Tham Khảo
Nền tảng quốc gia – cơn khát giữa sa mạc?
Đông Nguyễn
30-8-2016
Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, nền kinh tế rơi vào suy thoái, mỗi bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, và cái đói bao trùm khắp nước.
Lúc bấy giờ, tướng Mỹ Douglas MacArthur – Tư lệnh của quân đồng minh (bên thắng cuộc) đã đến để xây dựng nền tảng quốc gia cho Nhật Bản trong tinh thần hòa giải đoàn kết. Ông đã lập tức ra lệnh thả tù nhân chính trị và đôn đốc Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mang đậm giá trị dân chủ phương Tây. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri.
Bản Hiến pháp đó cũng nhấn mạnh những quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: Quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt tài sản vô cớ…
Tiếp đó Quốc hội Nhật Bản đã thông qua một loạt các chính sách cải cách như về giáo dục, với việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định…
Từ việc xây đựng nền tảng chính trị đó, với những tiền đề tiến bộ đầu tiên này đã cơ bản giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang của hòa bình thịnh vượng. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới.
Còn đối với cường quốc số một thế giới thì sao? Nếu chúng ta biết rằng để có được nước Mỹ như ngày hôm nay, chỉ xuất phát từ những con người đã đặt nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ đầu tiên trong bản hiến pháp có hiệu lực năm 1789, thì chúng ta cũng sẽ ngỡ ngàng vì sao nền tảng ấy lại hữu hiệu đến đáng kinh ngạc như vậy.
Đơn giản vì nó được xây dựng trên tinh thần hợp nguyên (đa nguyên nhưng hợp tác), khi những con người ấy biết đặt quyền lợi của dân tộc, quốc gia lên trên mọi quyền lợi của phe đảng và cá nhân họ, từ đó tạo ra một bản hiến pháp có giá trị bất hủ được người dân phúc quyết thông qua. Bản hiến pháp đã đi tiên phong trong việc lựa chọn một thể chế chính trị phù hợp trong xu hướng tiến bộ chung của toàn nhân loại.
Theo đó học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu được áp dụng để xây dựng một cơ chế chính trị ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau của thiết chế quyền lực nhà nước, với ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp tách bạch.
Đây được xem là một mô hình quản lý nhà nước khoa học bậc nhất cho đến thời điểm hiện nay với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do dân chủ của công dân và đảm bảo việc xây dựng, thực thi được một hệ thống pháp luật chuẩn mực. Chính điều đó mới tạo ra được một nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay – điều mà công dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đang khao khát.
Có thể nói một trong những nền tảng chính trị quốc gia luôn được khởi nguồn từ việc xây dựng một hệ thống pháp luật chuẩn mực với “hạt giống” đầu tiên là bản hiến pháp dân chủ và phải được người dân phúc quyết thông qua, để từ đó dân quyền mới trở nên hiện thực.
Pháp luật có chuẩn mực?
Tại Việt Nam, với một cơ chế nhà nước tập trung, các cá nhân vừa tham gia Lập pháp, vừa tham gia Hành pháp, cũng kiêm nhiệm luôn Tư pháp thì liệu có thể tách bạch và kiểm soát quyền lực của nhau được không?
Và, pháp luật liệu có phát huy hết quyền năng của nó khi luôn có những “ông vua con” đang ngày ngày “cưỡi lên đầu nhân dân còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản…!”.
Như vậy, chúng ta có cơ chế nào để kiểm soát quyền lực của họ đây, khi Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp cũng chỉ là họ? Và, chúng ta đã xây dựng, thực thi được hệ thống pháp luật chuẩn mực chưa khi tham nhũng, lợi ích nhóm đã và đang trở thành quốc nạn và có xu hướng ngày càng gia tăng?
Hay khi những người đang ngày ngày có trách nhiệm thực thi công lý, liệu họ có dám tự hào nói rằng mình chỉ dựa vào luật pháp và công lý mà chưa bao giờ làm theo sự chi phối hoặc chỉ đạo bởi những thế lực không phải là công lý?
