Quán Bên Đường
Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu – Nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hoà
Danh từ “Không Quân”, dù ttrong ngôn ngữ của ta hay của Tây,  cũng đều có nghiã là “lực lượng quân sự trên không” (Airforce, Armée de  l’Air). Nhưng trên thực tế, chỉ có chưa đến một phần mười trong tổng số  quân nhân của không quân là biết…bay. Thí dụ: vào thời gian quân số lên  cao nhất (đầu năm 1973), Không Quân VNCH có 64.147 người thì chỉ có vài  ngàn là nhân viên phi hành.

Vậy mà hễ nói tới không quân, người ta chỉ nhắc tới mấy cha pilot, hễ  viết về không quân, người ta chỉ ca tụng lực lượng phi hành. Tức là có  sự phân biệt kỳ thị giữa “chim” đi mây về gió và “chim” nằm lì một chỗ.  Một bên là “phượng hoàng”, một bên là “chim cánh cụt” (penguin)!.
Nếu tôi nhớ không lầm thì trước năm 1975, trên tạp chí Lý Tưởng của  Bộ Tư Lệnh Không Quân ta, từ đầu mùa đến cuối mùa, bên cạnh hàng trăm,  hàng ngàn bài viết bốc thơm mấy cha pilot, mấy chàng xạ thủ phi hành,  thì chỉ có vài bài viết để ủi an mấy chàng phi đạo. hoặc mấy ông thợ sửa  máy bay ở Công Xưởng Không Quân (sau này gọi là Bộ Chỉ Huy và Tiếp Vận  Không Quân). Riêng lực lượng “yểm cứ” thì hình như chưa bao giờ được hân  hạnh lên mặt báo cả!.
Nói về hai chữ “yểm cứ”, chắc chắn phải có những ông pilot Việt Nam  Cộng Hòa không hề biết rằng trong Không Quân ta có những không đoàn  (wing) gọi là Không Ðoàn Yểm Cứ (Air base wing). Tôi dám viết như thế vì  có chứng cớ đàng hoàng:
Cuốn “Flying Dragons” (Phi Long) của tác giả Robert C. Mikesh, cho  tới nay vẫn được coi là cuốn sách viết công phu và đầy đủ nhất về Không  Quân VNCH (Mikesh nguyên là pilot quan sát bay O-2A, và là sĩ quan liên  lạc không quân ở Việt Nam trước năm 1975, hiện là trưởng toán thuyết  minh tại Viện Bảo Tàng Hàng Không & Không Gian Quốc Gia ở Washington  DC, USA).
Ðầy đủ tới mức không thiếu một phù hiệu (insignia) nào của các đơn vị  trong Không Lực VNCH. Thế nhưng phía dưới phù hiệu của Không Ðoàn Yểm  Cứ Pleiku – con chim Bồ Nông (pelican) với hai ngành dương liễu phía  dưới và hai mẫu tự PK ở phía trên – tác giả đã cả gan chú thích:  Anti-aircraft (Phòng Không)!
Cũng cần nói thêm rằng là khi viết cuốn sách này, tác giả đã phỏng  vấn, tham khảo hàng trăm cựu sĩ quan trong Không LựcVNCH, từ cấp tướng  như các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Oánh (TTHLKQ), Nguyễn Hữu Tần  (SÐ4KQ) xuống tới cấp Ðại úy, Trung úy. Và có lẽ một vị trong số này,  khi được tác giả hỏi về lai lịch của phù hiệu này, thấy hai mẫu tự “PK”  liền suy diễn đó là viết tắt của hai chữ… Phòng Không!. Không quân thì  phải có… phòng không. Có lý quá đi chớ!!!.
Xin lạy các Bố! Phù hiệu có con chim Bồ Nông với hai mẫu tự viết tắt  chính là phù hiệu của các Không Ðoàn Yểm Cứ trong Không Lực VNCH và  những chữ viết tắt thuộc các đơn vị PK: Pleiku – ÐN: Ðà Nẵng – NT: Nha  Trang – BH: Biên Hòa – TSN: Tân Sơn Nhất v..v..
Giải thích như các Bố (PK: phòng không), các ông cựu Không Ðoàn Trưởng Yểm Cứ mà đọc được sẽ buồn 5 phút!
Cũng giống như nỗi buồn của các NT Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Văn Bê, Vũ  Văn Ước khi thấy ai đó viết trên internet rằng Không Quân VNCH có 6 đại  đơn vị là các Sư Ðoàn 1, 2, 3, 4 ,5 và 6 Không Quân!.
Một cách chính xác nhất, theo sơ đồ tổ chức cuối cùng, Không Quân  VNCH có tới 9 đại đơn vị cấp sư đoàn hoặc tương đương, đó là 6 sư đoàn  không quân đã nhắc tới ở trên và 3 đơn vị biệt lập: Trung Tâm Huấn Luyện  Không Quân (ATC: Air Training Centre, chỉ huy trưởng Chuẩn tướng Nguyễn  Ngọc Oánh) – Bộ Chỉ Huy và Tiếp Vận Không Quân (ALC: Air Logistics  Command, chỉ huy trưởng Chuẩn Tướng Từ Văn Bê) – Bộ Chỉ Huy Hành Quân  Không Quân (AOC: Air Operations Command, chỉ huy trưởng Ðại Tá Vũ Văn  Ước).
Tôi không phải dân “Tổng Quản Trị” nhưng tình cờ biết được khi tham  dự buổi thao dợt Ngày Không Lực 1-7-1973, tổ chức tại Tân Sơn Nhất.  Trước ngày lễ mấy ngày, các ông tư lệnh, chỉ huy trưởng các đơn vị phải  cử người về để thay mình tập dợt, sau đó mới về “dợt lại” cho ông xếp  lớn. Tôi được đóng vai ông Từ Văn Bê.
Trong buổi lễ này, tới phần tuyên dương các đơn vị, 6 ông tư lệnh Sư  Ðoàn và 3 ông chỉ huy trưởng từ khán đài đi xuống (có một ông đếm nhịp  đàng hoàng), đứng thành một hàng ngang trước mặt Trung Tướng Trần Văn  Minh, bên cạnh mỗi ông là lá cờ của đơn vị mình (9 là cờ có kích thước  bằng nhau).
Trở lại với các Không Ðoàn Yểm Cứ, có thể nói nhiệm vụ tổng quát là  giúp cho người không quân được “an cư” trước khi “lạc nghiệp”. Lo chỗ  ăn, chỗ ở, lo điện nước, lo đường xá, lo quản trị hành chánh, lo lương  lậu, lo phòng thủ căn cứ… toàn là những việc “không tên”, đám dân bay đã  không biết ơn còn đem lòng… thù ghét. Ghét từ ông Không đoàn trưởng  xuống tới chàng quân cảnh gác cổng phi trường!
 Cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương
Mà Ðoàn Quân Cảnh thì thuộc Liên Ðoàn Phòng Thủ, nằm trong Không Ðoàn  Yểm Cứ cho nên quân cảnh bị ghét thì ông Liên đoàn trưởng, ông Không  đoàn trưởng cũng bị ghét lây. Tôi được hân hạnh biết 4 ông Không đoàn  trưởng Yểm Cứ – Ðỗ Trang Phúc ở Nha Trang – Võ Quế, Phạm Bá Mạo ở Pleiku  – Phùng Văn Chiêu ở Biên Hòa, thì thấy không có ông nào được quan, lính  không quân “thương” cả. Trong khi công tâm mà nhận xét trong 4 ông, chỉ  có ông Ðỗ Trang Phúc là hơi hơi…khó tính, 3 ông còn lại hiền như…bụt!.
 Phùng Văn Chiêu (2006)
-Bộ chú em là Việt cộng vô nằm vùng hả?…
Sau này đi lính không quân, khi đổi về Biên Hòa có nhiều bạn bè thân  bên yểm cứ, được dịp tiếp xúc mới biết ông Chiêu hiền khô và có máu văn  nghệ cùng mình.
Làm “yểm cứ” là chấp nhận “trăm dâu đổ đầu tằm”. Còn nhớ có lần phái  đoàn Bộ Tư Lệnh KQ tới căn cứ Biên Hoà để thanh tra SÐ3KQ của ông Huỳnh  Bá Tính và Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận KQ của ông Từ Văn Bê. Buổi  chiều giải trình tại câu lạc bộ Bửu Long, Trung Tướng Trần Văn Minh, vị  tư lệnh nổi tiếng ăn nói thẳng thừng, đã phê bình tình trạng vệ sinh  ttrong căn cứ như sau:
-Tới Biên Hoà, khỏi cần dòm mấy tấm bảng ghi không đoàn này, phòng sở  nọ là của ai, mà chỉ cần thấy chỗ nào sạch sẽ là biết của bên Bộ Chỉ  Huy, chỗ nào dơ dáy là của bên Sư Ðoàn!
Nghe ông Minh cồ phán, Chuẩn tướng Từ Văn Bê không dám cười, Chuẩn  tướng Huỳnh Bá Tính thì cười gượng và đưa mắt liếc… ông không đoàn  trưởng yểm cứ “thân yêu” của mình: Ðại tá Phùng Văn Chiêu!
Kế cũng bất công thật!
Rồi tới vụ Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Quân Ðoàn III, ra  “chiến dịch” hốt lính không quân sáng sáng tụ tập hai bên đường Trịnh  Hoài Ðức (phiá ngoài cổng phi trường) mà không chịu chào kính khi thấy  xe mang cờ 3 sao của ông chạy ngang qua (trên đường đến Bộ Tư Lệnh QÐ).  Mỗi ngày, hàng trăm lính không quân bị quân trấn Biên Hoà hốt, đem về  cho ngồi ngoài bờ sông Ðồng Nai … ngắm cảnh!.

Không có lính kỹ thuật thì lấy ai sửa máy bay, không có lính phi đạo  thì làm sao pilot có tàu. Thế là “yểm cứ” lãnh thêm nhiệm vụ mới: ca bài  ca con cá với ông quân trấn trưởng để lãnh lính không quân về…

Ðể rồi tới những ngày cuối cùng của Biên Hoà, người “yểm cứ” cũng là những người cuối cùng rời bỏ căn cứ…
Khoảng một tuần lễ trước ngày 30 tháng 4, vì khu gia binh bị VC pháo  kích thường xuyên, tôi đưa vợ con về Sàigòn. Thứ Bảy 26/4, tôi ở lại  Biên Hoà vì sáng ngày hôm sau, tôi sẽ trực BCH/KT&TV/KQ. Dù bị pháo  kích nhiều, tình hình ra vẻ vẫn chưa có gì đáng ngại. Buổi chiều thứ  bảy, tôi vẫn còn thấy những chiếc Skyraider cất cánh từ Biên Hoà đi đánh  VC ở Trảng Bom, Gầu Dây, hoặc diệt các ổ pháo 130 ly ở phía Bắc phi  trường.
Qua ngày Chủ Nhật 27/4, VC bỗng gia tăng cường độ pháo kích vào phi  trường, phần lớn là đại bác 130 ly (sau này được biết từ sáng đến khuya  Chủ Nhật, chúng đã pháo tổng cộng khoảng 1600-1700 trái vào phi trường  và Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn).
Phi trường gần như bị tê liệt.
Càng về khuya, VC càng pháo dữ dội. Khoảng hơn 10 giờ đêm, nghe tiếng  trực thăng bên KÐ43CT bắt đầu cất cánh, tôi biết giờ này K., một thằng  bạn thân của tôi từ ngày còn đi học, đang nôn nóng đợi tôi theo lời dặn  dò khi hai thằng gặp nhau hôm thứ bảy. Nhưng nhìn những hạ sĩ quan và  lính trực, nghĩ tới mấy chục khóa sinh (học định nghiệp) đang ứng chiến  phía ngoài, nhớ tới những quân nhân trong đơn vị bị thương vì đạn pháo  kích đang nằm hấp hối ở bệnh xá tôi không đủ can đảm bỏ đi.
Mười một giờ đêm, tiếng trực thăng xa dần…
Sáng thứ hai 28/4, VC bớt pháo kích rồi ngưng hẳn. Có lẽ chúng biết  các phi cơ đã bay đi hết, tức là phi trường không còn lực lượng tác  chiến nữa, bắn chi cho phí đạn!
Sĩ quan trực ngày Thứ Hai không đến đơn vị, tôi phải tiếp tục nhiệm  vụ. Những quân nhân đã về Sàigòn vào cuối tuần trước, giờ đây đều có lý  do chính đáng để không trở lại Biên Hòa: du lích VC đã xuất hiện tại một  số vị trí dọc theo xa lộ Ðại Hàn, đi ngang có thể bị phục kích bắn sẻ,  cho nên tốt hơn hết là chạy thẳng vào Tân Sơn Nhất trình diện Bộ Tư  Lệnh.
Khoảng 10 giờ sáng, một vị tướng của Bộ Tư Lệnh (Chuẩn tướng Ðặng  Ðình Linh, nếu tôi nhớ không lầm) đáp xuống T.O.C. của SÐ3KQ họp với hai  tướng Huỳnh Bá Tính và Từ Văn Bê và các vị chỉ huy cao cấp. Sau buổi  họp, Chuẩn tướng Từ Văn Bê trở về BCH-KT&TV-KQ cho triệu tập các đơn  vị trưởng, trưởng phòng, trưởng khối và sĩ quan trực, ông cho biết Bộ  Tư Lệnh ra lệnh di tản căn cứ Biên Hòa (bằng trực thăng Chinook) về Tân  Sơn Nhất và có thể từ đó sẽ về Cần Thơ. Dĩ nhiên trước khi đi phải đốt  phá thành bình địa, không để lại một thứ gì địch có thể xử dụng.
(Sau này tôi được biết sở dĩ Biên Hoà về Sài gòn chỉ có 25 cây số mà  không di tản bằng đường bộ, là vì lúc đó Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư  Lệnh Quân Ðoàn III không cho phép Không Quân Biên Hòa di tản).
