Nhân Vật
Ngô Đình Nhu – Nhà tri thức, nhà lưu trữ, nhà cố vấn chính trị
Trong khuôn viên đẹp đẽ, sang trọng của Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại thành phố Đà Lạt có một biệt thự sang trọng hiện đang dùng làm nhà kho lưu trữ trung chuyển, đó chính là ngôi biệt thự nghỉ cuối tuần của hai vợ chồng Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân thuở nào.
Ngô Đình Nhu sinh ngày 7-10-1910 tại xã Phước Qua, tổng Cự Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình quan lại theo đạo Thiên Chúa. Là con trai của Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái, sau những năm tháng học tập dưới sự dạy dỗ của cha và giáo hội ở Huế, Ngô Đình Nhu sang Paris theo học tại các trường Đại học Văn khoa và Ngôn ngữ phương Đông. Ông thi đỗ vào trường Cổ tự học Quốc gia vào năm 1935 và tốt nghiệp năm 1938 với luận văn về lịch sử Việt Nam lần đầu tiên được bảo vệ tại Pháp có nhan đề “Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỉ thứ 17 đến thế kỉ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo” (Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIè et XVIIIè sècles d’après les voyageurs et missionairies). Luận văn của Ngô Đình Nhu đã gây được sự chú ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp và vì thế, ông đã được nhận giải thưởng xuất sắc.
Trở về Việt Nam với hai bằng Lưu trữ – Cổ tự và Cử nhân khoa học, Ngô Đình Nhu được bổ nhiệm Lưu trữ viên – Cổ tự tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ở Hà Nội. Ngay trong năm làm việc đầu tiên với chức danh Quản thủ viên phó hạng 3 (tháng 12-1938), Ngô Đình Nhu đã được Giám đốc Paul Boudet đánh giá là một “Lưu trữ viên – Cổ tự trẻ đầy triển vọng”.Chỉ trong một thời gian ngắn làm việc ở Hà Nội (từ tháng 2-1938 đến giữa năm 1942), Ngô Đình Nhu đã chứng tỏ năng lực của mình trong việc cộng tác với Paul Boudet và Rémi Bourgeois (Phó Giám đốc) biên soạn và xuất bản các tập 2, 3 và 4 của bộ Đông dương pháp chế toàn tập (Recueil général de la Législation et de la Règlementation de l’Indochine). Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn được Paul Boudet giao trách nhiệm chính trong việc chuẩn bị tài liệu để tham gia các cuộc tổ chức được triển lãm tại Hà Nội và tại Huế.
Không chỉ được nhận xét là “một công chức trẻ có giá trị nhất, hội tụ những đức tính kiên quyết và thẳng thắn, có văn hóa rộng và một khả năng nghề nghiệp hoàn hảo”, Ngô Đình Nhu còn được đánh giá là “bằng chứng của một học thuyết uyên bác, một sự hoạt động không mệt mỏi” và ông đã trở thành “một cộng sự quý báu” của Paul Boudet.Niềm đam mê trong công tác chuyên môn, năng lực làm việc và sự cộng tác có hiệu quả của Ngô Đình Nhu đã làm sống lại trong Paul Boudet niềm tin vào kế hoạch sắp xếp lại tài liệu các vương triều phong kiến Việt Nam mà Paul Boudet đã theo đuổi ngay từ những ngày đầu tiên khi đặt chân đến Đông Dương.
Cũng là một Lưu trữ viên – Cổ tự tốt nghiệp tại trường Cổ tự học Quốc gia Paris như Ngô Đình Nhu, Paul Boudet rất coi trọng các nguồn sử liệu và biện pháp bảo quản chúng. Năm 1906, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy Tổng đốc và các viên chức bản xứ ở các tỉnh miền Trung “đem tài liệu lưu trữ, trong đó có cả tài liệu của những năm Minh Mệnh thứ nhất ra phơi dưới nắng to để chống ẩm và đuổi côn trùng”, Paul Boudet đã đặc biệt vô cùng quan tâm đến nguồn tư liệu vô cùng quý giá đang ở trong tình trạng không được bảo quản theo đúng phương pháp khoa học.
