Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
NHỮNG NHÂN VẬT LỪNG DANH TRONG SỬ VIỆT
Võ Trung Tín chuyển
NHỮNG NHÂN VẬT LỪNG DANH TRONG SỬ VIỆT
Nữa trái đất cách ngăn, nuôi hồn phục quốc, đón ánh thiều quang,
nguyền chung sức dựng mùa Xuân Thống Nhất.
Triệu con tim bừng dậy, quyết dạ hồi hương, say men chính khí,
dốc một lòng nối chí Đức Quang Trung.
Vĩnh Trường (Võ Trung Tín chuyển)
Nhà Tây Sơn (chữ Nôm: 家西山), được thành lập cuối thời Hậu Lê, trong giai đoạn tranh chấp quyền lực giửa hai thế lực của hai nhà Chúa Nguyễn và Trịnh trong lịch sử Việt Nam."Tây Sơn" được dùng để gọi triều đại khởi nghỉa của anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tuy nhiên triều đại này tồn tại không lâu sau khi Quang Trung Hoàng Đế băng hà. Những người kế thừa ông không đủ bản lãnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Phúc Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.
Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để cố tình bóp méo bôi xấu và tiêu huỷ tận gốc những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam mãi mãi ghi nhận Ông là người anh hùng của dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Bối Cảnh lịch sử:
Trong thế kỷ 17&18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị của vua Lê, có danh mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến: chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm soát nhà vua và điều khiển triều đình ở Thăng Long và chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế ngày nay). Hai bên đã từng 7 lần đánh nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất nước trong suốt 45 năm và đều tuyên bố trung thành với nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.
Đời sống người dân thời đó rất thấp kém và nghèo khổ. Đa số ruộng đất theo thời gian rơi vào tay một số ít người có quyền thế. Quan lại thường áp bức và tham nhũng; các vị chúa cai trị sống hoang phí trong những cung điện to lớn.
Cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kết thúc năm 1672 và cuộc sống của những người nông dân ở phía Bắc của các chúa Trịnh tương đối ổn định. Trong khi đó ở phía Nam, các chúa Nguyễn thường hay chiến tranh với đế chế Khmer yếu ớt ở bên cạnh và với một nước khá mạnh là Xiêm La (Thái Lan). Các chúa Nguyễn thường thắng trận và mở mang thêm đất đai về phía Nam.
Đến giữa thế kỷ 18, những người dân bị áp bức quá mức và họ đã đứng lên khởi nghĩa cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa quận He, quận Hẻo, chàng Lía, Hoàng Công Chất... nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ khả năng và bản lảnh để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.
Trước tình trạng xã hội đen tối đó, Nhà Tây Sơn đã đứng lên, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng.
Xuất Thân:
Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, hậu duệ của Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật, nguồn gốc là người tộc Việt thuộc vùng Bách Việt đã đến lập nghiệp ở Bào Đột làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, (khoảng năm 947- 951). Ông là “một trí thức” lớn của thời đại ấy, đã làm quan, nhưng lui về sống ẩn dật, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay). Khoảng nǎm 1655 khi quân chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra Đàng Ngoài tới Nghệ An (đánh nhau lần thứ 5) đã bắt ông Hồ Phi Khanh, (cùng một gốc với Hồ Quý Ly), là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn, cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn).
Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng di dời sang ở quê vợ tại ấp Kiên Thành, làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo. Ông Bà lập bến Trường Trầu, buôn bán trầu cau với người Thượng Tây Nguyên. Hồ Phi Phúc có 7 người con gồm 4 gái và 3 người con trai là: Nhạc, Bình (hay Thơm) và Lữ.
Thầy giáo Truương Văn Hiến:
Lớn lên, ba anh em đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy giáo Trương Văn Hiến. Thầy giáo Hiến tên thật là Chu Văn Hiến, thuộc giòng dõi Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, quan Nội Hữu Đại Thần đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Chính Trương Văn Hạnh khuyên Hiến đổi ra họ Trương để tránh sự theo dõi của tai mắt quan quân nhà Mãn Thanh.
Năm 1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất. Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm di chiếu giả, lập người em thứ mười sáu của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi. Quan đại thần Trương Văn Hạnh phản đối, liền bị Trương Phúc Loan bắt giết cả nhà. Vì là chỗ môn hạ gần gũi với Trương Văn Hạnh, Trương Văn Hiến sợ bị vạ lây bèn bỏ trốn chạy vào ở ẩn tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở đất An Thái. Giáo Hiến mang hoài bão, ý chí của mình truyền lại cho lớp môn sinh. Chính Giáo Hiến đã khám phá ra tài năng khác thường của anh em Tây Sơn nhất là Nguyễn Huệ nên hết lòng đầu tư cho nghiệp lớn về sau, nên khuyên ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp.
Trương Văn Hiến tài kiêm văn võ, tinh thông thao lược, là người thông minh, học cao hiểu rộng, giỏi về khoa lý số, quán triệt nhân sự. Trong khi truyền dạy văn võ cho môn sinh, Thầy giáo Hiến là người giàu lòng yêu nước thương dân và chính lòng yêu nước thương dân đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cả ba anh em Tây Sơn. Thầy giáo Hiến thu nhận học trò rất hạn chế. Trước khi nhận học trò, thầy luôn đặt nhiều câu hỏi để trắc nghiệm kiến thức và nhất là quan niệm về nhân sinh. Thầy có biệt tài xem tướng người, nhận biết được một phần về tương lai của học trò. Những người không đủ tiêu chuẩn thầy đều từ chối với nhiều lý do khéo léo.
Ông luôn luôn nhắc nhở: “Nam nhi phải có chí lớn” đề cao cuộc Cách Mệnh Thang Vũ ( vua Thang nhà Hạ và Vua Võ nhà Châu), ông thường nói:“Tây khởi nghĩa, Bắc thu công, phụ Nguyễn phục thống”.Ông đã rèn luyện và đào tạo nhiều môn đệ kiệt xuất, trong đó có ba Anh em nhà Tây Sơn.
Nhưng, điều rất quan trọng mà ba anh em Tây Sơn thụ bẩm được ở thầy giáo Hiến không chỉ là văn chương chữ nghĩa và lòng yêu nước thương dân. Vốn dĩ là môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh, từng sống và làm việc ở ngay trong phủ chúa Nguyễn, thầy giáo Hiến còn cung cấp cho ba anh em Tây Sơn những thông tin đầy đủ và chính xác về nội tình thối nát của tập đoàn thống trị họ Nguyễn đương thời. Đây chính là cơ sở thực tiễn để về sau, ba anh em Tây Sơn có thể căn cứ vào đó mà nêu lên được khẩu hiệu phân hóa kẻ thù một cách rất lợi hại.
Giáo Hiến được cho là tác giả câu sấm truyền: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công, Phụ nguyễn phục thống”. Giáo Hiến đã nói với anh em Nguyễn Huệ: “Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa, sẽ lập nên nghiệp lớn ở miền Bắc và“Phụ Nguyễn phục thống” là một Họ Nguyễn khác sẽ phục hồi nền nhất thống...”.
Tương truyền, những huyền thoại gây thanh thế cho Nhà Tây Sơn lúc mới khởi nghiệp như chuyện Nguyễn Nhạc được ấn kiếm trời ban, chuyện Nguyễn Huệ xuất quân chém rắn ở gò cây Ké … đều là do Trương Văn Hiến bày mưu.
Người Đàng Trong tại Đà Nẵng thời Tây Sơn
Tranh của họa sĩ William Alexander
Chính Giáo Hiến là người bày vẻ cho anh em Tây Sơn từ họ Hồ đổi ra họ Nguyễn, vì họ Hồ ở nước ta thời đó không được lòng dân, người ta vẫn nhớ việc Hồ Quí Ly lộng quyền, giết vua, giết hại người trung lương, cướp ngôi nhà Trần và rốt cuộc bị nhà Minh diệt một cách dễ dàng! và đổi tên Hồ Thơm ra là Nguyễn Huệ:
“Các em đổi Họ cho mau,
Từ “Hồ” sang “Nguyễn” ứng câu sấm truyền
"Thơm' thành ra "Huệ" mới yên,
Binh thư, đao kiếm, côn quyền gia công...”
Tương truyền khi sinh Nguyễn Huệ, thì hoa Huệ trong vườn toả hương thơm ngát cả nhà, vì vậy mẹ đặt tên là Thơm.
Học trò của giáo Hiến là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng hay danh sĩ hàng đầu của nhà Tây Sơn. Ngoài Tây Sơn tam kiệt, còn có thể kể:
- Võ Văn Dũng quê Phú Lạc, Tây Sơn, Bình Định, Đại tư đồ triều Quang Trung, một trong tứ trụ triều đình thời Cảnh Thịnh.
- Đặng Văn Long quê Nhơn Mỹ, An Nhơn, Bình Định - Đại đô đốc, có công phá giặc Thanh.
- Phan Văn Lân quê Nhơn Hưng, An Nhơn, Bình Định - Đô đốc, có công phá giặc Thanh.
- Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh là hai cận thần của Nguyễn Huệ ở Bình Sơn, Quảng Ngãi, tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký.
- Huỳnh Văn Thuận ở Mộ Đức, Quảng Ngãi - Tướng Tây Sơn đã tham chước hai bộ Binh Ngô tôn pháp và Hưng Đạo binh pháp, soạn ra bộ Binh pháp Tây Sơn.
- Trương Văn Đa, sinh tại An Thái, Nhơn Phúc, Bình Định, (là con trai và cũng là học trò Trương Văn Hiến, con rể Nguyễn Nhạc) – Tướng Tây Sơn, có công đánh quân Xiêm, làm trấn thủ Gia Định rất được lòng dân, sau là thầy dạy thái tử Bảo.
Tây Sơn Tam Kiệt Thuở Tiềm Long
Nguyễn Nhạc, Trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu để nuôi mẹ và em nên được gọi là Ông Hai Trầu. Trong những năm đầu tiên của cuộc khởi nghỉa, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất và với người miền
Nguyễn Lữ còn có tên là thầy Tư Lữ. Sở dĩ gọi là thầy vì Nguyễn Lữ đã từng xuất gia đi tu theo Minh giáo, tục gọi là đạo Ma Ní thờ thần lửa, dùng phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo phù thủy. Còn như thứ tư (thầy tư Lữ) cũng có nghĩa là Nguyễn Lữ ở vai em Nguyễn Huệ (thứ ba) và Nguyễn Nhạc (thứ hai). Nguyễn Lữ được đánh giá là người nhân hậu, khoan hoà, ưa thanh tịnh, có khiếu về võ thuật, đã được thầy Trương Văn Hiến chân truyền cho môn miên quyền hay nhu quyền, là một môn võ chuyên dùng sức nhẹ để thắng mạnh, để tự vệ hơn là tấn công. Ngoài ra, Nguyễn Lữ cũng chuyên về kiếm, nhờ ở sự phối hợp giữa miên quyền và kiếm thuật, ông Lữ đã nổi danh về môn nhu kiếm. Kiếm của ông nhẹ và mỏng nhưng lại sắc bén vô cùng nhờ ở biết thế nương vào sức mạnh của địch mà đánh trả, nên tuy kiếm mảnh mà không đao búa nào đánh gãy được.
Nguyễn Huệ (1753 – 1792) còn có tục danh là Hồ Thơm hoặc Bình. Nguyễn Nhạc thường hay gọi Nguyễn Huệ là chú Ba Thơm.
Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: vóc dáng cao lớn, sức mạnh tuyệt trần, tài trí quyền biến, mưu lược như thần, là người thông minh quyết đoán, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ”. Diện mạo và thần thái của Nguyễn Huệ đến nay vẫn là một ẩn số. Theo sách “Những khám phá về Hoàng Đế Quang Trung”, một sử quan thời Nguyễn đã ghi: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có đôi mắt sáng như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể nhìn xuyên thấu tâm can sâu thẳm của đối phương, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt. Tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục... Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại".
Trong giai đoạn khởi sự, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của Thầy giáo Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng tạo dựng được uy tín cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng.
Năm 1771, khi chính thức trở thành một trong ba lãnh tụ cao nhất của Tây Sơn, Nguyễn Huệ mới vừa tròn 18 tuổi. Trong hàng các bậc danh tướng kiệt xuất nhất của lịch sử nước ta, không ai bắt đầu sự nghiệp sớm như thế.
Lúc Nguyễn Huệ vào kinh đô Thăng Long, vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng.
Thậm chí, những kẻ đối địch cũng phải nhận xét: "Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, xem ông ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biết. Ông bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Võ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông; thấy ông trở tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu sợ hơn sấm sét..."
Ông không phải chỉ là tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà chính trị xuất sắc. Ông nắm được cả vùng lấn chiếm trong tay bằng những đồn lũy nằm án ngữ khắp các nẻo thủy bộ với một kỷ luật nghiêm minh và một lòng nhân từ với dân chúng”
Tài ngoại giao của Vua Quang Trung rất khôn khéo, không gây tị hiềm, xung đột giữa hai thế lực tranh hùng tạo ra cảnh binh đao đầu rơi máu đổ, mà còn đáp lại nguyện vọng của toàn quân dân là muốn được an vui trở về với gia đình. Nhà Lê trị vì đã lâu đời, sĩ phu Bắc hà rất nhiều, xử sự không khéo sẽ đi đến chỗ bất hòa, chiến sự bùng phát.
Trong việc dùng người, Nguyễn Huệ biết sùng thượng kinh văn, quí trọng đạo lý, nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, lấy lễ tân sư, tức là vừa coi là khách vừa coi là thầy, mời tham gia việc nước. Như trường hợp đối xử với các ông La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Đăng Trường, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích v.v...
Thiên tài quân sự: Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự. Hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần. Hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Đức tính làm tướng của ông, đáng kể nhất ở chỗ biết chia bùi xẻ đắng với tướng sĩ, lấy ân uy và đảm lược để chinh phục lòng người.
Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan, ông tỏ ra bình tĩnh. Gặp những vấn đề khó khăn, những việc mà người khác phải khiếp vía kinh hồn, thì ông thường nảy ra nhiều mưu kế lợi hại, tỏ ra có một khối óc thông minh lỗi lạc phi thường. Từ khi làm tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Huyền Thoại Thuở Khởi Nghiệp.
· Quy tụ anh hùng hào kiệt:
Từ năm 1771-73, thời gian chuẩn bị, Nguyễn Nhạc đã tỏ ra là một nhà lãnh đạo tài ba, mưu trí, đảm lược, hiểu rõ tình thế, đã biết phát triển kinh tế làm cơ sở; mở rộng thương trường, giao du trong thiên hạ, quy tụ hào kiệt, kết thân với các cao thủ có hàng trăm môn đệ, đoàn kết các sắc tộc làm liên minh và nhất là đối với các đồng chí rất có tình có nghĩa. Ông luôn tỏ rõ thái độ ôn hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý, nên mọi người rất mực tôn kính. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, nhà Tây Sơn đã lập nên cơ sở vững chắc.
Câu chuyện ông Nguyễn Nhạc là Vua Trời, được Trời phong làm Quốc Vương, còn cho cả ấn kiếm, được loan truyền trong khắp phủ huyện. Anh hùng hào kiệt quy tụ về rất đông vì tin ông là Vua Trời, có mạng Đế Vương.
Chân dung người lính Tây Sơn của
Họa sĩ William Alexander ở Hội An 1793
Trong dân gian thường nghe đến Tây Sơn Thập Bát Cơ Thạch, tức là danh hiệu người đời phong tặng 18 nhân vật đến với phong trào Tây Sơn từ những ngày đầu tiên được xem như là những phiến đá đặt nền móng xây dựng nên cơ nghiệp Nhà Tây Sơn gồm có: Thất Hổ Tướng, Lục Kỳ Sĩ và Ngũ Phụng Thư.
- Thất Hổ Tướng:
Đây là 7 tướng tài trong Thập Bát Cơ Thạch, đã giúp Nhà Tây Sơn dựng nghiệp lúc ban đầu, gồm có: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc và Lý Văn Bưu. Nghe tin Tây Sơn Tam kiệt cầu ứng nhân tài, hào kiệt, quần hùng khắp nơi tụ về rất đông, giúp Nhà Tây Sơn chiêu mộ và rèn luyện binh sĩ, chế tạo vũ khí, lập kho lương thực, chiếm các nơi trọng yếu làm căn cứ địa.
- Lục Kỳ Sĩ:
Ngoài Thất Hổ Tướng còn có Lục kỳ Sĩ, gồm 6 học sĩ, đóng góp công sức rất nhiều trong cơ đồ đại nghiệp Nhà Tây Sơn. Đó là các ông Nguyễn Thung, Võ Xuân Hoài, Cao Tắc Tựu, La Xuân Kiều, Triệu Đình Tiệp và Trương Mỹ Ngọc. Đây là các bậc hiền sĩ, giỏi văn chương, thông kinh sử, đã giúp Nhà Tây Sơn xây dựng bộ máy hành chánh, kế hoạch ổn định những vùng mới chiếm, kiện toàn hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
- Ngũ Phụng Thư:
Ngũ phụng thư là năm người đàn bà nổi tiếng dưới triều Tây Sơn. Dân gian gọi họ là Tây Sơn Ngũ Phụng Thư gồm có các bà Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung và Huỳnh Thị Cúc. Họ quán xuyến cơ sở hậu cần, quân lương, quân dụng và lập ra một đội nữ binh nổi tiếng, giỏi về kiếm cung, côn quyền. Ca dao dân gian vẫn còn truyền tụng:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền
· Chinh phục người Thượng Tây nguyên:
Câu chuyện khác, ông Nguyễn Nhạc dùng đôi giỏ bội đan bằng tre để gánh nước, dùng ngựa nhà tập luyện công phu, dụ được bầy ngựa trời, đã làm các bộ lạc Thượng Bana, Rađê, Gia rai tin ông là Người Trời, đem cả làng Thượng, buông Thượng về thần phục vì vậy vùng Tây Nguyên mới thực sự là đất của Tây Sơn.
Thời đại Nhà Tây Sơn có 5 con ngựa chiến nổi tiếng mà người đời gọi là Tây Sơn Ngũ Thần Mã: Ngựa Bạch Long Câu của Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, Ngựa Xích Kỳ Mã của Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết, Ngựa Ô Du của Tướng Đặng Xuân Phong, Ngựa Ngân Câu của Nữ tướng Bùi Thị Xuân, Ngựa Hồng Lư của Đô Đốc Lý Văn Bưu. Đây là những con chiến mã to lớn, dũng mãnh, chạy nhanh như gió thuộc loại Thiên Lý Mã, trung thành cùng chủ tướng, góp công sức trong việc xông pha trận mạc từ Bắc chí Nam không biết mệt mỏi.
· Thuyết phục người Hoa, Chiêm Thành
Nhờ chính sách ngoại giao khéo léo, đãi ngộ nhân tài, hai thủ lãnh người Hoa là Lý Tài và Tập Đình cũng kéo quân về giúp Nhà Tây Sơn. Binh Sĩ của hai tướng Tàu nầy phần lớn là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để trần, họ sử dụng thanh phạng đao rất lợi hại.
Ngoài ra, Thủy Xá và Hỏa Xá là con cháu của Vua Chiêm Thành, chiếm cứ sơn phần Phú Yên Diên Khánh và vùng Ðăk Lăk, Ban Mê Thuột không thần phục chúa Nguyễn, các giới tu sĩ Phật Giáo, Lão Giáo, các sắc tộc thiểu số đều nhiệt liệt ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Nhà Tây Sơn.
Thời cơ đã đến, Nhà Tây Sơn tiến hành cuộc khởi nghĩa, chiếm thành Quy Nhơn, làm căn cứ xuất phát tiến vào Nam phá Chúa Nguyễn đánh ra Bắc diệt Chúa Trịnh.
Công cuộc khởi nghĩa:
Khởi phát từ ấp Tây Sơn, tập hợp lực lượng, ban đầu đa số là người Thượng, đứng lên khởi nghĩa năm 1771. Với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương" là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát. Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó quần chúng các nơi theo về rất đông.
Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó như một trận cuồng phong lướt gió; mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại rằng: “Quân Tây Sơn từ miền núi phóng xuống thôn quê, chợ búa giữa ban ngày, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có ngưòi mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra bình đẳng giữa mọi người; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của cải quý giá đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực mà thôi...”
Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của quần chúng quanh vùng. Bấy giờ nhiều phú nông dâng tiền gạo giúp đở, nhiều trí thức ra sức khuyến dụ mọi người gia nhập nghĩa quân.
Di tích Hoàng Đế thành ở Bình Định
Sau khi đứng vững ở địa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng và nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa.
Thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, Tuần Phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.
· Tấn chiếm Thành Qui Nhơn.
Năm 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng là Đệ nhất trại chủ, chiếm cứ hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, Nguyễn Thung xưng là Đệ nhị trại chủ, Huyền Khê xưng Đệ tam trại chủ, coi việc quân lương.
- Gây thanh thế: Nguyễn Nhạc là người can đảm và mưu trí, nên việc hạ thành Quy Nhơn để gây thanh thế của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi, giả bị dân chúng bắt, đem nộp quan tỉnh lấy thưởng. Tuần phủ ở đây là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật, cho khiêng cũi vào thành, nhưng khi vừa vào bên trong thành, ông Nhạc tháo cũi ra, mở cửa thành cho quân của mình xông vào, đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp.
Chiếm được thành Quy Nhơn, Quân Tây Sơn tổ chức quân đội có quy củ, trang bị đủ khí giới, rồi tấn chiếm luôn từ Quảng Ngãi vào tới Bình Thuận. Đây là lúc phất ngọn cờ khởi nghỉa đánh vào Nam, tiến ra Bắc, mạnh như thác lũ.
Qua mùa thu (Giáp Ngọ 1774), Thấy Đàng Trong có biến loạn, Hoàng Ngũ Phúc vâng lệnh chúa Trịnh ở Ðàng ngoài đem quân vào đánh lấy Phú Xuân. Chúa Nguyễn là Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần bị thua cùng đình thần chạy vào Quảng Nam, đóng ở Câu Ðể thuộc Hòa Vang.
Trong khi đó Quân Tây Sơn kéo đến đánh. Chúa Nguyễn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần chống không nổi, chạy lên đóng ở Trà Tế thuộc huyện Quế Sơn, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm Ðông Cung Thái Tử, để ở lại giữ Quảng Nam, rồi cùng Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Trấn Biên. Ðông Cung bị quân Tây Sơn đánh, chạy đến Hà Dục bị Tập Ðình và Lý Tài bắt được đem về Hội An và cũng kể từ đó, Tây Sơn bị đẩy vào thế “lưỡng đầu thọ địch”.
Ở mặt Bắc, tháng 3/1775 (tháng 2 ÂL.) Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào chiếm đồn Trung Sơn và Cu Ðê. Nguyễn Nhạc cùng Tập Ðình và Lý Tài kéo quân ra đánh với quân Trịnh của Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ ở Cẩm Sa.. Tập Ðình đi tiên phong, bị quân Trịnh đánh bại, sợ tội bỏ chạy về Quảng Đông. Lý Tài chạy về Bản Tân [biên giới Quảng Nam].
Nguyễn Nhạc nhận thấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đã đông lại mạnh, liệu chưa đủ sức chống cự, bèn cùng Lý Tài rút hết quân về Quy Nhơn, đem theo hoàng tử Nguyễn Phúc Dương.
Ở mặt Nam, quân Nguyễn cũng phản công dữ dội. Trước sự xoay chuyển đột ngột và phức tạp của tình hình như vậy, Tây Sơn đã quyết định tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh. Nguyễn Nhạc cho người mang thư và vàng lụa ra dâng cho Hoàng Ngũ Phúc, xin nạp đất Quy Nhơn và Quảng Nghĩa, cùng xin làm tiên phong đi đánh họ Nguyễn đang lưu vong ở Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc muốn lợi dụng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Ðịnh, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm Tiên phong Tướng quân Tây Sơn Hiệu Trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào Quy Nhơn ban cho Nguyễn Nhạc.
Hoàng Ngũ Phúc đóng binh ở Châu Ổ, đến tháng 11/1775 (tháng 10 năm Ất Mùi), mới rút về Thuận Hóa vì bệnh dịch, quân chết một nửa rồi mất ở dọc đường. Tây Sơn không lo mặt Bắc nữa, chuẩn bị đánh lấy mặt Nam.
Đánh vào phía Nam:
Tháng 6/1775 (tháng 5 ÂL), chúa Nguyễn cử Tống Phước Hiệp cùng Nguyễn Khoa Toàn mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang. Trấn thủ Lê Văn Hưng nhận thấy quân địch đã đông lại có trọng pháo yểm hộ, liệu không thắng nổi, bèn rút toàn quân về Phú Yên cùng Nguyễn Văn Lộc chống địch. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Chiếm được Diên Khánh rồi,Tống Phước Hiệp đưa thư ra Quy Nhơn đòi Nguyễn Nhạc trả Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương.
Tây Sơn Vương lệnh cho Nguyễn Huệ xuống Quy Nhơn để lo việc Nam chinh. Nguyễn Huệ liền giao đất Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Ðình Tú quản đốc, rồi kéo đạo binh người Thượng mới tuyển mộ, vượt đèo Cù Mông vào Phú Yên.
Tháng 8/1775 (tháng 7 ÂL.), để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phước Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đang nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới chia làm hai cánh cùng lúc đánh úp phá tan cả thủy binh và bộ binh của địch, khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền.Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống, một Tướng Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Binh của Tống Phước Hiệp cả thủy lẫn bộ đều bị tiêu diệt. Hiệp tẩu thoát về
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn.
Tháng 3/1776 (tháng 2/ Bính Thân), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Phan Văn Lân đem thủy quân vào đánh Gia Ðịnh. Quân Tây Sơn vây đánh Sài Côn (tức Sài Gòn). Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần khiếp sợ, chạy về Trấn Biên (tức Biên Hòa) mộ quân cần vương. Quân Tây Sơn kéo vào thành. Nguyễn Lữ cho khuân hết lương thực vũ khí xuống 200 thuyền rồi sai Phan Văn Lân tải về Quy Nhơn, một mình giữ Gia Ðịnh.
Tháng 6/1776 (tháng 5 ÂL.) lực lượng Nhà Tây Sơn đã lớn mạnh, Nguyễn Nhạc cho xây thành Đồ Bàn làm căn cứ, dựng cung điện, định triều nghi ngang nhiên xưng là Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm Phụ chính.
Tháng 6/1776 (tháng 5 ÂL), Ðỗ Thành Nhân ở Ðông Sơn (Tam Phụ, Mỹ Tho) tập hợp Nguyễn Huỳnh Đức, Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Tài, Võ Nhan, Đỗ Bảng và 3000 quân, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, giúp nhà Nguyễn, chiếm lại Gia Định. Nguyễn Lữ không chống cự, bỏ thành rút quân về Quy Nhơn, Ðỗ Thành Nhân rước Ðịnh Vương về Sài Côn lo việc phòng thủ.