Ðịa điểm Chinook đáp là sân đậu phi cơ trước hangar B (khu Tây). Sĩ  quan cấp dưới, hạ sĩ quan và binh sĩ ra đó trước, sĩ quan cao cấp nhất ở  lại phần sở, sau khi đốt mới được đi. Ðể Chinook có thể chở người tới  mức tối đa, các quân nhân không được mang theo bất cứ thứ gì ngoài nón  sắt, khẩu súng và hai cấp số đạn. Ưu tiên di tản như sau: Phòng An Ninh  Quân Ðội, Phòng Tài Chánh, Phòng Tổng Quản Trị ( vì hồ sơ cần mang đi  trước); kế tiếp là lính kỹ thuật và sau cùng mới tới Liên Ðoàn Phòng  Thủ.
Vì nhiều sĩ quan cao cấp trong đó có ông Trung Tá Trưởng Khối Chiến  Tranh Chính Trị của tôi bị “kẹt” ở Tân Sơn Nhất nên tôi được trao trách  nhiệm Khối CTCT và các phòng sở tham mưu tại Bộ chỉ huy.
Khoảng 3 giờ chiều, sau khi cho người xuống Ðoàn Quân Xa lấy một can  xăng 20 lít, tôi nói Thiếu Úy T. đưa anh em ra địa điểm di tản, còn tôi ở  lại với Chuẩn Tướng Từ Văn Bê.
Khoảng 4 giờ chiều (hoặc 4 giờ rưỡi, tôi không nhớ chính xác), Ông Bê  nói tôi chuẩn bị đốt building Bộ Chỉ Huy. Tôi lấy xăng rưới, bắt đầu từ  phòng làm việc của ông ở trên lầu, dọc theo hàng lang rồi xuống cầu  thang. Tôi và ông bước ra cửa. Người lính của Ðoàn Phòng Vệ có nhiệm vụ  gác Bộ Chỉ Huy đưa tay chào lần cuối cùng!
Chuẩn Tướng Từ Văn Bê quay lại nhìn cái building to đẹp nhất căn cứ  KQ Biên Hòa (do KQ Mỹ bàn giao lại) rồi chửi thề nho nhỏ (lần đầu tiên  trong 3 năm ở Biên Hòa tôi thấy ông chửi thề):
-Mẹ mấy thằng Huê Kỳ, xây cho cố vào rồi bây giờ đốt!
Rồi tôi được lệnh châm lửa. Ông Bê lái xe chở tôi chạy ngang Trung  Tâm Quản Trị Vật Liệu ở gần đó. Trung Tá Nguyễn Kim Cương, chỉ huy  trưởng đợi sẵn, liền châm lửa đốt Phòng Ðiện Toán, kế tiếp là Ðoàn Ðộng  Cơ Phản Lực, Liên Ðoàn Vũ Khí & Ðiện Tử và tất cả các cơ sở khu  Ðông, chỉ trừ dàn thử động cơ phản lực (Test cell) ở tận cuối phi đạo  phía Ðông (ssau này các quân nhân KQ bị VC bắt vào dọn dẹp phi trường đã  cho tôi biết Test Cell vẫn còn nguyên vẹn).
Ðốt xong khu Ðông, tôi và Chuẩn Tướng Bê sang khu Tây. Tới chỗ tập  họp của binh sĩ, tôi xuống xe. Thú thực tôi xuống xe mà đầu óc không suy  nghĩ gì cả. Tôi không một thoáng phân vân giữa việc xin đi theo ông Bê  (ông và Chuẩn Tướng Huỳng Bà Tính có trực thăng chờ sẵn) và việc ở lại  với anh em binh sĩ. Tôi coi việc ở lại là một cái gì đương nhiên, thế  thôi!…
Sau khi Chinook đáp được vài đợt, thì đùng một cái ai đốt kho bom!
Thế là những tiếng nổ long trời lở đất nối tiếp nhau, miểng bom chài  (như cây đinh có đuôi năm cánh) văng rào rào xuống phi đạo, rới lộp cộp  trên nón sắt của mọi người. Các quân nhân trách nhiệm các hangar thấy  thế cũng vội vã đốt cơ sở, khói lửa càng thêm mịt mù. Trước tình thế đó,  Chinook đáp rất khó khăn, từng chiếc, từng chiếc… và cuối cùng, khi màn  đêm chuẩn bị buông xuống, chỉ còn lại đoàn người tuyệt vọng ngồi trên  phi đạo!
Tới đây, vì là người đầu tiên châm lửa đốt Căn Cứ KQ Biên Hòa, tôi  nhận thấy có đôi lời phân bày trước dư luận trong KQ Biên Hòa cho rằng:  Ngày ấy Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính đã trách cứ Chuẩn Tướng Từ Văn Bê về  việc ra lệnh đốt quá sớm khiến binh sĩ bị rối loạn tinh thần, đưa dến  tình trạng hỗn loạn và vì thế cuộc di tản bằng trực thăng Chinook đã bị  bỏ dở làm cho cả ngàn quân nhân thuộc 2 đơn vị: SÐ3KQ và  BCH/KT&TV/KQ bị kẹt lại!
Tôi hoàn toàn không đồng ý (với dư luận đó).
Thứ nhất, “cơ sở” của BCH/KT&TV/KQ là hàng trăm kho vật liệu. là  các trung tâm điện toán, trung tâm quy chuẩn là các hangar tổng kiểm,  bảo trì phi cơ, với biết bao máy móc điện tử… ở rải rác từ khu Ðông sang  khu Tây, không đốt sớm thì không thể Ð-T HẾT. Chuẩn Tướng Bê đốt sớm có  lẽ vì muốn đích thân chứng khiến tất cả đã được đốt, trước khi mọi  người rời bỏ căn cứ (tôi gần gũi, biết tính ông Bê kỹ lưỡng nên đoán vậy  thôi, chứ từ sau 30/4/75, tôi chưa hề được gặp lại ông).
Thứ hai, lúc ban đầu bên BCH đốt cơ sở khu Ðông, tức là cách xa địa  điểm di tản (khu Tây) cả mấy cây số , binh sĩ cùng lắm cũng chỉ nhìn  thấy chút khói thôi. Nếu họ mất tinh thần thì mất vì thiếu vắng cấp chỉ  huy trực tiếp nhiều hơn là vì thấy căn cứ bị đốt. (Riêng binh sĩ của  BCH/KT&TV/KQ, tôi nhận thấy họ bình tĩnh và nghe lệnh các sĩ quan  cho tới giờ phút chót).
Cho nên, nếu có trách thì phải trách người ra lệnh cho nổ kho bom quá  sớm (hoặc ra chỉ thị không rõ ràng), cũng như trách Bộ Tư Lệnh KQ đã  không có đủ Chinook để di tản binh sĩ. Bởi vì theo nhận xét của tôi, dù  kho bom không nổ sớm, với nhịp độ đáp thưa thớt của Chinook, tới tối  cũng không thể nào di tản hết cả ngàn quân nhân còn kẹt lại.
Cuối cùng, không thể không quy trách một phần cho tên phi công nội  tuyến Nguyễn Thành Trung, kẻ đã hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường  Tân Sơn Nhất vào buổi chiều hôm đó. Bởi vì nếu Tân SơnNhất không bị ăn  bom của y và đồng bọn, rất có thể Chinook vẫn tiếp tục bay xuống Biên  Hòa để di tản
Phần tôi, sau này cứ tự an ủi: “bị kẹt” có khi lại là may mắn, về TSN  biết đâu lại chết vì bom của tên nội tuyến ấy, hoặc vì đạn pháo kích  của Việt cộng!
