Tham Khảo
NGĂN CHẶN VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH BẤT HỢP PHÁP CỦA TRUNG CỘNG TẠI BIỂN ĐÔNG
Người dịch giới thiệu: Dịch theo nguyên bản tiếng Anh “Stop China’s
Unlawful ‘Great Wall’ in the South China Sea” của Raul Pedrozo.
Tóm lược tiểu sử tác giả:
- Cựu Đại tá Hải quân Hoa Kỳ;
- Cựu Giáo sư Luật quốc tế trường cao đẳng HQ Hoa Kỳ (US Naval War
College);
- Thẩm Phán Cố Vấn Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (Staff Judge
Advocate, US Pacific Command)
- Phụ tá đặc biệt Bộ trưởng quốc phòng về chính sách (Special
Assistant to the Under Secretary of Defense for Policy).
Giới thiệu: Bài viết này xứng đáng được coi như là dữ liệu lịch sử
rất có giá trị về chủ quyền trên các đảo biển Đông, là đề tài sôi
bỏng trong các cuộc tranh chấp hiện nay.
Là một chuyên gia ngành luật quốc tế, tác giả lần lượt dẫn chứng qua
nhiều sự kiện lịch sử cho ta thấy rằng Trung cộng không có chủ quyền
trên các đảo ở biển Đông, đặc biệt là trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Ngược lại, Việt Nam có chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa
từ khi vua Gia Long chính thức chiếm đóng quần đảo này vào năm 1816.
Trong bài tác giả cho chúng ta biết “có hàng loạt các hành động của
chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ 18 cung cấp bằng chứng không
thể chối cãi được là Việt Nam đã liên tục kiểm soát quần đảo Hoàng
Sa một cách bình yên và có hiệu quả. Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên
được thành lập vào thế kỷ 18 do Công ty Hoàng Sa được chính phủ tài
trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng vào thế
kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa hành bởi người Pháp trong hậu bán
thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20. Sau đó đã được công khai bình
thường hóa bởi quốc gia độc lập miền Nam Việt Nam sau khi Pháp rút
quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và nối tiếp bởi một nước Việt Nam
thống nhất sau năm 1976”.
--LTP.
***
Trong thời gian nửa đầu năm 2014 người ta thấy có sự gia tăng đáng
kể những hành vi hung hăng của Trung cộng khi nước này tiếp tục
chiến dịch cắt biển của họ ở Biển Đông. Bắc Kinh tìm cách thay đổi
hiện trạng trong khu vực để củng cố việc tuyên bố chủ quyền của họ
trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các vùng biển kề cận.
Trong tháng hai, Trung cộng đã bắt đầu một dự án thu hồi lãnh thổ
quy mô lớn tại Johnson South Reef trong quần đảo Trường Sa, trong đó
có thể chứa một sân bay quân sự mới của Quân đội Giải phóng Nhân dân
(PLA) để kiểm soát các tuyến đường biển chiến lược trong khu vực
xuyên qua Biển Đông. Các tháng tiếp theo, chính quyền Trung cộng bắt
đầu thực thi các quy định đánh cá mới đòi hỏi phải có tàu cá nước
ngoài để được phê duyệt trước khi hoạt động trong hơn 2 triệu cây số
vuông, cộng với không gian đại dương bao quanh bởi “đường chín đoạn”
khét tiếng của Trung cộng.
Vào tháng Năm, Trung cộng đặt một giàn khoan dầu biển sâu (HD 981)
tại một vị trí cách ngoài khơi bờ biển Việt Nam 120 hải lý và bắt
đầu khoan dầu ở vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Tàu
chiến của Hải quân Trung cộng và tàu tuần tra khác của chính phủ,
cũng như một số lượng lớn tàu cá dân sự, đã được điều động và bố trí
chặt chẽ để bảo vệ hoạt động khoan dầu. Trong tuần sau đó, những
chiếc tàu của Cục An toàn Hàng hải Trung cộng đã ngăn cản sự tái
tiếp tế của 10 đơn vị thủy quân lục chiến Philippines đồn trú trên
tàu BRP Sierra Madre vùng biển đánh cá lớn thứ nhì (Thomas Shoal)
trong quần đảo Trường Sa, mặc dù các đội ngũ trên tàu quân sự này
của Philippines đã được thường xuyên tái tiếp tế kể từ năm 1999.
Cuối cùng, trong sự đối đáp hiển nhiên về một đề xuất của Mỹ tại
Diễn đàn Khối ASEAN nhằm ngăn chận tất cả hành động khiêu khích ở
Biển Đông, Bắc Kinh công bố vào tháng Tám rằng họ sẽ xây dựng các
ngọn hải đăng có năm tính năng, bao gồm hai hòn đảo nhỏ trong quần
đảo Hoàng Sa, mà họ tự cho là nhằm tăng cường an toàn hàng hải. Hai
tuần sau, một chiến đấu cơ của Trung cộng, Su-27, tiến hành một cuộc
xung kích nguy hiểm, đánh chặn chiếc phi cơ thám thính, P-8, của Hải
quân Hoa Kỳ khi đang tuần tra giám sát thường xuyên qua vị trí cách
đảo Hải Nam 135 dặm về phía đông. Điều này gợi nhớ biến cố EP-3 hồi
năm 2001, khi máy bay chiến đấu Trung cộng thực hiện nhiều vòng bay
lướt bên dưới và cạnh chiếc phi cơ thám thính P-8 của Hoa Kỳ trước
khi thực hiện một cú bay lộn mèo, lăn tròn và đảo lộn trên đầu chiếc
máy bay Mỹ, chỉ cách chiếc máy bay này trong khoảng từ 20 tới 30
feet, tức là từ khoảng 6m tới 9m mà thôi.