Ngay từ thời gian đó, Paul Boudet đã muốn tiếp cận và áp dụng phương pháp phân loại của phương Tây với nguồn tài liệu này, nhằm làm cho chúng được khai thác, nghiên cứu và được sử dụng một cách có ích nhất.Sau nhiều năm cố gắng mà không có kết quả, mãi cho đến năm 1942, trải qua gần 5 năm cộng tác và chứng kiến khả năng đích thực của Ngô Dình Nhu, Paul Boudet một lần nữa lại quyết tâm thực hiện mục đích của mình. Tháng 9-1942, mặc dù “đầy nuối tiếc”nhưng Paul Boudet vẫn phải gửi Ngô Đình Nhu vào Huế để thành lập một tổ chức Lưu trữ và thư viện ở Huế và tổ chức lại tài liệu của chính phủ Nam triều vì Paul Boudet cho rằng đây là ‘một sự nghiệp cần thiết và đầy hiển hách”.
Tuy chính thức trở về Huế vào tháng 9-1942 nhưng trên thực tế, ngay từ tháng 2-1942, Ngô Đình Nhu đã thống nhất với ông Trần Văn Lý, Đổng lý Ngự tiền văn phòng của triều đình một kế hoạch nhằm cứu châu bản đang được cất giữ ở Nội các ra khỏi tình trạng bị hư hỏng nặng do không có người chăm sóc. Bản tấu của ông Trần Văn Lý xin đưa tất cả tài liệu trong Nội các ra Viện Văn hóa để có nhân viên chuyên trách trông nom, và xin đề nghị tổ chức một Hội đồng để chỉnh đốn đã được vua Bảo Đại chuẩn y. Hội đồng này do Ngô Đình Nhu làm chủ tịch, làm việc theo moọt phương pháp thống nhất: kiểm tra châu bản, chia ra từng loại, sắp xếp theo thứ tự thời gian rồi đóng thành từng tập có tiêu đề rõ ràng.
Trở thành Quản thủ viên của cơ quan Lưu trữ và Thư viện Trung Kỳ ở Huế từ ngày 1-1-1943, Ngô Đình Nhu bắt đầu sự nghiệp mới của mình với không ít khó khăn. Chính trong thời gian thử thách với hai nhiệm vụ nặng nề này, Ngô Đình Nhu lại một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh của “một người có học thức, một công chức đặc biệt” với phong cách làm việc “đầy nghị lực, đầy năng động”.
Ngày 29-3-1943, Nghị định tổ chức lại cơ quan Lưu trữ và Thư viện của chính phủ Bảo hộ và chính phủ Nam triều do Paul Boudet chuẩn bị đã được Toàn quyền Đông Dương ký ban hành. Nghị định quy định: Lưu trữ và Thư viện của chính phủ An Nam được đặt dưới sự chỉ đaọ trực tiếp về mặt hành chính của Bộ Quốc gia Giáo dục và dưới sự kiểm soát về mặt kĩ thuật của Quản thủ viên Lưu trữ và Thư viện, người được giao nhiệm vụ ‘làm cố vấn cho chính phủ nhà vua trong mọi lĩnh vực có liên quan đến tài liệu và lưu trữ thư viện”.
Nhiệm vụ của Cố vấn – Quản thủ viên này được giao cho Ngô Đình Nhu, theo các điều 3 và 4 của dụ số 61 ngày 11-7 năm Bảo Đại thứ 18 (tức ngày 11-8-1943) do vua Bảo Đại ký về thành lập tổ chức Lưu trữ và Thư viện của chính phủ An Nam.
Và ngày 29-4-1943, sau hôn lễ với Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu bắt đầu cuộc sống mới tại nhà số 19 đường Alexandres des Rhodes (Huế).Trong thời gian 3 năm, từ 1942 đến 1944, với vai trò Chủ tịch hội đồng cứu nguy châu bản và Cố vấn kĩ thuật, Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần quan trọng vào việc tập trung tài liệu của 5 nguồn (Quốc Sử quán, Tàng Thơ lâu, Nội các, Viện Cơ mật trước đấy và Thư viện Bảo Đại) vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của chính phủ Nam triều.Riêng đối với số châu bản ở Nội các, sau gần 2 năm làm việc dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, Hội đồng đã làm ra được 3 bản thống kê bằng chữ Hán và Việt: một bản dâng ngự lãm, một bản lưu hồ sơ và một bản gửi cho Viện Văn hóa. Tiếp đó, Hội đồng đã xin Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để cung nghênh châu bản ra Viện Văn hóa. Tất cả châu bản sau khi thống kê đều được lưu giữ trên những kệ sách mới đóng và sắp đặt rất có thứ tự.