Khoảng 7 giờ tối căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư  Lệnh KQ, phi trường bị chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị đốt.  Phía SÐ3KQ, vị sĩ quan cao cấp nhất đã quyết định dẫn lính về Sàigòn  bằng đường bộ, phía BCH/KT&TV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất là Thiếu Tá  Nhữ Văn Phúc, Liên Ðoàn Trưởng Vũ Khí & Ðiện Tử (có thời giữ quyền  Trưởng Khối CTCT); ông nói với tôi:
- Vợ con Moa còn kẹt lại bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, Toa ở lại nhé!
Lúc đó, tình hình đã hỗn loạn. Lớp thì Cảnh Sát Dã Chiến vào giữ phi  trường theo lệnh của Quân Ðoàn, lớp thì đám người “thừa nước đục thả  câu” vào “hôi của” trong khu gia binh, lớp thì binh sĩ tự động tan hàng…  Tôi quyết định đưa số anh em bên BCH/KT&TV/KQ còn ở lại với tôi về  Sàigòn bằng đường bộ. Nhưng vì quân số ít, lại không có khả năng “tác  chiến” như lính phòng thủ, tôi đi ra ngã ba Tam Hiệp rồi theo xa lộ cũ  chứ không dám sử dụng xa lộ Ðại Hàn vì sợ bị VC tấn công.
Tới cầu Ðồng Nai thì bị lính Dù chặn lại: lệnh Trung tướng Tư Lệnh  Quân Ðoàn III, không một quân nhân nào được phép qua cầu (hướng về  Sàigòn). Tôi liền dẫn anh em vào Công Ty Ðường Việt Nam trong khu kỹ  nghệ Biên Hòa để ngũ đỡ. Nhưng nào có ngủ được, 130 ly của địch từ Trảng  Bom bắn tới suốt đêm.
Sáng ra mới biết mình may mắn, nhiều quân nhân của các đơn vị khác  chạy về trú gần đó, cũng như đồng bào ngủ dọc theo xa lộ bị chết, bị  thương khá nhiều.
Tôi còn đang phân vân chưa biết đi đâu thì một số anh em Không Quân  từ Biên Hòa chạy lên cho biết “Không Quân đã trở lại phi trường!”. Lính  Dù đã cương quyết không cho qua cầu thì dù trong lòng bán tín bán nghi  tôi cũng đành trở lại Biên Hòa xem sao. Về đến nơi, quả thật có thấy  lính Không Quân đang chạy tới chạy lui trong phi trường, nhưng toàn là  lính…”phòng thủ”!
Thì ra đêm qua, vị sĩ quan chỉ huy bên SÐ3KQ đã không đưa đoàn người  về Sàigòn (có lẽ sợ không an toàn) mà cho ngủ lại ở sân banh. Tôi hỏi  ông bây giờ mình tính sao, ổng nói chờ lệnh bên Quân Ðoàn di tản, mình  đi theo.
Buồn tình, tôi nói anh em xuống đoàn quân xa đổ xăng cho đầy xe và  các bình can sơ-cua (phước đức ông bà, đêm hôm qua người ta quên không  đốt cây xăng!) rồi đi vòng vòng xem những chỗ đã đốt chiều hôm trước.
Với tư cách là tư lệnh, là chỉ huy trưởng, chắc chắn Chuẩn Tướng  Huỳnh Bá Tính, Từ Văn Bê đã vô cùng đau lòng khi ra lệnh đốt phi trường  vào chiều ngày hôm trước, nhưng dù sao hai ông cũng đã không bị quay trở  lại để nhìn “đống tro tàn”. Chỉ có tôi và những người quay trở lại căn  cứ vào sáng 29/4/1975 mới trải qua những giây phút trống vắng lạ kỳ, với  tâm trạng bi ai khôn tả trước cảnh điêu tàn ấy!
Khoảng gần trưa, bên Quân Ðoàn cho lệnh di tản. Trên đường về Sàigòn  theo xa lộ cũ đoàn quân xa màu xanh của Không Quân tản mác dần trong  rừng xe của các quân binh chủng. Tới Ngã Tư Hàng Xanh, hầu hết xe Không  Quân đều quẹo về hướng Bà Chiểu để vào TSN, riêng tôi vì muốn gặp lại vợ  con, gia đình trước khi có quyết định nên chạy thẳng vào cầu Phan Thanh  Giản. Chàng Thiếu Uý trẻ và các binh sĩ dưới quyền tôi cũng có cùng tâm  trạng nên đều đồng ý theo tôi. Trước khi chia tay nhau ở ngã tư Phan  Thanh Giản – Pasteur, chàng Thiếu úy hỏi:
-Trung Úy, rồi ngày mai mình đi đâu?
Lúc đó, trong lòng tôi vẫn còn hy vọng những gì Không Quân bàn tán  trong mấy ngày qua có thể trở thành sự thật: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ  sẽ lãnh đạo tử thủ vùng 4. tôi đáp:
-Ðừng vào TSN nữa, về thẳng CầnThơ!
Tôi về tới nhà, mừng rỡ gặp lại vợ con, rồi quá mệt vì mấy đêm liên  tiếp không ngủ, tôi đánh một giấc cho tới sáng. Sáng sớm hôm sau, vợ tôi  đánh thức tôi dậy để nghe ông Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng.
Hai hôm sau, Cần Thơ mất.
Hai mươi năm năm sau, giờ đây có lẽ ông Kỳ đã quên hẳn ý định “tử  thủ” năm nào, nhưng riêng tôi, thỉnh thoảng ban đêm vẫn còn mơ mình đang  lái chiếc xe Scout màu xanh không quân của ông Từ Văn Bê trên đường về  Cần Thơ.
Như Niên trưởng Phùng Văn Chiêu đã viết: “vì vận mệnh đất nước, tất  cả…. đều đã mất”, có tiếc nuối, có vọng tưởng cũng thế thôi. Nhưng bên  cạnh đó, giữ được trong lòng những gì mà “một thời đã yêu, một đời để  nhớ” cũng là một thứ hạnh phúc của phần đời còn lại. Và cũng giống như  niên trưởng, cũng giống như bất cứ người Không Quân VNCH nào còn hãnh  diện vì màu cờ sắc áo năm xưa, “yêu” đó, “nhớ” đó, với tôi chính là cuộc  sống, là tình người, là truyền thống của quân chủng Không Quân – trong  đó phượng hoàng sát cánh cùng chim bồ nông, hải âu chung bầy với chim  cánh cụt.
Thiên Ân
Melbourne – tháng 11/2000
Bàn ra tán vào (0)
Nghe tiếng hát Phùng Văn Chiêu – Nhớ những ngày cuối cùng của Biên Hoà
Danh từ “Không Quân”, dù ttrong ngôn ngữ của ta hay của Tây,  cũng đều có nghiã là “lực lượng quân sự trên không” (Airforce, Armée de  l’Air). Nhưng trên thực tế, chỉ có chưa đến một phần mười trong tổng số  quân nhân của không quân là biết…bay. Thí dụ: vào thời gian quân số lên  cao nhất (đầu năm 1973), Không Quân VNCH có 64.147 người thì chỉ có vài  ngàn là nhân viên phi hành.