Trung cộng biện minh cho những hành động này qua tuyên bố rằng họ có
“chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các đảo ở Biển Đông và các
vùng biển kế cạnh, cũng như chủ quyền và quyền tài phán trên các
vùng biển và đáy biển có liên quan bao gồm trong “đường chín đoạn.”
Tuy nhiên, qua việc xem xét kỹ các ghi chép lịch sử và pháp luật,
người ta thấy rằng các tuyên bố của Trung cộng ở Biển Đông là vô căn
cứ.
Trung cộng tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa dựa trên sự trưng
bày rộng rãi và liên tục của chính quyền đối với quần đảo sau khi họ
phát hiện các chứng tích trong triều đại nhà Hán. Mặc dù thủy thủ
Trung cộng có thể đã biết có sự tồn tại của những hòn đảo ở Biển
Đông, nhưng không có bằng chứng cụ thể cho thấy rằng Trung cộng thực
sự đã “phát hiện” những hòn đảo này trước khi có sự xuất hiện của
những người đi biển từ các vương quốc láng giềng của họ, bao gồm
Việt Nam, Malaysia, Indonesia, và Philippines.
Hơn nữa, cho dù Trung cộng đã phát hiện ra các đảo, luật pháp quốc
tế xác định rõ ràng rằng việc khám phá mà không có các hành động
chiếm giữ và kiểm soát hiệu quả tiếp theo thì tự nó không cho là có
chủ quyền lãnh thổ được. Hiệu quả chiếm giữ đòi hỏi phải có ý định
hành động chủ quyền và một số thực hành hoặc hiển thị chủ quyền đó.
Mặc dù không có bằng chứng chủ quyền đáng tin cậy, Trung cộng đã
lặng lẽ và liên tục chiếm đóng quần đảo, hoặc thực hiện thẩm quyền
của họ trên các đảo này.
Hầu hết Trung cộng dựa trên các dữ kiện cho thấy ngư dân Trung cộng
từng sống rải rác trên một số quần đảo Trường Sa trong thời gian
ngắn. Tuy nhiên theo luật pháp quốc tế thì những hành vi cá nhân
không đủ điều kiện để coi là hành động của “nhà nước” trừ phi ngay
sau đó được theo dõi hay bị xử phạt bởi các cơ quan chính phủ. Không
có bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy chính phủ Trung cộng từng ủy
quyền hoặc sau đó xử phạt các hành vi nêu trên.
Các hành vi có thể kiểm chứng đầu tiên về chủ quyền của Trung cộng
trên quần đảo Hoàng Sa đã không xảy ra cho đến năm 1909. Tuy nhiên
những hành vi này đã xảy ra gần 100 năm sau khi vua Gia Long của
Việt Nam chính thức chiếm hữu các quần đảo này vào năm 1816. Việt
Nam và Pháp đã quản lý hiệu quả và liên tục các hòn đảo này cho đến
khi họ bị trục xuất bởi quân đội Nhật Bản trong Thế chiến II.
Hành động có thể kiểm chứng đầu tiên của Trung cộng về chủ quyền ở
quần đảo Trường Sa xảy ra sau đó nữa, vào năm 1933, và cũng sau khi
Pháp công khai tuyên bố chủ quyền vào năm 1929 với lý do là các đảo
này vô chủ. Pháp chính thức chiếm đóng các đảo này vào năm 1933 đồng
thời sáp nhập vào quần đảo Trường Sa. Sự chiếm hữu như vậy vẫn còn
là một phương pháp được công nhận chủ quyền lãnh thổ theo luật quốc
tế. Tính chất hợp pháp này được tiếp tục tồn tại cho đến khi Hiến
chương Liên Hiệp Quốc ra đời có hiệu lực vào tháng Mười năm 1945.
Trung cộng cũng tin cậy vào một số điều trong Công ước Quốc tế về
việc chứng minh chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo
các điều trong Công ước Quốc tế thì các tài liệu và báo cáo của
Trung cộng muốn chứng minh chủ quyền của mình đối với các đảo ở Biển
Đông hoàn toàn không hỗ trợ vị trí của Bắc Kinh. Nói một cách khác,
dựa theo Công ước Quốc tế thì Trung cộng không có chủ quyền trên các
đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cho rằng nước Pháp từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình trên
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi ký kết Hiệp ước Trung-Pháp năm
1887. Tuy nhiên luận cứ này của Trung cộng không được hỗ trợ bởi nội
dung đơn giản của Hiệp ước hoặc bởi các hành động tiếp theo của các
bên tranh chấp. Đường ranh giới được thành lập bởi Hiệp ước năm 1887
chỉ quy định quyền sở hữu của các đảo gần bờ biển chớ không phải là
các hòn đảo ở giữa đại dương trong vùng Vịnh Bắc Bộ hoặc xa hơn nữa
là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự phụ thuộc của Trung cộng vào Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam
để hỗ trợ cho tuyên bố chủ quyền của mình rõ ràng được đặt không
đúng chỗ. Những tài liệu này chỉ cung cấp cho rằng Trung cộng sẽ
khôi phục Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ sau chiến tranh.