Tháng 10 năm 1776, nhờ Tướng người Hoa là Lý Tài giúp đỡ, Đông Cung Nguyễn Phúc Dương trốn khỏi sự khống chế của Tây Sơn chạy về Gia Định, lấy Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài. Bị nhục, Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân. Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Tháng 12/1776 (tháng 11 ÂL) Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhất
Tháng 4/1777 (tháng 3 Đinh Dậu), Tây Sơn Vương phái Nguyển Huệ và Nguyển Lử đem đại binh tiến đánh chúa Nguyễn chiếm lấy đất Gia Định. Lý Tài không chống nổi, thua chạy đến Tam Phụ bị quân Đông Sơn giết chết. Tân Chính Vương chạy đến Đăng Giang [Định Tường]. Nguyễn Ánh đem 4000 quân Đông Sơn đến đón Định Vương về Tài Phụ.
Tháng 5/1777(tháng 4 ÂL.), Nguyễn Huệ đánh Tài Phụ. Định Vương chạy đến Cần Thơ hợp với quân của Mạc Thiên Tứ bị thua trận ở Hà Tiên chạy về. Định Vương sai Đỗ Thanh Nhơn đi Bình Thuận gọi Châu Văn Tiếp, Trần Văn Thức về cứu.
Tây Sơn đánh Tranh Giang. Tân Chính Vương lui về Trà Tân [Định Tường], Chưởng cơ Thiêm Lộc đón Vương đến Ba Việt [Vĩnh Long].Tháng 8/1777 Trần Văn Thức kéo quân Phú Yên về giúp, thua trận, chết ở Bình Thuận.
Tháng 9/1777 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Huệ đích thân đánh Hương Đôi. Tân Chính Vương quân ít thế cô, muốn chạy lên Bình Thuận, họp với quân Châu Văn Tiếp, nhưng không thành. Tống Phước Hoà thấy không thể cứu được chúa, tự tử. Ngày 19/9/1777 (18/8/Đinh Dậu) Tân Chính Vương và 18 quân theo hầu bị giết. Định Vương Nguyễn Phước Thuần chạy đi Long Xuyên.
Ngày 18/10/1777 (18/9/Đinh Dậu), Nguyễn Huệ sai Chưởng cơ Thành đánh Long Xuyên. Định Vương bị giết cùng với tất cả tuỳ tùng. Một mình Nguyễn Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.
Hạ xong Gia Định, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ kéo binh về Quy Nhơn, giao cho đám hàng thần là Tổng Ðốc Chu, Hổ Tướng Hãn, Tư Khấu Uy, Hộ Giá Phạm Ngạn trấn thủ các dinh đất Gia Ðịnh.
Tháng 6/1778, sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kinh đô ở thành Đồ Bàn (Chúa Trịnh biết nhưng không hỏi đến) phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.
Nguyễn Ánh lấy lại Gia Định, xưng vương
Một tháng sau, Nguyễn Ánh xuất hiện lại ở Long Xuyên, họp với các tướng cũ Đỗ Thanh Nhơn, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Dương Công Trừng, Hồ Văn Lân đánh úp Long Hồ [Vĩnh Long] tháng 12/1777 (tháng 11 ÂL).
Tháng 1/1778 (tháng 12 Đinh Dậu) Nguyển Ánh sai Đổ Thành Nhơn dốc toàn lực đánh lấy lại Sài Côn. Tháng 2/1778 (tháng 1 Mậu Tuất) Nguyễn Ánh, 16 tuổi, được các tướng tôn làm Đại nguyên soái. Trong hai năm (1778-1779), Nguyễn Ánh tổ chức lại Gia Định. Ngày 28/2/1780 (24/1/ Canh Tý) Nguyễn Ánh xưng vương.
Tháng 5/1780 (4 Canh Tý) Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng, đánh chiếm được Trà Vinh.
Tại Gia Định, lực lượng của Nguyễn Ánh được tăng cường rất nhanh, đầu năm 1781 đã có khoảng 3 vạn quân thủy bộ, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn. Bấy giờ, sát cánh bên cạnh Nguyễn Ánh còn có năm tàu chiến bằng sắt với trang bị đầy đủ thủy thủ và vũ khí của phương Tây do viên sĩ quan người Pháp là Manuel (Chánh Cơ Mạn Hoè) chỉ huy (được giám mục Bá Đa Lộc - Pigneau de Behaine thuê mướn từ Ma Cao đưa sang giúp). Nguyễn Ánh liên tiếp chủ động tổ chức những cuộc tấn công vào quân Tây Sơn. Đã có lúc, quân Nguyễn Ánh tiến tới tận khu vực gần thành phố Nha Trang ngày nay.
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhì
Tháng 4/1782 (tháng 3/Nhâm Dần), Bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định đưa đại quân vào Nam do đích thân 2 lãnh tụ của Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy đem 100 chiến thuyền đánh vào cửa Cần Giờ để hạ gục lực lượng của Nguyễn Ánh. Tây Sơn huy động cả bộ binh lẫn thủy binh, nhưng thủy binh vẫn là chủ lực.
Nguyễn Ánh do đã biết được quyết tâm của Tây Sơn nên đã chủ động bố trí trận địa để đón đánh. Nguyễn Ánh sai Tống Phước Thiêm thống lãnh quân đội, bày thủy trận chống cự ở sông Ngã Bẩy (Thất kỳ giang) có khoảng 100 chiến thuyền (chưa kể 5 tàu chiến của Pháp và Bồ Đào Nha do Manuel cầm đầu), với hy vọng chặn đứng thủy quân Tây Sơn để rồi sau đó tùy cơ mà tổ chức phản công. Ngoài ra, Nguyễn Ánh cũng sắp sẵn một đội chiến thuyền khác do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy, tại Ngã ba sông Nhà Bè, Biên Hoà để có thể đến ứng cứu cho Tống Phước Thiêm bất cứ lúc nào. Bộ binh của Nguyễn Ánh thì tập trung ở quanh khu vực thành Gia Định.
Khi quân Tây Sơn vào đến cửa Cần Giờ, nhìn trên đỉnh núi nhỏ thấy một cột khói bốc lên nghi ngút. Nguyễn Huệ biết quân Nguyễn đã có phòng bị nên đốt lửa làm hiệu, liền ra lịnh cho Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy 20 chiến thuyền và 2,000 quân tiên phong đi trước mở đường.
Khi được tin thủy quân Tây Sơn đã tiến vào cửa biển Cần Giờ, Nguyễn Ánh hạ lệnh cho Nguyễn Nghi dẩn 20 thuyền chiến và 2000 thủy quân tiến ra cửa Cần Giờ nghênh chiến. Khi gặp đoàn chiến thuyền tiên phong của Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Nghi ra lệnh khai hoả.
Quân Nguyễn bắn được vài phát đại bác, thì đại pháo của Tây Sơn bắn trả ầm ầm trúng chiến thuyền của Nguyễn Nghi chìm mấy chiếc. Quân Nguyễn quay đầu bỏ chạy. Nguyễn Văn Tuyết không đuổi theo và neo thuyền chờ đại quân tới.
Nguyễn Huệ khen Nguyễn Văn Tuyết cẩn thận như thế là đúng vì chúng đã đốt lửa báo hiệu tức có phòng bị. Đã phòng bị mà chưa đánh đã bỏ chạy tức dụ ta vào trận mai phục.
Ông nhìn trên bản đồ và chỉ cho các Tướng Tây Sơn: chắc chắn Nguyễn Anh phục binh ở sông Ngã Bảy nầy chờ chiến thuyền ta lọt vào ổ phục kích rồi chúng sẽ đổ ra đánh. Bây giờ chúng ta chia quân ra sáu cánh, đánh mạnh vào 6 nơi chúng mai phục cho Chúa tôi chúng nó tan tác không tiếp ứng được nhau. Bây giờ nước đang rút, chờ đến khi thuỷ triều dâng lên quân Nguyễn chắc sẽ đến khiêu chiến. Chừng ấy ta sẽ nương theo nước, mà đuổi theo giặc, thuyền sẽ đi nhanh mà quân sĩ lại khoẻ.
Đúng như Nguyễn Huệ tiên đoán, lần nầy ngoài chiến thuyền quân Nguyễn lại có thêm 2 chiếc tàu đồng lớn kiểu Châu Âu có trang bị 10 đại bác do Mạn Hoè chỉ huy.
Nguyễn Huệ nói giọng rền như sấm: cái lũ mắt xanh mũi lỏ nầy mượn tiếng truyền đạo mà thật sự dòm ngó nước ta. Trận nầy ta phải đốt 2 chiếc tàu đồng nầy cho chúng biết sức mạnh của quân Tây Sơn. Ông liền ra lệnh cho Nguyễn Văn Tuyết làm tiên phong tấn công vào mặt trận chính, Trương Văn Đa làm Hậu Quân Đô Đốc bảo vệ vua Thái Đức. Còn mình chỉ huy toàn quân giáp chiến: Các Tướng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Trần Quang Diệu mỗi người chỉ huy một đội 20 chiến thuyền và 1000 quân tiến đánh vào 5 nhánh sông. Nguyễn Huệ và Nử Tướng Bùi Thị Xuân lảnh trung quân tấn công thẳng vào 2 chiếc tàu đồng do Mạn Hoè chỉ huy.
Khi tiến quân vừa tầm đạn, quân Tây Sơn nhất tề khai hoả. Đại bác nổ ầm trời, đạn bay tới tấp vào chiến thuyền quân Nguyễn. Hai chiếc tàu đồng của Mạn Hoè đi đầu bắn trả dữ dội. Nhưng quân Tây Sơn quá đông lại tập trung hoả lực vào hai chiếc tàu đồng. Chẳng mấy chốc súng đại bác trên tàu đồng của Mạn Hoè đều bị đạn của Tây Sơn bắn hư cả. Mạn Hoè ra lệnh tháo chay, Quân Tây Sơn ố ạt đuổi theo tới sông Ngã Bảy.
Tống Phúc Thiêm dàn trận thuyền chiến hàng ngang ở sông Ngã Bảy nghinh chiến. Mặc cho bị bắn chặn dữ dội, thủy quân Tây Sơn đang trên chiều thuận gió, 6 cánh quân vẫn ào ạt anh dũng bám sát thuyền chiến đối phương, dùng súng hoả hổ phóng hoả cầu lửa sang thuyền địch vùn vụt... khiến cho thủy quân Tống Phúc Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại.
Trận thủy chiến diễn ra rất ác liệt... Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu đồng do Mạn Hòe chỉ huy bị hãm không sao ra khỏi vòng vây, cố sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòe tử trận. Thuyền của nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!
Súng Hỏa Hổ của quân Tây Sơn
Súng Hỏa Hổ của quân Tây Sơn là một loại vũ khí hỏa lực hết sức lợi hại, được vua Quang Trung chế tạo bằng một ống bằng sắt hoặc bằng tre, trở thành một vũ khí cá nhân có tính sát thương lớn. Sáng tạo này của vua Quang Trung đã tiến xa cả về công nghệ, lẫn ý nghĩa thực tiễn trong chiến đấu, được xếp vào loại tối tân thời bấy giờ.
Khi lâm trận người dùng hỏa hổ cầm súng nhắm vào mục tiêu, châm ngòi, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy và sát thương đối phương. Chất cháy này khi rơi xuống nước, vẫn tiếp tục cháy, cho nên, dùng nước để chống là không có hiệu quả, khiến cho thủy quân Tống Phước Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ về cách đánh, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại.
Cùng lúc đó, Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy một đội thuyền chiến đến cứu viện, nhưng bị hỏa lực chiến thuyền Tây Sơn chặn đánh rất dữ dội. Thuyền của Nguyễn Ánh bị bắn gãy cột buồm, phải bỏ chạy.
Tàn binh của Nguyễn Ánh và Tống Phước Thiêm chạy về Gia Định, kết hợp với lực lượng bộ binh tính kế chống trả tại ba căn cứ vững chắc là thành Gia Định, đồn Bến Nghé và đồn Thị Nghè. Cả thành lẫn đồn đều được xây dựng rất kiên cố. Nhưng chỉ trong một trận giáp chiến, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy cũng đã đánh bật Nguyễn Ánh ra khỏi ba căn cứ trên. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng. Tại đây, chưa kịp củng cố đội ngũ để đối phó thì quân Tây Sơn cũng đã ồ ạt tiến tới, Nguyễn Ánh lại phải tháo chạy. Lần này, Nguyễn Ánh chỉ còn lại đúng 150 người.
Đại bại lại bị đuổi ngặt, Nguyển Ánh phải rời bỏ Ba Giồng cùng vài người tùy tùng chạy qua Vàm Trà Lọt (vùng Rạch Gầm). Nhờ mưa to gió lớn thuyền của quân Nguyễn Lữ không đuổi theo kịp. Nhưng khi đến Vàm Trà Lọt thì thuyền chở Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng bị sóng lớn làm cho suýt bị chìm. Lê Văn Duyệt (17 tuổi) xuất hiện kịp lúc, đỡ thuyền Nguyễn Ánh đưa vào bờ, giúp Nguyễn Ánh thoát nạn rồi vượt sông Cổ Chiên, chạy trối chết về Trà Vinh qua ngã Vàm Láng Thé băng qua Hậu Giang, ra đảo Phú Quốc.
Mùa hè năm 1782, thấy tình hình Gia Định đã tương đối ổn, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, chỉ để lại hàng tướng Đỗ Nhàn Trập cùng 3000 quân ở lại trông coi Gia Định.
Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn, Tháng 9/1782 (tháng 8 ÂL.), tại Bình Thuận, Châu Văn Tiếp nhân thấy quân Tây Sơn ở Gia Định yếu thế, bèn giương cao ngọn cờ “Lương sơn tá quốc” (Quân giỏi ở rừng giúp nước) tới tấp đánh vào Nam. Bấy giờ, quân Tây Sơn ở Gia Định do Đỗ Nhàn Trập chỉ huy chỉ có 3000 người mà phải phân tán đóng giữ tại nhiều đồn lũy khác nhau, vì thế khả năng chống đỡ ở từng đồn lũy rất thấp không sao cầm cự nổi, đành phải tháo chạy về Quy Nhơn. Lấy lại được Gia Ðịnh, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người ra Phú Quốc rước Nguyễn Phúc Ánh trở về.
Tại Gia Định, một lần nữa, Nguyễn Ánh lại gấp rút xây dựng một hệ thống đồn lũy để bảo vệ thành Gia Định. Bộ binh và thủy binh liên lạc chặt chẽ, sẵn sàng ứng cứu cho nhau. Khí thế của lực lượng Nguyễn Ánh lại trở nên hưng thịnh.
Mô hình chiến thuyền Đại Hiệu của Tây Sơn
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ ba
Trước tình hình đó, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ quyết định đánh Gia Định, mở cuộc tấn công lớn càn quét lực lượng Nguyễn Ánh. Nắm vững tình hình của địch, ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng thủy triều và gió. Đợi lúc thủy triều dâng, gió biển thổi mạnh vào đất liền mới đốc suất chiến thuyền từ cửa Cần Giờ đánh lên, Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc, Đô đốc Lê Văn Kế đánh bờ Nam.
Châu Văn Tiếp chỉ huy thủy binh đã bố trí chiến trường, dàn 100 chiến thuyền và bè dẩn hỏa. quyết dùng hỏa công tiêu diệt địch, ít ra cũng đẩy lui địch không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội rút lui. Biết rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn ra lịnh tiến quân.
Khi chiến thuyền Tây Sơn đã lọt vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và cắt dây neo để cho trôi vào thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên và gió biển theo nước triều thổi mạnh, bè hoả công của quân Nguyễn bị ngược gió, quay trở lại đốt thuyền mình. Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo càng gấp, Châu Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi chạy sang Xiêm cầu cứu. Thủy binh của Nguyễn Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trong khi đó, Đạo quân ở bờ phia Nam do Đô đốc Lê Văn Kế chỉ huy tiến đánh đồn Thảo Châu (Vàm Cỏ) và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất Mãn bị Lê Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị phò mã Trương Văn Ða bắt sống.
Đạo thứ hai do Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc hợp với Thủy Quân kéo quân đánh thẳng vào Gia Ðịnh. Nguyễn Ánh hốt hoảng, bỏ thành đem gia quyến chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng và chừng 100 quân chạy theo.
Quyết không cho Nguyễn Ánh kịp ra tay, Nguyễn Huệ đã trực tiếp xua quân tới đánh. Lần này, có cả tượng binh tham chiến. Một lần nữa, Nguyễn Ánh đại bại, các tướng như Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Kim Phẩm đều bị bắt, Nguyễn Đình Thuyên, Nguyễn Văn Quý, Trần Đại Huề… thì bị giết tại trận.
Từ đây, một cuộc truy đuổi ráo riết của quân Tây Sơn đối với Nguyễn Ánh bắt đầu. Nguyễn Ánh phải bôn tẩu khắp nơi và chịu thêm nhiều thiệt hại nặng nề nữa.
Nguyễn Ánh tẩu thoát, chạy qua Lật Giang, sang Mỹ Tho, rồi băng qua Ba Thắc, cuối cùng chạy đến Hà Tiên để ra Phú Quốc.
Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Tháng 7/1783 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Huệ sai Phan Tiến Thuận cầm quân đi truy kích. Một số tướng của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc, chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma bị bắt sống. Nguyễn Ánh thoát chết chạy qua đảo Cổ Long (KohRong). Trương Văn Ða đem một lực lượng thủy quân lớn đến vây đánh. Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra bao vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Ánh có cơ hội liều chết vượt cả gió bão, chạy về đảo Cổ Cốt (Koh Kut) và sau đó lại mò về đảo Phú Quốc.
Từ đây, đất Gia Ðịnh đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Ða, một Tướng lảnh văn võ toàn tài, ở lại trấn thủ Gia Ðịnh với sự trợ lực của Đô Đốc Đặng Văn Long và hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiệp.
Tháng 4/1784 (tháng 3 ÂL) Nguyễn Phúc Ánh lúc đó thế lực cùng kiệt, bèn nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh (3 tuổi) làm con tin, cùng với quốc ấn sang nước Pháp cầu viện, (khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của các Đế quốc phương tây) và cầu cứu Xiêm La đem quân sang giúp.
Nước Xiêm bấy giờ dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri,Trịnh Quốc Anh) đương lúc thịnh vượng và nuôi tham vọng thôn tính Chân Lạp và đất Đàng Trong để mở rộng cõi bờ. Ðược Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Vua Xiêm liền phái hai Tướng Lục Côn và Sa Uyên cùng với Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo bộ binh khoảng 3 vạn quân tiến sang Chân Lạp, rồi từ đó mở một mũi tấn công qua ngã Châu Đốc phối hợp cùng thủy binh đánh xuống Gia Ðịnh.
Tháng 7/1784 (tháng 6 ÂL.) vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân lưu vong của Nguyễn Ánh do Châu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm Tham tướng, để cùng dẫn quân Xiêm về nước.
Tháng 8/1784 (tháng 7 ÂL.) Chiến thuyền của liên quân Xiêm-Nguyễn tiến theo hướng biển đến Mang Khảm, tức Hà Tiên. Thủy quân Xiêm đổ bộ lên tiến đánh lấy Rạch Giá, Trấn Giang (Cần Thơ), tiến chiếm Ba Thắc (Sóc Trăng), Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc rồi chia quân đóng giữ.
Quân Xiêm tàn bạo đi đến đâu thả quân hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc vơ vét tài sản và quấy nhiễu dân chúng đến đó, tiếng la khóc của dân chúng thấu trời xanh. Nguyễn Ánh không làm gì được. Bởi vậy càng đóng quân lâu, thì mâu thuẫn giữa quân Nguyễn, quân Xiêm và dân Việt càng trở nên sâu sắc. Quân Xiêm cậy mình là kẻ cứu giúp nên đàn áp, cướp bóc dân chúng, khinh mạn cả chúa Nguyễn và quân Nguyễn.
Trấn thủ Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho khắp nơi vừa đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng. Quân Tây Sơn từ Rạch Giá, Châu Đốc rút về Cần Thơ, quân giặc đuổi theo, quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc. Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc thì Quân Tây Sơn vượt sông Hậu sang Trà Ôn rồi lui về Sa Đéc. Quân đóng ở Cà Mau bị cô thế cũng rút về Trà Ôn.
Ngày 30 tháng 11 năm 1784 (tháng 10 ÂL), Đại đô đốc Chu Văn Tiếp, vì thông thạo địa hình nên dẫn đường đi trước, hướng dẩn quân giặc đuổi theo quân Tây Sơn vừa vào đến sông Man Thit thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo thủy binh của Trương Văn Đa điều động từ Sa Đéc kéo xuống ngăn chận. Phục binh Tây Sơn do Đô Đốc Đặng Văn Long chỉ huy dùng thuyền nhỏ từ hai bên bờ đổ ra vây đánh.
Chu văn Tiếp tả xông hữu đột chống đở chừng mười hiệp bị Tiền Quân Chưởng Cơ tên Bảo đâm một thương giửa bụng, Tiếp té nhào xuống nước chết tốt. Quân Nguyễn thua to bỏ chạy về Trà Cú.
Trương văn Đa và Đặng Văn Long thấy thế giặc quá đông không thể thủ thắng bèn rút bỏ đồn Trà Tân (Trà Tân còn có tên Trà Luật hay cù lao Năm Thôn) kéo đại binh lui về Trường Đồn (Mỹ Tho) phía sông Tiền Giang phòng thủ để bảo toàn lực lượng chờ đại quân tiếp viện.
Chu Văn Tiếp tử trận, Lê Văn Quân được cử lên thay, liền cho quân tiến đánh lũy Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân (Định Tường). Trong trận Ba Lai, Chưởng cơ quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Quân cũng bị Lê Văn Kế chém trọng thương. Kể từ đó, bộ chỉ huy liên quân Xiêm-Nguyễn cho quân đóng dọc theo sông Tiền, từ cù lao Năm Thôn trở lên hướng Mỹ Tho và đặt đại bản doanh tại Trà Tân.
Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ tư, đại phá quân Xiêm
Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo tình hình nguy cấp ở Gia Định. Được tin, vua Thái Đức liền cử Nguyễn Huệ làm Tổng Chỉ Huy đem đại binh vào ngay Gia Định. Khoảng tháng 1/1785 (tháng 12 Giáp Thìn), thì binh thuyền Tây Sơn vào đến nơi và đóng quân ở Trường Đồn (Mỹ Tho). Sau đó, Nguyễn Huệ cử một ít quân mở những cuộc tập kích nhỏ để thăm dò.
Biết quân Xiêm tham tàn, Nguyễn Huệ cho Phạn Văn Lân đưa tiền của sang mua chuộc, bàn việc giảng hòa, cốt làm cho tướng Xiêm chủ quan và làm tăng thêm mối hoài nghi của chúa Nguyễn đối với quân Xiêm. Nhờ mưu kế đó, mà Nguyễn Huệ có đủ thời gian để nghiên cứu địa hình, thủy triều và quyết định chọn khúc sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, bố trí một trận địa quyết chiến.
Lược đồ trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút
Sau khi bí mật cho quân và tàu chiến bố trí ở các nơi hiểm yếu, Nguyễn Huệ lệnh cho quân Tây Sơn giả vờ không phòng bị, dụ cho giặc tấn công. Lập tức, Chiêu Tăng giao Chiêu Thuỷ Biện cùng Thát Sĩ Đa ở lại giữ đại bản doanh Trà Tân, cử Lục Cổn và Sạ Uyễn dẫn 10 ngàn bộ binh do Lê Văn Quân hướng đạo men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối họp tiến đánh vào Trường Đồn; còn ông cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn 300 trăm thuyền chiến cùng hai vạn thủy quân Xiêm-Nguyễn, đến khi trăng lên đỉnh đầu, nước thuỷ triều vừa rúng chảy thì âm thầm xuất phát theo dòng nước tiến đánh đại bản doanh của Tây Sơn. Tiền thủy quân Tây Sơn của 2 Đô Đốc Tuyết và Lộc thấy đại binh của Xiêm ào ào tiến đến bất ngờ nên phản ứng yếu ớt rồi bỏ chạy. Nguyễn Ánh và Chiêu Tăng thúc quân rượt theo.
Các ổ pháo của Quân Tây Sơn phục kích
Đến khoảng đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở sông Xoài Mút, tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Chiến thuyền của 2 Đô Đốc Lộc và Tuyết quay lại chiến đấu bắn vào thuyền giặc. Hai pháo đội của Tây Sơn gồm 200 khẩu đại bác cùng pháo hỏa hổ từ tả ngạn sông Tiền và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... do Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy đồng loạt nhả đạn vào chiến thuyền địch đang bị ùn lại.
Đại bác bắn xong, Nguyễn Huệ ra lịnh tấn công. Đồng loạt, hai đội thủy binh Tây Sơn bất ngờ từ rạch Xoài Mút, Rạch Gầm, từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn.
Một đoàn chiến thuyền Tây Sơn khác ẩn núp sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông (nhằm chia cắt đội hình) và chặn đường lui binh, dồn đoàn chiến thuyền của Xiêm vào thế tứ diện thọ địch. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn, cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn đội hình làm cho số bị chìm, số bị cháy tăng cao.
Quân Tây Sơn, thủy bộ phối hợp với nhau, khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân địch hết mảng này đến mảng khác. Dưới sự chỉ huy và đốc chiến của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt.
Đến khi Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa chấm dứt. Kết quả là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không đầy một khắc, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Chiêu Tăng và Chiêu Sương được mấy mươi quân sỉ hộ tống chạy về Trà Tân.
Chiến thuyền Tây Sơn trong trận Rạch Gầm
Còn quân bản bộ một vạn quân Xiêm do Lục Cổn và Sạ Uyễn thống lảnh, Lê Văn Quân dẫn đường nương theo tả ngạn sông Tiền tiến đánh Trường Đồn. Chờ đến lúc trăng gần tàn ngó lên mặt thành thấy quân Tây Sơn cờ xí chỉnh tề, quân canh tuần hành nghiêm mật. Quân Xiêm chưa kịp hạ trại bổng nghe dưới sông Tiền Giang Súng nổ rền trời, quân reo dậy đất, trống trận dập dồn, lửa cháy sáng rực cả một vùng.
Ngay lúc đó quân Tây Sơn trên mặt thành sạ tiển xuống như mưa, quân xiêm vội vã tháo lui. Cùng lúc, cổng thành vừa mở toan, quân Tây Sơn do Nguyễn Lữ chỉ huy xông ra như thác đổ, quân Xiêm hoảng loạn rút chạy. Chạy về vừa đến rừng dừa, bổng một tiếng pháo lệnh nổ vang, tên đạn của quân Tây Sơn bắn ra như cát vãi. 2 Tướng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân múa song kiếm xua quân chém giết. Sau lưng Nguyễn Lữ lại đuổi tới. Quân Xiêm trúng tên đạn chết như rạ, máu chảy thành khe, thây nằm chật đất.
Hai Tướng Xiêm là Lục Cổn và Sạ Uyễn cùng Tướng Nguyễn Lê Văn Quân liều chết gạt tên mà chạy thoát ra khỏi vòng vây. Tướng Bùi Thị Xuân liền trương cung bắn trúng chân ngựa của Lục Côn. Lục Côn té xuống Bùi Thị Xuân lướt tới chém một gươm, đầu Lục Côn rơi xuống đất.