Vậy mà hễ nói tới không quân, người ta chỉ nhắc tới mấy cha pilot, hễ  viết về không quân, người ta chỉ ca tụng lực lượng phi hành. Tức là có  sự phân biệt kỳ thị giữa “chim” đi mây về gió và “chim” nằm lì một chỗ.  Một bên là “phượng hoàng”, một bên là “chim cánh cụt” (penguin)!.
Nếu tôi nhớ không lầm thì trước năm 1975, trên tạp chí Lý Tưởng của  Bộ Tư Lệnh Không Quân ta, từ đầu mùa đến cuối mùa, bên cạnh hàng trăm,  hàng ngàn bài viết bốc thơm mấy cha pilot, mấy chàng xạ thủ phi hành,  thì chỉ có vài bài viết để ủi an mấy chàng phi đạo. hoặc mấy ông thợ sửa  máy bay ở Công Xưởng Không Quân (sau này gọi là Bộ Chỉ Huy và Tiếp Vận  Không Quân). Riêng lực lượng “yểm cứ” thì hình như chưa bao giờ được hân  hạnh lên mặt báo cả!.
Nói về hai chữ “yểm cứ”, chắc chắn phải có những ông pilot Việt Nam  Cộng Hòa không hề biết rằng trong Không Quân ta có những không đoàn  (wing) gọi là Không Ðoàn Yểm Cứ (Air base wing). Tôi dám viết như thế vì  có chứng cớ đàng hoàng:
Cuốn “Flying Dragons” (Phi Long) của tác giả Robert C. Mikesh, cho  tới nay vẫn được coi là cuốn sách viết công phu và đầy đủ nhất về Không  Quân VNCH (Mikesh nguyên là pilot quan sát bay O-2A, và là sĩ quan liên  lạc không quân ở Việt Nam trước năm 1975, hiện là trưởng toán thuyết  minh tại Viện Bảo Tàng Hàng Không & Không Gian Quốc Gia ở Washington  DC, USA).
Ðầy đủ tới mức không thiếu một phù hiệu (insignia) nào của các đơn vị  trong Không Lực VNCH. Thế nhưng phía dưới phù hiệu của Không Ðoàn Yểm  Cứ Pleiku – con chim Bồ Nông (pelican) với hai ngành dương liễu phía  dưới và hai mẫu tự PK ở phía trên – tác giả đã cả gan chú thích:  Anti-aircraft (Phòng Không)!
Cũng cần nói thêm rằng là khi viết cuốn sách này, tác giả đã phỏng  vấn, tham khảo hàng trăm cựu sĩ quan trong Không LựcVNCH, từ cấp tướng  như các ông Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Oánh (TTHLKQ), Nguyễn Hữu Tần  (SÐ4KQ) xuống tới cấp Ðại úy, Trung úy. Và có lẽ một vị trong số này,  khi được tác giả hỏi về lai lịch của phù hiệu này, thấy hai mẫu tự “PK”  liền suy diễn đó là viết tắt của hai chữ… Phòng Không!. Không quân thì  phải có… phòng không. Có lý quá đi chớ!!!.
Xin lạy các Bố! Phù hiệu có con chim Bồ Nông với hai mẫu tự viết tắt  chính là phù hiệu của các Không Ðoàn Yểm Cứ trong Không Lực VNCH và  những chữ viết tắt thuộc các đơn vị PK: Pleiku – ÐN: Ðà Nẵng – NT: Nha  Trang – BH: Biên Hòa – TSN: Tân Sơn Nhất v..v..
Giải thích như các Bố (PK: phòng không), các ông cựu Không Ðoàn Trưởng Yểm Cứ mà đọc được sẽ buồn 5 phút!
Cũng giống như nỗi buồn của các NT Nguyễn Ngọc Oánh, Từ Văn Bê, Vũ  Văn Ước khi thấy ai đó viết trên internet rằng Không Quân VNCH có 6 đại  đơn vị là các Sư Ðoàn 1, 2, 3, 4 ,5 và 6 Không Quân!.
Một cách chính xác nhất, theo sơ đồ tổ chức cuối cùng, Không Quân  VNCH có tới 9 đại đơn vị cấp sư đoàn hoặc tương đương, đó là 6 sư đoàn  không quân đã nhắc tới ở trên và 3 đơn vị biệt lập: Trung Tâm Huấn Luyện  Không Quân (ATC: Air Training Centre, chỉ huy trưởng Chuẩn tướng Nguyễn  Ngọc Oánh) – Bộ Chỉ Huy và Tiếp Vận Không Quân (ALC: Air Logistics  Command, chỉ huy trưởng Chuẩn Tướng Từ Văn Bê) – Bộ Chỉ Huy Hành Quân  Không Quân (AOC: Air Operations Command, chỉ huy trưởng Ðại Tá Vũ Văn  Ước).
Tôi không phải dân “Tổng Quản Trị” nhưng tình cờ biết được khi tham  dự buổi thao dợt Ngày Không Lực 1-7-1973, tổ chức tại Tân Sơn Nhất.  Trước ngày lễ mấy ngày, các ông tư lệnh, chỉ huy trưởng các đơn vị phải  cử người về để thay mình tập dợt, sau đó mới về “dợt lại” cho ông xếp  lớn. Tôi được đóng vai ông Từ Văn Bê.
Trong buổi lễ này, tới phần tuyên dương các đơn vị, 6 ông tư lệnh Sư  Ðoàn và 3 ông chỉ huy trưởng từ khán đài đi xuống (có một ông đếm nhịp  đàng hoàng), đứng thành một hàng ngang trước mặt Trung Tướng Trần Văn  Minh, bên cạnh mỗi ông là lá cờ của đơn vị mình (9 là cờ có kích thước  bằng nhau).
Trở lại với các Không Ðoàn Yểm Cứ, có thể nói nhiệm vụ tổng quát là  giúp cho người không quân được “an cư” trước khi “lạc nghiệp”. Lo chỗ  ăn, chỗ ở, lo điện nước, lo đường xá, lo quản trị hành chánh, lo lương  lậu, lo phòng thủ căn cứ… toàn là những việc “không tên”, đám dân bay đã  không biết ơn còn đem lòng… thù ghét. Ghét từ ông Không đoàn trưởng  xuống tới chàng quân cảnh gác cổng phi trường!
 Cố Chuẩn tướng Lưu Kim Cương
Mà Ðoàn Quân Cảnh thì thuộc Liên Ðoàn Phòng Thủ, nằm trong Không Ðoàn  Yểm Cứ cho nên quân cảnh bị ghét thì ông Liên đoàn trưởng, ông Không  đoàn trưởng cũng bị ghét lây. Tôi được hân hạnh biết 4 ông Không đoàn  trưởng Yểm Cứ – Ðỗ Trang Phúc ở Nha Trang – Võ Quế, Phạm Bá Mạo ở Pleiku  – Phùng Văn Chiêu ở Biên Hòa, thì thấy không có ông nào được quan, lính  không quân “thương” cả. Trong khi công tâm mà nhận xét trong 4 ông, chỉ  có ông Ðỗ Trang Phúc là hơi hơi…khó tính, 3 ông còn lại hiền như…bụt!.