Các câu tiếp theo tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi “vùng
lãnh thổ khác” mà họ đã mua bằng vũ lực, nhưng nó không có nghĩa là
những “vùng lãnh thổ khác” sẽ được trả lại cho Trung cộng. Chỉ có
kết luận hợp lý là những “vùng lãnh thổ khác” bao gồm quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa, đã bị thu giữ bằng bạo lực từ Pháp, chứ không
phải Trung cộng. Những hòn đảo này do đó sẽ được phục hồi cho Pháp,
không phải cho Trung cộng, vào lúc kết thúc cuộc chiến.
Kết luận này được hỗ trợ bởi thực tế là Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới
Thạch đã có mặt tại Hội nghị Cairo, nhưng không có tài liệu tham
khảo đối với các đảo ở Biển Đông trong tuyên bố cuối cùng. Chắc
chắn, nếu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được coi là lãnh thổ của
Trung cộng trước khi chiến tranh, Tưởng Giới Thạch đã có thể khẳng
định rằng quần đảo được trả lại cho Trung cộng kiểm soát tại Hội
nghị; nhưng điều này đã không xảy ra.
Trung cộng bổ sung tuyên bố rằng chủ quyền của Trung cộng đối với
các đảo ở Biển Đông đã được công nhận trong việc soạn thảo Hiệp ước
Hòa bình năm 1951 với Nhật Bản. Tuy nhiên, văn bản cuối cùng của
Hiệp ước liên quan tới sự từ bỏ chủ quyền của Nhật Bản đối với Đài
Loan, quần đảo Bành Hồ, và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong hai
tiểu mục riêng biệt của Điều 2. Như vậy, Nhật Bản có lẽ đã từ bỏ chủ
quyền của mình [trên các đảo] Đài Loan và Penghu cho Trung cộng; còn
quyền lợi của Nhật Bản trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì
nhường cho nước Pháp. Những người biên soạn dự thảo Hiệp ước dự định
trao trả quần đảo chỉ cho một quốc gia, họ sẽ không bao gồm chúng
trong hai tiểu mục riêng biệt.
Lập luận của Trung cộng cho rằng Nhật Bản đã trả quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa cho Trung cộng trong hai thỏa thuận riêng biệt để chính
thức chấm dứt sự thù địch giữa hai quốc gia Trung cộng và Nhật Bản
là không có cơ sở. Điều 2 của Hiệp ước Đài Loan-Nhật Bản 1952 chỉ
đơn giản nói rằng Nhật Bản từ bỏ chủ quyền của mình đối với Đài
Loan, quần đảo Bành Hồ, và các đảo ở Biển Đông. Nếu mục đích của
hiệp ước để chuyển quyền sở hữu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến
Đài Loan thì sự phân cấp rõ ràng về quyền lợi của Đài Loan đã được
đưa vào Hiệp ước. Tương tự như vậy, năm 1972 Thông cáo chung Trung
cộng-Nhật Bản không ủng hộ lập trường của Bắc Kinh. Các Thông cáo
chỉ nói rằng Điều 8 của Tuyên Ngôn Potsdam sẽ được áp dụng. Tuy
nhiên, cả hai Tuyên Ngôn Potsdam và Tuyên bố Cairo đều không hỗ trợ
tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên các đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cũng duy trì lập trường, mặc dù không đúng đắn, rằng họ
đã tái chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1946 khi
các lực lượng Quốc gia chấp nhận đầu hàng quân Nhật ở Đông Dương,
vùng thuộc địa Pháp phía bắc vĩ tuyến 16. Quân đội quốc gia đã được
gửi đến chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) và quần đảo
Woody (đảo Hoàng Sa) theo Lệnh Số 1 của Tướng MacArthur. Tuy nhiên
lệnh này không chuyển nhượng chủ quyền trên các hòn đảo ở Biển Đông
cho Trung cộng. Ngược lại, sau đó, vào ngày 31 Tháng Ba 1946, Trung
Hoa Dân Quốc và Pháp đã đồng ý rằng quân đội Pháp sẽ giảm bớt lực
lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở phía bắc Đông Dương, bao gồm cả quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Là một lực lượng chiếm đóng, quân đội
[Trung Hoa Dân] Quốc đã có một nghĩa vụ pháp lý rời khỏi thuộc địa
Đông Dương Pháp, nhưng họ đã không làm như vậy.
Thực tế là sự hiện diện của lực lượng Trung cộng vẫn còn bất hợp
pháp trên đảo Ba Bình và quần đảo Hoàng Sa sau khi sự chiếm đóng
[của] quân đồng minh Đông Dương chính thức kết thúc vào tháng 3 năm
1946. Điều này rõ ràng là một sự vi phạm Điều 2 (4) của Hiến chương
LHQ, và do đó, Trung cộng không có chủ quyền trên hai quần đảo này.
Tương tự như vậy, sự chiếm giữ của Đài Loan trên đảo Ba Bình vào năm
1956, và việc Trung cộng thu giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và
sự cưỡng chiếm một số cứ điểm quan trọng của quần đảo Trường Sa vào
năm 1988 và năm 1995 bởi lực lượng vũ trang Trung cộng cũng vi phạm
Hiến chương LHQ, và do đó không đưa đến chủ quyền pháp lý có hiệu
lực của Trung cộng trên các đảo này.