Vô cùng hài lòng về những kết quả to lớn đó, Paul Boudet đã đánh giá Ngô Đình Nhu là “một cộng sự hạng nhất” vì theo Paul Boudet, Ngô Đình Nhu đã “hội tụ được cùng một lúc văn hóa truyền thống không thể thiếu trong vai trò của một Quản thủ viên Lưu trữ Hoàng triều và một khả năng hoàn hảo về nghề nghiệp nhờ có học thức uyên bác và vững chắc cho tổ chức Lưu trữ và Thư viện An Nam và Lưu trữ của Hoàng triều”.
Thật đáng tiếc là công việc đang tiến hành với kết quả ban đầu khả quan như thế thì xảy ra cuộc đảo chính Nhật- Pháp ngày 9-3-1945, rồi chiến tranh kéo dài… Bao nhiêu tài liệu lưu trữ của Hoàng triều đã bị mất, hỏng do thiếu người chăm sóc. Theo tục truyền, có rất nhiều châu bản được bày bán công khai tại các chợ Đông Ba, Bao Vinh, Nam Phổ, Sam… Vì vậy, một phân lớn châu bản đã bị mất hẳn, không thể nào tìm lại được.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã có một sự thay đổi lớn về tổ chức, bắt đầu từ ngày 18-4-1945 bằng việc thải hồi các nhân viên người Pháp. Theo đề nghị của giáo sư S. Kudo (Giám đốc mới của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương), Toàn quyền Đông Dương là Yuichi Tsuchihashi đã bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm Phó Giám đốc của Sở. Sau đó, Ngô Đình Nhu đã tới Hà Nội và đã có 3 tuần gặp gỡ với Giáo sư S. Kudo trong cương vị mới. Ngày 31-7-1945, được sự đồng ý của Kudo, Ngô Đình Nhu đã quay lại Huế để tiếp tục công việc ở Viện Văn hóa.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đã được thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên, Lưu trữ và Thư viện đã được chính quyền cách mạng quan tâm đến. Ngày 8-9-1945, tức là chỉ 6 ngày sau khi Việt nam tổ chức tuyên bố độc lập ở Quảng trường Ba Đình lịch sử, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch chính phủ lâm thời ký 2 sắc lệnh có liên quan đến Thư viện và Lưu trữ. Sắc lệnh thứ nhất sáp nhập các thư viện công (trong đó có thư viện Pierre Pasquier trực thuộc sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương) và một số cơ quan văn hóa khác vào Bộ Quốc gia Giáo dục. Sắc lệnh tiếp theo cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.
Sắc lệnh này thể hiện chính sách trọng dụng nhân tài của chính quyền cách mạng Việt Nam.Sau chuyến đi công cán ở Thuận Hóa để tổ chức việc phân tán tài liệu của Viện Văn hóa theo sự vụ lệnh số 125-ND ngày 4-3-1946, Ngô Đình Nhu đã trở lại Hà Nội ngày 20-5-1946, tiếp tục chỉ đạo công việc chuyên môn ở Sở.
Tờ trình số 365 ngày 16-11-1946, về công việc của Phòng Thư mục và Pháp chế của Giám đốc Sở Lưu trữ công văn và Thư viên toàn quốc gửi Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục với chữ kí tay của Ngô Đình Nhu là bằng chứng cuối cùng về hoạt động của ông trong lĩnh vực Lưu trữ – Thư viện.
Rõ ràng là, Ngô Đình Nhu đã để lại một dấu ấn không nhỏ trong lịch sử Lưu trữ Việt Nam thời kì 1938-1946, đặc biệt đối với sự sống còn của tài liệu châu bản triều Nguyễn vô giá của chúng ta.