Bộ quân Xiêm Nguyễn hai vạn người chỉ còn lại Sa Uyễn và vài trăm tên quân chạy về Sa Đéc.
Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương bị truy kích từ Trà Tân cũng chạy trốn về Sa Đéc, lại hối hả cùng Sa Uyển dẫn vài trăm tàn quân chạy bộ sang Cao Miên rồi thẳng về Xiêm.
Riêng Nguyễn Ánh vừa thấy "thế giặc mãnh liệt, không thể chống nổi" đã cùng đoàn tùy tùng ngụy trang làm lính vội vã rút chạy theo sông Trà Luật ra sông Tiền rồi tìm đường về Trấn Giang (Cần Thơ) bầy tôi còn lại hơn 10 người. Tại đây, Mạc Tử Sinh đưa Nguyễn Ánh chạy sang Hà Tiên.
Sau chiến thắng Rạch Gầm nầy, quân Tây Sơn tạm thời kiểm soát hết Nam Hà, vào tới đất Hà Tiên. Mạc Cửu lúc nầy đã chết, quân chúa Nguyễn bị tan rã hoàn toàn. Năm Ất Tỵ 1785, quân Nguyễn Phúc Ánh chỉ còn là một lực lượng không đáng kể, phải đào vong qua Vọng Các (Thái Lan) chờ viện binh từ nước Pháp.
Tiến ra phía Bắc:
Sau khi làm chủ toàn cỏi Miền Nam, Tây Sơn quay sang phía Bắc đánh chúa Trịnh.
Năm 1782, chúa Trịnh Sâm chết, hai con là Trịnh Khải và Trịnh Cán tranh nhau làm chúa. Trịnh Khải giết phụ chính Hoàng Đình Bảo của Trịnh Cán (còn nhỏ), giành lấy ngôi chúa. Thủ hạ của Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh chạy vào Nam đầu hàng Tây Sơn.
Nhận thấy thời cơ để đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đề xuất ý kiến đánh ra Bắc và trực tiếp vạch kế hoạch tấn công vào lực lượng quân Trịnh đang đóng ở vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra, trong đó, vị trí quan trọng nhất là Phú Xuân.
Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm Tổng chỉ huy các cánh quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân. Tổng số quân Tây Sơn tham chiến gồm 5.000 tiền quân, 2.000 hậu quân và 3.000 thủy binh, tất cả một vạn người (Theo giáo sĩ La Grand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite)
Triệt để lợi dụng thời tiết mùa hè, gió Nồm thổi mạnh có thể đưa thủy quân tiến nhanh ra đánh phá phía Bắc, Nguyễn Huệ lập kế hoạch đánh bất ngờ ở các điểm phòng thủ của quân Trịnh từ sông Gianh trở vào đến Hải Vân.
Tấn chiếm Thuận Hoá:
Ngày 25/5/1786 (28/4 Bính Ngọ) Nguyễn Huệ Tổng chỉ huy phát động chiến dịch Phú Xuân xua 3 vạn quân Tây Sơn xuất phát từ Quy Nhơn theo hai đường thuỷ bộ vượt qua phía Bắc đèo Hải Vân đánh Phú Xuân - Thuận Hoá.
- Cánh quân thứ nhất do 2 Tướng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân dẩn 1000 tinh binh theo đường núi Thượng Đạo tập kích bất ngờ vào phía sau đèo Hải Vân, quân Trịnh không kịp trở tay. Tướng chỉ huy quân Trịnh tại đây là Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra chống cự bị thua trận và chết tại chiến trường.
- Cánh thứ hai do Vũ Văn Nhậm chỉ huy bộ binh tập trung đánh đèo Hải Vân rồi phối hợp với quân thuỷ đánh chiếm thành Phú Xuân.
- Cánh thứ 3 Thủy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh theo sông Hương tiến đánh thành Phú Xuân rồi phối hợp với quân bộ binh của Vũ Văn Nhậm, tấn công quân của Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể.
Khi Thủy quân Tây Sơn kéo tới cửa biển thì gặp một tàu Bồ Đào Nha. Tàu này vốn của thương nhân thường tới làm ăn tại Phú Xuân nên họ ủng hộ Phạm Ngô Cầu chống Tây Sơn. Quân Tây Sơn bèn bao vây đốt tàu, thuyền trưởng và các sĩ quan người Bồ bị quân Tây Sơn quăng xuống biển, còn các thủy thủ được Tây Sơn thu dụng.
Thắng tàu Bồ Đào Nha, thủy quân Tây Sơn theo sông Hương áp sát thành, trong khi đó quân bộ binh Tây Sơn cũng tiến đến vây thành.
Hoàng Đình Thể mang quân lên mặt thành chống cự. Đêm 31/5/1786 (4/5/Bính Ngọ, Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công. Thủy quân Tây Sơn tiến đến nã pháo vào trong thành. Hỏa lực quân Trịnh mất tác dụng. Hoàng Đình Thể phải cùng các con và thuộc tướng Vũ Tá Kiên mở cửa thành đem hết sức lực chiến đấu. Nhưng trong lúc quân của Hoàng Đình Thể đang chiến đấu thì trên mặt thành, Phạm Ngô Cầu đã kéo cờ trắng xin hàng. Hai người con quận Thể phóng ngựa ra trận, bị trọng thương, chết tại mặt trận. Hoàng Đình Thể cùng Vũ Tá Kiên cũng lần lượt tử trận.
Nguyễn Huệ thúc quân ồ ạt tiến lên chiếm thành, Phạm Ngô Cầu mở cửa thành ra hàng,
Sau khi hạ xong Thành Phú Xuân, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Lữ, Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc tiến quân đánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. Tới ngày 21/6/1786, quân Tây Sơn chiếm xong Lũy Thầy và tới ngày 22/6/1786 thì chiếm nốt Dinh Cát bỏ trống, đất Thuận Hóa hoàn toàn thuộc về Tây Sơn, Nguyễn Huệ bèn treo bảng phủ dụ dân chúng.
Sau đó Nguyễn Huệ thống suất đại binh, với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong đem thủy binh đi trước, để Nguyễn Lữ và Nguyễn Văn Lộc ở lại giữ Phú Xuân, còn mình và Vũ Văn Nhậm kéo bộ binh theo sau, hẹn cùng Chỉnh sẽ gặp nhau ở Vị Hoàng. Quân Trịnh nghe tin quân Tây Sơn tiến ra Bắc đã khiếp sợ nên tan rã nhanh chóng, nhiều thành lũy vừa trông thấy chưa đánh đã bỏ chạy.
Chiến dịch Thăng Long:
Chiến dịch Thăng Long là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh ở cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long kế tiếp chiến dịch Phú Xuân 1786, kết thúc bằng việc quân Tây Sơn đánh chiếm Thăng Long, tiêu diệt chúa Trịnh.
Sáng sớm ngày 1 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 16 tháng 6 âl), 400 chiến thuyền của Hữu Chỉnh đã tiến chiếm bến Vị Hoàng. Quân Trịnh bị bất ngờ vì quân Tây Sơn tiến quá nhanh, đều tan vỡ bỏ chạy. Quân Tây Sơn chiếm hết thóc lúa và tiền bạc, trong kho có hàng trăm vạn hộc lương và trưng tập thêm lương thảo của các thuyền buôn của người Hoa đậu ở bến Vị Hoàng.
Vua Quang Trung, Thăng Long thành bôn tập…
Ngày 17 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 22/6 năm Bính Ngọ), đại quân của Nguyễn Huệ tiến đến Vị Hoàng. Ông dùng kế nghi binh lừa quân Trịnh, thừa lúc đêm đến, gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy người nộm để trên mấy chiến thuyền, rồi cho đánh trống kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi. Ðinh Tích Nhưỡng tưởng địch tới đánh, dàn thuyền thành trận chữ nhất, rồi lấy súng ra bắn. Khi biết rằng người trên thuyền là người nộm, thì đạn dược đã cạn. Quân Tây Sơn ùa tới đánh, Ðinh Tích Nhưỡng không chống cự nổi, phải bỏ thuyền mà chạy.
Cánh quân của Trịnh Tự Quyền ở phía sau nghe tin Nhưỡng bại trận, cũng sợ hãi mất khí thế, rối loạn rồi tự tan vỡ. Quân Tây Sơn thừa thế tiến tới đánh chiếm được trấn Sơn Nam.
Tiêu diệt Chúa Trịnh:
Để tranh thủ sự ủng hộ của người dân Bắc Hà, Nguyễn Huệ bèn phát tờ hịch đi các lộ, bày tỏ danh nghĩa "diệt Trịnh, phò Lê". Sáng ngày 19/7/1986, Nguyễn Huệ thúc đại quân từ Sơn Nam đánh ra Thăng Long.
Thuyền Tây Sơn vào đến sông Thúy Ái, Ngô Cảnh Hoàn chận đánh. Một trận thủy chiến kịch liệt. Ngô Cảnh Hoàn tử thương, thủy quân tan rả.
Ngô Cảnh Hoàn, người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, Nghệ An, là một trung thần của nhà Lê. Ngô có người vợ thứ tên Phan Thị Thuấn sắc đẹp, đức cao. Ðược tin Ngô tử trận, người nhà ai nấy thương khóc, riêng bà vẫn cười nói như thường. Có người hỏi, bà đáp: - Ðược chết vì nước, còn chi hơn nữa mà buồn.
Người chung quanh cạn nghĩ, chê bà không thương chồng. Bà không chút quan tâm. Ðến tuần bách nhật, cúng tế xong, bà trang điểm lịch sự, sai bơi thuyền ra tại chỗ Ngô Cảnh Hoàn bị giết, kêu lên một tiếng chàng ơi rồi tự trầm. Nhân dân địa phương thương người tiết nghĩa, lập đền thờ và dựng bia kỷ niệm ở bên sông.
Thắng Ngô Cảnh Hoàn, quân Tây Sơn tiến đánh Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân. Hoàng Phùng Cơ cùng 8 người con trai, cũng là 8 viên tướng, chống đỡ được một lúc thì đại bại. 6 người con của Hoàng Phùng Cơ bị giết tại trận. Hoàng Phùng Cơ đem 2 người con còn lại chạy trốn.
Ngày 20/7/1786 (25/6 Bính Ngọ), Chúa Trịnh Khải tự mình làm tướng chỉ huy quân sĩ đem hết tinh binh ra cửa Tây Long bày trận. Nhưng, hiệu lệnh của Trịnh Khải chẳng ai nghe, thấy quân Tây Sơn đến là mạnh ai nấy chạy. Không còn cách nào khác, Trịnh Khải bèn dẫn theo một ít bộ hạ chạy lên Sơn Tây. Ðến làng Hạ Lôi bị người địa phương bắt đem nạp cho Tây Sơn. Ði nửa đường lấy gươm tự vẫn. Chỉ trong vòng 10 ngày, toàn bộ lực lượng của họ Trịnh đã hoàn toàn tan rã. Cơ nghiệp của họ Trịnh được gây dựng 216 năm tác oai tác quái ở miền Bắc đến đây là cáo chung.
Ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ (21/7/1786) Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đóng quân ở phủ chúa Trịnh, mở kho Hữu Viên phát chẩn cho người nghèo. Quân Tây Sơn giữ kỷ luật rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính mệnh của dân chúng.
Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ vào cung Vạn Thọ yết kiến Vua Lê, bấy giờ Vua Lê Hiển Tông đang bệnh, không ngồi dậy được, bèn mời Nguyễn Huệ vào ngồi bên sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu rằng đem binh ra Bắc Hà không còn mục đích nào khác hơn là để diệt Trịnh, phò Lê. Hiển Tông mừng rỡ, tạ ơn.
Khi binh Tây Sơn vào thăng long thì các quan triều đều chạy trốn hết. Vua Hiển Tông xuống chiếu triệu về, rồi định ngày 7 tháng 7, lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng vào bái yết và dâng sổ quân sĩ dân đinh, để tỏ nghĩa tôn phù nhất thống. Vua phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên Soái Uy Quốc Công và gả Ngọc Hân Công Chúa, tục gọi là Chúa Tiên, con bà Chiêu Nghi Hoàng Hậu.
Mười ngày sau vua Lê Hiến Tông băng hà, hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu Chiêu Thống.
Vào lúc đó, Vua Thái Đức cũng ra tới Thăng Long, nói là tiếp ứng Nguyễn Huệ, nhưng thực tâm sợ Nguyễn Huệ say men chiến thắng làm điều sơ xuất, ảnh hưởng đến ngai vàng của ông. Gặp vua Lê, vua Thái Đức nói: “Họ Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà Vua giữ vững biên cương, trấn an bờ cõi, để hai nước chúng ta đời đời giao hảo”. Hai bên hoan hỷ, tiệc vui khoản đãi. Sau đó nửa đêm 17/8/1786 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ sai người vào từ biệt vua Lê rồi bí mật hạ lệnh cho quân sĩ lặng lẽ trở về Nam, bỏ mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
- Diệt trừ các lộng thần ở Bắc Hà:
Năm 1787, Vua Thái Đức xưng là Trung ương Hoàng Đế, kinh đô Đồ Bàn đổi là Hoàng Đế Thành, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, trấn thủ Thuận Hóa, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn giữ đất Gia Định.
Từ lúc Tây Sơn kéo quân trở về Nam, tình hình Bắc Hà trở nên sôi động, Nguyễn Hữu Chỉnh quy tụ dũng sĩ, mưu đồ chiếm cứ Nghệ An. Ðồng thời ở Hà Bắc, Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa. Vua Lê Chiêu Thống bị nhà chúa ức hiếp bèn gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi được Trịnh Bồng. Vua Chiêu Thống phong Chỉnh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền bính trong tay, Chỉnh tự ý hoành hành. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, chiếm đất nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn, lấy Linh Giang làm giới hạn với Thuận Hóa, y như tiên triều.
Không thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành ở Bắc Hà, tháng 11 năm Ðinh Mùi (1787), Bắc Bình Vương sai Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo binh ra Thăng Long liên tiếp đánh bại những cố gắng của Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh bị thua và bị bắt giết. Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long, còn vua Lê Chiêu Thống thì hoảng hốt dắt cung quyến chạy trốn ở Kinh Bắc. Mẹ và vợ con Lê Chiêu Thống chạy sang tàu cầu cứu với Tôn Sĩ Nghị.
Trong lúc đò, Tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham đang cầm cự với quân Nguyễn Ánh ở Gia Định, Vũ Văn Nhậm chuyên quyền tự cho là mình có công to không ai sánh kịp có ý chống lại Nguyễn Huệ ở Thăng Long. Vì lẽ đó tháng 4 năm 1788, đích thân Nguyễn Huệ đã cầm quân ra Bắc lần thứ hai. Nhậm không kịp trở tay, bị bắt và bị giết. Trước khi rút về Nam, Nguyễn Huệ đưa Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc lo việc tế tự. Còn binh quyền thì giao cho Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở, có Nội Hầu Phan Văn Lân, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ Thị Lang Trần Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá và tháng 5 năm 1788 trở về Phú Xuân để chuẩn bị Nam tiến đánh Nguyễn Ánh theo thỉnh cầu của vua anh Nguyễn Nhạc.
- Đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh:
Vua Quang Trung đại phá quân Thanh
mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1789
Dựa vào sự cầu viện của Lê Chiêu Thống, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị dâng sớ tâu vua Càn Long bên Tàu, lợi dụng cơ hội phù Lê đánh Tây Sơn, sang chiếm nước Nam. Vua Càn Long chấp thuận đề nghị, ra lệnh chu cấp việc ăn ở cho cung quyến Lê Chiêu Thống, đồng thời đưa nhà vua về nước hiệu triệu thần dân để làm hậu thuẫn cho đoàn quân xâm lăng Nam chinh.
Tháng 11 năm 1788, Thanh triều huy động 29 vạn binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây chia làm ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang và Cao Bằng kéo thẳng vào nước ta. Quân trấn thủ Tây Sơn thế yếu nên tạm thời rút lui về Biện Sơn (Thanh Hóa) và Tam Điệp (Ninh Bình) để bảo toàn lực lượng. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê Chiêu Thống vào Thăng Long trấn an nhân dân, nhưng thật sự bè đảng Lê Chiêu Thống chỉ lo việc trả thù vặc cá nhân, phần khác là sự cướp bóc của quân Thanh, dân chúng kêu la, oán hận. Mọi người đều trông chờ vào Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Ngô Văn Sở từ núi Tam Điệp cho tin cấp báo về Phú Xuân, việc Tôn Sĩ Nghị đưa quân xâm lăng, kéo thẳng vào Thăng Long. Nguyễn Huệ tỏ ra rất bình tĩnh. Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy lên ngôi Hoàng đế để "Chính vị hiệu" - thu phục lòng người, lấy danh chính ngôn thuận, nêu cao thanh thế lãnh đạo cuộc kháng chiến của toàn dân đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh. Nguyễn Huệ cho là phải, liền cho đắp đàn Nam Giao ở núi Bân, phía Nam núi Ngự Bình, tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, nhằm ngày 25/11 năm Mậu Thân (22-12-1788).
Thông thường, người ta lên ngôi là để được hưởng cuộc sống nhung lụa của Đế Vương, còn Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ đã dũng cảm chấp nhận trước lịch sử một sứ mệnh vô cùng cao cả, đồng thời cũng vô cùng nguy hiểm, đó là lãnh đạo toàn dân quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Cũng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh của quốc gia và dân tộc.
Tại lễ đăng quang Nguyễn Huệ tuyên đọc chiếu lên ngôi, Ngài đã nói rất rõ:
“Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà Tự Quân nhà Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm”…
Vua Quang Trung
Ngay sau lễ đăng quang, Tân vương Quang Trung rút kiếm lệnh truyền 10 vạn quân xuất chinh, đích thân chỉ huy hành quân thần tốc theo hai đường thủy bộ tiến ra Bắc. Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân, (15-1-1789), đoàn quân tới núi Tam Điệp, khao thưởng quân sĩ, truyền cho ba quân tạm ăn Tết trước, ông nói: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua trận rồi, tất lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ!. Nên chi, sau khi thắng trận nầy, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa”.
Ðể trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ 18 người mang lễ vật và văn thư ra tha thiết xin quan Ðại Nguyên Soái của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Tàu do tướng cướp Ðắc Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ Nghị chém Trần Danh Bình, chém luôn cả Ðắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.
Mọi việc cụ bị xong, nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29 tháng Chạp để thiết đãi tướng sĩ. Trong bữa tiệc nhà vua nói: - Hôm nay ta ăn tết Nguyên Ðán trước, sang xuân ngày mồng 7, vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn tết Khai Hạ. Rồi vua Quang Trung chia đại quân Tây Sơn làm 5 đạo Tiền, Hậu, Tả, Hữu và Trung Quân:
- Đạo thứ nhất do Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc và Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy Tả quân kiêm Thủy Quân, vượt biển đánh vào sông Lục Đầu, rồi chia thành 2 cánh: Cánh Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết tiến đến Hải Dương để tiếp ứng mặt Đông Thành Thăng Long; Cánh Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc thẳng chiếm núi Yên Thế, Lạng Giang, và án binh tại làng Phượng Nhãn để chận đường rút lui của địch và bắt sống Tôn Sĩ Nghị.
- Đạo thứ hai do Đô Đốc Đặng Văn Long và Phó Tướng Đặng Tiến Đông chỉ huy Hữu quân gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, theo ngã thượng đạo dùng lối di chuyển 2 người vỏng một, đói lòng thì dùng bánh tét trong 4 ngày phải tiến vào làng Nhân Mục huyện Thanh Trì rồi đánh chiếm đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống phía Tây Nam Thăng Long. Sau đó tiếp tục đánh tốc chiến chiếm cho được Thành Thăng Long vào đêm mùng 5Tết. (Phó tướng Ðặng Tiến Ðông, quê ở Lương Xá gần Thăng Long, trí dũng hơn người, trước kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, am hiểu địa hình khắp vùng Thăng Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt).
- Đạo thứ ba do Đô đốc Đăng Xuân Bảo chỉ huy, gồm 1000 quân và 100 thớt tượng binh băng qua Sơn Minh rồi tiến thẳng ra làng Đại Áng phục binh nơi đầm Mực khi thấy quân Thanh lội băng qua đầm Mực lùa voi ra dìm chúng xuống đó.
- Đạo thứ tư do Đại Tư mã Ngô Văn Sở, và Nội hầu Phan Văn Lân, làm Tiên Phong đánh thẳng vào Hà Hồi, Ngọc Hồi và các đồn lũy từ phía Nam kinh thành Thăng Long là nơi tập trung lực lượng chủ lực của Tôn Sĩ Nghị.
- Đạo Trung quân do Vua Quang Trung trực tiếp thống lĩnh, gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh cùng Tướng Vũ Đình Tú tuỳ cơ ứng biến. Hẹn ngày mùng 5 cùng vào thành Thăng Long và truyền lịnh lập tức xuất quân vào đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân-Kỹ Dậu, ngựa cất lạc, người ngậm tăm lặng lẽ mà đi.
Đêm 30 Tết, đại quân của Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Bấy giờ, quân bản bộ của Lê Chiêu Thống gần như đã bị buộc phải canh giữ từ xa để quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị có thể yên tâm nghỉ ngơi và ăn tết. Vừa giáp chiến, quân của Lê Chiêu Thống đã đại bại và bỏ chạy thục mạng. Nguyễn Huệ ra lệnh cho tướng sĩ của mình truy kích đến cùng, quyết không để một tên nào thoát được.
Lược đồ Quang Trung đại phá quân Thanh
Đêm Mồng Hai tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung kéo quân đến vây đồn Hà Hồi, truyền loa gọi đầu hàng ầm vang, đến vài vạn người. Quân Tàu trong đồn đang say sỉn, nghe tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền như sấm ngoài chiến lũy, khiếp sợ, không còn gan dạ nào chống cự, vội vã tan rã mà chạy, bắt được giết hết, không còn tên quân Tàu nào chạy lọt về báo Thăng Long được nữa. Vua Quang Trung thừa thắng đánh tràn đến Ngọc Hồi, Vân Điển, Yên Quyết.
Qua đêm mồng 5, vừa cuối canh tư nhà vua sai dồn tất cả lương thực vào một chỗ rồi cho đốt sạch, và bảo tướng sĩ: - Hễ thắng giặc thì được no, thua giặc thì chết đói. Nếu không thắng được giặc thì chết chớ nhất định không lui. Ðoạn xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn.
Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo quân ra chận đánh. Nhưng vừa trông thấy đàn voi trận của Tây Sơn, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui.
Ðồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều có cắm chông sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối.
Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván, ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.
Ðạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.
Lực lượng địch trong Ngọc Hồi có trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra hướng Bắc, chẳng ngờ đến gần Văn Ðiển thì bị Tướng Vũ Đình Tú bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì bị tượng binh của Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo phục binh tại làng Đại Áng chận đánh. Quân địch lớp chôn thây trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.
Cánh quân Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như nước vỡ đê. Ðống khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa.
Tôn Sĩ Nghĩ đang vui yến tiệc trong thành Thăng Long, được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, thất kinh hồn vía. Ngay lúc đó ba mặt thành
Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến đâu thì cũng bị phục Binh của Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc chận đánh phải chạy trối chết vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo thoát thân. Bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan, đói cơm khát nước.
Quân Mãn Thanh bị quét sạch. Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng. Hôm ấy là ngày mồng năm Tết, Vua Quang Trung mặc chiến bào xông pha trận mạc, thẳng vào thành Thăng Long. Chiến bào màu đỏ của vị Hoàng Đế anh hùng, qua nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc súng. Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.
Sau chiến thắng lừng danh, đại phá quân Thanh mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Người Tàu bị chấn động dữ dội, từ cửa ải trở lên phía Bắc, già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn. Hàng mấy mươi dặm tuyệt nhiên không có bóng người và khói bếp. Vua tôi Lê Chiêu Thống bôn tẩu theo đám tàn binh sang Tàu, bị vua Càn Long Nhà Thanh giam lỏng, chết nhục nhã nơi đất khách.
Đúng như dự tính và lời hứa hẹn của vị Tổng lảnh binh, mồng 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân đội của Hoàng Đế Quang Trung đã vui vẻ ăn tết khai hạ tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng.
Liền Sau đó, tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc binh bị và cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, và Phan Văn Lân; việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích, Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước. Lần này ngài trở về Nam với tư thế là một Hoàng đế.
Vua Quang Trung vào thành Thăng Long
VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ÐỀ NỘI TRỊ
1. Hành Chánh:
* Chọn kinh đô.
Vua Quang Trung đã nhờ La Sơn Phu Tử gấp rút tiến hành việc xây dựng kinh đô mới ở Dũng Quyết tức vùng núi Phượng Hoàng Nghệ An. Ðịa thế hùng vĩ, phía Nam có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía Đông Bắc có núi Phượng Hoàng là những địa hào và thành lũy thiên nhiên che chở cho kinh thành và trong con mắt của Quang Trung đây là Phượng Hoàng Trung Ðô.
Vì Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về ngự tại Phú Xuân suốt thời gian trị vì.
* Tổ chức chánh quyền trung ương:
Bộ máy triều đình trung ương có lục bộ Thượng Thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Tư Vụ, Hàn Lâm, Hiệp biện Đại Học Sĩ... Tổ chức địa phương Tổng, Huyện có võ quan cai quản và thao luyện quân đội, văn quan phụ trách binh lương, thuế khóa. Dưới nữa có Xã Trưởng, Thôn Trưởng, như đời nay.
2. Tổ chức quân đội:
Quân đội được chia ra thành 5 đạo như trong hồi đánh nhau với Nhà Thanh: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Ngoài ra còn có 11 đội quân đặc biệt khác, tạo thành quân chủ lực của Quốc gia. Ông thường nói:“Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều”. Theo lời các nhà truyền giáo, quân đội Tây Sơn có tinh thần chiến đấu rất cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được huấn luyện thuần thục, gan dạ, một chống nổi ba bốn, nên đánh đâu thắng đấy.
Triều Vua Thái Ðức thì lính mộ chớ không bắt. Vua Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.
Ðể tiện việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín bài. Tín bài là một chiếc thẻ ghi tánh danh, quản chỉ và dấu lăn tay hay chữ ký của chủ nhân chiếc thẻ. Người nào không có tín bài thì bị bắt sung vào phòng dịch.
Nhà vua còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến 17 tuổi gọi là Vị Cập cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi gọi là Lão hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Những gia đình độc đinh thì được miễn. Trong gia đình đông con thì cứ ba tráng đinh thì một người phải đi nhập ngũ. Những khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có ghi rõ tên tuổi trong hộ tịch nên tránh bớt sự bất công.
3. Kinh Tế Tài Chính:
· Ðúc tiền:
Ngoài việc chỉnh đốn triều chính, Vua Quang Trung muốn độc lập về mọi mặt. Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền bằng đồng để tiện dùng trong nước và thuận tiện trong việc thương mại. Đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.
Quang Trung Thông bảo &Cảnh Thịnh thông bảo
· Thương mãi:
Năm Quang Trung thứ tư (1791), do việc cần chuẩn bị nhu cầu chiến tranh để bảo vệ bờ cỏi, nhà vua cho thu mua hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên.