Trung cộng cũng khẳng định rằng miền Bắc Việt Nam từ bỏ chủ quyền
của mình trên các đảo ở Biển Đông trong các thập niên 1950 và 1960.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc của Trung cộng vào các báo cáo này là có vấn
đề bởi nhiều lý do. Quan trọng nhất là miền Bắc Việt Nam không có gì
để từ bỏ trong khoảng thời gian này. Hiệp định Geneva 1954 chia Bắc
và Nam Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đều nằm ở phía nam vĩ tuyến 17. Khi kế thừa danh hiệu của
Pháp, các đảo Biển Đông do đó là dưới quyền quản lý và kiểm soát
miền Nam Việt Nam, không phải Bắc Việt Nam. Do đó, miền Bắc Việt Nam
không có tư cách gì để mà từ bỏ chủ quyền lãnh hải liện hệ; như vậy,
bất kỳ tuyên bố nào của các quan chức Bắc Việt Nam về hai quần đảo
đó đều vô nghĩa trên mặt pháp lý.
Dựa theo những bằng chứng do các bên tranh chấp và theo các nguyên
tắc chung của luật pháp quốc tế liên quan đến việc thu nhập lãnh
thổ, rõ ràng là sự đòi chủ quyền của Việt Nam trên các đảo ở Biển
Đông chiếm ưu thế hơn.
Hàng loạt các hành động của chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ
18 cung cấp bằng chứng không thể chối cãi được là Việt Nam đã liên
tục kiểm soát quần đảo Hoàng Sa một cách bình yên và có hiệu quả.
Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên được thành lập vào thế kỷ 18 do Công
ty Hoàng Sa được chính phủ tài trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng
đế Gia Long và Minh Mạng vào thế kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa
hành bởi người Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20.
Sau đó đã được công khai bình thường hóa bởi quốc gia độc lập miền
Nam Việt Nam sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và
nối tiếp bởi một nước Việt Nam thống nhất sau năm 1976.
Tương tự như vậy, Pháp, đại diện cho Việt Nam, đã thực hiện nhiều
hoạt động khác nhau xác nhận chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường
Sa, đặc biệt là việc sáp nhập chính thức và sự chiếm giữ một số đảo
trọng yếu trong quần đảo này vào năm 1933. Vào thời điểm đó, việc
sáp nhập các đảo được coi là vô chủ, như vậy của Pháp là hoàn toàn
phù hợp với luật pháp quốc tế hiện hành và là việc làm thực tiễn
quốc gia. Vương quốc Anh, đã kiểm soát một số quần đảo Trường Sa
trong thập niên 1800, đã từ bỏ chủ quyền của mình sau sự sáp nhập
của Pháp, vì vậy danh hiệu chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường
Sa đã được thành lập hợp pháp. Sau đó, hành động của Pháp và Việt
Nam thể hiện rõ ràng sự hiện diện có hiệu quả và tích cực của họ
cũng như thực hiện chủ quyền của họ một cách bình yên trên quần đảo
Trường Sa. Chủ quyền của Pháp trên quần đảo này được nhượng lại cho
miền Nam Việt Nam vào thập niên 1950 và chính phủ miền Nam Việt Nam
(và sau đó một nước Việt Nam thống nhất) kiểm soát quần đảo Trường
Sa một cách hiệu quả và hòa bình cho đến khi Đài Loan chiếm đóng bất
hợp pháp đảo Ba Bình vào năm 1956 và Trung cộng chiếm đóng bất hợp
pháp một số đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Biển Đông là nơi có một số tuyến đường bận rộn nhất trên thế giới và
là những trục giao thông có vị thế chiến lược nhất trên biển (SLOC).
Về mặt thương mại xuyên qua tuyến đường biển này, mỗi năm có hơn 5
ngàn tỷ USD, trong đó có hơn một nửa số tàu chở dầu của thế giới và
hơn một nửa đội tàu buôn của thế giới. Điều này bao gồm hơn 1 ngàn
tỷ USD trong thương mại của Hoa Kỳ. Do đó, xung đột trong khu vực
này sẽ có tác động gây ra sự bất ổn định cho kinh tế thế giới.
Mỹ phải chứng minh lập trường đối phó vững chắc của họ đối với sự
hung hăng của Trung cộng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và
khuyến khích bạn bè và đồng minh của mình cũng làm như vậy. Việt Nam
cần được khuyến khích theo gương Philippines và tìm cách giải quyết
tranh chấp bắt buộc trên diễn đàn quốc tế. Đối với Hoa Kỳ, sự tiếp
tục kêu gọi các bên tranh chấp làm sáng tỏ yêu sách của họ phù hợp
với luật pháp quốc tế là một điều vô ích. Có nhiều sự kiện và pháp
luật khá rõ ràng cho thấy tuyên bố chủ quyền Trung cộng trên biển
Đông là vô căn cứ. Hành vi đối kháng của Trung cộng đe dọa hòa bình
và an ninh khu vực. Giả vờ trung lập là hành vi hiếp đáp của Bắc
Kinh đối với các nước láng giềng yếu hơn, và hành vi này cho thấy
Trung cộng bước gần hơn trong việc thừa nhận thái độ chiếm hữu bất
hợp pháp của họ trên các hòn đảo ở Biển Đông.
Ts. Lê Thiện Phúc
phiên dịch
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
NGĂN CHẶN VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH BẤT HỢP PHÁP CỦA TRUNG CỘNG TẠI BIỂN ĐÔNG
Người dịch giới thiệu: Dịch theo nguyên bản tiếng Anh “Stop China’s
Unlawful ‘Great Wall’ in the South China Sea” của Raul Pedrozo.