 Phùng Văn Chiêu (2006)
-Bộ chú em là Việt cộng vô nằm vùng hả?…
Sau này đi lính không quân, khi đổi về Biên Hòa có nhiều bạn bè thân  bên yểm cứ, được dịp tiếp xúc mới biết ông Chiêu hiền khô và có máu văn  nghệ cùng mình.
Làm “yểm cứ” là chấp nhận “trăm dâu đổ đầu tằm”. Còn nhớ có lần phái  đoàn Bộ Tư Lệnh KQ tới căn cứ Biên Hoà để thanh tra SÐ3KQ của ông Huỳnh  Bá Tính và Bộ Chỉ Huy Kỹ Thuật & Tiếp Vận KQ của ông Từ Văn Bê. Buổi  chiều giải trình tại câu lạc bộ Bửu Long, Trung Tướng Trần Văn Minh, vị  tư lệnh nổi tiếng ăn nói thẳng thừng, đã phê bình tình trạng vệ sinh  ttrong căn cứ như sau:
-Tới Biên Hoà, khỏi cần dòm mấy tấm bảng ghi không đoàn này, phòng sở  nọ là của ai, mà chỉ cần thấy chỗ nào sạch sẽ là biết của bên Bộ Chỉ  Huy, chỗ nào dơ dáy là của bên Sư Ðoàn!
Nghe ông Minh cồ phán, Chuẩn tướng Từ Văn Bê không dám cười, Chuẩn  tướng Huỳnh Bá Tính thì cười gượng và đưa mắt liếc… ông không đoàn  trưởng yểm cứ “thân yêu” của mình: Ðại tá Phùng Văn Chiêu!
Kế cũng bất công thật!
Rồi tới vụ Trung tướng Phạm Quốc Thuần, Tư Lệnh Quân Ðoàn III, ra  “chiến dịch” hốt lính không quân sáng sáng tụ tập hai bên đường Trịnh  Hoài Ðức (phiá ngoài cổng phi trường) mà không chịu chào kính khi thấy  xe mang cờ 3 sao của ông chạy ngang qua (trên đường đến Bộ Tư Lệnh QÐ).  Mỗi ngày, hàng trăm lính không quân bị quân trấn Biên Hoà hốt, đem về  cho ngồi ngoài bờ sông Ðồng Nai … ngắm cảnh!.

Không có lính kỹ thuật thì lấy ai sửa máy bay, không có lính phi đạo  thì làm sao pilot có tàu. Thế là “yểm cứ” lãnh thêm nhiệm vụ mới: ca bài  ca con cá với ông quân trấn trưởng để lãnh lính không quân về…

Ðể rồi tới những ngày cuối cùng của Biên Hoà, người “yểm cứ” cũng là những người cuối cùng rời bỏ căn cứ…
Khoảng một tuần lễ trước ngày 30 tháng 4, vì khu gia binh bị VC pháo  kích thường xuyên, tôi đưa vợ con về Sàigòn. Thứ Bảy 26/4, tôi ở lại  Biên Hoà vì sáng ngày hôm sau, tôi sẽ trực BCH/KT&TV/KQ. Dù bị pháo  kích nhiều, tình hình ra vẻ vẫn chưa có gì đáng ngại. Buổi chiều thứ  bảy, tôi vẫn còn thấy những chiếc Skyraider cất cánh từ Biên Hoà đi đánh  VC ở Trảng Bom, Gầu Dây, hoặc diệt các ổ pháo 130 ly ở phía Bắc phi  trường.
Qua ngày Chủ Nhật 27/4, VC bỗng gia tăng cường độ pháo kích vào phi  trường, phần lớn là đại bác 130 ly (sau này được biết từ sáng đến khuya  Chủ Nhật, chúng đã pháo tổng cộng khoảng 1600-1700 trái vào phi trường  và Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn).
Phi trường gần như bị tê liệt.
Càng về khuya, VC càng pháo dữ dội. Khoảng hơn 10 giờ đêm, nghe tiếng  trực thăng bên KÐ43CT bắt đầu cất cánh, tôi biết giờ này K., một thằng  bạn thân của tôi từ ngày còn đi học, đang nôn nóng đợi tôi theo lời dặn  dò khi hai thằng gặp nhau hôm thứ bảy. Nhưng nhìn những hạ sĩ quan và  lính trực, nghĩ tới mấy chục khóa sinh (học định nghiệp) đang ứng chiến  phía ngoài, nhớ tới những quân nhân trong đơn vị bị thương vì đạn pháo  kích đang nằm hấp hối ở bệnh xá tôi không đủ can đảm bỏ đi.
Mười một giờ đêm, tiếng trực thăng xa dần…
Sáng thứ hai 28/4, VC bớt pháo kích rồi ngưng hẳn. Có lẽ chúng biết  các phi cơ đã bay đi hết, tức là phi trường không còn lực lượng tác  chiến nữa, bắn chi cho phí đạn!
Sĩ quan trực ngày Thứ Hai không đến đơn vị, tôi phải tiếp tục nhiệm  vụ. Những quân nhân đã về Sàigòn vào cuối tuần trước, giờ đây đều có lý  do chính đáng để không trở lại Biên Hòa: du lích VC đã xuất hiện tại một  số vị trí dọc theo xa lộ Ðại Hàn, đi ngang có thể bị phục kích bắn sẻ,  cho nên tốt hơn hết là chạy thẳng vào Tân Sơn Nhất trình diện Bộ Tư  Lệnh.
Khoảng 10 giờ sáng, một vị tướng của Bộ Tư Lệnh (Chuẩn tướng Ðặng  Ðình Linh, nếu tôi nhớ không lầm) đáp xuống T.O.C. của SÐ3KQ họp với hai  tướng Huỳnh Bá Tính và Từ Văn Bê và các vị chỉ huy cao cấp. Sau buổi  họp, Chuẩn tướng Từ Văn Bê trở về BCH-KT&TV-KQ cho triệu tập các đơn  vị trưởng, trưởng phòng, trưởng khối và sĩ quan trực, ông cho biết Bộ  Tư Lệnh ra lệnh di tản căn cứ Biên Hòa (bằng trực thăng Chinook) về Tân  Sơn Nhất và có thể từ đó sẽ về Cần Thơ. Dĩ nhiên trước khi đi phải đốt  phá thành bình địa, không để lại một thứ gì địch có thể xử dụng.
(Sau này tôi được biết sở dĩ Biên Hoà về Sài gòn chỉ có 25 cây số mà  không di tản bằng đường bộ, là vì lúc đó Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư  Lệnh Quân Ðoàn III không cho phép Không Quân Biên Hòa di tản).