Năm 1946, Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh trong nhóm Công giáo mà Nhu đang tập hợp, chạy về Phát Diệm – khu an toàn của Công giáo thời đó. Ẩn náu ở Phát Diệm ít ngày, Nhu chạy vào Thanh Hóa, nhờ linh mục xứ đạo ở đây che dấu, giới thiệu kết bạn với Trần Kim Tuyến, vốn là chủng sinh ở tiểu chủng viện Thanh Hóa mà sau này là Tổng Thơ ký Đảng Cần lao Nhân vị, trùm mật vụ của Đảng Cần lao dưới chế độ Diệm. Tại đây, Nhu tham gia vào các tổ chức phản động đội lốt Công giáo chống lại chính phủ kháng chiến của Việt Minh. Sau đó, Ngô Đình Nhu tìm đường chạy trốn vào Nam.
Năm 1950, khi Ngô Đình Diệm sang Mỹ vận động chính trị, Nhu cùng Bửu Dưỡng, Ngô Văn Thúy, Lý Văn Lập kết hợp thuyết Nhân Vị (Personalism) của Emmannuel Mouriers với triết lý của Thiên Chúa giáo hình thành chủ thuyết Nhân vị Duy linh, hay thuyết Nhân vị Á Đông nhằm hậu thuẫn cho anh trai. Trên nền tảng thuyết Nhân vị (Personnalism) của nhà trí thức Thiên Chúa giáo người Pháp, Emmanuel Mouniers, kết hợp với những bài thuyết giảng giáo lý của các giám mục Công giáo, Ngô Đình Nhu cùng các linh mục hòa trộn thêm một mớ tư tưởng góp nhặt gồm một ít từ giáo lý Thiên Chúa Giáo, thuyết Kiêm Ai của Khổng Tử, vài nét của chủ nghĩa Tư bản cùng với chủ nghĩa Duy Linh chống cộng do Nhu sáng tác để hình thành chủ thuyết vừa triết lý vừa chính trị gọi là chủ nghĩa Nhân Vị. Về căn bản chủ thuyết nhân vị đề cao cá nhân, lấy con người (ở đây là các vĩ nhân, một cá nhân riêng biệt) làm trung tâm. Nhân Vị là vị thế của con người, lấy con người làm trung tâm trong mối tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục vụ, có ưu thế hơn các thực tế khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất. Con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn là cốt lõi vì nó là “một loài linh thiêng, vô hình, bất tử và bất diệt”. Trên mặt triết học, học thuyết này triển khai có hệ thống những phạm trù tôn giáo của thuyết Duy Linh nặng nề về mặt tín ngưỡng của giáo lý Thiên Chúa giáo. Đến năm 1951, khi Nhu rời Đà Lạt xuống Sài Gòn khái niệm Cần Lao được thêm vào vế thứ hai của lý thuyết. Và công khai phổ biến trên tuần báo Xã Hội.
Tuy nhiên, chủ thuyết của Ngô Đình Nhu đã không được các trí thức Việt Nam cùng thời thừa nhận. Kỳ giả Stanley Karnow đã nêu lên những nhận định của những người đường thời về chủ thuyết này như sau: “Thuyết Nhân Vị của Ngô Đình Nhu đã chịu 2 sự tai hại. Thứ nhất là ngay cả giới trí thức mà còn không thể hiểu nổi thuyết đó là gì huống chi quần chúng. Thứ hai là ông Ngô Đình Nhu bị người thừa kế của Mounier lên án là “gian lận” trên tờ báo Công Giáo Esprit tại Pháp. Ngô Đình Nhu cố gắng tổng hợp một cách quá gượng ép nhiều hệ thống tư tưởng vào thuyết Nhân Vị của ông ta, vì tuy chủ yếu mô phỏng thuyết Nhân Vị Mounier nhưng ông lại muốn có những thêm bớt, đổi thay cho có vẻ đó là sáng tạo độc lập riêng của mình. Đã thế ông Nhu tuy là một người Việt trí thức nhưng lại xuất thân từ trường Tây nên không viết được hay không muốn viết bài bằng quốc ngữ mà chỉ muốn viết bằng tiếng Pháp rồi có người dịch ra tiếng Việt. Do đó bản dịch không lột hết được tư tưởng của ông ta. Nguyên bản tiếng Pháp đã khúc mắc khó hiểu vì khó khăn diễn đạt thì bản dịch Việt ngữ chắc chắn như một mớ chỉ rối. Chẳng trách, ngay đến giờ này, một lý thuyết gia đã từng nhận là chỉ đạo sinh mệnh quốc gia suốt 9 năm trời như thế mà không để lại được một tác phẩm nghiên cứu nào, lại càng không để lại một vết tích suy tư nào trong tâm thức dân tộc, ngoại trừ một thiểu số “hoài Ngô” chỉ biết hò hét 2 chữ Nhân Vị nhạt nhẽo”.