Tóm lược tiểu sử tác giả:
- Cựu Đại tá Hải quân Hoa Kỳ;
- Cựu Giáo sư Luật quốc tế trường cao đẳng HQ Hoa Kỳ (US Naval War
College);
- Thẩm Phán Cố Vấn Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ (Staff Judge
Advocate, US Pacific Command)
- Phụ tá đặc biệt Bộ trưởng quốc phòng về chính sách (Special
Assistant to the Under Secretary of Defense for Policy).
Giới thiệu: Bài viết này xứng đáng được coi như là dữ liệu lịch sử
rất có giá trị về chủ quyền trên các đảo biển Đông, là đề tài sôi
bỏng trong các cuộc tranh chấp hiện nay.
Là một chuyên gia ngành luật quốc tế, tác giả lần lượt dẫn chứng qua
nhiều sự kiện lịch sử cho ta thấy rằng Trung cộng không có chủ quyền
trên các đảo ở biển Đông, đặc biệt là trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Ngược lại, Việt Nam có chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa
từ khi vua Gia Long chính thức chiếm đóng quần đảo này vào năm 1816.
Trong bài tác giả cho chúng ta biết “có hàng loạt các hành động của
chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ 18 cung cấp bằng chứng không
thể chối cãi được là Việt Nam đã liên tục kiểm soát quần đảo Hoàng
Sa một cách bình yên và có hiệu quả. Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên
được thành lập vào thế kỷ 18 do Công ty Hoàng Sa được chính phủ tài
trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng đế Gia Long và Minh Mạng vào thế
kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa hành bởi người Pháp trong hậu bán
thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20. Sau đó đã được công khai bình
thường hóa bởi quốc gia độc lập miền Nam Việt Nam sau khi Pháp rút
quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và nối tiếp bởi một nước Việt Nam
thống nhất sau năm 1976”.
--LTP.
***
Trong thời gian nửa đầu năm 2014 người ta thấy có sự gia tăng đáng
kể những hành vi hung hăng của Trung cộng khi nước này tiếp tục
chiến dịch cắt biển của họ ở Biển Đông. Bắc Kinh tìm cách thay đổi
hiện trạng trong khu vực để củng cố việc tuyên bố chủ quyền của họ
trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cũng như các vùng biển kề cận.
Trong tháng hai, Trung cộng đã bắt đầu một dự án thu hồi lãnh thổ
quy mô lớn tại Johnson South Reef trong quần đảo Trường Sa, trong đó
có thể chứa một sân bay quân sự mới của Quân đội Giải phóng Nhân dân
(PLA) để kiểm soát các tuyến đường biển chiến lược trong khu vực
xuyên qua Biển Đông. Các tháng tiếp theo, chính quyền Trung cộng bắt
đầu thực thi các quy định đánh cá mới đòi hỏi phải có tàu cá nước
ngoài để được phê duyệt trước khi hoạt động trong hơn 2 triệu cây số
vuông, cộng với không gian đại dương bao quanh bởi “đường chín đoạn”
khét tiếng của Trung cộng.
Vào tháng Năm, Trung cộng đặt một giàn khoan dầu biển sâu (HD 981)
tại một vị trí cách ngoài khơi bờ biển Việt Nam 120 hải lý và bắt
đầu khoan dầu ở vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Tàu
chiến của Hải quân Trung cộng và tàu tuần tra khác của chính phủ,
cũng như một số lượng lớn tàu cá dân sự, đã được điều động và bố trí
chặt chẽ để bảo vệ hoạt động khoan dầu. Trong tuần sau đó, những
chiếc tàu của Cục An toàn Hàng hải Trung cộng đã ngăn cản sự tái
tiếp tế của 10 đơn vị thủy quân lục chiến Philippines đồn trú trên
tàu BRP Sierra Madre vùng biển đánh cá lớn thứ nhì (Thomas Shoal)
trong quần đảo Trường Sa, mặc dù các đội ngũ trên tàu quân sự này
của Philippines đã được thường xuyên tái tiếp tế kể từ năm 1999.
Cuối cùng, trong sự đối đáp hiển nhiên về một đề xuất của Mỹ tại
Diễn đàn Khối ASEAN nhằm ngăn chận tất cả hành động khiêu khích ở
Biển Đông, Bắc Kinh công bố vào tháng Tám rằng họ sẽ xây dựng các
ngọn hải đăng có năm tính năng, bao gồm hai hòn đảo nhỏ trong quần
đảo Hoàng Sa, mà họ tự cho là nhằm tăng cường an toàn hàng hải. Hai
tuần sau, một chiến đấu cơ của Trung cộng, Su-27, tiến hành một cuộc
xung kích nguy hiểm, đánh chặn chiếc phi cơ thám thính, P-8, của Hải
quân Hoa Kỳ khi đang tuần tra giám sát thường xuyên qua vị trí cách
đảo Hải Nam 135 dặm về phía đông. Điều này gợi nhớ biến cố EP-3 hồi
năm 2001, khi máy bay chiến đấu Trung cộng thực hiện nhiều vòng bay
lướt bên dưới và cạnh chiếc phi cơ thám thính P-8 của Hoa Kỳ trước
khi thực hiện một cú bay lộn mèo, lăn tròn và đảo lộn trên đầu chiếc
máy bay Mỹ, chỉ cách chiếc máy bay này trong khoảng từ 20 tới 30
feet, tức là từ khoảng 6m tới 9m mà thôi.
Trung cộng biện minh cho những hành động này qua tuyên bố rằng họ có
“chủ quyền không thể tranh cãi” đối với các đảo ở Biển Đông và các
vùng biển kế cạnh, cũng như chủ quyền và quyền tài phán trên các
vùng biển và đáy biển có liên quan bao gồm trong “đường chín đoạn.”