Nhà Tây Sơn chủ trương thông thương, mở rộng việc buôn bán với nước ngoài từ khá sớm. Sau ngày lên ngôi hoàng đế và quản lý cả khu vực Bắc Hà, Quang Trung bãi bỏ chính sách ức thương mà chính quyền Lê-Trịnh trước đây áp dụng để tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thương khách lớn nhất khi đó vẫn như truyến thống là người Tàu. Nhà vua cũng xúc tiến việc giao thương với các nước phương Tây thông qua ba hải cảng sầm uất là Phố Hiến, Hội An và Nước Mặn (Vùng Tuy Phước và thành phố Qui Nhơn hiện nay).
Cuối năm 1789, Quang Trung đã viết thư sang đề nghị Càn Long cho mở cửa ải giữa Việt Nam và Trung Hoa để tiện cho việc đi lại buôn bán giữa dân chúng hai bên. Cử người sang điều đình với Nhà Thanh mở chợ Bình Thủy Quan ở Cao Bằng, Du Thôn Ải ở Lạng Sơn, đề nghị lập nhà hàng ở Quảng Tây, đưa dân ta sang làm ăn buôn bán với Trung Quốc, mục đích mở rộng biên cương.
Những đề nghị của Quang Trung được Càn Long chấp thuận. Do đó, quan hệ giao thương giữa Tàu và Việt được phục hồi và phát triển mạnh mẽ.
· Dinh điền:
Sau những cuộc chiến tranh kéo dài số dân giảm xuống rất nhiều. Do đó có một số ruộng đất bỏ hoang. Lo xong việc chinh chiến, vua Quang Trung dồn mọi nỗ lực vào việc cải cách ruộng đất. Nhà vua đưa những người nghèo khổ ở những nơi đông đúc tới đó để cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải giúp đỡ bằng mọi phương tiện.
Về ruộng đất công điền, tư điền, thuế khóa cũng được cải tổ. Năm Quang Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa thuận gió hòa. Nếp sống dân chúng đầm ấm, phát đạt, do chính sách ưu dân của Triều đình. Năm nào có thiên tai bão lụt, hạn hán, triều đình lại giảm thuế, ân xá cho dân chúng.
· Thuế khóa:
Dưới thời Trịnh Nguyễn, dân chúng phải nộp thứ thuế gọi là Tiền điệu tức là tiền nạp thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy. Những lúc trong nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải góp phần, giàu cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được miễn. Những người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê người thay thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.
Thuế ruộng đất công tư đều phân hạng theo mức sản xuất hàng năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể nạp bằng tiền tính theo thời giá. Mức thuế đã quy định rõ ràng. Thu lên bị tội tham nhũng.
4. Văn Hóa
Vua Quang Trung tuy là một thiên tài về quân sự, nhưng ông cũng rất chú trọng về văn hóa và chính trị. Nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh ở một tinh thần cách mạng quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến. Các nho sinh đỗ đạt tân, cựu đều được đãi ngộ, trọng dụng. Đáng chú ý nhất là việc sử dụng chữ Nôm dùng làm quốc ngữ trong tất cả văn thư trong nước, kể cả trong những kỳ thi cử, loại dần ảnh hưởng văn học và chữ Hán ra khỏi sinh hoạt văn hóa của đất nước. Hán tự bấy giờ chỉ dùng để giao dịch với nhà Thanh. Vua Quang Trung đề cao tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế. Trong khoa cử, học hành, chữ Nho vẫn được dùng, nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, chữ Nôm đã được đặt vào một địa vị quan trọng.
Việc học hành: Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban Giảng dụ ở xã giao cho những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở các địa phương khác. Xã học do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có quyền rước thầy về dạy con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở các trường công hay tư vẫn được coi như nhau. Các trường ở phủ huyện thì có Ðốc học, Huấn đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa trong làng khoa bảng, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri huyện.
Hằng năm vào mùa thu, tại kinh đô Phú Xuân Vua Quang Trung cho mở các khoa thi Tuấn Sĩ, Văn cũng như Võ để chọn những phẩn tử ưu tú thăng vào Quốc học, hạng thứ vào Phủ học. Học và thi đều dùng hai thứ chữ Hán và Nôm.
Nhà vua lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng để dịch Tứ thư và Ngũ kinh sang tiếng Nôm để dạy học, dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc. Cộng tác cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Ðịnh, Bùi Dương Lịch rất sành văn Nôm.
Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Thư và Tiểu Học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... Nhờ sự khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Ðình Mộng ký, Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ La Xuân Kiều v.v... được truyền thế.
5. Tôn Giáo:
Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến khích việc phát triển Nho học. Ðối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa chiền để trốn xâu lậu thuế, để không làm mà hưởng. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt phá bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là những "Huề Mầm" đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân.
Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo.. được tự do truyền bá. Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm. Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, dân chúng được tự do tín ngưỡng.
6. Ngoại giao với Thanh triều:
Ngay từ khi kéo quân đến Tam Điệp trên lộ trình ra Thăng Long đánh quân Thanh, Vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hòa với nhà Thanh sau khi thắng trận. Cho nên khi kéo quân vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cấm giết bại binh Thanh mỗi khi bắt được. Nhà vua lại cho phép quân Thanh được ra thú. Có hơn 800 người ra đầu thú, họ đều được cấp lương ăn và quần áo mặc. Ngài nhờ Ngô Thời Nhiệm dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, thuyết phục được Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An và cận thần vua Nhà Thanh là Hòa Khôn, thiết lập được mối hòa hiếu giữa hai nước, kết thúc chiến tranh, dân chúng sống an vui.
Giả vương Nguyễn Quang Hiển, đang triều kiến vua Càn Long nhà Thanh tại Nhiệt Hà
Tháng 7 năm 1789 vua Nhà Thanh sắc phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương và mời sang triều cận. Vua Quang Trung đề cử Nguyễn Quang Hiển làm giả vương đi thế. Tại Nhiệt Hà, giả vương được vua Càn Long tiếp đãi ân cần và ban thưởng trọng hậu.
Năm Nhâm Tý 1792, vua Quang Trung cử Võ Kinh Thành, Trần Ngọc Thụy, Võ Văn Dũng sang dâng biểu cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi lại 6 châu (Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ và Khiêm châu) thuộc Hưng Hóa, 3 động (Nguyễn Dương, Hồ Điệp và Phố Viên) thuộc Tuyên Quang, đã bị Nhà Thanh trước kia xâm chiếm, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Kế hoạch chuẩn bị thuyền tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả qua Tàu là cái cớ để đánh lấy lại đất, nếu Thanh triều từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Vũ Văn Dũng sang đến Trung Quốc thì được tin vua Quang Trung băng hà, sứ giả phải quay về. Vua Quang Trung mất năm 40 tuổi vào ngày 15 tháng 9 năm 1792, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
* Bãi việc cống người vàng:
Một quốc hận đáng kể cho người Việt Nam từ đời Hậu Lê là việc cống người vàng, một ký ức chua cay của dân tộc.
Năm Đinh Mùi (1427), tướng của Nhà Minh là Liễu Thăng bị quân kháng chiến của Lê Lợi chém bay đầu tại Lạng Sơn. Nhà Minh đau lắm vì Liễu Thăng là một tướng tài của họ. Sau nầy giảng hòa, Minh triều bắt đền nước Việt phải đúc người vàng thế mạng Liễu Thăng. Vua Lê Lợi thấy dân tình đau khổ, chiến tranh kéo dài từ nhà Hồ ngót 30 năm ròng rã, đành chấp nhận điều kiện của Minh triều. Sau đến đời Mạc và các vua Lê đời Trung hưng, cũng vẫn tiếp tục cống người vàng.
Nhà Tây Sơn chiến thắng lừng danh, phá tan 20 vạn quân Thanh không còn manh giáp, đuổi quân thù xâm lăng chạy khỏi ải Nam Quan hằng mấy trăm dặm. Vua Quang Trung khi đã yên vị, không chịu lệ này, viết thư cho Phúc Khang An thông báo bãi bỏ lệ cống người vàng. Đứng trước thế mạnh của nhà Tây Sơn thời bấy giờ, vua tôi nhà Thanh phải chấp nhận.
* Giai đoạn cuối Nhà Tây Sơn:
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Trong lúc ông đang ngồi làm việc thì bất thình lình bị xây xẩm mặt mày rồi ngã ra hôn mê, một hồi lâu được cấp cứu mới tỉnh lại. Sau đó, bệnh càng ngày càng nặng. Xét triệu chứng của hiện tượng trên, người ta có thể suy đoán Nguyễn Huệ bị bệnh cao huyết áp do làm việc quá căng thẳng, suy nghĩ nhiều, dẫn đến tai biến mạch máu não. Đối với căn bệnh này, trình độ y học thời bấy giờ đành phải bó tay, dù triều đình có các lương y tài giỏi bên cạnh như Nguyễn Gia Phan, Nguyễn Hoành (còn với nền y học của thời đại chúng ta, bệnh này nếu có thể cứu sống được cũng để lại di chứng nặng nề cho người bệnh như ngớ ngẩn, mất trí nhớ, liệt nửa người…). Tóm lại, đây là một căn bệnh hiểm nghèo ngay cả với nền y học cuối thế kỷ XX.
Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Vua Thái Đức buồn vì hai em Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã chết, lụt chí tiến thủ, chỉ giữ lấy Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Trong khi đó thì Nguyễn Phúc Ánh củng cố, xây dựng và phát triển ở Gia Định, rồi đánh lần ra phía Bắc. Năm 1793, quân Nguyễn Phúc Ánh vây khốn thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú Xuân. Sau khi giải cứu, vua Cảnh Thịnh chiếm luôn Quy Nhơn. Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc uất hận, thổ huyết chết, làm vua được 16 năm. Tại Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên phụ chính, chuyên quyền làm triều đình bất hòa, thanh toán lẫn nhau, lòng dân ly tán. Cơ nghiệp Nhà Tây Sơn suy yếu dần, đến năm Nhâm Tuất (1802) thì mất vào tay Nguyễn Phúc Ánh.
7. Tây Sơn trong lòng dân Việt
Sự nghiệp hiển hách, chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung đã ghi sâu vào lòng dân Việt. Trên hai trăm năm nay, biết bao người đã viết sách, làm thơ, ca tụng thành quả của những trận đánh lừng danh mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, chưa đầy một mùa lễ, tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, làm sáng chói trang sử Việt Nam.
Tượng đài Vua Quang Trung
Mặc dù Gia Long Nguyễn Phúc Ánh đã trả thù Nhà Nguyễn Tây Sơn một cách hèn hạ, thi hành chính sách nhổ cỏ tận gốc. Muốn xóa sạch đi những công trình xây dựng, những đóng góp quý giá của Nhà Tây Sơn cho đất nước, ngay cả hào quang sang chói thắng giặc ngoại xâm của vua Quang Trung trong lòng dân Việt. Nhưng những gì thuộc về văn hóa, thuộc về tinh thần, đã được lịch sử gạn lọc một cách tinh tế, trả về sự thật, lưu truyền mãi trong sử sách.
Tại Chùa Bộc, xưa gọi là Sùng Phúc Tự gần Hà Nội, sau bao nhiêu năm kiểm soát nghiêm ngặt, xử trị nặng nề của Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, những ai tưởng nhớ Vua Quang Trung, dân chúng nơi đây vẫn đúc tượng thờ Vua Quang Trung dưới hình thức tôn giáo với câu đối chữ Hán:
洞 裡 無 塵 大 地 山 河 留 棟 宇
光 中 化 佛 小 天 世 界 轉 風 雲
Động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống vũ.
Quang trung hoá Phật tiểu thiên thế giới chuyển phong vân
( Nghỉa là: Trong động sạch bụi dơ, non sông rộng lớn lưu truyền lương đống. Giữa ánh sáng thành Phật, tiểu thiên thế giới chuyển động gió mây.)
Công Chúa Ngọc Hân, là Bắc cung Hoàng Hậu vua Quang Trung đã khóc khi Ngài qua đời, trong tác phẩm “Ái Tư Vãn”: để bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng. (Toàn bài vãn này gồm 164 câu, viết theo thể Song thất lục bát).
… Nghe trước có đấng vua Thang, Võ
Công nghiệp nhiều tuổi thọ càng cao
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình…
…………………………………………..
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
……………………………….
Tại làng Tây Sơn, Bình Định, ngay trong thời Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, sau khi ngôi từ đường Nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn phá hủy, ngôi đình làng được thay thế vào, dân chúng âm thầm thờ ba vua Tây Sơn bên trong.
Năm 1958, dưới thời chính quyền Sài Gòn dân chúng địa phương góp công sức xây dựng Điện Tây Sơn trên nền cũ của ba Vua làm nơi thờ tự. Cờ Quang Trung cũng được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chuẩn y bay phất phới lần đầu tiên vào năm Ất Tỵ ngày 6 tháng 2 năm 1965, sau 176 năm vắng bóng. Hằng năm vào tháng 11 Âm Lịch là ngày giỗ ba Vua Tây Sơn, có nhạc võ Tây Sơn theo cổ lệ.
Ngày Mồng Năm tháng Giêng mỗi năm, dân chúng Bình Định tổ chức ngày Lễ Đống Đa rất trọng thể. Người dân các tỉnh miền Trung tề tựu về đây xem lễ hội Đống Đa, có đến hàng trăm ngàn người. Ngày nầy còn có ý nghĩa là Ngày Tây Sơn. Đầu năm mọi người đi trẩy hội, là dịp rủ nhau vui Xuân trong những ngày Tết, cũng là cơ hội cho Nam thanh, Nữ tú, lòng đầy nhiệt huyết, tưởng nhớ vua Quang Trung trong ý chí quật cường, cùng toàn dân dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh, đem lại an bình cho đất nước.
Tại Hoa Kỳ, các Tiểu bang có đông người Việt Nam như Nam California, Bắc California, Texas, Washington State, Colorado..., hằng năm đều tổ chức Ngày Tây Sơn, được đồng hương Việt Nam hưởng ứng nhiệt liệt, nhằm mục đích nhớ lại công đức của tiền nhân và nhắc nhở giới trẻ quay về cội nguồn, yêu thương Quê hương Dân tộc.
Tại Orange County, Sáng ngày 20/11/2016 “Lễ Động Thổ xây dựng tượng đài Anh Hùng Quang Trung Nguyễn Huệ” trong khu thương mại trên góc đường Euclid & Hazard, thuộc thành phố Garden Grove.
Mô hình Tượng đài Vua Quang Trung tại Quận Cam
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã làm “Bài Ca Bình Bắc”, ca ngợi Vua Quang Trung chí lớn dọc ngang, mộng lớn huy hoàng, một phút oai thần dậy sóng, gươm thiêng cựa vỏ, tan vía cường bang, voi thiêng chuyển vó, giặc nát lũy tan hàng.
… Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận trăm đường giáp công
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng…
Tham khảo:
- Nhà Tây Sơn - Bách khoa toàn thư wikipedia.org
- Nhà Tây Sơn của Triều Phong Đặng Đức Bích.
- Trời giao ấn kiếm cho người Tây Sơn trên trang www.kienthuc.net.
- Việt Nam Sử Lược, Lệ Thần Trần Trọng Kim nxb Đại Nam 1990.
- Tây Sơn Thất Hổ Tướng của Hữu Vinh trên Thư Viện sách hay của bạn maxreading.com.
- Gốc tích họ Hồ của vua Quang Trung - tài liệu của Hồ Sĩ Giàng trong http://www.hoquytoc.com/
- Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
- Nhà Tây Sơn - của Quách Giao & Quách Tấn
- Triều đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung theo Thế phả triều đại Tây Sơn
Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt trong khu Bảo tàng Quang Trung ở Phú Phong, Bình Định
Võ Trung Tín chuyển (HNPD)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
NHỮNG NHÂN VẬT LỪNG DANH TRONG SỬ VIỆT
Võ Trung Tín chuyển
NHỮNG NHÂN VẬT LỪNG DANH TRONG SỬ VIỆT
Nữa trái đất cách ngăn, nuôi hồn phục quốc, đón ánh thiều quang,
nguyền chung sức dựng mùa Xuân Thống Nhất.
Triệu con tim bừng dậy, quyết dạ hồi hương, say men chính khí,
dốc một lòng nối chí Đức Quang Trung.
Vĩnh Trường (Võ Trung Tín chuyển)
Nhà Tây Sơn (chữ Nôm: 家西山), được thành lập cuối thời Hậu Lê, trong giai đoạn tranh chấp quyền lực giửa hai thế lực của hai nhà Chúa Nguyễn và Trịnh trong lịch sử Việt Nam."Tây Sơn" được dùng để gọi triều đại khởi nghỉa của anh em nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Tuy nhiên triều đại này tồn tại không lâu sau khi Quang Trung Hoàng Đế băng hà. Những người kế thừa ông không đủ bản lãnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù nên đã nhanh chóng mất về tay Nguyễn Phúc Ánh. Cái chết đột ngột của ông khiến đời sau còn tiếc cho nhiều dự định lớn lao chưa thành hiện thực.
Dù sau này nhà Nguyễn tìm nhiều cách để cố tình bóp méo bôi xấu và tiêu huỷ tận gốc những chứng tích liên quan tới Nguyễn Huệ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung, nhưng tên tuổi ông không hề bị mai một. Người Việt Nam mãi mãi ghi nhận Ông là người anh hùng của dân tộc, là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử nước nhà.
Bối Cảnh lịch sử:
Trong thế kỷ 17&18, nước Đại Việt nằm dưới quyền cai trị của vua Lê, có danh mà không có quyền hành chính trị. Quyền lực thực sự nằm trong tay hai gia đình phong kiến: chúa Trịnh ở phía Bắc, kiểm soát nhà vua và điều khiển triều đình ở Thăng Long và chúa Nguyễn ở phía Nam, đóng đô tại thành Phú Xuân (Huế ngày nay). Hai bên đã từng 7 lần đánh nhau để giành quyền kiểm soát toàn bộ đất nước trong suốt 45 năm và đều tuyên bố trung thành với nhà Lê để củng cố quyền lực cho mình.
Đời sống người dân thời đó rất thấp kém và nghèo khổ. Đa số ruộng đất theo thời gian rơi vào tay một số ít người có quyền thế. Quan lại thường áp bức và tham nhũng; các vị chúa cai trị sống hoang phí trong những cung điện to lớn.
Cuộc chiến Trịnh Nguyễn phân tranh kết thúc năm 1672 và cuộc sống của những người nông dân ở phía Bắc của các chúa Trịnh tương đối ổn định. Trong khi đó ở phía Nam, các chúa Nguyễn thường hay chiến tranh với đế chế Khmer yếu ớt ở bên cạnh và với một nước khá mạnh là Xiêm La (Thái Lan). Các chúa Nguyễn thường thắng trận và mở mang thêm đất đai về phía Nam.
Đến giữa thế kỷ 18, những người dân bị áp bức quá mức và họ đã đứng lên khởi nghĩa cả ở Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong. So với Đàng Trong, phong trào nông dân Đàng Ngoài mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa quận He, quận Hẻo, chàng Lía, Hoàng Công Chất... nhìn chung đều chưa đủ quy mô, sức mạnh và sự liên kết cần thiết để đánh đổ chính quyền cai trị. Mặt khác, những người cầm quyền lúc đó như Trịnh Doanh ở Đàng Ngoài và Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong có đủ khả năng và bản lảnh để huy động lực lượng trấn áp các cuộc khởi nghĩa.
Trước tình trạng xã hội đen tối đó, Nhà Tây Sơn đã đứng lên, đáp ứng nguyện vọng của toàn dân, lật đổ chế độ thối nát, đem công bằng và cơm no áo ấm cho dân chúng.
Xuất Thân:
Tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ, hậu duệ của Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật, nguồn gốc là người tộc Việt thuộc vùng Bách Việt đã đến lập nghiệp ở Bào Đột làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, (khoảng năm 947- 951). Ông là “một trí thức” lớn của thời đại ấy, đã làm quan, nhưng lui về sống ẩn dật, không tranh bá đồ vương. Con cháu ông phát triển ở hai châu Hoan và Diễn (Nghệ An-Hà Tĩnh ngày nay). Khoảng nǎm 1655 khi quân chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra Đàng Ngoài tới Nghệ An (đánh nhau lần thứ 5) đã bắt ông Hồ Phi Khanh, (cùng một gốc với Hồ Quý Ly), là ông tổ 4 đời của anh em nhà Tây Sơn, cùng với nhiều tù binh khác đưa đi khai hoang lập ấp ở vùng Tây Sơn thượng đạo (phủ Quy Nhơn).
Đến đời ông Hồ Phi Phúc lấy vợ là Nguyễn Thị Đồng di dời sang ở quê vợ tại ấp Kiên Thành, làng Phú Lạc thuộc Tây Sơn hạ đạo. Ông Bà lập bến Trường Trầu, buôn bán trầu cau với người Thượng Tây Nguyên. Hồ Phi Phúc có 7 người con gồm 4 gái và 3 người con trai là: Nhạc, Bình (hay Thơm) và Lữ.
Thầy giáo Truương Văn Hiến:
Lớn lên, ba anh em đến thụ giáo cả văn lẫn võ với thầy giáo Trương Văn Hiến. Thầy giáo Hiến tên thật là Chu Văn Hiến, thuộc giòng dõi Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương. Giáo Hiến vốn là môn khách của Trương Vǎn Hạnh, quan Nội Hữu Đại Thần đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Chính Trương Văn Hạnh khuyên Hiến đổi ra họ Trương để tránh sự theo dõi của tai mắt quan quân nhà Mãn Thanh.
Năm 1765, Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất. Quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm di chiếu giả, lập người em thứ mười sáu của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi. Quan đại thần Trương Văn Hạnh phản đối, liền bị Trương Phúc Loan bắt giết cả nhà. Vì là chỗ môn hạ gần gũi với Trương Văn Hạnh, Trương Văn Hiến sợ bị vạ lây bèn bỏ trốn chạy vào ở ẩn tại Quy Nhơn, mở trường dạy học ở đất An Thái. Giáo Hiến mang hoài bão, ý chí của mình truyền lại cho lớp môn sinh. Chính Giáo Hiến đã khám phá ra tài năng khác thường của anh em Tây Sơn nhất là Nguyễn Huệ nên hết lòng đầu tư cho nghiệp lớn về sau, nên khuyên ba anh em khởi nghĩa để xây dựng đại nghiệp.
Trương Văn Hiến tài kiêm văn võ, tinh thông thao lược, là người thông minh, học cao hiểu rộng, giỏi về khoa lý số, quán triệt nhân sự. Trong khi truyền dạy văn võ cho môn sinh, Thầy giáo Hiến là người giàu lòng yêu nước thương dân và chính lòng yêu nước thương dân đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cả ba anh em Tây Sơn. Thầy giáo Hiến thu nhận học trò rất hạn chế. Trước khi nhận học trò, thầy luôn đặt nhiều câu hỏi để trắc nghiệm kiến thức và nhất là quan niệm về nhân sinh. Thầy có biệt tài xem tướng người, nhận biết được một phần về tương lai của học trò. Những người không đủ tiêu chuẩn thầy đều từ chối với nhiều lý do khéo léo.
Ông luôn luôn nhắc nhở: “Nam nhi phải có chí lớn” đề cao cuộc Cách Mệnh Thang Vũ ( vua Thang nhà Hạ và Vua Võ nhà Châu), ông thường nói:“Tây khởi nghĩa, Bắc thu công, phụ Nguyễn phục thống”.Ông đã rèn luyện và đào tạo nhiều môn đệ kiệt xuất, trong đó có ba Anh em nhà Tây Sơn.
Nhưng, điều rất quan trọng mà ba anh em Tây Sơn thụ bẩm được ở thầy giáo Hiến không chỉ là văn chương chữ nghĩa và lòng yêu nước thương dân. Vốn dĩ là môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh, từng sống và làm việc ở ngay trong phủ chúa Nguyễn, thầy giáo Hiến còn cung cấp cho ba anh em Tây Sơn những thông tin đầy đủ và chính xác về nội tình thối nát của tập đoàn thống trị họ Nguyễn đương thời. Đây chính là cơ sở thực tiễn để về sau, ba anh em Tây Sơn có thể căn cứ vào đó mà nêu lên được khẩu hiệu phân hóa kẻ thù một cách rất lợi hại.
Giáo Hiến được cho là tác giả câu sấm truyền: “Tây khởi nghĩa, Bắc thu công, Phụ nguyễn phục thống”. Giáo Hiến đã nói với anh em Nguyễn Huệ: “Các con là người của đất Tây Sơn, Tây Sơn khởi nghĩa, sẽ lập nên nghiệp lớn ở miền Bắc và“Phụ Nguyễn phục thống” là một Họ Nguyễn khác sẽ phục hồi nền nhất thống...”.
Tương truyền, những huyền thoại gây thanh thế cho Nhà Tây Sơn lúc mới khởi nghiệp như chuyện Nguyễn Nhạc được ấn kiếm trời ban, chuyện Nguyễn Huệ xuất quân chém rắn ở gò cây Ké … đều là do Trương Văn Hiến bày mưu.
Người Đàng Trong tại Đà Nẵng thời Tây Sơn
Tranh của họa sĩ William Alexander
Chính Giáo Hiến là người bày vẻ cho anh em Tây Sơn từ họ Hồ đổi ra họ Nguyễn, vì họ Hồ ở nước ta thời đó không được lòng dân, người ta vẫn nhớ việc Hồ Quí Ly lộng quyền, giết vua, giết hại người trung lương, cướp ngôi nhà Trần và rốt cuộc bị nhà Minh diệt một cách dễ dàng! và đổi tên Hồ Thơm ra là Nguyễn Huệ:
“Các em đổi Họ cho mau,
Từ “Hồ” sang “Nguyễn” ứng câu sấm truyền
"Thơm' thành ra "Huệ" mới yên,
Binh thư, đao kiếm, côn quyền gia công...”
Tương truyền khi sinh Nguyễn Huệ, thì hoa Huệ trong vườn toả hương thơm ngát cả nhà, vì vậy mẹ đặt tên là Thơm.
Học trò của giáo Hiến là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng hay danh sĩ hàng đầu của nhà Tây Sơn. Ngoài Tây Sơn tam kiệt, còn có thể kể:
- Võ Văn Dũng quê Phú Lạc, Tây Sơn, Bình Định, Đại tư đồ triều Quang Trung, một trong tứ trụ triều đình thời Cảnh Thịnh.
- Đặng Văn Long quê Nhơn Mỹ, An Nhơn, Bình Định - Đại đô đốc, có công phá giặc Thanh.
- Phan Văn Lân quê Nhơn Hưng, An Nhơn, Bình Định - Đô đốc, có công phá giặc Thanh.
- Nguyễn Văn Huấn và Nguyễn Văn Danh là hai cận thần của Nguyễn Huệ ở Bình Sơn, Quảng Ngãi, tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký.
- Huỳnh Văn Thuận ở Mộ Đức, Quảng Ngãi - Tướng Tây Sơn đã tham chước hai bộ Binh Ngô tôn pháp và Hưng Đạo binh pháp, soạn ra bộ Binh pháp Tây Sơn.