Vì đã có quá nhiều bất công trong việc vận dụng pháp luật, như vụ “cướp bánh mì” của 2 thiếu niên phạm tội thì bị trừng trị với một bản án rất hà khắc, trong khi đó, vụ “14 lần vỡ ống nước sông Đà” gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, với 5 quan chức Vinaconex đã đủ cơ sở cấu thành tội phạm thì lại khoan hồng, không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng như trong thảm họa Formosa đã hủy diệt nền kinh tế biển của bốn tỉnh miền Trung, đẩy người dân vào tột cùng của sự đói khổ, nhiều người đã bỏ mạng, nhiều người phải tha hương. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, môi trường, kinh tế… ít nhất cũng 50 năm nữa mới thống kê hết được.
Nhưng một bản án dành cho những hành vi vi phạm đó, hay thậm chí cho những kẻ tiếp tay, cũng chỉ là sự mong mỏi vô vọng của người dân, trong khi pháp luật hình sự đã quy định rành rành về những tội ác đó.
Hay mới đây, trong vụ “đập 7 hộp sữa” xảy ra ở thành phố Vinh, người thực hiện hành vi đó đã bị bắt tạm giam và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản. Nhưng trong vụ “đập 7 cây cầu” ở thành phố Cần Thơ, quan chức đã xâm hại đến tài sản của toàn dân, với mức độ thiệt hại chắc chắn nghiêm trọng hơn rất nhiều lần, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở mức kiểm điểm, khiển trách lấy lệ.
Nếu mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thì việc ông bố đập 7 hộp sữa có thể bị khởi tố thì hành vi hủy hoại 7 cây cầu không thể không bị truy cứu trách nhiệm.
Và, những câu chuyện như vậy đang khiến dư luận đặt rất nhiều câu hỏi về sự khác biệt trong cách thực thi luật pháp giữa người dân và những “ông quan”, khi chỗ cần nhân đạo thì không nhân đạo, trong khi kẻ cần trừng trị răn đe thì lại khoan hồng.
Dân bức xúc và mất niềm tin vào pháp luật cũng là điều tất yếu, và yêu cầu cấp bách được đặt ra là: nếu không xây dựng, vận hành một cách chuẩn mực hệ thống pháp luật để làm nền tảng và động lực cho xã hội phát triển, thì liệu có thêm nửa thế kỷ nữa chúng ta có thoát nghèo và xóa bỏ được những bất công gay gắt đang tồn tại trong lòng xã hội hay không?
Hiện nay, đã rõ ràng, đó là thất bại, thất bại của những bản án, của công tác tư pháp và một nền tảng pháp luật chuẩn mực?
Dân quyền có hiện thực?
Cũng đã gần nửa thế kỷ kể từ ngày được gọi là “giải phóng” miền Nam. Luật trưng cầu ý dân mới được xây dựng và có hiệu lực 01/7/2016.
Theo tôi nhận định đó cũng là một bước tiến về xây dựng hệ thống pháp luật của Việt Nam, tuy quá muộn màng nhưng có lẽ còn hơn là không có.
Nhưng rồi trong tương lai, quyền làm chủ của người dân thông qua việc trưng cầu dân ý này liệu có trở thành hiện thực và liệu Quốc hội có trưng cầu ý dân “Về toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp”?. Ví dụ như tại điều 53 của Hiến pháp – Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu – có nên chuyển sang quy định đất đai thuộc đa thành phần sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân?
Vì chính quy định “khác người” này trong Hiến pháp mà biết bao nhiêu gia đình chỉ qua một đêm đã trở thành những kẻ vô gia cư hoặc phải chịu cảnh tù tội, bao nhiêu vụ án cướp đất, bao nhiêu tiêu cực liên quan đến hành chính cũng từ nó mà ra.
Và, cũng vì nó mà trong xã hội xuất hiện thêm một “giai cấp” mới – giai cấp dân oan, với một lực lượng hùng hậu đang khiếu kiện ngày càng mạnh mẽ hơn trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Chính điều đó đã làm xói mòn niềm tin của người dân, làm lãng phí nguồn nhân lực nông dân lao động… Vậy, liệu Quốc hội có dám trưng cầu dân ý về việc thay đổi quy định này không?