Tuy nhiên, qua việc xem xét kỹ các ghi chép lịch sử và pháp luật,
người ta thấy rằng các tuyên bố của Trung cộng ở Biển Đông là vô căn
cứ.
Trung cộng tuyên bố quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa dựa trên sự trưng
bày rộng rãi và liên tục của chính quyền đối với quần đảo sau khi họ
phát hiện các chứng tích trong triều đại nhà Hán. Mặc dù thủy thủ
Trung cộng có thể đã biết có sự tồn tại của những hòn đảo ở Biển
Đông, nhưng không có bằng chứng cụ thể cho thấy rằng Trung cộng thực
sự đã “phát hiện” những hòn đảo này trước khi có sự xuất hiện của
những người đi biển từ các vương quốc láng giềng của họ, bao gồm
Việt Nam, Malaysia, Indonesia, và Philippines.
Hơn nữa, cho dù Trung cộng đã phát hiện ra các đảo, luật pháp quốc
tế xác định rõ ràng rằng việc khám phá mà không có các hành động
chiếm giữ và kiểm soát hiệu quả tiếp theo thì tự nó không cho là có
chủ quyền lãnh thổ được. Hiệu quả chiếm giữ đòi hỏi phải có ý định
hành động chủ quyền và một số thực hành hoặc hiển thị chủ quyền đó.
Mặc dù không có bằng chứng chủ quyền đáng tin cậy, Trung cộng đã
lặng lẽ và liên tục chiếm đóng quần đảo, hoặc thực hiện thẩm quyền
của họ trên các đảo này.
Hầu hết Trung cộng dựa trên các dữ kiện cho thấy ngư dân Trung cộng
từng sống rải rác trên một số quần đảo Trường Sa trong thời gian
ngắn. Tuy nhiên theo luật pháp quốc tế thì những hành vi cá nhân
không đủ điều kiện để coi là hành động của “nhà nước” trừ phi ngay
sau đó được theo dõi hay bị xử phạt bởi các cơ quan chính phủ. Không
có bằng chứng đáng tin cậy nào cho thấy chính phủ Trung cộng từng ủy
quyền hoặc sau đó xử phạt các hành vi nêu trên.
Các hành vi có thể kiểm chứng đầu tiên về chủ quyền của Trung cộng
trên quần đảo Hoàng Sa đã không xảy ra cho đến năm 1909. Tuy nhiên
những hành vi này đã xảy ra gần 100 năm sau khi vua Gia Long của
Việt Nam chính thức chiếm hữu các quần đảo này vào năm 1816. Việt
Nam và Pháp đã quản lý hiệu quả và liên tục các hòn đảo này cho đến
khi họ bị trục xuất bởi quân đội Nhật Bản trong Thế chiến II.
Hành động có thể kiểm chứng đầu tiên của Trung cộng về chủ quyền ở
quần đảo Trường Sa xảy ra sau đó nữa, vào năm 1933, và cũng sau khi
Pháp công khai tuyên bố chủ quyền vào năm 1929 với lý do là các đảo
này vô chủ. Pháp chính thức chiếm đóng các đảo này vào năm 1933 đồng
thời sáp nhập vào quần đảo Trường Sa. Sự chiếm hữu như vậy vẫn còn
là một phương pháp được công nhận chủ quyền lãnh thổ theo luật quốc
tế. Tính chất hợp pháp này được tiếp tục tồn tại cho đến khi Hiến
chương Liên Hiệp Quốc ra đời có hiệu lực vào tháng Mười năm 1945.
Trung cộng cũng tin cậy vào một số điều trong Công ước Quốc tế về
việc chứng minh chủ quyền trên các đảo ở Biển Đông. Tuy nhiên, theo
các điều trong Công ước Quốc tế thì các tài liệu và báo cáo của
Trung cộng muốn chứng minh chủ quyền của mình đối với các đảo ở Biển
Đông hoàn toàn không hỗ trợ vị trí của Bắc Kinh. Nói một cách khác,
dựa theo Công ước Quốc tế thì Trung cộng không có chủ quyền trên các
đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cho rằng nước Pháp từ bỏ tuyên bố chủ quyền của mình trên
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi ký kết Hiệp ước Trung-Pháp năm
1887. Tuy nhiên luận cứ này của Trung cộng không được hỗ trợ bởi nội
dung đơn giản của Hiệp ước hoặc bởi các hành động tiếp theo của các
bên tranh chấp. Đường ranh giới được thành lập bởi Hiệp ước năm 1887
chỉ quy định quyền sở hữu của các đảo gần bờ biển chớ không phải là
các hòn đảo ở giữa đại dương trong vùng Vịnh Bắc Bộ hoặc xa hơn nữa
là các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sự phụ thuộc của Trung cộng vào Tuyên bố Cairo và Tuyên bố Potsdam
để hỗ trợ cho tuyên bố chủ quyền của mình rõ ràng được đặt không
đúng chỗ. Những tài liệu này chỉ cung cấp cho rằng Trung cộng sẽ
khôi phục Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ sau chiến tranh.
Các câu tiếp theo tuyên bố rằng Nhật Bản sẽ bị trục xuất khỏi “vùng
lãnh thổ khác” mà họ đã mua bằng vũ lực, nhưng nó không có nghĩa là
những “vùng lãnh thổ khác” sẽ được trả lại cho Trung cộng. Chỉ có
kết luận hợp lý là những “vùng lãnh thổ khác” bao gồm quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa, đã bị thu giữ bằng bạo lực từ Pháp, chứ không
phải Trung cộng. Những hòn đảo này do đó sẽ được phục hồi cho Pháp,
không phải cho Trung cộng, vào lúc kết thúc cuộc chiến.