- Trương Văn Đa, sinh tại An Thái, Nhơn Phúc, Bình Định, (là con trai và cũng là học trò Trương Văn Hiến, con rể Nguyễn Nhạc) – Tướng Tây Sơn, có công đánh quân Xiêm, làm trấn thủ Gia Định rất được lòng dân, sau là thầy dạy thái tử Bảo.
Tây Sơn Tam Kiệt Thuở Tiềm Long
Nguyễn Nhạc, Trước khi nổi dậy ông từng đi buôn trầu để nuôi mẹ và em nên được gọi là Ông Hai Trầu. Trong những năm đầu tiên của cuộc khởi nghỉa, Nguyễn Nhạc đóng vai trò quan trọng nhất và với người miền
Nguyễn Lữ còn có tên là thầy Tư Lữ. Sở dĩ gọi là thầy vì Nguyễn Lữ đã từng xuất gia đi tu theo Minh giáo, tục gọi là đạo Ma Ní thờ thần lửa, dùng phù phép để chữa bệnh, trừ tà như đạo phù thủy. Còn như thứ tư (thầy tư Lữ) cũng có nghĩa là Nguyễn Lữ ở vai em Nguyễn Huệ (thứ ba) và Nguyễn Nhạc (thứ hai). Nguyễn Lữ được đánh giá là người nhân hậu, khoan hoà, ưa thanh tịnh, có khiếu về võ thuật, đã được thầy Trương Văn Hiến chân truyền cho môn miên quyền hay nhu quyền, là một môn võ chuyên dùng sức nhẹ để thắng mạnh, để tự vệ hơn là tấn công. Ngoài ra, Nguyễn Lữ cũng chuyên về kiếm, nhờ ở sự phối hợp giữa miên quyền và kiếm thuật, ông Lữ đã nổi danh về môn nhu kiếm. Kiếm của ông nhẹ và mỏng nhưng lại sắc bén vô cùng nhờ ở biết thế nương vào sức mạnh của địch mà đánh trả, nên tuy kiếm mảnh mà không đao búa nào đánh gãy được.
Nguyễn Huệ (1753 – 1792) còn có tục danh là Hồ Thơm hoặc Bình. Nguyễn Nhạc thường hay gọi Nguyễn Huệ là chú Ba Thơm.
Trong ba anh em, Nguyễn Huệ có nhiều đặc điểm nổi trội nhất: vóc dáng cao lớn, sức mạnh tuyệt trần, tài trí quyền biến, mưu lược như thần, là người thông minh quyết đoán, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ”. Diện mạo và thần thái của Nguyễn Huệ đến nay vẫn là một ẩn số. Theo sách “Những khám phá về Hoàng Đế Quang Trung”, một sử quan thời Nguyễn đã ghi: “Huệ tóc quăn, mặt đầy mụn, có đôi mắt sáng như ánh điện, thay được đèn soi sáng cả chiếu vào lúc ban đêm, có thể nhìn xuyên thấu tâm can sâu thẳm của đối phương, lúc lâm trận thì thế thắng uy nghi, anh hùng lẫm liệt. Tiếng nói sang sảng như chuông sẽ là lệnh truyền hiệu nghiệm đầy sức thuyết phục... Cái nhãn quang đó cùng bộ óc thông minh của ông đã làm nên sự nghiệp phi thường như lịch sử đã ghi lại".
Trong giai đoạn khởi sự, Nguyễn Huệ đã giúp Nguyễn Nhạc xây dựng kinh tế và huấn luyện quân sự. Với sự ngầm trợ giúp về mặt tâm lý của Thầy giáo Hiến và bản lĩnh cá nhân, Nguyễn Huệ đã nhanh chóng tạo dựng được uy tín cho lực lượng Tây Sơn và cả cho cá nhân mình. Chẳng bao lâu sau, lực lượng của nhà Tây Sơn mỗi ngày mỗi lớn và vững vàng.
Năm 1771, khi chính thức trở thành một trong ba lãnh tụ cao nhất của Tây Sơn, Nguyễn Huệ mới vừa tròn 18 tuổi. Trong hàng các bậc danh tướng kiệt xuất nhất của lịch sử nước ta, không ai bắt đầu sự nghiệp sớm như thế.
Lúc Nguyễn Huệ vào kinh đô Thăng Long, vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng.
Thậm chí, những kẻ đối địch cũng phải nhận xét: "Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân, xem ông ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường biết. Ông bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Võ Văn Nhậm như giết một con lợn. Không một người nào dám nhìn thẳng vào mắt ông; thấy ông trở tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu sợ hơn sấm sét..."
Ông không phải chỉ là tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà chính trị xuất sắc. Ông nắm được cả vùng lấn chiếm trong tay bằng những đồn lũy nằm án ngữ khắp các nẻo thủy bộ với một kỷ luật nghiêm minh và một lòng nhân từ với dân chúng”
Tài ngoại giao của Vua Quang Trung rất khôn khéo, không gây tị hiềm, xung đột giữa hai thế lực tranh hùng tạo ra cảnh binh đao đầu rơi máu đổ, mà còn đáp lại nguyện vọng của toàn quân dân là muốn được an vui trở về với gia đình. Nhà Lê trị vì đã lâu đời, sĩ phu Bắc hà rất nhiều, xử sự không khéo sẽ đi đến chỗ bất hòa, chiến sự bùng phát.
Trong việc dùng người, Nguyễn Huệ biết sùng thượng kinh văn, quí trọng đạo lý, nghe ai là kẻ tài giỏi hoặc hiền đức, lấy lễ tân sư, tức là vừa coi là khách vừa coi là thầy, mời tham gia việc nước. Như trường hợp đối xử với các ông La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Đăng Trường, Ngô Thời Nhiệm, Phan Huy Ích v.v...
Thiên tài quân sự: Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự. Hành quân tốc chiến tốc thắng, biến hóa như thần. Hiệu lệnh nghiêm minh, kỷ luật sắt thép. Đức tính làm tướng của ông, đáng kể nhất ở chỗ biết chia bùi xẻ đắng với tướng sĩ, lấy ân uy và đảm lược để chinh phục lòng người.
Ra trận ông đi trước ba quân, lúc nguy nan, ông tỏ ra bình tĩnh. Gặp những vấn đề khó khăn, những việc mà người khác phải khiếp vía kinh hồn, thì ông thường nảy ra nhiều mưu kế lợi hại, tỏ ra có một khối óc thông minh lỗi lạc phi thường. Từ khi làm tướng, giữa lúc nước nhà ly loạn khắp nơi, đến khi ông mất, xông pha bách chiến bách thắng, ông chưa hề biết chiến bại.
Huyền Thoại Thuở Khởi Nghiệp.
· Quy tụ anh hùng hào kiệt:
Từ năm 1771-73, thời gian chuẩn bị, Nguyễn Nhạc đã tỏ ra là một nhà lãnh đạo tài ba, mưu trí, đảm lược, hiểu rõ tình thế, đã biết phát triển kinh tế làm cơ sở; mở rộng thương trường, giao du trong thiên hạ, quy tụ hào kiệt, kết thân với các cao thủ có hàng trăm môn đệ, đoàn kết các sắc tộc làm liên minh và nhất là đối với các đồng chí rất có tình có nghĩa. Ông luôn tỏ rõ thái độ ôn hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý, nên mọi người rất mực tôn kính. Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, nhà Tây Sơn đã lập nên cơ sở vững chắc.
Câu chuyện ông Nguyễn Nhạc là Vua Trời, được Trời phong làm Quốc Vương, còn cho cả ấn kiếm, được loan truyền trong khắp phủ huyện. Anh hùng hào kiệt quy tụ về rất đông vì tin ông là Vua Trời, có mạng Đế Vương.
Chân dung người lính Tây Sơn của
Họa sĩ William Alexander ở Hội An 1793
Trong dân gian thường nghe đến Tây Sơn Thập Bát Cơ Thạch, tức là danh hiệu người đời phong tặng 18 nhân vật đến với phong trào Tây Sơn từ những ngày đầu tiên được xem như là những phiến đá đặt nền móng xây dựng nên cơ nghiệp Nhà Tây Sơn gồm có: Thất Hổ Tướng, Lục Kỳ Sĩ và Ngũ Phụng Thư.
- Thất Hổ Tướng:
Đây là 7 tướng tài trong Thập Bát Cơ Thạch, đã giúp Nhà Tây Sơn dựng nghiệp lúc ban đầu, gồm có: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Tuyết, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Lộc và Lý Văn Bưu. Nghe tin Tây Sơn Tam kiệt cầu ứng nhân tài, hào kiệt, quần hùng khắp nơi tụ về rất đông, giúp Nhà Tây Sơn chiêu mộ và rèn luyện binh sĩ, chế tạo vũ khí, lập kho lương thực, chiếm các nơi trọng yếu làm căn cứ địa.
- Lục Kỳ Sĩ:
Ngoài Thất Hổ Tướng còn có Lục kỳ Sĩ, gồm 6 học sĩ, đóng góp công sức rất nhiều trong cơ đồ đại nghiệp Nhà Tây Sơn. Đó là các ông Nguyễn Thung, Võ Xuân Hoài, Cao Tắc Tựu, La Xuân Kiều, Triệu Đình Tiệp và Trương Mỹ Ngọc. Đây là các bậc hiền sĩ, giỏi văn chương, thông kinh sử, đã giúp Nhà Tây Sơn xây dựng bộ máy hành chánh, kế hoạch ổn định những vùng mới chiếm, kiện toàn hậu phương yểm trợ tiền tuyến.
- Ngũ Phụng Thư:
Ngũ phụng thư là năm người đàn bà nổi tiếng dưới triều Tây Sơn. Dân gian gọi họ là Tây Sơn Ngũ Phụng Thư gồm có các bà Bùi Thị Xuân, Bùi Thị Nhạn, Trần Thị Lan, Nguyễn Thị Dung và Huỳnh Thị Cúc. Họ quán xuyến cơ sở hậu cần, quân lương, quân dụng và lập ra một đội nữ binh nổi tiếng, giỏi về kiếm cung, côn quyền. Ca dao dân gian vẫn còn truyền tụng:
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định cầm roi đi quyền
· Chinh phục người Thượng Tây nguyên:
Câu chuyện khác, ông Nguyễn Nhạc dùng đôi giỏ bội đan bằng tre để gánh nước, dùng ngựa nhà tập luyện công phu, dụ được bầy ngựa trời, đã làm các bộ lạc Thượng Bana, Rađê, Gia rai tin ông là Người Trời, đem cả làng Thượng, buông Thượng về thần phục vì vậy vùng Tây Nguyên mới thực sự là đất của Tây Sơn.
Thời đại Nhà Tây Sơn có 5 con ngựa chiến nổi tiếng mà người đời gọi là Tây Sơn Ngũ Thần Mã: Ngựa Bạch Long Câu của Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc, Ngựa Xích Kỳ Mã của Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết, Ngựa Ô Du của Tướng Đặng Xuân Phong, Ngựa Ngân Câu của Nữ tướng Bùi Thị Xuân, Ngựa Hồng Lư của Đô Đốc Lý Văn Bưu. Đây là những con chiến mã to lớn, dũng mãnh, chạy nhanh như gió thuộc loại Thiên Lý Mã, trung thành cùng chủ tướng, góp công sức trong việc xông pha trận mạc từ Bắc chí Nam không biết mệt mỏi.
· Thuyết phục người Hoa, Chiêm Thành
Nhờ chính sách ngoại giao khéo léo, đãi ngộ nhân tài, hai thủ lãnh người Hoa là Lý Tài và Tập Đình cũng kéo quân về giúp Nhà Tây Sơn. Binh Sĩ của hai tướng Tàu nầy phần lớn là người Quảng Đông, vóc to lớn, mình để trần, họ sử dụng thanh phạng đao rất lợi hại.
Ngoài ra, Thủy Xá và Hỏa Xá là con cháu của Vua Chiêm Thành, chiếm cứ sơn phần Phú Yên Diên Khánh và vùng Ðăk Lăk, Ban Mê Thuột không thần phục chúa Nguyễn, các giới tu sĩ Phật Giáo, Lão Giáo, các sắc tộc thiểu số đều nhiệt liệt ủng hộ cuộc khởi nghĩa của Nhà Tây Sơn.
Thời cơ đã đến, Nhà Tây Sơn tiến hành cuộc khởi nghĩa, chiếm thành Quy Nhơn, làm căn cứ xuất phát tiến vào Nam phá Chúa Nguyễn đánh ra Bắc diệt Chúa Trịnh.
Công cuộc khởi nghĩa:
Khởi phát từ ấp Tây Sơn, tập hợp lực lượng, ban đầu đa số là người Thượng, đứng lên khởi nghĩa năm 1771. Với khẩu hiệu chiến lược: "Lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan, phò Hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương" là cháu đích tôn của Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát. Quân Tây Sơn thường lấy của những nhà giàu rồi phân phát cho dân nghèo, do đó quần chúng các nơi theo về rất đông.
Lực lượng Tây Sơn không những đánh đâu thắng đó như một trận cuồng phong lướt gió; mà còn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại rằng: “Quân Tây Sơn từ miền núi phóng xuống thôn quê, chợ búa giữa ban ngày, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có ngưòi mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra bình đẳng giữa mọi người; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của cải quý giá đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực mà thôi...”
Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của quần chúng quanh vùng. Bấy giờ nhiều phú nông dâng tiền gạo giúp đở, nhiều trí thức ra sức khuyến dụ mọi người gia nhập nghĩa quân.
Di tích Hoàng Đế thành ở Bình Định
Sau khi đứng vững ở địa bàn ấp Tây Sơn, năm sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng và nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa.
Thấy quân Tây Sơn đánh chiếm các huyện, thành, thôn ấp, Tuần Phủ Quy Nhơn của chúa Nguyễn là Nguyễn Khắc Tuyên cùng đề đốc Lý Trình đi đánh dẹp. Quân Khắc Tuyên đến Phù Ly gặp quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy. Hai bên giao chiến, Lý Trình bị Nguyễn Huệ chém chết, Khắc Tuyên bỏ chạy về Quy Nhơn.
· Tấn chiếm Thành Qui Nhơn.
Năm 1773, Nguyễn Nhạc tự xưng là Đệ nhất trại chủ, chiếm cứ hai huyện Phù Ly và Bồng Sơn, Nguyễn Thung xưng là Đệ nhị trại chủ, Huyền Khê xưng Đệ tam trại chủ, coi việc quân lương.
- Gây thanh thế: Nguyễn Nhạc là người can đảm và mưu trí, nên việc hạ thành Quy Nhơn để gây thanh thế của ông đã là một câu chuyện kỳ thú: ông ngồi vào cũi, giả bị dân chúng bắt, đem nộp quan tỉnh lấy thưởng. Tuần phủ ở đây là Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật, cho khiêng cũi vào thành, nhưng khi vừa vào bên trong thành, ông Nhạc tháo cũi ra, mở cửa thành cho quân của mình xông vào, đánh đuổi quân quan một cách bất ngờ, trở tay không kịp.
Chiếm được thành Quy Nhơn, Quân Tây Sơn tổ chức quân đội có quy củ, trang bị đủ khí giới, rồi tấn chiếm luôn từ Quảng Ngãi vào tới Bình Thuận. Đây là lúc phất ngọn cờ khởi nghỉa đánh vào Nam, tiến ra Bắc, mạnh như thác lũ.
Qua mùa thu (Giáp Ngọ 1774), Thấy Đàng Trong có biến loạn, Hoàng Ngũ Phúc vâng lệnh chúa Trịnh ở Ðàng ngoài đem quân vào đánh lấy Phú Xuân. Chúa Nguyễn là Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần bị thua cùng đình thần chạy vào Quảng Nam, đóng ở Câu Ðể thuộc Hòa Vang.
Trong khi đó Quân Tây Sơn kéo đến đánh. Chúa Nguyễn Định Vương Nguyễn Phúc Thuần chống không nổi, chạy lên đóng ở Trà Tế thuộc huyện Quế Sơn, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương lên làm Ðông Cung Thái Tử, để ở lại giữ Quảng Nam, rồi cùng Nguyễn Phúc Ánh xuống thuyền chạy vào Trấn Biên. Ðông Cung bị quân Tây Sơn đánh, chạy đến Hà Dục bị Tập Ðình và Lý Tài bắt được đem về Hội An và cũng kể từ đó, Tây Sơn bị đẩy vào thế “lưỡng đầu thọ địch”.
Ở mặt Bắc, tháng 3/1775 (tháng 2 ÂL.) Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân vào chiếm đồn Trung Sơn và Cu Ðê. Nguyễn Nhạc cùng Tập Ðình và Lý Tài kéo quân ra đánh với quân Trịnh của Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ ở Cẩm Sa.. Tập Ðình đi tiên phong, bị quân Trịnh đánh bại, sợ tội bỏ chạy về Quảng Đông. Lý Tài chạy về Bản Tân [biên giới Quảng Nam].
Nguyễn Nhạc nhận thấy quân của Hoàng Ngũ Phúc đã đông lại mạnh, liệu chưa đủ sức chống cự, bèn cùng Lý Tài rút hết quân về Quy Nhơn, đem theo hoàng tử Nguyễn Phúc Dương.
Ở mặt Nam, quân Nguyễn cũng phản công dữ dội. Trước sự xoay chuyển đột ngột và phức tạp của tình hình như vậy, Tây Sơn đã quyết định tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh. Nguyễn Nhạc cho người mang thư và vàng lụa ra dâng cho Hoàng Ngũ Phúc, xin nạp đất Quy Nhơn và Quảng Nghĩa, cùng xin làm tiên phong đi đánh họ Nguyễn đang lưu vong ở Gia Định. Hoàng Ngũ Phúc muốn lợi dụng Nguyễn Nhạc để đánh đất Gia Ðịnh, bèn làm biểu xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm Tiên phong Tướng quân Tây Sơn Hiệu Trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào Quy Nhơn ban cho Nguyễn Nhạc.
Hoàng Ngũ Phúc đóng binh ở Châu Ổ, đến tháng 11/1775 (tháng 10 năm Ất Mùi), mới rút về Thuận Hóa vì bệnh dịch, quân chết một nửa rồi mất ở dọc đường. Tây Sơn không lo mặt Bắc nữa, chuẩn bị đánh lấy mặt Nam.
Đánh vào phía Nam:
Tháng 6/1775 (tháng 5 ÂL), chúa Nguyễn cử Tống Phước Hiệp cùng Nguyễn Khoa Toàn mang quân từ Gia Định theo hai đường thủy bộ ra đánh chiếm Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khang. Trấn thủ Lê Văn Hưng nhận thấy quân địch đã đông lại có trọng pháo yểm hộ, liệu không thắng nổi, bèn rút toàn quân về Phú Yên cùng Nguyễn Văn Lộc chống địch. Tây Sơn từ đó chỉ còn làm chủ từ Phú Yên ra Quảng Ngãi.
Chiếm được Diên Khánh rồi,Tống Phước Hiệp đưa thư ra Quy Nhơn đòi Nguyễn Nhạc trả Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương.
Tây Sơn Vương lệnh cho Nguyễn Huệ xuống Quy Nhơn để lo việc Nam chinh. Nguyễn Huệ liền giao đất Tây Sơn cho Bùi Thị Xuân và Võ Ðình Tú quản đốc, rồi kéo đạo binh người Thượng mới tuyển mộ, vượt đèo Cù Mông vào Phú Yên.
Tháng 8/1775 (tháng 7 ÂL.), để hỗ trợ cho Nguyễn Huệ, nhân nắm con bài Nguyễn Phúc Dương trong tay, Nguyễn Nhạc sai người vào Phú Yên điều đình với Tống Phước Hiệp bàn việc lập Phúc Dương làm chúa và cùng đánh Trịnh. Việc đàm phán đang nửa chừng thì Nguyễn Huệ kéo quân tới chia làm hai cánh cùng lúc đánh úp phá tan cả thủy binh và bộ binh của địch, khiến Hiệp không kịp trở tay. Nguyễn Huệ bắt sống Nguyễn Khoa Kiên, giết Nguyễn Văn Hiền.Tướng của chúa Nguyễn ở Bình Khang là Bùi Công Kế mang quân ra cứu bị Nguyễn Huệ bắt sống, một Tướng Nguyễn khác là Tống Văn Khôi ở Khánh Hoà ra đánh cũng bị Nguyễn Huệ giết tại trận.
Binh của Tống Phước Hiệp cả thủy lẫn bộ đều bị tiêu diệt. Hiệp tẩu thoát về
Chiến thắng Phú Yên là dấu ấn đầu tiên của Nguyễn Huệ trên con đường binh nghiệp của ông sau này. Từ đây ông trở thành chỗ dựa vững chắc cho nhà Tây Sơn.
Tháng 3/1776 (tháng 2/ Bính Thân), Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Lữ và Phan Văn Lân đem thủy quân vào đánh Gia Ðịnh. Quân Tây Sơn vây đánh Sài Côn (tức Sài Gòn). Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần khiếp sợ, chạy về Trấn Biên (tức Biên Hòa) mộ quân cần vương. Quân Tây Sơn kéo vào thành. Nguyễn Lữ cho khuân hết lương thực vũ khí xuống 200 thuyền rồi sai Phan Văn Lân tải về Quy Nhơn, một mình giữ Gia Ðịnh.
Tháng 6/1776 (tháng 5 ÂL.) lực lượng Nhà Tây Sơn đã lớn mạnh, Nguyễn Nhạc cho xây thành Đồ Bàn làm căn cứ, dựng cung điện, định triều nghi ngang nhiên xưng là Tây Sơn Vương, phong Nguyễn Lữ làm Thiếu phó, Nguyễn Huệ làm Phụ chính.
Tháng 6/1776 (tháng 5 ÂL), Ðỗ Thành Nhân ở Ðông Sơn (Tam Phụ, Mỹ Tho) tập hợp Nguyễn Huỳnh Đức, Trần Búa, Đỗ Vàng, Đỗ Tài, Võ Nhan, Đỗ Bảng và 3000 quân, tự xưng là Đông Sơn thượng tướng quân, giúp nhà Nguyễn, chiếm lại Gia Định. Nguyễn Lữ không chống cự, bỏ thành rút quân về Quy Nhơn, Ðỗ Thành Nhân rước Ðịnh Vương về Sài Côn lo việc phòng thủ.
Tháng 10 năm 1776, nhờ Tướng người Hoa là Lý Tài giúp đỡ, Đông Cung Nguyễn Phúc Dương trốn khỏi sự khống chế của Tây Sơn chạy về Gia Định, lấy Lý Tài làm vây cánh. Đỗ Thanh Nhân không thừa nhận một hàng tướng từ Tây Sơn thế là ông nhục mạ Lý Tài. Bị nhục, Lý Tài chiêu mộ lính rồi đánh nhau với Đỗ Thanh Nhân. Nhân thua bỏ Gia Định về Ba Giòng. Tháng 12/1776 (tháng 11 ÂL) Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương làm Tân chính vương, còn Nguyễn Phúc Thuần làm Thái thượng vương, Lý Tài trở thành Bảo giá Đại tướng quân.
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhất
Tháng 4/1777 (tháng 3 Đinh Dậu), Tây Sơn Vương phái Nguyển Huệ và Nguyển Lử đem đại binh tiến đánh chúa Nguyễn chiếm lấy đất Gia Định. Lý Tài không chống nổi, thua chạy đến Tam Phụ bị quân Đông Sơn giết chết. Tân Chính Vương chạy đến Đăng Giang [Định Tường]. Nguyễn Ánh đem 4000 quân Đông Sơn đến đón Định Vương về Tài Phụ.
Tháng 5/1777(tháng 4 ÂL.), Nguyễn Huệ đánh Tài Phụ. Định Vương chạy đến Cần Thơ hợp với quân của Mạc Thiên Tứ bị thua trận ở Hà Tiên chạy về. Định Vương sai Đỗ Thanh Nhơn đi Bình Thuận gọi Châu Văn Tiếp, Trần Văn Thức về cứu.
Tây Sơn đánh Tranh Giang. Tân Chính Vương lui về Trà Tân [Định Tường], Chưởng cơ Thiêm Lộc đón Vương đến Ba Việt [Vĩnh Long].Tháng 8/1777 Trần Văn Thức kéo quân Phú Yên về giúp, thua trận, chết ở Bình Thuận.
Tháng 9/1777 (tháng 8 ÂL.), Nguyễn Huệ đích thân đánh Hương Đôi. Tân Chính Vương quân ít thế cô, muốn chạy lên Bình Thuận, họp với quân Châu Văn Tiếp, nhưng không thành. Tống Phước Hoà thấy không thể cứu được chúa, tự tử. Ngày 19/9/1777 (18/8/Đinh Dậu) Tân Chính Vương và 18 quân theo hầu bị giết. Định Vương Nguyễn Phước Thuần chạy đi Long Xuyên.
Ngày 18/10/1777 (18/9/Đinh Dậu), Nguyễn Huệ sai Chưởng cơ Thành đánh Long Xuyên. Định Vương bị giết cùng với tất cả tuỳ tùng. Một mình Nguyễn Ánh, 15 tuổi, chạy thoát.
Hạ xong Gia Định, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ kéo binh về Quy Nhơn, giao cho đám hàng thần là Tổng Ðốc Chu, Hổ Tướng Hãn, Tư Khấu Uy, Hộ Giá Phạm Ngạn trấn thủ các dinh đất Gia Ðịnh.
Tháng 6/1778, sau khi thắng miền Nam, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Thái Đức, lập kinh đô ở thành Đồ Bàn (Chúa Trịnh biết nhưng không hỏi đến) phong Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân.
Nguyễn Ánh lấy lại Gia Định, xưng vương
Một tháng sau, Nguyễn Ánh xuất hiện lại ở Long Xuyên, họp với các tướng cũ Đỗ Thanh Nhơn, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương, Dương Công Trừng, Hồ Văn Lân đánh úp Long Hồ [Vĩnh Long] tháng 12/1777 (tháng 11 ÂL).
Tháng 1/1778 (tháng 12 Đinh Dậu) Nguyển Ánh sai Đổ Thành Nhơn dốc toàn lực đánh lấy lại Sài Côn. Tháng 2/1778 (tháng 1 Mậu Tuất) Nguyễn Ánh, 16 tuổi, được các tướng tôn làm Đại nguyên soái. Trong hai năm (1778-1779), Nguyễn Ánh tổ chức lại Gia Định. Ngày 28/2/1780 (24/1/ Canh Tý) Nguyễn Ánh xưng vương.
Tháng 5/1780 (4 Canh Tý) Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng, đánh chiếm được Trà Vinh.
Tại Gia Định, lực lượng của Nguyễn Ánh được tăng cường rất nhanh, đầu năm 1781 đã có khoảng 3 vạn quân thủy bộ, 80 thuyền đi biển, 3 thuyền chiến lớn. Bấy giờ, sát cánh bên cạnh Nguyễn Ánh còn có năm tàu chiến bằng sắt với trang bị đầy đủ thủy thủ và vũ khí của phương Tây do viên sĩ quan người Pháp là Manuel (Chánh Cơ Mạn Hoè) chỉ huy (được giám mục Bá Đa Lộc - Pigneau de Behaine thuê mướn từ Ma Cao đưa sang giúp). Nguyễn Ánh liên tiếp chủ động tổ chức những cuộc tấn công vào quân Tây Sơn. Đã có lúc, quân Nguyễn Ánh tiến tới tận khu vực gần thành phố Nha Trang ngày nay.