Cũng như hiện nay, có lẽ hầu hết người dân Việt Nam đều rất rõ về âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, khi họ đã dùng vũ lực để cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Không dừng ở đó, với yêu sách “đường lưỡi bò” để âm mưu độc chiếm gần trọn biển Đông, họ cấm đánh cá, bắn giết ngư dân ta một cách tàn nhẫn, hòng gieo rắc nỗi sợ hãi kinh hoàng trên toàn biển Đông.
Ngoài ra, họ luôn tìm cách thao túng, phá hoại và làm ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội của người dân Việt Nam.
Chính điều đó cho thấy họ đang thực hiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán và dùng bạo quyền để mở rộng biên giới, mở rộng vùng ảnh hưởng lên toàn Việt Nam.
Như vậy, liệu Quốc hội Việt Nam có sẽ thực hiện việc trưng cầu ý dân về vấn đề “chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại” trong việc lựa chọn đồng minh hoặc thái độ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc?
Hay trưng cầu ý dân về “Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước”? Như thảm họa Formosa vừa rồi đã cướp đi biết bao sinh mạng của người dân, gây ra những thiệt hại khủng khiếp về mặt kinh tế và sự hủy diệt môi trường của bốn tỉnh miền Trung, cũng như sự tồn tại của dân tộc.
Như vậy, Quốc hội đã trưng cầu ý dân chưa về việc quyết định số phận của Formosa, mà Chính phủ đã vội hoàn thành việc ký kết thỏa thuận với một con số bồi thường hời cho kẻ gây thiệt hại và lại tiếp tục cho nó được tồn tại, để một ngày không xa có thể thảm họa Formasa 2, 3 lại tiếp tục giáng xuống đầu những người dân vô tội?
Hoặc riêng về quyền biểu tình, việc xây dựng Luật biểu tình là rất cần thiết để những người yêu nước có trách nhiệm với xã hội thực hiện quyền hiến định của mình. Nhưng bao nhiêu năm tháng Quốc hội vẫn chây ỳ không làm luật để tạo hành lang pháp lý thuận tiện cho người dân thực hiện quyền này.
Đó là một việc làm hạn chế quyền con người mà chính những người mang tiếng là “đại diện cho nhân dân” lại đang cố tình ngăn cản quyền cơ bản đó của nhân dân, điều đó là vi hiến. Vậy, liệu dân quyền đã hiện thực?
Dù thế nào đi chăng nữa, tôi chắc chắn một điều rằng sau gần nửa thế kỷ kể từ ngày thống nhất lãnh thổ và tồn tại song song với sự phát triển như vũ bão của nhân loại, chúng ta vẫn chỉ là một đất nước nghèo nàn, tụt hậu về mọi mặt, môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, đạo đức đang ngày càng tha hóa suy đồi, bất công xã hội lan rộng, phân hóa sâu sắc giàu nghèo, tham nhũng bè cánh trở thành quốc nạn mà không thể nào kiểm soát được.
Có lẽ giờ đây người dân trên đất nước Việt Nam này đang khát lắm những ngụm nước mát lạnh của một nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ thật sự, để tạo tiền đề xây dựng đất nước trở thành một quốc gia hùng cường. Họ khát khao được cầm trên tay lá phiếu để thực thi quyền làm chủ của mình hay trực tiếp chọn cho mình những người lãnh đạo có thể lèo lái con thuyền quốc gia này mà họ thật sự biết rõ và tin tưởng.
Vì đơn giản là họ muốn thoát khỏi sự nghèo khổ triền miên đến cùng cực, cường quyền, những bất công, và hơn hết là họ không muốn phải bỏ lại quê hương đất nước này để tìm kiếm vùng trời tự do, hay mưu cầu sự an toàn trên những mảnh đất xa lạ khác. Cũng đơn giản vì đây là tuổi thơ, là máu thịt, và cha ông họ đã bao đời luôn gọi xứ sở này là Tổ quốc.
Về tác giả: Luật sư Đông Nguyễn thuộc Đoàn luật sư Sài Gòn và hiện đang sống và làm việc tại Sài Gòn.