Kết luận này được hỗ trợ bởi thực tế là Tổng Tư Lệnh Tưởng Giới
Thạch đã có mặt tại Hội nghị Cairo, nhưng không có tài liệu tham
khảo đối với các đảo ở Biển Đông trong tuyên bố cuối cùng. Chắc
chắn, nếu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa được coi là lãnh thổ của
Trung cộng trước khi chiến tranh, Tưởng Giới Thạch đã có thể khẳng
định rằng quần đảo được trả lại cho Trung cộng kiểm soát tại Hội
nghị; nhưng điều này đã không xảy ra.
Trung cộng bổ sung tuyên bố rằng chủ quyền của Trung cộng đối với
các đảo ở Biển Đông đã được công nhận trong việc soạn thảo Hiệp ước
Hòa bình năm 1951 với Nhật Bản. Tuy nhiên, văn bản cuối cùng của
Hiệp ước liên quan tới sự từ bỏ chủ quyền của Nhật Bản đối với Đài
Loan, quần đảo Bành Hồ, và quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa trong hai
tiểu mục riêng biệt của Điều 2. Như vậy, Nhật Bản có lẽ đã từ bỏ chủ
quyền của mình [trên các đảo] Đài Loan và Penghu cho Trung cộng; còn
quyền lợi của Nhật Bản trên các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa thì
nhường cho nước Pháp. Những người biên soạn dự thảo Hiệp ước dự định
trao trả quần đảo chỉ cho một quốc gia, họ sẽ không bao gồm chúng
trong hai tiểu mục riêng biệt.
Lập luận của Trung cộng cho rằng Nhật Bản đã trả quần đảo Trường Sa
và Hoàng Sa cho Trung cộng trong hai thỏa thuận riêng biệt để chính
thức chấm dứt sự thù địch giữa hai quốc gia Trung cộng và Nhật Bản
là không có cơ sở. Điều 2 của Hiệp ước Đài Loan-Nhật Bản 1952 chỉ
đơn giản nói rằng Nhật Bản từ bỏ chủ quyền của mình đối với Đài
Loan, quần đảo Bành Hồ, và các đảo ở Biển Đông. Nếu mục đích của
hiệp ước để chuyển quyền sở hữu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đến
Đài Loan thì sự phân cấp rõ ràng về quyền lợi của Đài Loan đã được
đưa vào Hiệp ước. Tương tự như vậy, năm 1972 Thông cáo chung Trung
cộng-Nhật Bản không ủng hộ lập trường của Bắc Kinh. Các Thông cáo
chỉ nói rằng Điều 8 của Tuyên Ngôn Potsdam sẽ được áp dụng. Tuy
nhiên, cả hai Tuyên Ngôn Potsdam và Tuyên bố Cairo đều không hỗ trợ
tuyên bố chủ quyền của Trung cộng trên các đảo ở Biển Đông.
Trung cộng cũng duy trì lập trường, mặc dù không đúng đắn, rằng họ
đã tái chiếm hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào năm 1946 khi
các lực lượng Quốc gia chấp nhận đầu hàng quân Nhật ở Đông Dương,
vùng thuộc địa Pháp phía bắc vĩ tuyến 16. Quân đội quốc gia đã được
gửi đến chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa) và quần đảo
Woody (đảo Hoàng Sa) theo Lệnh Số 1 của Tướng MacArthur. Tuy nhiên
lệnh này không chuyển nhượng chủ quyền trên các hòn đảo ở Biển Đông
cho Trung cộng. Ngược lại, sau đó, vào ngày 31 Tháng Ba 1946, Trung
Hoa Dân Quốc và Pháp đã đồng ý rằng quân đội Pháp sẽ giảm bớt lực
lượng Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở phía bắc Đông Dương, bao gồm cả quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Là một lực lượng chiếm đóng, quân đội
[Trung Hoa Dân] Quốc đã có một nghĩa vụ pháp lý rời khỏi thuộc địa
Đông Dương Pháp, nhưng họ đã không làm như vậy.
Thực tế là sự hiện diện của lực lượng Trung cộng vẫn còn bất hợp
pháp trên đảo Ba Bình và quần đảo Hoàng Sa sau khi sự chiếm đóng
[của] quân đồng minh Đông Dương chính thức kết thúc vào tháng 3 năm
1946. Điều này rõ ràng là một sự vi phạm Điều 2 (4) của Hiến chương
LHQ, và do đó, Trung cộng không có chủ quyền trên hai quần đảo này.
Tương tự như vậy, sự chiếm giữ của Đài Loan trên đảo Ba Bình vào năm
1956, và việc Trung cộng thu giữ quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974 và
sự cưỡng chiếm một số cứ điểm quan trọng của quần đảo Trường Sa vào
năm 1988 và năm 1995 bởi lực lượng vũ trang Trung cộng cũng vi phạm
Hiến chương LHQ, và do đó không đưa đến chủ quyền pháp lý có hiệu
lực của Trung cộng trên các đảo này.
