnh khó khăn, thất lợi đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng và gây tổn thương tối đa cho quân địch. Những Trung Đoàn Biệt Động Quân biên phòng cũng như các Trung Đoàn tinh nhuệ của Sư Đoàn 23 Bộ Binh đã chống đỡ tất cả mọi tấn công điên cuồng của địch quân vào Kontum và giử vững thành phố này trong giây phút cuối cùng trận chiến B-3 của Bắc Quân.
Nhưng chiến thắng của mặt trận này không thể có được nếu không có sự yểm trợ của Không Lực Đồng minh Hoa Kỳ, và nhất là tinh thần chiến đấu dũng cảm của tất cả các phi công Không Lực VNCH. Những con chim đơn độc của những chiếc máy bay quan sát bay trên mặt trận nóng bỏng ngày đêm để tìm kiếm dấu vết của địch; những chiếc phi cơ vận tải bay qua những lằn đạn phòng không, chuyên chở vật liệu, đạn dược để tiếp tế những thành phố bị vây hãm dưới hằng ngàn trái đạn pháo kích; những chiếc trực thăng sát cánh, ăn ngủ kế bên những đơn vị bạn, đối đầu trực diện với quân thù trong những khoảng không gian nhỏ hẹp; những chiếc máy bay khu trục lao mình xuống mục tiêu yểm trợ quân bạn, không hề quan tâm đến sinh mạng trước rừng phòng không dày đặc.
Mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa đã làm cho Bắc quân hầu như bị kiệt quệ trong tất cả mọi tiềm năng chiến đấu và không còn một khả năng nào để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lấn miền Nam. Nếu chúng ta tiếp tục được sự yểm trợ của những người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ thì cuộc diện chiến tranh có lẽ đã đổi chiều. Nhưng thực tại đã phủ phàng, trong khi Cộng Sản Miền Bắc vẩn được sự yểm trợ mạnh mẽ về khí giới của những nước đàn anh Cộng Sản để tiếp tục guồng máy chiến tranh của họ, thì chúng ta lại bị nguời bạn Đồng Minh Hoa Kỳ bỏ rơi, không thương tiếc. Thế cờ chính trị trên bình diện thế giới đã đổi thay, miền Nam Việt Nam đã trở thành một con cờ thí… Chúng ta đã thua cuộc chiến không phải là thiếu lòng can đảm, thiếu ý chí chiến đấu mà chúng ta đã thua cuộc vì quyền lợi của những nước Tư Bản.
Thắng thua là chuyện đương nhiên phải có trong một trận chiến, nhưng nguyên nhân của sự thất bại mới là điều đáng kể… .Chúng ta có quyền hãnh diện đã mang trên người bộ quân phục của một người chiến sĩ đã từng phục vụ dưới lá cờ của Tổ Quốc, Màu Vàng Ba Sọc Đỏ…
Vĩnh Hiếu
Phi Đoàn 215 Thần Tượng
Xin thành thật cám ơn những niên trưởng cũng như các chiến hữu đã đóng góp những chi tiết trong mặt trận Mùa Hè Đỏ Lửa:
* Tr/tá Khưu Văn Phát,
* Đ/úy Nguyễn Hồng Huỳnh,
* Tr/úy Nguyễn Ngọc Chung,
* Tr/úy Lê Quang Vinh,
* Tr/úy Tôn Thất Kim,
* Th/úy Nguyễn Thanh Hùng…
* và sau cùng là Đ/úy Phạm Vương Thục bào đệ của Cố Tr/tá Phạm Văn Thặng.
http://batkhuat.net/tl-mhdl72-matran-kontum.htm
https://dongsongcu.wordpress.com/2016/08/11/mua-he-do-lua-phan-i-phi-vu-mo-man-phan-ii-nguoi-o-lai-charlie-phan-iii-mat-tran-kontum/
Tân Sơn Hòa chuyển