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nền tảng quốc gia – cơn khát giữa sa mạc?
Đông Nguyễn
30-8-2016
Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, nền kinh tế rơi vào suy thoái, mỗi bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, và cái đói bao trùm khắp nước.
Lúc bấy giờ, tướng Mỹ Douglas MacArthur – Tư lệnh của quân đồng minh (bên thắng cuộc) đã đến để xây dựng nền tảng quốc gia cho Nhật Bản trong tinh thần hòa giải đoàn kết. Ông đã lập tức ra lệnh thả tù nhân chính trị và đôn đốc Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mang đậm giá trị dân chủ phương Tây. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri.
Bản Hiến pháp đó cũng nhấn mạnh những quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: Quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt tài sản vô cớ…
Tiếp đó Quốc hội Nhật Bản đã thông qua một loạt các chính sách cải cách như về giáo dục, với việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định…
Từ việc xây đựng nền tảng chính trị đó, với những tiền đề tiến bộ đầu tiên này đã cơ bản giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang của hòa bình thịnh vượng. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới.
Còn đối với cường quốc số một thế giới thì sao? Nếu chúng ta biết rằng để có được nước Mỹ như ngày hôm nay, chỉ xuất phát từ những con người đã đặt nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ đầu tiên trong bản hiến pháp có hiệu lực năm 1789, thì chúng ta cũng sẽ ngỡ ngàng vì sao nền tảng ấy lại hữu hiệu đến đáng kinh ngạc như vậy.
Đơn giản vì nó được xây dựng trên tinh thần hợp nguyên (đa nguyên nhưng hợp tác), khi những con người ấy biết đặt quyền lợi của dân tộc, quốc gia lên trên mọi quyền lợi của phe đảng và cá nhân họ, từ đó tạo ra một bản hiến pháp có giá trị bất hủ được người dân phúc quyết thông qua. Bản hiến pháp đã đi tiên phong trong việc lựa chọn một thể chế chính trị phù hợp trong xu hướng tiến bộ chung của toàn nhân loại.
Theo đó học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu được áp dụng để xây dựng một cơ chế chính trị ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau của thiết chế quyền lực nhà nước, với ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp tách bạch.
Đây được xem là một mô hình quản lý nhà nước khoa học bậc nhất cho đến thời điểm hiện nay với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do dân chủ của công dân và đảm bảo việc xây dựng, thực thi được một hệ thống pháp luật chuẩn mực. Chính điều đó mới tạo ra được một nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay – điều mà công dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đang khao khát.
Có thể nói một trong những nền tảng chính trị quốc gia luôn được khởi nguồn từ việc xây dựng một hệ thống pháp luật chuẩn mực với “hạt giống” đầu tiên là bản hiến pháp dân chủ và phải được người dân phúc quyết thông qua, để từ đó dân quyền mới trở nên hiện thực.
Pháp luật có chuẩn mực?
Tại Việt Nam, với một cơ chế nhà nước tập trung, các cá nhân vừa tham gia Lập pháp, vừa tham gia Hành pháp, cũng kiêm nhiệm luôn Tư pháp thì liệu có thể tách bạch và kiểm soát quyền lực của nhau được không?
Và, pháp luật liệu có phát huy hết quyền năng của nó khi luôn có những “ông vua con” đang ngày ngày “cưỡi lên đầu nhân dân còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản…!”.
Như vậy, chúng ta có cơ chế nào để kiểm soát quyền lực của họ đây, khi Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp cũng chỉ là họ? Và, chúng ta đã xây dựng, thực thi được hệ thống pháp luật chuẩn mực chưa khi tham nhũng, lợi ích nhóm đã và đang trở thành quốc nạn và có xu hướng ngày càng gia tăng?
Hay khi những người đang ngày ngày có trách nhiệm thực thi công lý, liệu họ có dám tự hào nói rằng mình chỉ dựa vào luật pháp và công lý mà chưa bao giờ làm theo sự chi phối hoặc chỉ đạo bởi những thế lực không phải là công lý?