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ nhì
Tháng 4/1782 (tháng 3/Nhâm Dần), Bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định đưa đại quân vào Nam do đích thân 2 lãnh tụ của Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy đem 100 chiến thuyền đánh vào cửa Cần Giờ để hạ gục lực lượng của Nguyễn Ánh. Tây Sơn huy động cả bộ binh lẫn thủy binh, nhưng thủy binh vẫn là chủ lực.
Nguyễn Ánh do đã biết được quyết tâm của Tây Sơn nên đã chủ động bố trí trận địa để đón đánh. Nguyễn Ánh sai Tống Phước Thiêm thống lãnh quân đội, bày thủy trận chống cự ở sông Ngã Bẩy (Thất kỳ giang) có khoảng 100 chiến thuyền (chưa kể 5 tàu chiến của Pháp và Bồ Đào Nha do Manuel cầm đầu), với hy vọng chặn đứng thủy quân Tây Sơn để rồi sau đó tùy cơ mà tổ chức phản công. Ngoài ra, Nguyễn Ánh cũng sắp sẵn một đội chiến thuyền khác do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy, tại Ngã ba sông Nhà Bè, Biên Hoà để có thể đến ứng cứu cho Tống Phước Thiêm bất cứ lúc nào. Bộ binh của Nguyễn Ánh thì tập trung ở quanh khu vực thành Gia Định.
Khi quân Tây Sơn vào đến cửa Cần Giờ, nhìn trên đỉnh núi nhỏ thấy một cột khói bốc lên nghi ngút. Nguyễn Huệ biết quân Nguyễn đã có phòng bị nên đốt lửa làm hiệu, liền ra lịnh cho Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy 20 chiến thuyền và 2,000 quân tiên phong đi trước mở đường.
Khi được tin thủy quân Tây Sơn đã tiến vào cửa biển Cần Giờ, Nguyễn Ánh hạ lệnh cho Nguyễn Nghi dẩn 20 thuyền chiến và 2000 thủy quân tiến ra cửa Cần Giờ nghênh chiến. Khi gặp đoàn chiến thuyền tiên phong của Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Nghi ra lệnh khai hoả.
Quân Nguyễn bắn được vài phát đại bác, thì đại pháo của Tây Sơn bắn trả ầm ầm trúng chiến thuyền của Nguyễn Nghi chìm mấy chiếc. Quân Nguyễn quay đầu bỏ chạy. Nguyễn Văn Tuyết không đuổi theo và neo thuyền chờ đại quân tới.
Nguyễn Huệ khen Nguyễn Văn Tuyết cẩn thận như thế là đúng vì chúng đã đốt lửa báo hiệu tức có phòng bị. Đã phòng bị mà chưa đánh đã bỏ chạy tức dụ ta vào trận mai phục.
Ông nhìn trên bản đồ và chỉ cho các Tướng Tây Sơn: chắc chắn Nguyễn Anh phục binh ở sông Ngã Bảy nầy chờ chiến thuyền ta lọt vào ổ phục kích rồi chúng sẽ đổ ra đánh. Bây giờ chúng ta chia quân ra sáu cánh, đánh mạnh vào 6 nơi chúng mai phục cho Chúa tôi chúng nó tan tác không tiếp ứng được nhau. Bây giờ nước đang rút, chờ đến khi thuỷ triều dâng lên quân Nguyễn chắc sẽ đến khiêu chiến. Chừng ấy ta sẽ nương theo nước, mà đuổi theo giặc, thuyền sẽ đi nhanh mà quân sĩ lại khoẻ.
Đúng như Nguyễn Huệ tiên đoán, lần nầy ngoài chiến thuyền quân Nguyễn lại có thêm 2 chiếc tàu đồng lớn kiểu Châu Âu có trang bị 10 đại bác do Mạn Hoè chỉ huy.
Nguyễn Huệ nói giọng rền như sấm: cái lũ mắt xanh mũi lỏ nầy mượn tiếng truyền đạo mà thật sự dòm ngó nước ta. Trận nầy ta phải đốt 2 chiếc tàu đồng nầy cho chúng biết sức mạnh của quân Tây Sơn. Ông liền ra lệnh cho Nguyễn Văn Tuyết làm tiên phong tấn công vào mặt trận chính, Trương Văn Đa làm Hậu Quân Đô Đốc bảo vệ vua Thái Đức. Còn mình chỉ huy toàn quân giáp chiến: Các Tướng Đặng Văn Long, Nguyễn Văn Lộc, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Trần Quang Diệu mỗi người chỉ huy một đội 20 chiến thuyền và 1000 quân tiến đánh vào 5 nhánh sông. Nguyễn Huệ và Nử Tướng Bùi Thị Xuân lảnh trung quân tấn công thẳng vào 2 chiếc tàu đồng do Mạn Hoè chỉ huy.
Khi tiến quân vừa tầm đạn, quân Tây Sơn nhất tề khai hoả. Đại bác nổ ầm trời, đạn bay tới tấp vào chiến thuyền quân Nguyễn. Hai chiếc tàu đồng của Mạn Hoè đi đầu bắn trả dữ dội. Nhưng quân Tây Sơn quá đông lại tập trung hoả lực vào hai chiếc tàu đồng. Chẳng mấy chốc súng đại bác trên tàu đồng của Mạn Hoè đều bị đạn của Tây Sơn bắn hư cả. Mạn Hoè ra lệnh tháo chay, Quân Tây Sơn ố ạt đuổi theo tới sông Ngã Bảy.
Tống Phúc Thiêm dàn trận thuyền chiến hàng ngang ở sông Ngã Bảy nghinh chiến. Mặc cho bị bắn chặn dữ dội, thủy quân Tây Sơn đang trên chiều thuận gió, 6 cánh quân vẫn ào ạt anh dũng bám sát thuyền chiến đối phương, dùng súng hoả hổ phóng hoả cầu lửa sang thuyền địch vùn vụt... khiến cho thủy quân Tống Phúc Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại.
Trận thủy chiến diễn ra rất ác liệt... Thuyền địch bị đốt cháy dữ dội. Tàu đồng do Mạn Hòe chỉ huy bị hãm không sao ra khỏi vòng vây, cố sức chống cự cuối cùng bị đốt cháy và đánh chìm, Mạn Hòe tử trận. Thuyền của nhà Nguyễn không thoát được một chiếc. Tướng sĩ bị chết gần hết!
Súng Hỏa Hổ của quân Tây Sơn
Súng Hỏa Hổ của quân Tây Sơn là một loại vũ khí hỏa lực hết sức lợi hại, được vua Quang Trung chế tạo bằng một ống bằng sắt hoặc bằng tre, trở thành một vũ khí cá nhân có tính sát thương lớn. Sáng tạo này của vua Quang Trung đã tiến xa cả về công nghệ, lẫn ý nghĩa thực tiễn trong chiến đấu, được xếp vào loại tối tân thời bấy giờ.
Khi lâm trận người dùng hỏa hổ cầm súng nhắm vào mục tiêu, châm ngòi, thuốc phun và đạn sẽ phóng ra đốt cháy và sát thương đối phương. Chất cháy này khi rơi xuống nước, vẫn tiếp tục cháy, cho nên, dùng nước để chống là không có hiệu quả, khiến cho thủy quân Tống Phước Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ về cách đánh, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại.
Cùng lúc đó, Nguyễn Ánh trực tiếp chỉ huy một đội thuyền chiến đến cứu viện, nhưng bị hỏa lực chiến thuyền Tây Sơn chặn đánh rất dữ dội. Thuyền của Nguyễn Ánh bị bắn gãy cột buồm, phải bỏ chạy.
Tàn binh của Nguyễn Ánh và Tống Phước Thiêm chạy về Gia Định, kết hợp với lực lượng bộ binh tính kế chống trả tại ba căn cứ vững chắc là thành Gia Định, đồn Bến Nghé và đồn Thị Nghè. Cả thành lẫn đồn đều được xây dựng rất kiên cố. Nhưng chỉ trong một trận giáp chiến, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy cũng đã đánh bật Nguyễn Ánh ra khỏi ba căn cứ trên. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng. Tại đây, chưa kịp củng cố đội ngũ để đối phó thì quân Tây Sơn cũng đã ồ ạt tiến tới, Nguyễn Ánh lại phải tháo chạy. Lần này, Nguyễn Ánh chỉ còn lại đúng 150 người.
Đại bại lại bị đuổi ngặt, Nguyển Ánh phải rời bỏ Ba Giồng cùng vài người tùy tùng chạy qua Vàm Trà Lọt (vùng Rạch Gầm). Nhờ mưa to gió lớn thuyền của quân Nguyễn Lữ không đuổi theo kịp. Nhưng khi đến Vàm Trà Lọt thì thuyền chở Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng bị sóng lớn làm cho suýt bị chìm. Lê Văn Duyệt (17 tuổi) xuất hiện kịp lúc, đỡ thuyền Nguyễn Ánh đưa vào bờ, giúp Nguyễn Ánh thoát nạn rồi vượt sông Cổ Chiên, chạy trối chết về Trà Vinh qua ngã Vàm Láng Thé băng qua Hậu Giang, ra đảo Phú Quốc.
Mùa hè năm 1782, thấy tình hình Gia Định đã tương đối ổn, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, chỉ để lại hàng tướng Đỗ Nhàn Trập cùng 3000 quân ở lại trông coi Gia Định.
Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân về Quy Nhơn, Tháng 9/1782 (tháng 8 ÂL.), tại Bình Thuận, Châu Văn Tiếp nhân thấy quân Tây Sơn ở Gia Định yếu thế, bèn giương cao ngọn cờ “Lương sơn tá quốc” (Quân giỏi ở rừng giúp nước) tới tấp đánh vào Nam. Bấy giờ, quân Tây Sơn ở Gia Định do Đỗ Nhàn Trập chỉ huy chỉ có 3000 người mà phải phân tán đóng giữ tại nhiều đồn lũy khác nhau, vì thế khả năng chống đỡ ở từng đồn lũy rất thấp không sao cầm cự nổi, đành phải tháo chạy về Quy Nhơn. Lấy lại được Gia Ðịnh, Châu Văn Tiếp và các tướng sai người ra Phú Quốc rước Nguyễn Phúc Ánh trở về.
Tại Gia Định, một lần nữa, Nguyễn Ánh lại gấp rút xây dựng một hệ thống đồn lũy để bảo vệ thành Gia Định. Bộ binh và thủy binh liên lạc chặt chẽ, sẵn sàng ứng cứu cho nhau. Khí thế của lực lượng Nguyễn Ánh lại trở nên hưng thịnh.
Mô hình chiến thuyền Đại Hiệu của Tây Sơn
Nguyễn Huệ đánh Gia Định lần thứ ba
Trước tình hình đó, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ quyết định đánh Gia Định, mở cuộc tấn công lớn càn quét lực lượng Nguyễn Ánh. Nắm vững tình hình của địch, ngày 24 tháng 2 năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng thủy triều và gió. Đợi lúc thủy triều dâng, gió biển thổi mạnh vào đất liền mới đốc suất chiến thuyền từ cửa Cần Giờ đánh lên, Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc, Đô đốc Lê Văn Kế đánh bờ Nam.
Châu Văn Tiếp chỉ huy thủy binh đã bố trí chiến trường, dàn 100 chiến thuyền và bè dẩn hỏa. quyết dùng hỏa công tiêu diệt địch, ít ra cũng đẩy lui địch không cho tiến vào nội địa. Cho nên mới vừa giáp chiến đã vội rút lui. Biết rằng có mưu gian, song Nguyễn Huệ vẫn ra lịnh tiến quân.
Khi chiến thuyền Tây Sơn đã lọt vào khu vực bố trí, thì các bè cũi khô nổi lửa và cắt dây neo để cho trôi vào thuyền địch. Nhưng vì thủy triều đương lên và gió biển theo nước triều thổi mạnh, bè hoả công của quân Nguyễn bị ngược gió, quay trở lại đốt thuyền mình. Triều càng lên cao, gió càng thổi to, thuyền Tây Sơn đuổi theo càng gấp, Châu Văn Tiếp liệu không chống cự nổi liền bỏ trốn, rồi theo đường núi chạy sang Xiêm cầu cứu. Thủy binh của Nguyễn Ánh hoàn toàn bị tiêu diệt.
Trong khi đó, Đạo quân ở bờ phia Nam do Đô đốc Lê Văn Kế chỉ huy tiến đánh đồn Thảo Châu (Vàm Cỏ) và Dác Ngư. Tướng giữ đồn Dác Ngư là Tôn Thất Mãn bị Lê Văn Hưng giết chết. Tướng giữ đồn Thảo Châu là Dương Công Trừng bị phò mã Trương Văn Ða bắt sống.
Đạo thứ hai do Tư khấu Nguyễn Văn Kim đánh bờ Bắc hợp với Thủy Quân kéo quân đánh thẳng vào Gia Ðịnh. Nguyễn Ánh hốt hoảng, bỏ thành đem gia quyến chạy đến Ba Giồng, chỉ có năm, sáu viên tướng và chừng 100 quân chạy theo.
Quyết không cho Nguyễn Ánh kịp ra tay, Nguyễn Huệ đã trực tiếp xua quân tới đánh. Lần này, có cả tượng binh tham chiến. Một lần nữa, Nguyễn Ánh đại bại, các tướng như Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Kim Phẩm đều bị bắt, Nguyễn Đình Thuyên, Nguyễn Văn Quý, Trần Đại Huề… thì bị giết tại trận.
Từ đây, một cuộc truy đuổi ráo riết của quân Tây Sơn đối với Nguyễn Ánh bắt đầu. Nguyễn Ánh phải bôn tẩu khắp nơi và chịu thêm nhiều thiệt hại nặng nề nữa.
Nguyễn Ánh tẩu thoát, chạy qua Lật Giang, sang Mỹ Tho, rồi băng qua Ba Thắc, cuối cùng chạy đến Hà Tiên để ra Phú Quốc.
Ðược tin Nguyễn Phúc Ánh chạy ra Phú Quốc, Tháng 7/1783 (tháng 6 ÂL.) Nguyễn Huệ sai Phan Tiến Thuận cầm quân đi truy kích. Một số tướng của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Điển, Tôn Thất Cốc, chưởng cơ Hoảng và Vinh Li Ma bị bắt sống. Nguyễn Ánh thoát chết chạy qua đảo Cổ Long (KohRong). Trương Văn Ða đem một lực lượng thủy quân lớn đến vây đánh. Nhưng rủi gặp ngày mưa gió lớn thuyền không thể dàn ra bao vây mà phải dồn lại ghì chặt vào nhau để chống lại sóng gió. Nhờ vậy Nguyễn Ánh có cơ hội liều chết vượt cả gió bão, chạy về đảo Cổ Cốt (Koh Kut) và sau đó lại mò về đảo Phú Quốc.
Từ đây, đất Gia Ðịnh đã được hoàn toàn giải phóng, việc phòng thủ được tổ chức nghiêm mật, tình hình trong cõi đã tương đối ổn định. Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và Lê Văn Hưng rút quân về Quy Nhơn để Trương Văn Ða, một Tướng lảnh văn võ toàn tài, ở lại trấn thủ Gia Ðịnh với sự trợ lực của Đô Đốc Đặng Văn Long và hai văn thần là Cao Tắc Tựu và Triệu Ðình Tiệp.
Tháng 4/1784 (tháng 3 ÂL) Nguyễn Phúc Ánh lúc đó thế lực cùng kiệt, bèn nhờ Giám Mục Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh (3 tuổi) làm con tin, cùng với quốc ấn sang nước Pháp cầu viện, (khơi mào cho sự dòm ngó tìm thị trường và thuộc địa của các Đế quốc phương tây) và cầu cứu Xiêm La đem quân sang giúp.
Nước Xiêm bấy giờ dưới triều Vua Chất Trị (Chakkri,Trịnh Quốc Anh) đương lúc thịnh vượng và nuôi tham vọng thôn tính Chân Lạp và đất Đàng Trong để mở rộng cõi bờ. Ðược Nguyễn Phúc Ánh xin cứu viện, Vua Xiêm chụp ngay cơ hội tốt.
Vua Xiêm liền phái hai Tướng Lục Côn và Sa Uyên cùng với Chiêu Thùy Biện là một cựu thần Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo bộ binh khoảng 3 vạn quân tiến sang Chân Lạp, rồi từ đó mở một mũi tấn công qua ngã Châu Đốc phối hợp cùng thủy binh đánh xuống Gia Ðịnh.
Tháng 7/1784 (tháng 6 ÂL.) vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương làm tiên phong, thống lĩnh hai vạn thủy quân và 300 chiến thuyền, hợp cùng đạo quân lưu vong của Nguyễn Ánh do Châu Văn Tiếp làm Bình Tây đại đô đốc, Mạc Tử Sanh (con Mạc Thiên Tứ) làm Tham tướng, để cùng dẫn quân Xiêm về nước.
Tháng 8/1784 (tháng 7 ÂL.) Chiến thuyền của liên quân Xiêm-Nguyễn tiến theo hướng biển đến Mang Khảm, tức Hà Tiên. Thủy quân Xiêm đổ bộ lên tiến đánh lấy Rạch Giá, Trấn Giang (Cần Thơ), tiến chiếm Ba Thắc (Sóc Trăng), Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc rồi chia quân đóng giữ.
Quân Xiêm tàn bạo đi đến đâu thả quân hãm hiếp đàn bà con gái, cướp bóc vơ vét tài sản và quấy nhiễu dân chúng đến đó, tiếng la khóc của dân chúng thấu trời xanh. Nguyễn Ánh không làm gì được. Bởi vậy càng đóng quân lâu, thì mâu thuẫn giữa quân Nguyễn, quân Xiêm và dân Việt càng trở nên sâu sắc. Quân Xiêm cậy mình là kẻ cứu giúp nên đàn áp, cướp bóc dân chúng, khinh mạn cả chúa Nguyễn và quân Nguyễn.
Trấn thủ Trương Văn Đa thấy sức giặc quá mạnh, ra lệnh cho khắp nơi vừa đánh vừa rút lui từng bước để bảo toàn lực lượng. Quân Tây Sơn từ Rạch Giá, Châu Đốc rút về Cần Thơ, quân giặc đuổi theo, quân Tây Sơn theo bờ sông Hậu Giang lui dần xuống Ba Thắc. Quân Xiêm đuổi đến Ba Thắc thì Quân Tây Sơn vượt sông Hậu sang Trà Ôn rồi lui về Sa Đéc. Quân đóng ở Cà Mau bị cô thế cũng rút về Trà Ôn.
Ngày 30 tháng 11 năm 1784 (tháng 10 ÂL), Đại đô đốc Chu Văn Tiếp, vì thông thạo địa hình nên dẫn đường đi trước, hướng dẩn quân giặc đuổi theo quân Tây Sơn vừa vào đến sông Man Thit thuộc Vĩnh Long thì gặp đạo thủy binh của Trương Văn Đa điều động từ Sa Đéc kéo xuống ngăn chận. Phục binh Tây Sơn do Đô Đốc Đặng Văn Long chỉ huy dùng thuyền nhỏ từ hai bên bờ đổ ra vây đánh.
Chu văn Tiếp tả xông hữu đột chống đở chừng mười hiệp bị Tiền Quân Chưởng Cơ tên Bảo đâm một thương giửa bụng, Tiếp té nhào xuống nước chết tốt. Quân Nguyễn thua to bỏ chạy về Trà Cú.
Trương văn Đa và Đặng Văn Long thấy thế giặc quá đông không thể thủ thắng bèn rút bỏ đồn Trà Tân (Trà Tân còn có tên Trà Luật hay cù lao Năm Thôn) kéo đại binh lui về Trường Đồn (Mỹ Tho) phía sông Tiền Giang phòng thủ để bảo toàn lực lượng chờ đại quân tiếp viện.
Chu Văn Tiếp tử trận, Lê Văn Quân được cử lên thay, liền cho quân tiến đánh lũy Ba Lai (Bến Tre) và Trà Tân (Định Tường). Trong trận Ba Lai, Chưởng cơ quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Quân cũng bị Lê Văn Kế chém trọng thương. Kể từ đó, bộ chỉ huy liên quân Xiêm-Nguyễn cho quân đóng dọc theo sông Tiền, từ cù lao Năm Thôn trở lên hướng Mỹ Tho và đặt đại bản doanh tại Trà Tân.
Nguyễn Huệ vào Gia Định lần thứ tư, đại phá quân Xiêm
Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo cáo tình hình nguy cấp ở Gia Định. Được tin, vua Thái Đức liền cử Nguyễn Huệ làm Tổng Chỉ Huy đem đại binh vào ngay Gia Định. Khoảng tháng 1/1785 (tháng 12 Giáp Thìn), thì binh thuyền Tây Sơn vào đến nơi và đóng quân ở Trường Đồn (Mỹ Tho). Sau đó, Nguyễn Huệ cử một ít quân mở những cuộc tập kích nhỏ để thăm dò.
Biết quân Xiêm tham tàn, Nguyễn Huệ cho Phạn Văn Lân đưa tiền của sang mua chuộc, bàn việc giảng hòa, cốt làm cho tướng Xiêm chủ quan và làm tăng thêm mối hoài nghi của chúa Nguyễn đối với quân Xiêm. Nhờ mưu kế đó, mà Nguyễn Huệ có đủ thời gian để nghiên cứu địa hình, thủy triều và quyết định chọn khúc sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút, bố trí một trận địa quyết chiến.
Lược đồ trận đánh Rạch Gầm – Xoài Mút
Sau khi bí mật cho quân và tàu chiến bố trí ở các nơi hiểm yếu, Nguyễn Huệ lệnh cho quân Tây Sơn giả vờ không phòng bị, dụ cho giặc tấn công. Lập tức, Chiêu Tăng giao Chiêu Thuỷ Biện cùng Thát Sĩ Đa ở lại giữ đại bản doanh Trà Tân, cử Lục Cổn và Sạ Uyễn dẫn 10 ngàn bộ binh do Lê Văn Quân hướng đạo men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối họp tiến đánh vào Trường Đồn; còn ông cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn 300 trăm thuyền chiến cùng hai vạn thủy quân Xiêm-Nguyễn, đến khi trăng lên đỉnh đầu, nước thuỷ triều vừa rúng chảy thì âm thầm xuất phát theo dòng nước tiến đánh đại bản doanh của Tây Sơn. Tiền thủy quân Tây Sơn của 2 Đô Đốc Tuyết và Lộc thấy đại binh của Xiêm ào ào tiến đến bất ngờ nên phản ứng yếu ớt rồi bỏ chạy. Nguyễn Ánh và Chiêu Tăng thúc quân rượt theo.
Các ổ pháo của Quân Tây Sơn phục kích
Đến khoảng đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở sông Xoài Mút, tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Chiến thuyền của 2 Đô Đốc Lộc và Tuyết quay lại chiến đấu bắn vào thuyền giặc. Hai pháo đội của Tây Sơn gồm 200 khẩu đại bác cùng pháo hỏa hổ từ tả ngạn sông Tiền và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... do Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy đồng loạt nhả đạn vào chiến thuyền địch đang bị ùn lại.
Đại bác bắn xong, Nguyễn Huệ ra lịnh tấn công. Đồng loạt, hai đội thủy binh Tây Sơn bất ngờ từ rạch Xoài Mút, Rạch Gầm, từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn.
Một đoàn chiến thuyền Tây Sơn khác ẩn núp sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông (nhằm chia cắt đội hình) và chặn đường lui binh, dồn đoàn chiến thuyền của Xiêm vào thế tứ diện thọ địch. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn, cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn đội hình làm cho số bị chìm, số bị cháy tăng cao.
Quân Tây Sơn, thủy bộ phối hợp với nhau, khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân địch hết mảng này đến mảng khác. Dưới sự chỉ huy và đốc chiến của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt.
Đến khi Trời vừa rạng sáng, thì chiến cuộc cũng vừa chấm dứt. Kết quả là 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không đầy một khắc, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Chiêu Tăng và Chiêu Sương được mấy mươi quân sỉ hộ tống chạy về Trà Tân.
Chiến thuyền Tây Sơn trong trận Rạch Gầm
Còn quân bản bộ một vạn quân Xiêm do Lục Cổn và Sạ Uyễn thống lảnh, Lê Văn Quân dẫn đường nương theo tả ngạn sông Tiền tiến đánh Trường Đồn. Chờ đến lúc trăng gần tàn ngó lên mặt thành thấy quân Tây Sơn cờ xí chỉnh tề, quân canh tuần hành nghiêm mật. Quân Xiêm chưa kịp hạ trại bổng nghe dưới sông Tiền Giang Súng nổ rền trời, quân reo dậy đất, trống trận dập dồn, lửa cháy sáng rực cả một vùng.
Ngay lúc đó quân Tây Sơn trên mặt thành sạ tiển xuống như mưa, quân xiêm vội vã tháo lui. Cùng lúc, cổng thành vừa mở toan, quân Tây Sơn do Nguyễn Lữ chỉ huy xông ra như thác đổ, quân Xiêm hoảng loạn rút chạy. Chạy về vừa đến rừng dừa, bổng một tiếng pháo lệnh nổ vang, tên đạn của quân Tây Sơn bắn ra như cát vãi. 2 Tướng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân múa song kiếm xua quân chém giết. Sau lưng Nguyễn Lữ lại đuổi tới. Quân Xiêm trúng tên đạn chết như rạ, máu chảy thành khe, thây nằm chật đất.
Hai Tướng Xiêm là Lục Cổn và Sạ Uyễn cùng Tướng Nguyễn Lê Văn Quân liều chết gạt tên mà chạy thoát ra khỏi vòng vây. Tướng Bùi Thị Xuân liền trương cung bắn trúng chân ngựa của Lục Côn. Lục Côn té xuống Bùi Thị Xuân lướt tới chém một gươm, đầu Lục Côn rơi xuống đất.
Bộ quân Xiêm Nguyễn hai vạn người chỉ còn lại Sa Uyễn và vài trăm tên quân chạy về Sa Đéc.
Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương bị truy kích từ Trà Tân cũng chạy trốn về Sa Đéc, lại hối hả cùng Sa Uyển dẫn vài trăm tàn quân chạy bộ sang Cao Miên rồi thẳng về Xiêm.
Riêng Nguyễn Ánh vừa thấy "thế giặc mãnh liệt, không thể chống nổi" đã cùng đoàn tùy tùng ngụy trang làm lính vội vã rút chạy theo sông Trà Luật ra sông Tiền rồi tìm đường về Trấn Giang (Cần Thơ) bầy tôi còn lại hơn 10 người. Tại đây, Mạc Tử Sinh đưa Nguyễn Ánh chạy sang Hà Tiên.
Sau chiến thắng Rạch Gầm nầy, quân Tây Sơn tạm thời kiểm soát hết Nam Hà, vào tới đất Hà Tiên. Mạc Cửu lúc nầy đã chết, quân chúa Nguyễn bị tan rã hoàn toàn. Năm Ất Tỵ 1785, quân Nguyễn Phúc Ánh chỉ còn là một lực lượng không đáng kể, phải đào vong qua Vọng Các (Thái Lan) chờ viện binh từ nước Pháp.