Trung cộng cũng khẳng định rằng miền Bắc Việt Nam từ bỏ chủ quyền
của mình trên các đảo ở Biển Đông trong các thập niên 1950 và 1960.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc của Trung cộng vào các báo cáo này là có vấn
đề bởi nhiều lý do. Quan trọng nhất là miền Bắc Việt Nam không có gì
để từ bỏ trong khoảng thời gian này. Hiệp định Geneva 1954 chia Bắc
và Nam Việt Nam tại vĩ tuyến 17 mà cả hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đều nằm ở phía nam vĩ tuyến 17. Khi kế thừa danh hiệu của
Pháp, các đảo Biển Đông do đó là dưới quyền quản lý và kiểm soát
miền Nam Việt Nam, không phải Bắc Việt Nam. Do đó, miền Bắc Việt Nam
không có tư cách gì để mà từ bỏ chủ quyền lãnh hải liện hệ; như vậy,
bất kỳ tuyên bố nào của các quan chức Bắc Việt Nam về hai quần đảo
đó đều vô nghĩa trên mặt pháp lý.
Dựa theo những bằng chứng do các bên tranh chấp và theo các nguyên
tắc chung của luật pháp quốc tế liên quan đến việc thu nhập lãnh
thổ, rõ ràng là sự đòi chủ quyền của Việt Nam trên các đảo ở Biển
Đông chiếm ưu thế hơn.
Hàng loạt các hành động của chính quyền Việt Nam và Pháp từ thế kỷ
18 cung cấp bằng chứng không thể chối cãi được là Việt Nam đã liên
tục kiểm soát quần đảo Hoàng Sa một cách bình yên và có hiệu quả.
Chủ quyền Việt Nam lần đầu tiên được thành lập vào thế kỷ 18 do Công
ty Hoàng Sa được chính phủ tài trợ và được phê chuẩn bởi các hoàng
đế Gia Long và Minh Mạng vào thế kỷ 19; được tạm thời tiếp tục thừa
hành bởi người Pháp trong hậu bán thế kỷ 19 và tiền bán thế kỷ 20.
Sau đó đã được công khai bình thường hóa bởi quốc gia độc lập miền
Nam Việt Nam sau khi Pháp rút quân khỏi Đông Dương vào năm 1956, và
nối tiếp bởi một nước Việt Nam thống nhất sau năm 1976.
Tương tự như vậy, Pháp, đại diện cho Việt Nam, đã thực hiện nhiều
hoạt động khác nhau xác nhận chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường
Sa, đặc biệt là việc sáp nhập chính thức và sự chiếm giữ một số đảo
trọng yếu trong quần đảo này vào năm 1933. Vào thời điểm đó, việc
sáp nhập các đảo được coi là vô chủ, như vậy của Pháp là hoàn toàn
phù hợp với luật pháp quốc tế hiện hành và là việc làm thực tiễn
quốc gia. Vương quốc Anh, đã kiểm soát một số quần đảo Trường Sa
trong thập niên 1800, đã từ bỏ chủ quyền của mình sau sự sáp nhập
của Pháp, vì vậy danh hiệu chủ quyền của Pháp trên quần đảo Trường
Sa đã được thành lập hợp pháp. Sau đó, hành động của Pháp và Việt
Nam thể hiện rõ ràng sự hiện diện có hiệu quả và tích cực của họ
cũng như thực hiện chủ quyền của họ một cách bình yên trên quần đảo
Trường Sa. Chủ quyền của Pháp trên quần đảo này được nhượng lại cho
miền Nam Việt Nam vào thập niên 1950 và chính phủ miền Nam Việt Nam
(và sau đó một nước Việt Nam thống nhất) kiểm soát quần đảo Trường
Sa một cách hiệu quả và hòa bình cho đến khi Đài Loan chiếm đóng bất
hợp pháp đảo Ba Bình vào năm 1956 và Trung cộng chiếm đóng bất hợp
pháp một số đảo nhỏ trong quần đảo Trường Sa vào năm 1988.
Biển Đông là nơi có một số tuyến đường bận rộn nhất trên thế giới và
là những trục giao thông có vị thế chiến lược nhất trên biển (SLOC).
Về mặt thương mại xuyên qua tuyến đường biển này, mỗi năm có hơn 5
ngàn tỷ USD, trong đó có hơn một nửa số tàu chở dầu của thế giới và
hơn một nửa đội tàu buôn của thế giới. Điều này bao gồm hơn 1 ngàn
tỷ USD trong thương mại của Hoa Kỳ. Do đó, xung đột trong khu vực
này sẽ có tác động gây ra sự bất ổn định cho kinh tế thế giới.
Mỹ phải chứng minh lập trường đối phó vững chắc của họ đối với sự
hung hăng của Trung cộng trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và
khuyến khích bạn bè và đồng minh của mình cũng làm như vậy. Việt Nam
cần được khuyến khích theo gương Philippines và tìm cách giải quyết
tranh chấp bắt buộc trên diễn đàn quốc tế. Đối với Hoa Kỳ, sự tiếp
tục kêu gọi các bên tranh chấp làm sáng tỏ yêu sách của họ phù hợp
với luật pháp quốc tế là một điều vô ích. Có nhiều sự kiện và pháp
luật khá rõ ràng cho thấy tuyên bố chủ quyền Trung cộng trên biển
Đông là vô căn cứ. Hành vi đối kháng của Trung cộng đe dọa hòa bình
và an ninh khu vực. Giả vờ trung lập là hành vi hiếp đáp của Bắc
Kinh đối với các nước láng giềng yếu hơn, và hành vi này cho thấy
Trung cộng bước gần hơn trong việc thừa nhận thái độ chiếm hữu bất
hợp pháp của họ trên các hòn đảo ở Biển Đông.
Ts. Lê Thiện Phúc
phiên dịch