Vì đã có quá nhiều bất công trong việc vận dụng pháp luật, như vụ “cướp bánh mì” của 2 thiếu niên phạm tội thì bị trừng trị với một bản án rất hà khắc, trong khi đó, vụ “14 lần vỡ ống nước sông Đà” gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, với 5 quan chức Vinaconex đã đủ cơ sở cấu thành tội phạm thì lại khoan hồng, không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng như trong thảm họa Formosa đã hủy diệt nền kinh tế biển của bốn tỉnh miền Trung, đẩy người dân vào tột cùng của sự đói khổ, nhiều người đã bỏ mạng, nhiều người phải tha hương. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, môi trường, kinh tế… ít nhất cũng 50 năm nữa mới thống kê hết được.
Nhưng một bản án dành cho những hành vi vi phạm đó, hay thậm chí cho những kẻ tiếp tay, cũng chỉ là sự mong mỏi vô vọng của người dân, trong khi pháp luật hình sự đã quy định rành rành về những tội ác đó.
Hay mới đây, trong vụ “đập 7 hộp sữa” xảy ra ở thành phố Vinh, người thực hiện hành vi đó đã bị bắt tạm giam và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản. Nhưng trong vụ “đập 7 cây cầu” ở thành phố Cần Thơ, quan chức đã xâm hại đến tài sản của toàn dân, với mức độ thiệt hại chắc chắn nghiêm trọng hơn rất nhiều lần, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở mức kiểm điểm, khiển trách lấy lệ.
Nếu mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thì việc ông bố đập 7 hộp sữa có thể bị khởi tố thì hành vi hủy hoại 7 cây cầu không thể không bị truy cứu trách nhiệm.
Và, những câu chuyện như vậy đang khiến dư luận đặt rất nhiều câu hỏi về sự khác biệt trong cách thực thi luật pháp giữa người dân và những “ông quan”, khi chỗ cần nhân đạo thì không nhân đạo, trong khi kẻ cần trừng trị răn đe thì lại khoan hồng.
Dân bức xúc và mất niềm tin vào pháp luật cũng là điều tất yếu, và yêu cầu cấp bách được đặt ra là: nếu không xây dựng, vận hành một cách chuẩn mực hệ thống pháp luật để làm nền tảng và động lực cho xã hội phát triển, thì liệu có thêm nửa thế kỷ nữa chúng ta có thoát nghèo và xóa bỏ được những bất công gay gắt đang tồn tại trong lòng xã hội hay không?
Hiện nay, đã rõ ràng, đó là thất bại, thất bại của những bản án, của công tác tư pháp và một nền tảng pháp luật chuẩn mực?
Dân quyền có hiện thực?
Cũng đã gần nửa thế kỷ kể từ ngày được gọi là “giải phóng” miền Nam. Luật trưng cầu ý dân mới được xây dựng và có hiệu lực 01/7/2016.
Theo tôi nhận định đó cũng là một bước tiến về xây dựng hệ thống pháp luật của Việt Nam, tuy quá muộn màng nhưng có lẽ còn hơn là không có.
Nhưng rồi trong tương lai, quyền làm chủ của người dân thông qua việc trưng cầu dân ý này liệu có trở thành hiện thực và liệu Quốc hội có trưng cầu ý dân “Về toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp”?. Ví dụ như tại điều 53 của Hiến pháp – Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu – có nên chuyển sang quy định đất đai thuộc đa thành phần sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân?
Vì chính quy định “khác người” này trong Hiến pháp mà biết bao nhiêu gia đình chỉ qua một đêm đã trở thành những kẻ vô gia cư hoặc phải chịu cảnh tù tội, bao nhiêu vụ án cướp đất, bao nhiêu tiêu cực liên quan đến hành chính cũng từ nó mà ra.
Và, cũng vì nó mà trong xã hội xuất hiện thêm một “giai cấp” mới – giai cấp dân oan, với một lực lượng hùng hậu đang khiếu kiện ngày càng mạnh mẽ hơn trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Chính điều đó đã làm xói mòn niềm tin của người dân, làm lãng phí nguồn nhân lực nông dân lao động… Vậy, liệu Quốc hội có dám trưng cầu dân ý về việc thay đổi quy định này không?