Ðịa điểm Chinook đáp là sân đậu phi cơ trước hangar B (khu Tây). Sĩ  quan cấp dưới, hạ sĩ quan và binh sĩ ra đó trước, sĩ quan cao cấp nhất ở  lại phần sở, sau khi đốt mới được đi. Ðể Chinook có thể chở người tới  mức tối đa, các quân nhân không được mang theo bất cứ thứ gì ngoài nón  sắt, khẩu súng và hai cấp số đạn. Ưu tiên di tản như sau: Phòng An Ninh  Quân Ðội, Phòng Tài Chánh, Phòng Tổng Quản Trị ( vì hồ sơ cần mang đi  trước); kế tiếp là lính kỹ thuật và sau cùng mới tới Liên Ðoàn Phòng  Thủ.
Vì nhiều sĩ quan cao cấp trong đó có ông Trung Tá Trưởng Khối Chiến  Tranh Chính Trị của tôi bị “kẹt” ở Tân Sơn Nhất nên tôi được trao trách  nhiệm Khối CTCT và các phòng sở tham mưu tại Bộ chỉ huy.
Khoảng 3 giờ chiều, sau khi cho người xuống Ðoàn Quân Xa lấy một can  xăng 20 lít, tôi nói Thiếu Úy T. đưa anh em ra địa điểm di tản, còn tôi ở  lại với Chuẩn Tướng Từ Văn Bê.
Khoảng 4 giờ chiều (hoặc 4 giờ rưỡi, tôi không nhớ chính xác), Ông Bê  nói tôi chuẩn bị đốt building Bộ Chỉ Huy. Tôi lấy xăng rưới, bắt đầu từ  phòng làm việc của ông ở trên lầu, dọc theo hàng lang rồi xuống cầu  thang. Tôi và ông bước ra cửa. Người lính của Ðoàn Phòng Vệ có nhiệm vụ  gác Bộ Chỉ Huy đưa tay chào lần cuối cùng!
Chuẩn Tướng Từ Văn Bê quay lại nhìn cái building to đẹp nhất căn cứ  KQ Biên Hòa (do KQ Mỹ bàn giao lại) rồi chửi thề nho nhỏ (lần đầu tiên  trong 3 năm ở Biên Hòa tôi thấy ông chửi thề):
-Mẹ mấy thằng Huê Kỳ, xây cho cố vào rồi bây giờ đốt!
Rồi tôi được lệnh châm lửa. Ông Bê lái xe chở tôi chạy ngang Trung  Tâm Quản Trị Vật Liệu ở gần đó. Trung Tá Nguyễn Kim Cương, chỉ huy  trưởng đợi sẵn, liền châm lửa đốt Phòng Ðiện Toán, kế tiếp là Ðoàn Ðộng  Cơ Phản Lực, Liên Ðoàn Vũ Khí & Ðiện Tử và tất cả các cơ sở khu  Ðông, chỉ trừ dàn thử động cơ phản lực (Test cell) ở tận cuối phi đạo  phía Ðông (ssau này các quân nhân KQ bị VC bắt vào dọn dẹp phi trường đã  cho tôi biết Test Cell vẫn còn nguyên vẹn).
Ðốt xong khu Ðông, tôi và Chuẩn Tướng Bê sang khu Tây. Tới chỗ tập  họp của binh sĩ, tôi xuống xe. Thú thực tôi xuống xe mà đầu óc không suy  nghĩ gì cả. Tôi không một thoáng phân vân giữa việc xin đi theo ông Bê  (ông và Chuẩn Tướng Huỳng Bà Tính có trực thăng chờ sẵn) và việc ở lại  với anh em binh sĩ. Tôi coi việc ở lại là một cái gì đương nhiên, thế  thôi!…
Sau khi Chinook đáp được vài đợt, thì đùng một cái ai đốt kho bom!
Thế là những tiếng nổ long trời lở đất nối tiếp nhau, miểng bom chài  (như cây đinh có đuôi năm cánh) văng rào rào xuống phi đạo, rới lộp cộp  trên nón sắt của mọi người. Các quân nhân trách nhiệm các hangar thấy  thế cũng vội vã đốt cơ sở, khói lửa càng thêm mịt mù. Trước tình thế đó,  Chinook đáp rất khó khăn, từng chiếc, từng chiếc… và cuối cùng, khi màn  đêm chuẩn bị buông xuống, chỉ còn lại đoàn người tuyệt vọng ngồi trên  phi đạo!
Tới đây, vì là người đầu tiên châm lửa đốt Căn Cứ KQ Biên Hòa, tôi  nhận thấy có đôi lời phân bày trước dư luận trong KQ Biên Hòa cho rằng:  Ngày ấy Chuẩn Tướng Huỳnh Bá Tính đã trách cứ Chuẩn Tướng Từ Văn Bê về  việc ra lệnh đốt quá sớm khiến binh sĩ bị rối loạn tinh thần, đưa dến  tình trạng hỗn loạn và vì thế cuộc di tản bằng trực thăng Chinook đã bị  bỏ dở làm cho cả ngàn quân nhân thuộc 2 đơn vị: SÐ3KQ và  BCH/KT&TV/KQ bị kẹt lại!
Tôi hoàn toàn không đồng ý (với dư luận đó).
Thứ nhất, “cơ sở” của BCH/KT&TV/KQ là hàng trăm kho vật liệu. là  các trung tâm điện toán, trung tâm quy chuẩn là các hangar tổng kiểm,  bảo trì phi cơ, với biết bao máy móc điện tử… ở rải rác từ khu Ðông sang  khu Tây, không đốt sớm thì không thể Ð-T HẾT. Chuẩn Tướng Bê đốt sớm có  lẽ vì muốn đích thân chứng khiến tất cả đã được đốt, trước khi mọi  người rời bỏ căn cứ (tôi gần gũi, biết tính ông Bê kỹ lưỡng nên đoán vậy  thôi, chứ từ sau 30/4/75, tôi chưa hề được gặp lại ông).
Thứ hai, lúc ban đầu bên BCH đốt cơ sở khu Ðông, tức là cách xa địa  điểm di tản (khu Tây) cả mấy cây số , binh sĩ cùng lắm cũng chỉ nhìn  thấy chút khói thôi. Nếu họ mất tinh thần thì mất vì thiếu vắng cấp chỉ  huy trực tiếp nhiều hơn là vì thấy căn cứ bị đốt. (Riêng binh sĩ của  BCH/KT&TV/KQ, tôi nhận thấy họ bình tĩnh và nghe lệnh các sĩ quan  cho tới giờ phút chót).
Cho nên, nếu có trách thì phải trách người ra lệnh cho nổ kho bom quá  sớm (hoặc ra chỉ thị không rõ ràng), cũng như trách Bộ Tư Lệnh KQ đã  không có đủ Chinook để di tản binh sĩ. Bởi vì theo nhận xét của tôi, dù  kho bom không nổ sớm, với nhịp độ đáp thưa thớt của Chinook, tới tối  cũng không thể nào di tản hết cả ngàn quân nhân còn kẹt lại.
Cuối cùng, không thể không quy trách một phần cho tên phi công nội  tuyến Nguyễn Thành Trung, kẻ đã hướng dẫn A-37 về oanh tạc phi trường  Tân Sơn Nhất vào buổi chiều hôm đó. Bởi vì nếu Tân SơnNhất không bị ăn  bom của y và đồng bọn, rất có thể Chinook vẫn tiếp tục bay xuống Biên  Hòa để di tản
Phần tôi, sau này cứ tự an ủi: “bị kẹt” có khi lại là may mắn, về TSN  biết đâu lại chết vì bom của tên nội tuyến ấy, hoặc vì đạn pháo kích  của Việt cộng!