Tiến ra phía Bắc:
Sau khi làm chủ toàn cỏi Miền Nam, Tây Sơn quay sang phía Bắc đánh chúa Trịnh.
Năm 1782, chúa Trịnh Sâm chết, hai con là Trịnh Khải và Trịnh Cán tranh nhau làm chúa. Trịnh Khải giết phụ chính Hoàng Đình Bảo của Trịnh Cán (còn nhỏ), giành lấy ngôi chúa. Thủ hạ của Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh chạy vào Nam đầu hàng Tây Sơn.
Nhận thấy thời cơ để đánh Bắc Hà, Nguyễn Huệ đề xuất ý kiến đánh ra Bắc và trực tiếp vạch kế hoạch tấn công vào lực lượng quân Trịnh đang đóng ở vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra, trong đó, vị trí quan trọng nhất là Phú Xuân.
Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm Tổng chỉ huy các cánh quân thủy bộ, Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, Nguyễn Lữ chỉ huy đội dự bị thủy quân. Tổng số quân Tây Sơn tham chiến gồm 5.000 tiền quân, 2.000 hậu quân và 3.000 thủy binh, tất cả một vạn người (Theo giáo sĩ La Grand de la Liraye trong cuốn Notes historiques sur la nation annamite)
Triệt để lợi dụng thời tiết mùa hè, gió Nồm thổi mạnh có thể đưa thủy quân tiến nhanh ra đánh phá phía Bắc, Nguyễn Huệ lập kế hoạch đánh bất ngờ ở các điểm phòng thủ của quân Trịnh từ sông Gianh trở vào đến Hải Vân.
Tấn chiếm Thuận Hoá:
Ngày 25/5/1786 (28/4 Bính Ngọ) Nguyễn Huệ Tổng chỉ huy phát động chiến dịch Phú Xuân xua 3 vạn quân Tây Sơn xuất phát từ Quy Nhơn theo hai đường thuỷ bộ vượt qua phía Bắc đèo Hải Vân đánh Phú Xuân - Thuận Hoá.
- Cánh quân thứ nhất do 2 Tướng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân dẩn 1000 tinh binh theo đường núi Thượng Đạo tập kích bất ngờ vào phía sau đèo Hải Vân, quân Trịnh không kịp trở tay. Tướng chỉ huy quân Trịnh tại đây là Hoàng Nghĩa Hồ mang quân ra chống cự bị thua trận và chết tại chiến trường.
- Cánh thứ hai do Vũ Văn Nhậm chỉ huy bộ binh tập trung đánh đèo Hải Vân rồi phối hợp với quân thuỷ đánh chiếm thành Phú Xuân.
- Cánh thứ 3 Thủy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ thống lĩnh theo sông Hương tiến đánh thành Phú Xuân rồi phối hợp với quân bộ binh của Vũ Văn Nhậm, tấn công quân của Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể.
Khi Thủy quân Tây Sơn kéo tới cửa biển thì gặp một tàu Bồ Đào Nha. Tàu này vốn của thương nhân thường tới làm ăn tại Phú Xuân nên họ ủng hộ Phạm Ngô Cầu chống Tây Sơn. Quân Tây Sơn bèn bao vây đốt tàu, thuyền trưởng và các sĩ quan người Bồ bị quân Tây Sơn quăng xuống biển, còn các thủy thủ được Tây Sơn thu dụng.
Thắng tàu Bồ Đào Nha, thủy quân Tây Sơn theo sông Hương áp sát thành, trong khi đó quân bộ binh Tây Sơn cũng tiến đến vây thành.
Hoàng Đình Thể mang quân lên mặt thành chống cự. Đêm 31/5/1786 (4/5/Bính Ngọ, Nguyễn Huệ hạ lệnh tấn công. Thủy quân Tây Sơn tiến đến nã pháo vào trong thành. Hỏa lực quân Trịnh mất tác dụng. Hoàng Đình Thể phải cùng các con và thuộc tướng Vũ Tá Kiên mở cửa thành đem hết sức lực chiến đấu. Nhưng trong lúc quân của Hoàng Đình Thể đang chiến đấu thì trên mặt thành, Phạm Ngô Cầu đã kéo cờ trắng xin hàng. Hai người con quận Thể phóng ngựa ra trận, bị trọng thương, chết tại mặt trận. Hoàng Đình Thể cùng Vũ Tá Kiên cũng lần lượt tử trận.
Nguyễn Huệ thúc quân ồ ạt tiến lên chiếm thành, Phạm Ngô Cầu mở cửa thành ra hàng,
Sau khi hạ xong Thành Phú Xuân, Nguyễn Huệ sai Nguyễn Lữ, Vũ Văn Nhậm, Nguyễn Văn Lộc tiến quân đánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. Tới ngày 21/6/1786, quân Tây Sơn chiếm xong Lũy Thầy và tới ngày 22/6/1786 thì chiếm nốt Dinh Cát bỏ trống, đất Thuận Hóa hoàn toàn thuộc về Tây Sơn, Nguyễn Huệ bèn treo bảng phủ dụ dân chúng.
Sau đó Nguyễn Huệ thống suất đại binh, với danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm tiên phong đem thủy binh đi trước, để Nguyễn Lữ và Nguyễn Văn Lộc ở lại giữ Phú Xuân, còn mình và Vũ Văn Nhậm kéo bộ binh theo sau, hẹn cùng Chỉnh sẽ gặp nhau ở Vị Hoàng. Quân Trịnh nghe tin quân Tây Sơn tiến ra Bắc đã khiếp sợ nên tan rã nhanh chóng, nhiều thành lũy vừa trông thấy chưa đánh đã bỏ chạy.
Chiến dịch Thăng Long:
Chiến dịch Thăng Long là giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến giữa Tây Sơn và chúa Trịnh ở cuối thế kỷ 18. Chiến dịch Thăng Long kế tiếp chiến dịch Phú Xuân 1786, kết thúc bằng việc quân Tây Sơn đánh chiếm Thăng Long, tiêu diệt chúa Trịnh.
Sáng sớm ngày 1 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 16 tháng 6 âl), 400 chiến thuyền của Hữu Chỉnh đã tiến chiếm bến Vị Hoàng. Quân Trịnh bị bất ngờ vì quân Tây Sơn tiến quá nhanh, đều tan vỡ bỏ chạy. Quân Tây Sơn chiếm hết thóc lúa và tiền bạc, trong kho có hàng trăm vạn hộc lương và trưng tập thêm lương thảo của các thuyền buôn của người Hoa đậu ở bến Vị Hoàng.
Vua Quang Trung, Thăng Long thành bôn tập…
Ngày 17 tháng 7 năm 1786 (tức ngày 22/6 năm Bính Ngọ), đại quân của Nguyễn Huệ tiến đến Vị Hoàng. Ông dùng kế nghi binh lừa quân Trịnh, thừa lúc đêm đến, gió đông thổi mạnh, Nguyễn Huệ sai lấy người nộm để trên mấy chiến thuyền, rồi cho đánh trống kéo cờ, thả thuyền cho trôi đi. Ðinh Tích Nhưỡng tưởng địch tới đánh, dàn thuyền thành trận chữ nhất, rồi lấy súng ra bắn. Khi biết rằng người trên thuyền là người nộm, thì đạn dược đã cạn. Quân Tây Sơn ùa tới đánh, Ðinh Tích Nhưỡng không chống cự nổi, phải bỏ thuyền mà chạy.
Cánh quân của Trịnh Tự Quyền ở phía sau nghe tin Nhưỡng bại trận, cũng sợ hãi mất khí thế, rối loạn rồi tự tan vỡ. Quân Tây Sơn thừa thế tiến tới đánh chiếm được trấn Sơn Nam.
Tiêu diệt Chúa Trịnh:
Để tranh thủ sự ủng hộ của người dân Bắc Hà, Nguyễn Huệ bèn phát tờ hịch đi các lộ, bày tỏ danh nghĩa "diệt Trịnh, phò Lê". Sáng ngày 19/7/1986, Nguyễn Huệ thúc đại quân từ Sơn Nam đánh ra Thăng Long.
Thuyền Tây Sơn vào đến sông Thúy Ái, Ngô Cảnh Hoàn chận đánh. Một trận thủy chiến kịch liệt. Ngô Cảnh Hoàn tử thương, thủy quân tan rả.
Ngô Cảnh Hoàn, người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, Nghệ An, là một trung thần của nhà Lê. Ngô có người vợ thứ tên Phan Thị Thuấn sắc đẹp, đức cao. Ðược tin Ngô tử trận, người nhà ai nấy thương khóc, riêng bà vẫn cười nói như thường. Có người hỏi, bà đáp: - Ðược chết vì nước, còn chi hơn nữa mà buồn.
Người chung quanh cạn nghĩ, chê bà không thương chồng. Bà không chút quan tâm. Ðến tuần bách nhật, cúng tế xong, bà trang điểm lịch sự, sai bơi thuyền ra tại chỗ Ngô Cảnh Hoàn bị giết, kêu lên một tiếng chàng ơi rồi tự trầm. Nhân dân địa phương thương người tiết nghĩa, lập đền thờ và dựng bia kỷ niệm ở bên sông.
Thắng Ngô Cảnh Hoàn, quân Tây Sơn tiến đánh Hoàng Phùng Cơ ở hồ Vạn Xuân. Hoàng Phùng Cơ cùng 8 người con trai, cũng là 8 viên tướng, chống đỡ được một lúc thì đại bại. 6 người con của Hoàng Phùng Cơ bị giết tại trận. Hoàng Phùng Cơ đem 2 người con còn lại chạy trốn.
Ngày 20/7/1786 (25/6 Bính Ngọ), Chúa Trịnh Khải tự mình làm tướng chỉ huy quân sĩ đem hết tinh binh ra cửa Tây Long bày trận. Nhưng, hiệu lệnh của Trịnh Khải chẳng ai nghe, thấy quân Tây Sơn đến là mạnh ai nấy chạy. Không còn cách nào khác, Trịnh Khải bèn dẫn theo một ít bộ hạ chạy lên Sơn Tây. Ðến làng Hạ Lôi bị người địa phương bắt đem nạp cho Tây Sơn. Ði nửa đường lấy gươm tự vẫn. Chỉ trong vòng 10 ngày, toàn bộ lực lượng của họ Trịnh đã hoàn toàn tan rã. Cơ nghiệp của họ Trịnh được gây dựng 216 năm tác oai tác quái ở miền Bắc đến đây là cáo chung.
Ngày 26 tháng 6 năm Bính Ngọ (21/7/1786) Nguyễn Huệ dẫn đại quân tiến vào Thăng Long, đóng quân ở phủ chúa Trịnh, mở kho Hữu Viên phát chẩn cho người nghèo. Quân Tây Sơn giữ kỷ luật rất nghiêm chỉnh, không động chạm đến tài sản và tính mệnh của dân chúng.
Ngày hôm sau, Nguyễn Huệ vào cung Vạn Thọ yết kiến Vua Lê, bấy giờ Vua Lê Hiển Tông đang bệnh, không ngồi dậy được, bèn mời Nguyễn Huệ vào ngồi bên sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu rằng đem binh ra Bắc Hà không còn mục đích nào khác hơn là để diệt Trịnh, phò Lê. Hiển Tông mừng rỡ, tạ ơn.
Khi binh Tây Sơn vào thăng long thì các quan triều đều chạy trốn hết. Vua Hiển Tông xuống chiếu triệu về, rồi định ngày 7 tháng 7, lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng vào bái yết và dâng sổ quân sĩ dân đinh, để tỏ nghĩa tôn phù nhất thống. Vua phong cho Nguyễn Huệ là Nguyên Soái Uy Quốc Công và gả Ngọc Hân Công Chúa, tục gọi là Chúa Tiên, con bà Chiêu Nghi Hoàng Hậu.
Mười ngày sau vua Lê Hiến Tông băng hà, hoàng tôn Lê Duy Kỳ lên ngôi, hiệu Chiêu Thống.
Vào lúc đó, Vua Thái Đức cũng ra tới Thăng Long, nói là tiếp ứng Nguyễn Huệ, nhưng thực tâm sợ Nguyễn Huệ say men chiến thắng làm điều sơ xuất, ảnh hưởng đến ngai vàng của ông. Gặp vua Lê, vua Thái Đức nói: “Họ Trịnh chuyên quyền, chúng tôi đem quân ra đây chỉ có ý giúp nhà vua mà thôi. Nếu đất Bắc Hà của Trịnh thì một tấc chúng tôi cũng lấy, nhưng của nhà Lê thì một tấc chúng tôi cũng không tưởng, chỉ mong nhà Vua giữ vững biên cương, trấn an bờ cõi, để hai nước chúng ta đời đời giao hảo”. Hai bên hoan hỷ, tiệc vui khoản đãi. Sau đó nửa đêm 17/8/1786 Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ sai người vào từ biệt vua Lê rồi bí mật hạ lệnh cho quân sĩ lặng lẽ trở về Nam, bỏ mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại.
- Diệt trừ các lộng thần ở Bắc Hà:
Năm 1787, Vua Thái Đức xưng là Trung ương Hoàng Đế, kinh đô Đồ Bàn đổi là Hoàng Đế Thành, phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, trấn thủ Thuận Hóa, phong Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương trấn giữ đất Gia Định.
Từ lúc Tây Sơn kéo quân trở về Nam, tình hình Bắc Hà trở nên sôi động, Nguyễn Hữu Chỉnh quy tụ dũng sĩ, mưu đồ chiếm cứ Nghệ An. Ðồng thời ở Hà Bắc, Trịnh Bồng được tôn lên làm chúa. Vua Lê Chiêu Thống bị nhà chúa ức hiếp bèn gọi Nguyễn Hữu Chỉnh về đuổi được Trịnh Bồng. Vua Chiêu Thống phong Chỉnh làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, tước Bằng Quận Công. Nắm trọn quyền bính trong tay, Chỉnh tự ý hoành hành. Muốn mở rộng ảnh hưởng vào Nam, chiếm đất nghệ An, sửa lũy Hoành Sơn, lấy Linh Giang làm giới hạn với Thuận Hóa, y như tiên triều.
Không thể để yên Nguyễn Hữu Chỉnh lộng hành ở Bắc Hà, tháng 11 năm Ðinh Mùi (1787), Bắc Bình Vương sai Vũ Văn Nhậm, Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo binh ra Thăng Long liên tiếp đánh bại những cố gắng của Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh bị thua và bị bắt giết. Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long, còn vua Lê Chiêu Thống thì hoảng hốt dắt cung quyến chạy trốn ở Kinh Bắc. Mẹ và vợ con Lê Chiêu Thống chạy sang tàu cầu cứu với Tôn Sĩ Nghị.
Trong lúc đò, Tướng Tây Sơn là Phạm Văn Tham đang cầm cự với quân Nguyễn Ánh ở Gia Định, Vũ Văn Nhậm chuyên quyền tự cho là mình có công to không ai sánh kịp có ý chống lại Nguyễn Huệ ở Thăng Long. Vì lẽ đó tháng 4 năm 1788, đích thân Nguyễn Huệ đã cầm quân ra Bắc lần thứ hai. Nhậm không kịp trở tay, bị bắt và bị giết. Trước khi rút về Nam, Nguyễn Huệ đưa Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc lo việc tế tự. Còn binh quyền thì giao cho Ðại Tư Mã Ngô Văn Sở, có Nội Hầu Phan Văn Lân, Ðô Ðốc Nguyễn Văn Tuyết, Chương Phủ Nguyễn Văn Dụng. Hộ bộ Thị Lang Trần Thuật Ngôn và Lại bộ Tả Thị Lang Ngô Thời Nhậm... phụ tá và tháng 5 năm 1788 trở về Phú Xuân để chuẩn bị Nam tiến đánh Nguyễn Ánh theo thỉnh cầu của vua anh Nguyễn Nhạc.
- Đánh tan quân xâm lược Mãn Thanh:
Vua Quang Trung đại phá quân Thanh
mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1789
Dựa vào sự cầu viện của Lê Chiêu Thống, Tổng Đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị dâng sớ tâu vua Càn Long bên Tàu, lợi dụng cơ hội phù Lê đánh Tây Sơn, sang chiếm nước Nam. Vua Càn Long chấp thuận đề nghị, ra lệnh chu cấp việc ăn ở cho cung quyến Lê Chiêu Thống, đồng thời đưa nhà vua về nước hiệu triệu thần dân để làm hậu thuẫn cho đoàn quân xâm lăng Nam chinh.
Tháng 11 năm 1788, Thanh triều huy động 29 vạn binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông và Quảng Tây chia làm ba ngả Nam Quan, Tuyên Quang và Cao Bằng kéo thẳng vào nước ta. Quân trấn thủ Tây Sơn thế yếu nên tạm thời rút lui về Biện Sơn (Thanh Hóa) và Tam Điệp (Ninh Bình) để bảo toàn lực lượng. Tôn Sĩ Nghị và vua Lê Chiêu Thống vào Thăng Long trấn an nhân dân, nhưng thật sự bè đảng Lê Chiêu Thống chỉ lo việc trả thù vặc cá nhân, phần khác là sự cướp bóc của quân Thanh, dân chúng kêu la, oán hận. Mọi người đều trông chờ vào Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ.
Ngày 20 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Ngô Văn Sở từ núi Tam Điệp cho tin cấp báo về Phú Xuân, việc Tôn Sĩ Nghị đưa quân xâm lăng, kéo thẳng vào Thăng Long. Nguyễn Huệ tỏ ra rất bình tĩnh. Các tướng sĩ yêu cầu ngài hãy lên ngôi Hoàng đế để "Chính vị hiệu" - thu phục lòng người, lấy danh chính ngôn thuận, nêu cao thanh thế lãnh đạo cuộc kháng chiến của toàn dân đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh. Nguyễn Huệ cho là phải, liền cho đắp đàn Nam Giao ở núi Bân, phía Nam núi Ngự Bình, tế cáo trời đất và làm lễ đăng quang lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung, nhằm ngày 25/11 năm Mậu Thân (22-12-1788).
Thông thường, người ta lên ngôi là để được hưởng cuộc sống nhung lụa của Đế Vương, còn Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ đã dũng cảm chấp nhận trước lịch sử một sứ mệnh vô cùng cao cả, đồng thời cũng vô cùng nguy hiểm, đó là lãnh đạo toàn dân quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Cũng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh của quốc gia và dân tộc.
Tại lễ đăng quang Nguyễn Huệ tuyên đọc chiếu lên ngôi, Ngài đã nói rất rõ:
“Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà Tự Quân nhà Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm”…
Vua Quang Trung
Ngay sau lễ đăng quang, Tân vương Quang Trung rút kiếm lệnh truyền 10 vạn quân xuất chinh, đích thân chỉ huy hành quân thần tốc theo hai đường thủy bộ tiến ra Bắc. Ngày 20 tháng chạp năm Mậu Thân, (15-1-1789), đoàn quân tới núi Tam Điệp, khao thưởng quân sĩ, truyền cho ba quân tạm ăn Tết trước, ông nói: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua trận rồi, tất lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, Nếu cứ để binh lửa kéo dài mãi, thật không phải là phúc cho trǎm họ, lòng ta không nỡ!. Nên chi, sau khi thắng trận nầy, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa chiến tranh, việc từ lệnh đó ta giao cho Ngô Thì Nhậm. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa”.
Ðể trưởng dưỡng thêm lòng kiêu căng của địch, nhà vua sai Trần Danh Bình cầm đầu sứ bộ 18 người mang lễ vật và văn thư ra tha thiết xin quan Ðại Nguyên Soái của Thiên Triều dừng quân để tra xét cho rõ vì sao Tây Sơn phải thay quyền nhà Lê. Sứ bộ còn trả lại cho Tôn Sĩ Nghị 40 người Tàu do tướng cướp Ðắc Thiện Tống cầm đầu đã bị quân Tây Sơn bắt được. Tôn Sĩ Nghị chém Trần Danh Bình, chém luôn cả Ðắc Thiện Tống và cầm tù phái đoàn sứ giả.
Mọi việc cụ bị xong, nhà vua cho mở tiệc linh đình vào ngày 29 tháng Chạp để thiết đãi tướng sĩ. Trong bữa tiệc nhà vua nói: - Hôm nay ta ăn tết Nguyên Ðán trước, sang xuân ngày mồng 7, vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn tết Khai Hạ. Rồi vua Quang Trung chia đại quân Tây Sơn làm 5 đạo Tiền, Hậu, Tả, Hữu và Trung Quân:
- Đạo thứ nhất do Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc và Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy Tả quân kiêm Thủy Quân, vượt biển đánh vào sông Lục Đầu, rồi chia thành 2 cánh: Cánh Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết tiến đến Hải Dương để tiếp ứng mặt Đông Thành Thăng Long; Cánh Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc thẳng chiếm núi Yên Thế, Lạng Giang, và án binh tại làng Phượng Nhãn để chận đường rút lui của địch và bắt sống Tôn Sĩ Nghị.
- Đạo thứ hai do Đô Đốc Đặng Văn Long và Phó Tướng Đặng Tiến Đông chỉ huy Hữu quân gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, theo ngã thượng đạo dùng lối di chuyển 2 người vỏng một, đói lòng thì dùng bánh tét trong 4 ngày phải tiến vào làng Nhân Mục huyện Thanh Trì rồi đánh chiếm đồn Khương Thượng của Sầm Nghi Đống phía Tây Nam Thăng Long. Sau đó tiếp tục đánh tốc chiến chiếm cho được Thành Thăng Long vào đêm mùng 5Tết. (Phó tướng Ðặng Tiến Ðông, quê ở Lương Xá gần Thăng Long, trí dũng hơn người, trước kia làm quan cùng chúa Trịnh, sau quy thuận nhà Tây Sơn, am hiểu địa hình khắp vùng Thăng Long và lân cận, hướng dẫn quân đi đường tắt).
- Đạo thứ ba do Đô đốc Đăng Xuân Bảo chỉ huy, gồm 1000 quân và 100 thớt tượng binh băng qua Sơn Minh rồi tiến thẳng ra làng Đại Áng phục binh nơi đầm Mực khi thấy quân Thanh lội băng qua đầm Mực lùa voi ra dìm chúng xuống đó.
- Đạo thứ tư do Đại Tư mã Ngô Văn Sở, và Nội hầu Phan Văn Lân, làm Tiên Phong đánh thẳng vào Hà Hồi, Ngọc Hồi và các đồn lũy từ phía Nam kinh thành Thăng Long là nơi tập trung lực lượng chủ lực của Tôn Sĩ Nghị.
- Đạo Trung quân do Vua Quang Trung trực tiếp thống lĩnh, gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh cùng Tướng Vũ Đình Tú tuỳ cơ ứng biến. Hẹn ngày mùng 5 cùng vào thành Thăng Long và truyền lịnh lập tức xuất quân vào đúng giờ giao thừa năm Mậu Thân-Kỹ Dậu, ngựa cất lạc, người ngậm tăm lặng lẽ mà đi.
Đêm 30 Tết, đại quân của Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Bấy giờ, quân bản bộ của Lê Chiêu Thống gần như đã bị buộc phải canh giữ từ xa để quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị có thể yên tâm nghỉ ngơi và ăn tết. Vừa giáp chiến, quân của Lê Chiêu Thống đã đại bại và bỏ chạy thục mạng. Nguyễn Huệ ra lệnh cho tướng sĩ của mình truy kích đến cùng, quyết không để một tên nào thoát được.
Lược đồ Quang Trung đại phá quân Thanh
Đêm Mồng Hai tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung kéo quân đến vây đồn Hà Hồi, truyền loa gọi đầu hàng ầm vang, đến vài vạn người. Quân Tàu trong đồn đang say sỉn, nghe tiếng reo hò, tiếng trống trận vang rền như sấm ngoài chiến lũy, khiếp sợ, không còn gan dạ nào chống cự, vội vã tan rã mà chạy, bắt được giết hết, không còn tên quân Tàu nào chạy lọt về báo Thăng Long được nữa. Vua Quang Trung thừa thắng đánh tràn đến Ngọc Hồi, Vân Điển, Yên Quyết.
Qua đêm mồng 5, vừa cuối canh tư nhà vua sai dồn tất cả lương thực vào một chỗ rồi cho đốt sạch, và bảo tướng sĩ: - Hễ thắng giặc thì được no, thua giặc thì chết đói. Nếu không thắng được giặc thì chết chớ nhất định không lui. Ðoạn xách Ô Long đao nhảy lên mình voi, thúc quân tiến đánh đồn Ngọc Hồi. Voi trận đi trước, quân lính theo sau đi như gió cuốn.
Tướng Mãn Thanh hay tin, kéo quân ra chận đánh. Nhưng vừa trông thấy đàn voi trận của Tây Sơn, ngựa sợ cuống, hí lên những tiếng kinh hoàng, rồi chạy tán loạn. Quân Thanh bị rối hàng ngũ, không dám giao chiến, phải rút lui.
Ðồn quá kiên cố. Mặt ngoài lũy đều có cắm chông sắt và đặt phục lôi. Trong đồn lại bắn súng ra như mưa xối.
Vua Quang Trung truyền lấy 60 tấm ván dày, cứ ba tấm ghép vào thành một phên ván, ngoài phủ rơm trộn với đất ướt. Rồi cứ mười người, lưng đeo đoản đao, khiêng một tấm phên ván đi trước, tiếp theo hai mươi người cầm vũ khí, tiến theo thế trận chữ nhất. Nhà vua cỡi voi theo sau đốc suất.
Ðạn bắn rào rào. Quân ta không hề lui một bước, vượt chông sắt, phá tan cửa lũy, tràn vào đồn. Quân địch không còn dùng súng được nữa. Quân ta quăng ván, đánh xáp lá cà, nhanh như chớp, mạnh như bão, giết quân địch như thái rau. Quân địch không cự nổi, bỏ chạy, lớp dày đạp lên nhau, lớp chạm phải địa lôi, lớp chết lớp bị thương, còn bao nhiêu bị bắt sống. Tướng Thanh là Ðề Ðốc Hứa Thế Hanh, Tiên phong Trương Triều Long và Tả Dực Thượng Duy Thăng đều tử trận.
Lực lượng địch trong Ngọc Hồi có trên 3 vạn quân tinh nhuệ. Ðồn bị tiêu diệt, quân tử trận và bị bắt hơn hai phần. Còn chừng một phần sống sót kéo nhau chạy ra hướng Bắc, chẳng ngờ đến gần Văn Ðiển thì bị Tướng Vũ Đình Tú bố trí sẵn, chận đánh. Quân địch phải thối lui, chạy qua cầu Vinh sang vùng Ðầm Mực. Ðầm Mực là một vùng đầm lầy rộng lớn thuộc huyện Thanh Trì bị tượng binh của Ðô Ðốc Nguyễn Văn Bảo phục binh tại làng Đại Áng chận đánh. Quân địch lớp chôn thây trong bùn lầy, lớp bị voi chà, không còn một tên sống sót.