Cũng như hiện nay, có lẽ hầu hết người dân Việt Nam đều rất rõ về âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, khi họ đã dùng vũ lực để cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Không dừng ở đó, với yêu sách “đường lưỡi bò” để âm mưu độc chiếm gần trọn biển Đông, họ cấm đánh cá, bắn giết ngư dân ta một cách tàn nhẫn, hòng gieo rắc nỗi sợ hãi kinh hoàng trên toàn biển Đông.
Ngoài ra, họ luôn tìm cách thao túng, phá hoại và làm ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội của người dân Việt Nam.
Chính điều đó cho thấy họ đang thực hiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán và dùng bạo quyền để mở rộng biên giới, mở rộng vùng ảnh hưởng lên toàn Việt Nam.
Như vậy, liệu Quốc hội Việt Nam có sẽ thực hiện việc trưng cầu ý dân về vấn đề “chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại” trong việc lựa chọn đồng minh hoặc thái độ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc?
Hay trưng cầu ý dân về “Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước”? Như thảm họa Formosa vừa rồi đã cướp đi biết bao sinh mạng của người dân, gây ra những thiệt hại khủng khiếp về mặt kinh tế và sự hủy diệt môi trường của bốn tỉnh miền Trung, cũng như sự tồn tại của dân tộc.
Như vậy, Quốc hội đã trưng cầu ý dân chưa về việc quyết định số phận của Formosa, mà Chính phủ đã vội hoàn thành việc ký kết thỏa thuận với một con số bồi thường hời cho kẻ gây thiệt hại và lại tiếp tục cho nó được tồn tại, để một ngày không xa có thể thảm họa Formasa 2, 3 lại tiếp tục giáng xuống đầu những người dân vô tội?
Hoặc riêng về quyền biểu tình, việc xây dựng Luật biểu tình là rất cần thiết để những người yêu nước có trách nhiệm với xã hội thực hiện quyền hiến định của mình. Nhưng bao nhiêu năm tháng Quốc hội vẫn chây ỳ không làm luật để tạo hành lang pháp lý thuận tiện cho người dân thực hiện quyền này.
Đó là một việc làm hạn chế quyền con người mà chính những người mang tiếng là “đại diện cho nhân dân” lại đang cố tình ngăn cản quyền cơ bản đó của nhân dân, điều đó là vi hiến. Vậy, liệu dân quyền đã hiện thực?
Dù thế nào đi chăng nữa, tôi chắc chắn một điều rằng sau gần nửa thế kỷ kể từ ngày thống nhất lãnh thổ và tồn tại song song với sự phát triển như vũ bão của nhân loại, chúng ta vẫn chỉ là một đất nước nghèo nàn, tụt hậu về mọi mặt, môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, đạo đức đang ngày càng tha hóa suy đồi, bất công xã hội lan rộng, phân hóa sâu sắc giàu nghèo, tham nhũng bè cánh trở thành quốc nạn mà không thể nào kiểm soát được.
Có lẽ giờ đây người dân trên đất nước Việt Nam này đang khát lắm những ngụm nước mát lạnh của một nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ thật sự, để tạo tiền đề xây dựng đất nước trở thành một quốc gia hùng cường. Họ khát khao được cầm trên tay lá phiếu để thực thi quyền làm chủ của mình hay trực tiếp chọn cho mình những người lãnh đạo có thể lèo lái con thuyền quốc gia này mà họ thật sự biết rõ và tin tưởng.
Vì đơn giản là họ muốn thoát khỏi sự nghèo khổ triền miên đến cùng cực, cường quyền, những bất công, và hơn hết là họ không muốn phải bỏ lại quê hương đất nước này để tìm kiếm vùng trời tự do, hay mưu cầu sự an toàn trên những mảnh đất xa lạ khác. Cũng đơn giản vì đây là tuổi thơ, là máu thịt, và cha ông họ đã bao đời luôn gọi xứ sở này là Tổ quốc.
Về tác giả: Luật sư Đông Nguyễn thuộc Đoàn luật sư Sài Gòn và hiện đang sống và làm việc tại Sài Gòn.