Khoảng 7 giờ tối căn cứ Biên Hòa hoàn toàn mất liên lạc với Bộ Tư  Lệnh KQ, phi trường bị chìm trong bóng tối vì nhà máy điện đã bị đốt.  Phía SÐ3KQ, vị sĩ quan cao cấp nhất đã quyết định dẫn lính về Sàigòn  bằng đường bộ, phía BCH/KT&TV/KQ, sĩ quan cao cấp nhất là Thiếu Tá  Nhữ Văn Phúc, Liên Ðoàn Trưởng Vũ Khí & Ðiện Tử (có thời giữ quyền  Trưởng Khối CTCT); ông nói với tôi:
- Vợ con Moa còn kẹt lại bên Cù Lao, không biết giờ này ra sao. Moa phải về. Thôi, Toa ở lại nhé!
Lúc đó, tình hình đã hỗn loạn. Lớp thì Cảnh Sát Dã Chiến vào giữ phi  trường theo lệnh của Quân Ðoàn, lớp thì đám người “thừa nước đục thả  câu” vào “hôi của” trong khu gia binh, lớp thì binh sĩ tự động tan hàng…  Tôi quyết định đưa số anh em bên BCH/KT&TV/KQ còn ở lại với tôi về  Sàigòn bằng đường bộ. Nhưng vì quân số ít, lại không có khả năng “tác  chiến” như lính phòng thủ, tôi đi ra ngã ba Tam Hiệp rồi theo xa lộ cũ  chứ không dám sử dụng xa lộ Ðại Hàn vì sợ bị VC tấn công.
Tới cầu Ðồng Nai thì bị lính Dù chặn lại: lệnh Trung tướng Tư Lệnh  Quân Ðoàn III, không một quân nhân nào được phép qua cầu (hướng về  Sàigòn). Tôi liền dẫn anh em vào Công Ty Ðường Việt Nam trong khu kỹ  nghệ Biên Hòa để ngũ đỡ. Nhưng nào có ngủ được, 130 ly của địch từ Trảng  Bom bắn tới suốt đêm.
Sáng ra mới biết mình may mắn, nhiều quân nhân của các đơn vị khác  chạy về trú gần đó, cũng như đồng bào ngủ dọc theo xa lộ bị chết, bị  thương khá nhiều.
Tôi còn đang phân vân chưa biết đi đâu thì một số anh em Không Quân  từ Biên Hòa chạy lên cho biết “Không Quân đã trở lại phi trường!”. Lính  Dù đã cương quyết không cho qua cầu thì dù trong lòng bán tín bán nghi  tôi cũng đành trở lại Biên Hòa xem sao. Về đến nơi, quả thật có thấy  lính Không Quân đang chạy tới chạy lui trong phi trường, nhưng toàn là  lính…”phòng thủ”!
Thì ra đêm qua, vị sĩ quan chỉ huy bên SÐ3KQ đã không đưa đoàn người  về Sàigòn (có lẽ sợ không an toàn) mà cho ngủ lại ở sân banh. Tôi hỏi  ông bây giờ mình tính sao, ổng nói chờ lệnh bên Quân Ðoàn di tản, mình  đi theo.
Buồn tình, tôi nói anh em xuống đoàn quân xa đổ xăng cho đầy xe và  các bình can sơ-cua (phước đức ông bà, đêm hôm qua người ta quên không  đốt cây xăng!) rồi đi vòng vòng xem những chỗ đã đốt chiều hôm trước.
Với tư cách là tư lệnh, là chỉ huy trưởng, chắc chắn Chuẩn Tướng  Huỳnh Bá Tính, Từ Văn Bê đã vô cùng đau lòng khi ra lệnh đốt phi trường  vào chiều ngày hôm trước, nhưng dù sao hai ông cũng đã không bị quay trở  lại để nhìn “đống tro tàn”. Chỉ có tôi và những người quay trở lại căn  cứ vào sáng 29/4/1975 mới trải qua những giây phút trống vắng lạ kỳ, với  tâm trạng bi ai khôn tả trước cảnh điêu tàn ấy!
Khoảng gần trưa, bên Quân Ðoàn cho lệnh di tản. Trên đường về Sàigòn  theo xa lộ cũ đoàn quân xa màu xanh của Không Quân tản mác dần trong  rừng xe của các quân binh chủng. Tới Ngã Tư Hàng Xanh, hầu hết xe Không  Quân đều quẹo về hướng Bà Chiểu để vào TSN, riêng tôi vì muốn gặp lại vợ  con, gia đình trước khi có quyết định nên chạy thẳng vào cầu Phan Thanh  Giản. Chàng Thiếu Uý trẻ và các binh sĩ dưới quyền tôi cũng có cùng tâm  trạng nên đều đồng ý theo tôi. Trước khi chia tay nhau ở ngã tư Phan  Thanh Giản – Pasteur, chàng Thiếu úy hỏi:
-Trung Úy, rồi ngày mai mình đi đâu?
Lúc đó, trong lòng tôi vẫn còn hy vọng những gì Không Quân bàn tán  trong mấy ngày qua có thể trở thành sự thật: Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ  sẽ lãnh đạo tử thủ vùng 4. tôi đáp:
-Ðừng vào TSN nữa, về thẳng CầnThơ!
Tôi về tới nhà, mừng rỡ gặp lại vợ con, rồi quá mệt vì mấy đêm liên  tiếp không ngủ, tôi đánh một giấc cho tới sáng. Sáng sớm hôm sau, vợ tôi  đánh thức tôi dậy để nghe ông Dương Văn Minh kêu gọi đầu hàng.
Hai hôm sau, Cần Thơ mất.
Hai mươi năm năm sau, giờ đây có lẽ ông Kỳ đã quên hẳn ý định “tử  thủ” năm nào, nhưng riêng tôi, thỉnh thoảng ban đêm vẫn còn mơ mình đang  lái chiếc xe Scout màu xanh không quân của ông Từ Văn Bê trên đường về  Cần Thơ.
Như Niên trưởng Phùng Văn Chiêu đã viết: “vì vận mệnh đất nước, tất  cả…. đều đã mất”, có tiếc nuối, có vọng tưởng cũng thế thôi. Nhưng bên  cạnh đó, giữ được trong lòng những gì mà “một thời đã yêu, một đời để  nhớ” cũng là một thứ hạnh phúc của phần đời còn lại. Và cũng giống như  niên trưởng, cũng giống như bất cứ người Không Quân VNCH nào còn hãnh  diện vì màu cờ sắc áo năm xưa, “yêu” đó, “nhớ” đó, với tôi chính là cuộc  sống, là tình người, là truyền thống của quân chủng Không Quân – trong  đó phượng hoàng sát cánh cùng chim bồ nông, hải âu chung bầy với chim  cánh cụt.
Thiên Ân
Melbourne – tháng 11/2000
       


