Cánh quân Ðại Ðô Ðốc Ðặng Văn Long từ huyện Chương Ðức đến Thanh Trì, trước hết chiếm đồn Yên Quyết và Nhân Mục, nằm phía tây bắc đồn Khương Thượng dùng rơm khô bện thành con cúi, tẩm dầu, chực lửa. Rồi một tiếng hô, muôn nghìn tiếng ứng, đồng thời lửa bật cháy. Bốn mặt đều có ánh lửa hừng hực và tiếng hô hét vang trời. Quân trong đồn khủng khiếp, không còn sức chống cự. Tướng chỉ huy là Ðề Ðốc Sầm Nghi Ðống chưa kịp đối phó thì quân của Ðô Ðốc Long đã phá đồn tràn vào như nước vỡ đê. Ðống khiếp sợ, trốn ra Hoa Sơn tức gò Ðống Ða thắt cổ tự tử. Binh sĩ trong đồn bị giết quá nửa.
Tôn Sĩ Nghĩ đang vui yến tiệc trong thành Thăng Long, được tin đồn Ngọc Hồi rồi đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, thất kinh hồn vía. Ngay lúc đó ba mặt thành
Tôn Sĩ Nghị cùng đám tàn quân nhắm ải Nam Quan mà chạy. Nhưng chạy đến đâu thì cũng bị phục Binh của Đô Đốc Nguyễn Văn Lộc chận đánh phải chạy trối chết vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo thoát thân. Bảy ngày đêm mới đến trấn Nam Quan, đói cơm khát nước.
Quân Mãn Thanh bị quét sạch. Bắc Hà hoàn toàn được giải phóng. Hôm ấy là ngày mồng năm Tết, Vua Quang Trung mặc chiến bào xông pha trận mạc, thẳng vào thành Thăng Long. Chiến bào màu đỏ của vị Hoàng Đế anh hùng, qua nhiều trận huyết chiến đã đổi ra màu đen cháy vì hơi khói của thuốc súng. Nhà vua vào thành Thăng Long trước kỳ hẹn hai ngày.
Sau chiến thắng lừng danh, đại phá quân Thanh mùa Xuân Kỷ Dậu 1789. Người Tàu bị chấn động dữ dội, từ cửa ải trở lên phía Bắc, già trẻ dìu dắt nhau chạy trốn. Hàng mấy mươi dặm tuyệt nhiên không có bóng người và khói bếp. Vua tôi Lê Chiêu Thống bôn tẩu theo đám tàn binh sang Tàu, bị vua Càn Long Nhà Thanh giam lỏng, chết nhục nhã nơi đất khách.
Đúng như dự tính và lời hứa hẹn của vị Tổng lảnh binh, mồng 7 tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân đội của Hoàng Đế Quang Trung đã vui vẻ ăn tết khai hạ tại thành Thăng Long. Hoa đào làng Nhật Tân còn đang nở rộ đón chào chiến thắng.
Liền Sau đó, tháng 2 năm Kỷ Dậu (1789), giao phó việc binh bị và cai trị Bắc Hà cho Ngô Văn Sở, và Phan Văn Lân; việc ngoại giao và chính trị giao cho Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích, Vua Quang Trung trở về Phú Xuân, lo sửa sang việc nước. Lần này ngài trở về Nam với tư thế là một Hoàng đế.
Vua Quang Trung vào thành Thăng Long
VUA QUANG TRUNG VÀ VẤN ÐỀ NỘI TRỊ
1. Hành Chánh:
* Chọn kinh đô.
Vua Quang Trung đã nhờ La Sơn Phu Tử gấp rút tiến hành việc xây dựng kinh đô mới ở Dũng Quyết tức vùng núi Phượng Hoàng Nghệ An. Ðịa thế hùng vĩ, phía Nam có sông Cồn Mộc và Sông Lam, phía Đông Bắc có núi Phượng Hoàng là những địa hào và thành lũy thiên nhiên che chở cho kinh thành và trong con mắt của Quang Trung đây là Phượng Hoàng Trung Ðô.
Vì Phượng Hoàng thành chưa xây xong, nên Vua Quang Trung về ngự tại Phú Xuân suốt thời gian trị vì.
* Tổ chức chánh quyền trung ương:
Bộ máy triều đình trung ương có lục bộ Thượng Thư, Tả hữu đồng nghị, Tả hữu phụng nghị, Tư Vụ, Hàn Lâm, Hiệp biện Đại Học Sĩ... Tổ chức địa phương Tổng, Huyện có võ quan cai quản và thao luyện quân đội, văn quan phụ trách binh lương, thuế khóa. Dưới nữa có Xã Trưởng, Thôn Trưởng, như đời nay.
2. Tổ chức quân đội:
Quân đội được chia ra thành 5 đạo như trong hồi đánh nhau với Nhà Thanh: Trung, Tiền, Tả, Hữu, Hậu. Ngoài ra còn có 11 đội quân đặc biệt khác, tạo thành quân chủ lực của Quốc gia. Ông thường nói:“Binh lính cốt hòa thuận chứ không cốt đông, cốt tinh nhuệ chứ không cốt nhiều”. Theo lời các nhà truyền giáo, quân đội Tây Sơn có tinh thần chiến đấu rất cao, kỷ luật sắt thép, không xâm phạm tài sản của dân chúng. Người lính được huấn luyện thuần thục, gan dạ, một chống nổi ba bốn, nên đánh đâu thắng đấy.
Triều Vua Thái Ðức thì lính mộ chớ không bắt. Vua Quang Trung dùng chính sách cưỡng bách.
Ðể tiện việc kiểm soát trong khi bắt lính, nhà vua đặt ra tín bài. Tín bài là một chiếc thẻ ghi tánh danh, quản chỉ và dấu lăn tay hay chữ ký của chủ nhân chiếc thẻ. Người nào không có tín bài thì bị bắt sung vào phòng dịch.
Nhà vua còn đặt ra hộ tịch, chia dân ra làm bốn hạng: từ 9 đến 17 tuổi gọi là Vị Cập cách hạng; từ 18 đến 55 tuổi gọi là Tráng hạng; từ 56 đến 60 tuổi gọi là Lão hạng; từ 61 tuổi trở lên gọi là Lão nhiêu. Những người từ 18 đến 55 tuổi phải đi lính. Những gia đình độc đinh thì được miễn. Trong gia đình đông con thì cứ ba tráng đinh thì một người phải đi nhập ngũ. Những khi cần thiết lắm mới phải nhập ngũ hai người. Nhờ có ghi rõ tên tuổi trong hộ tịch nên tránh bớt sự bất công.
3. Kinh Tế Tài Chính:
· Ðúc tiền:
Ngoài việc chỉnh đốn triều chính, Vua Quang Trung muốn độc lập về mọi mặt. Ông nghĩ ngay đến việc đúc tiền bằng đồng để tiện dùng trong nước và thuận tiện trong việc thương mại. Đồng tiền “Quang Trung Thông Bảo” được thay đồng tiền Cảnh Hưng khắp chợ cùng quê.
Quang Trung Thông bảo &Cảnh Thịnh thông bảo
· Thương mãi:
Năm Quang Trung thứ tư (1791), do việc cần chuẩn bị nhu cầu chiến tranh để bảo vệ bờ cỏi, nhà vua cho thu mua hết các đồ bằng đồng tốt trong nước để làm binh khí và đúc tiền cho rộng tài nguyên.
Nhà Tây Sơn chủ trương thông thương, mở rộng việc buôn bán với nước ngoài từ khá sớm. Sau ngày lên ngôi hoàng đế và quản lý cả khu vực Bắc Hà, Quang Trung bãi bỏ chính sách ức thương mà chính quyền Lê-Trịnh trước đây áp dụng để tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thương khách lớn nhất khi đó vẫn như truyến thống là người Tàu. Nhà vua cũng xúc tiến việc giao thương với các nước phương Tây thông qua ba hải cảng sầm uất là Phố Hiến, Hội An và Nước Mặn (Vùng Tuy Phước và thành phố Qui Nhơn hiện nay).
Cuối năm 1789, Quang Trung đã viết thư sang đề nghị Càn Long cho mở cửa ải giữa Việt Nam và Trung Hoa để tiện cho việc đi lại buôn bán giữa dân chúng hai bên. Cử người sang điều đình với Nhà Thanh mở chợ Bình Thủy Quan ở Cao Bằng, Du Thôn Ải ở Lạng Sơn, đề nghị lập nhà hàng ở Quảng Tây, đưa dân ta sang làm ăn buôn bán với Trung Quốc, mục đích mở rộng biên cương.
Những đề nghị của Quang Trung được Càn Long chấp thuận. Do đó, quan hệ giao thương giữa Tàu và Việt được phục hồi và phát triển mạnh mẽ.
· Dinh điền:
Sau những cuộc chiến tranh kéo dài số dân giảm xuống rất nhiều. Do đó có một số ruộng đất bỏ hoang. Lo xong việc chinh chiến, vua Quang Trung dồn mọi nỗ lực vào việc cải cách ruộng đất. Nhà vua đưa những người nghèo khổ ở những nơi đông đúc tới đó để cày cấy làm ăn. Chính quyền địa phương phải giúp đỡ bằng mọi phương tiện.
Về ruộng đất công điền, tư điền, thuế khóa cũng được cải tổ. Năm Quang Trung thứ tư, trong nước khắp nơi đều được mùa vì mưa thuận gió hòa. Nếp sống dân chúng đầm ấm, phát đạt, do chính sách ưu dân của Triều đình. Năm nào có thiên tai bão lụt, hạn hán, triều đình lại giảm thuế, ân xá cho dân chúng.
· Thuế khóa:
Dưới thời Trịnh Nguyễn, dân chúng phải nộp thứ thuế gọi là Tiền điệu tức là tiền nạp thuế cho việc sưu dịch. Vua Quang Trung bãi bỏ thứ thuế ấy. Những lúc trong nước hay địa phương cần dùng nhân công thì mọi người đều phải góp phần, giàu cũng như nghèo, trừ những bậc lão nhiêu, lão hạng, không ai được miễn. Những người nào không tự mình thi hành nhiệm vụ được thì bỏ tiền ra thuê người thay thế chớ không được đem nạp cho các nhà chức trách.
Thuế ruộng đất công tư đều phân hạng theo mức sản xuất hàng năm, và chia làm ba hạng. Thuế nạp bằng lúa. Cũng có thể nạp bằng tiền tính theo thời giá. Mức thuế đã quy định rõ ràng. Thu lên bị tội tham nhũng.
4. Văn Hóa
Vua Quang Trung tuy là một thiên tài về quân sự, nhưng ông cũng rất chú trọng về văn hóa và chính trị. Nhà vua có nhiều sáng kiến đặc biệt, phát sinh ở một tinh thần cách mạng quốc gia rất sáng suốt và cấp tiến. Các nho sinh đỗ đạt tân, cựu đều được đãi ngộ, trọng dụng. Đáng chú ý nhất là việc sử dụng chữ Nôm dùng làm quốc ngữ trong tất cả văn thư trong nước, kể cả trong những kỳ thi cử, loại dần ảnh hưởng văn học và chữ Hán ra khỏi sinh hoạt văn hóa của đất nước. Hán tự bấy giờ chỉ dùng để giao dịch với nhà Thanh. Vua Quang Trung đề cao tinh thần quốc gia mãnh liệt, một ý niệm cách mạng rất thực tế. Trong khoa cử, học hành, chữ Nho vẫn được dùng, nhưng trong chiếu, biểu, sắc, dụ, thi phú, chữ Nôm đã được đặt vào một địa vị quan trọng.
Việc học hành: Việc học được tổ chức khắp mọi nơi, từ xã đến phủ huyện. Ban Giảng dụ ở xã giao cho những người học hạnh kiêm toàn ở địa phương hoặc mời ở các địa phương khác. Xã học do chính quyền địa phương tổ chức. Tư nhân vẫn có quyền rước thầy về dạy con em trong nhà trong làng, vô điều kiện. Học sinh ở các trường công hay tư vẫn được coi như nhau. Các trường ở phủ huyện thì có Ðốc học, Huấn đạo điều khiển. Những vị thầy trung ương bổ nhiệm và lựa trong làng khoa bảng, lương hướng và phẩm trật ngang với tri phủ, tri huyện.
Hằng năm vào mùa thu, tại kinh đô Phú Xuân Vua Quang Trung cho mở các khoa thi Tuấn Sĩ, Văn cũng như Võ để chọn những phẩn tử ưu tú thăng vào Quốc học, hạng thứ vào Phủ học. Học và thi đều dùng hai thứ chữ Hán và Nôm.
Nhà vua lập Sùng Chính viện, thỉnh La Sơn Phu Tử làm Viện trưởng để dịch Tứ thư và Ngũ kinh sang tiếng Nôm để dạy học, dịch những tác phẩm có giá trị về đạo đức và văn chương ra chữ Nôm để phổ biến trong toàn quốc. Cộng tác cùng Phu Tử có nhiều nhà khoa bảng như Nguyễn Công, Nguyễn Thiện, Phan Tố Ðịnh, Bùi Dương Lịch rất sành văn Nôm.
Vào đầu năm Quang Trung thứ năm (1792), Viện đã dịch xong bộ Tứ Thư và Tiểu Học. Nhà vua xuống chiếu sai dịch tiếp các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch... Nhờ sự khuyến khích của Vua Quang Trung mà văn chương chữ Nôm thời Tây Sơn được thịnh vượng. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời như Hoa Tiên truyện, Mai Ðình Mộng ký, Chinh Phụ Ngâm diễn Nôm, Thơ Hồ Xuân Hương, Thơ La Xuân Kiều v.v... được truyền thế.
5. Tôn Giáo:
Vua Quang Trung muốn lấy đạo Nho làm quốc giáo, nên khuyến khích việc phát triển Nho học. Ðối với đạo Phật nhà vua vẫn ngưỡng mộ, song rất ghét những người lợi dụng chùa chiền để trốn xâu lậu thuế, để không làm mà hưởng. Nhận thấy làng nào cũng có chùa, mà phần nhiều thầy chùa không mấy người hiểu thấu đạo lý cao sâu của đức Thích Ca, chỉ mượn tiếng tu hành để ký sinh vào xã hội, nên nhà vua xuống chiếu bắt phá bỏ những chùa nhỏ ở các làng. Mỗi huyện hoặc mỗi phủ được cấp gỗ gạch để xây một ngôi chùa đồ sộ khang trang, rồi chọn những tăng ni có học thức, đạo đức đến trụ trì. Còn những nhà sư đội lốt tu hành, tục gọi là những "Huề Mầm" đều bắt phải hoàn tục, lo bổn phận người dân.
Các đạo khác như Lão giáo, Ma Ní giáo.. được tự do truyền bá. Thiên Chúa giáo cũng không bị ngăn cấm. Nói tóm lại dưới triều Tây Sơn, dân chúng được tự do tín ngưỡng.
6. Ngoại giao với Thanh triều:
Ngay từ khi kéo quân đến Tam Điệp trên lộ trình ra Thăng Long đánh quân Thanh, Vua Quang Trung đã tính đến việc giảng hòa với nhà Thanh sau khi thắng trận. Cho nên khi kéo quân vào Thăng Long, ông đã ra lệnh cấm giết bại binh Thanh mỗi khi bắt được. Nhà vua lại cho phép quân Thanh được ra thú. Có hơn 800 người ra đầu thú, họ đều được cấp lương ăn và quần áo mặc. Ngài nhờ Ngô Thời Nhiệm dùng chính sách ngoại giao khôn khéo, thuyết phục được Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An và cận thần vua Nhà Thanh là Hòa Khôn, thiết lập được mối hòa hiếu giữa hai nước, kết thúc chiến tranh, dân chúng sống an vui.
Giả vương Nguyễn Quang Hiển, đang triều kiến vua Càn Long nhà Thanh tại Nhiệt Hà
Tháng 7 năm 1789 vua Nhà Thanh sắc phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương và mời sang triều cận. Vua Quang Trung đề cử Nguyễn Quang Hiển làm giả vương đi thế. Tại Nhiệt Hà, giả vương được vua Càn Long tiếp đãi ân cần và ban thưởng trọng hậu.
Năm Nhâm Tý 1792, vua Quang Trung cử Võ Kinh Thành, Trần Ngọc Thụy, Võ Văn Dũng sang dâng biểu cầu hôn cưới Công Chúa Thanh Triều và đòi lại 6 châu (Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ và Khiêm châu) thuộc Hưng Hóa, 3 động (Nguyễn Dương, Hồ Điệp và Phố Viên) thuộc Tuyên Quang, đã bị Nhà Thanh trước kia xâm chiếm, sát nhập vào Lưỡng Quảng. Kế hoạch chuẩn bị thuyền tàu, đúc vũ khí, rèn luyện binh sĩ đã sắp đặt từ lâu. Sứ giả qua Tàu là cái cớ để đánh lấy lại đất, nếu Thanh triều từ chối. Nhưng tiếc thay, khi phái bộ Vũ Văn Dũng sang đến Trung Quốc thì được tin vua Quang Trung băng hà, sứ giả phải quay về. Vua Quang Trung mất năm 40 tuổi vào ngày 15 tháng 9 năm 1792, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
* Bãi việc cống người vàng:
Một quốc hận đáng kể cho người Việt Nam từ đời Hậu Lê là việc cống người vàng, một ký ức chua cay của dân tộc.
Năm Đinh Mùi (1427), tướng của Nhà Minh là Liễu Thăng bị quân kháng chiến của Lê Lợi chém bay đầu tại Lạng Sơn. Nhà Minh đau lắm vì Liễu Thăng là một tướng tài của họ. Sau nầy giảng hòa, Minh triều bắt đền nước Việt phải đúc người vàng thế mạng Liễu Thăng. Vua Lê Lợi thấy dân tình đau khổ, chiến tranh kéo dài từ nhà Hồ ngót 30 năm ròng rã, đành chấp nhận điều kiện của Minh triều. Sau đến đời Mạc và các vua Lê đời Trung hưng, cũng vẫn tiếp tục cống người vàng.
Nhà Tây Sơn chiến thắng lừng danh, phá tan 20 vạn quân Thanh không còn manh giáp, đuổi quân thù xâm lăng chạy khỏi ải Nam Quan hằng mấy trăm dặm. Vua Quang Trung khi đã yên vị, không chịu lệ này, viết thư cho Phúc Khang An thông báo bãi bỏ lệ cống người vàng. Đứng trước thế mạnh của nhà Tây Sơn thời bấy giờ, vua tôi nhà Thanh phải chấp nhận.
* Giai đoạn cuối Nhà Tây Sơn:
Sau 20 năm liên tục chinh chiến và trị quốc, Nguyễn Huệ lâm bệnh và đột ngột qua đời ở tuổi 40. Trong lúc ông đang ngồi làm việc thì bất thình lình bị xây xẩm mặt mày rồi ngã ra hôn mê, một hồi lâu được cấp cứu mới tỉnh lại. Sau đó, bệnh càng ngày càng nặng. Xét triệu chứng của hiện tượng trên, người ta có thể suy đoán Nguyễn Huệ bị bệnh cao huyết áp do làm việc quá căng thẳng, suy nghĩ nhiều, dẫn đến tai biến mạch máu não. Đối với căn bệnh này, trình độ y học thời bấy giờ đành phải bó tay, dù triều đình có các lương y tài giỏi bên cạnh như Nguyễn Gia Phan, Nguyễn Hoành (còn với nền y học của thời đại chúng ta, bệnh này nếu có thể cứu sống được cũng để lại di chứng nặng nề cho người bệnh như ngớ ngẩn, mất trí nhớ, liệt nửa người…). Tóm lại, đây là một căn bệnh hiểm nghèo ngay cả với nền y học cuối thế kỷ XX.
Sau cái chết của ông, nhà Tây Sơn suy yếu nhanh chóng. Những người kế thừa ông không đủ bản lĩnh để lãnh đạo Đại Việt, lâm vào mâu thuẫn nội bộ và thất bại trong việc tiếp tục chống lại kẻ thù của Tây Sơn. Vua Thái Đức buồn vì hai em Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã chết, lụt chí tiến thủ, chỉ giữ lấy Quảng Ngãi, Quy Nhơn và Phú Yên. Trong khi đó thì Nguyễn Phúc Ánh củng cố, xây dựng và phát triển ở Gia Định, rồi đánh lần ra phía Bắc. Năm 1793, quân Nguyễn Phúc Ánh vây khốn thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cầu cứu Phú Xuân. Sau khi giải cứu, vua Cảnh Thịnh chiếm luôn Quy Nhơn. Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc uất hận, thổ huyết chết, làm vua được 16 năm. Tại Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, cậu ruột là Bùi Đắc Tuyên phụ chính, chuyên quyền làm triều đình bất hòa, thanh toán lẫn nhau, lòng dân ly tán. Cơ nghiệp Nhà Tây Sơn suy yếu dần, đến năm Nhâm Tuất (1802) thì mất vào tay Nguyễn Phúc Ánh.
7. Tây Sơn trong lòng dân Việt
Sự nghiệp hiển hách, chiến công lừng lẫy của vua Quang Trung đã ghi sâu vào lòng dân Việt. Trên hai trăm năm nay, biết bao người đã viết sách, làm thơ, ca tụng thành quả của những trận đánh lừng danh mùa Xuân Kỷ Dậu 1789, chưa đầy một mùa lễ, tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, làm sáng chói trang sử Việt Nam.
Tượng đài Vua Quang Trung
Mặc dù Gia Long Nguyễn Phúc Ánh đã trả thù Nhà Nguyễn Tây Sơn một cách hèn hạ, thi hành chính sách nhổ cỏ tận gốc. Muốn xóa sạch đi những công trình xây dựng, những đóng góp quý giá của Nhà Tây Sơn cho đất nước, ngay cả hào quang sang chói thắng giặc ngoại xâm của vua Quang Trung trong lòng dân Việt. Nhưng những gì thuộc về văn hóa, thuộc về tinh thần, đã được lịch sử gạn lọc một cách tinh tế, trả về sự thật, lưu truyền mãi trong sử sách.
Tại Chùa Bộc, xưa gọi là Sùng Phúc Tự gần Hà Nội, sau bao nhiêu năm kiểm soát nghiêm ngặt, xử trị nặng nề của Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, những ai tưởng nhớ Vua Quang Trung, dân chúng nơi đây vẫn đúc tượng thờ Vua Quang Trung dưới hình thức tôn giáo với câu đối chữ Hán:
洞 裡 無 塵 大 地 山 河 留 棟 宇
光 中 化 佛 小 天 世 界 轉 風 雲
Động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống vũ.
Quang trung hoá Phật tiểu thiên thế giới chuyển phong vân
( Nghỉa là: Trong động sạch bụi dơ, non sông rộng lớn lưu truyền lương đống. Giữa ánh sáng thành Phật, tiểu thiên thế giới chuyển động gió mây.)
Công Chúa Ngọc Hân, là Bắc cung Hoàng Hậu vua Quang Trung đã khóc khi Ngài qua đời, trong tác phẩm “Ái Tư Vãn”: để bày tỏ nỗi lòng đau khổ và tiếc thương chồng. (Toàn bài vãn này gồm 164 câu, viết theo thể Song thất lục bát).
… Nghe trước có đấng vua Thang, Võ
Công nghiệp nhiều tuổi thọ càng cao
Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước biết bao công trình…
…………………………………………..
Công dường ấy, mà nhân dường ấy,
Cõi thọ sao hẹp bấy hóa công?
Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi.
……………………………….
Tại làng Tây Sơn, Bình Định, ngay trong thời Gia Long Nguyễn Phúc Ánh, sau khi ngôi từ đường Nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn phá hủy, ngôi đình làng được thay thế vào, dân chúng âm thầm thờ ba vua Tây Sơn bên trong.
Năm 1958, dưới thời chính quyền Sài Gòn dân chúng địa phương góp công sức xây dựng Điện Tây Sơn trên nền cũ của ba Vua làm nơi thờ tự. Cờ Quang Trung cũng được Quốc Trưởng Phan Khắc Sửu chuẩn y bay phất phới lần đầu tiên vào năm Ất Tỵ ngày 6 tháng 2 năm 1965, sau 176 năm vắng bóng. Hằng năm vào tháng 11 Âm Lịch là ngày giỗ ba Vua Tây Sơn, có nhạc võ Tây Sơn theo cổ lệ.
Ngày Mồng Năm tháng Giêng mỗi năm, dân chúng Bình Định tổ chức ngày Lễ Đống Đa rất trọng thể. Người dân các tỉnh miền Trung tề tựu về đây xem lễ hội Đống Đa, có đến hàng trăm ngàn người. Ngày nầy còn có ý nghĩa là Ngày Tây Sơn. Đầu năm mọi người đi trẩy hội, là dịp rủ nhau vui Xuân trong những ngày Tết, cũng là cơ hội cho Nam thanh, Nữ tú, lòng đầy nhiệt huyết, tưởng nhớ vua Quang Trung trong ý chí quật cường, cùng toàn dân dẹp tan quân xâm lược Mãn Thanh, đem lại an bình cho đất nước.
Tại Hoa Kỳ, các Tiểu bang có đông người Việt Nam như Nam California, Bắc California, Texas, Washington State, Colorado..., hằng năm đều tổ chức Ngày Tây Sơn, được đồng hương Việt Nam hưởng ứng nhiệt liệt, nhằm mục đích nhớ lại công đức của tiền nhân và nhắc nhở giới trẻ quay về cội nguồn, yêu thương Quê hương Dân tộc.
Tại Orange County, Sáng ngày 20/11/2016 “Lễ Động Thổ xây dựng tượng đài Anh Hùng Quang Trung Nguyễn Huệ” trong khu thương mại trên góc đường Euclid & Hazard, thuộc thành phố Garden Grove.
Mô hình Tượng đài Vua Quang Trung tại Quận Cam
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã làm “Bài Ca Bình Bắc”, ca ngợi Vua Quang Trung chí lớn dọc ngang, mộng lớn huy hoàng, một phút oai thần dậy sóng, gươm thiêng cựa vỏ, tan vía cường bang, voi thiêng chuyển vó, giặc nát lũy tan hàng.
… Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận trăm đường giáp công
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng…
Tham khảo:
- Nhà Tây Sơn - Bách khoa toàn thư wikipedia.org
- Nhà Tây Sơn của Triều Phong Đặng Đức Bích.
- Trời giao ấn kiếm cho người Tây Sơn trên trang www.kienthuc.net.
- Việt Nam Sử Lược, Lệ Thần Trần Trọng Kim nxb Đại Nam 1990.
- Tây Sơn Thất Hổ Tướng của Hữu Vinh trên Thư Viện sách hay của bạn maxreading.com.
- Gốc tích họ Hồ của vua Quang Trung - tài liệu của Hồ Sĩ Giàng trong http://www.hoquytoc.com/
- Tây Sơn Bi Hùng Truyện - Lê Đình Danh
- Nhà Tây Sơn - của Quách Giao & Quách Tấn
- Triều đại Tây Sơn và những chính sách cải cách của Quang Trung theo Thế phả triều đại Tây Sơn
Đền thờ Tây Sơn Tam Kiệt trong khu Bảo tàng Quang Trung ở Phú Phong, Bình Định
Võ Trung Tín chuyển (HNPD)