Năm 1953, nhằm tạo lực lượng cho Diệm, Nhu cùng Trần Văn Đỗ, Trần Chánh Thành, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Trung Dung xin phép Bửu Lộc – đang làm Thủ tướng Chính phủ tay sai thực dân Pháp lúc đó, cho ra đời một lực lượng thợ thuyền lấy tên là “Tổng Liên Đoàn Lao Công” dựa theo mô hình của lực lượng thợ thuyền Thiên Chúa giáo Pháp. Vào tháng 9/1953, Nhu tiếp tục tổ chức hội nghị “Đại đoàn kết”, đòi hỏi hòa bình cho Việt Nam gồm các đoàn thể chính trị gồm luôn cả Bảy Viễn và các giáo phái. Song song đó, Nhu bí mật cho ra đời đảng “Cần Lao Nhân Vị Cách mạng”. Năm 1954, Ngô Đình Nhu càng đẩy mạnh chủ thuyết Nhân vị trong xã hội miền Nam, đồng thời đưa nó thành nền tảng tư tưởng của các tổ chức do ông ta sáng lập, nhằm hậu thuẫn chính trị cho anh trai. Chủ thuyết này và các lực lượng chính trị do Ngô Đình Nhu lập ra sau đó trở thành nền tảng tư tưởng và cơ sở chính trị của chế độ Ngô Đình Diệm.
Tháng 6-1954, trước khi Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về Sài Gòn làm Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam á, Mỹ bất chấp Hiệp định Genève, hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm hất cẳng thực dân Pháp, lập ra cái gọi là Việt Nam cộng hòa.
Việc ra đời của chế độ Việt Nam cộng hòa năm 1955 do Ngô Đình Diệm cầm đầu, ngoài vai trò của Mỹ còn có sự trợ thủ đắc lực của Ngô Đình Nhu. Vai trò của ông ta được thể hiện rõ nét qua việc thành lập hai tổ chức Đảng Cần lao Nhân vị và Phong trào Cách mạng Quốc gia và điều khiển 2 tổ chức này thanh trừng các phần tử đối lập và tham gia các “trò chơi” dân chủ do Mỹ – Diệm lập ra. Mà thể hiện rõ nhất là trong cuộc trưng cầu dân ý, truất phế Bảo Đại và cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp năm 1955.
Ngày 2 tháng 9 năm 1954, Đảng Cần lao Nhân vị chính thức thành lập (Nghị định số 116/BNV/CT), với nòng cốt là các tổ chức, lực lượng Công giáo phản động được thành lập từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, như: Liên đoàn Công giáo, Thanh niên Công giáo, Xã hội Công giáo,… Thành phần của đảng này chủ yếu là chức sắc và tín đồ Công giáo trong số dân di cư và công chức cùng sĩ quan trung cao cấp trong quân đội, với số lượng đảng viên lên tới 70 ngàn người. Ban Chấp hành Trung ương có các ủy viên: Trần Trung Dung, Nguyễn Tăng Nguyên, Lý Trung Dung, Hà Đức Minh, Trần Quốc Bửu, Võ Như Nguyện, Lê Văn Đông do Ngô Đình Nhu làm Tổng bí thư.
Đảng cương và tuyên ngôn của Đảng Cần lao đã cho thấy rõ vai trò của nó cũng như của Ngô Đình Nhu đối với chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Mục đích của đảng là: “tranh đấu để thực hiện lý tưởng cách mạng Nhân vị… đoàn kết các tầng lớp dân chúng; kiến thiết Quốc gia trên bốn lĩnh vực: tinh thần – xã hội – chánh trị và kinh tế” và hoạt động theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”.
Tuyên ngôn của Đảng Cần lao được phổ biến rộng rãi với những ngôn từ cổ súy cho sự tự do, dân chủ theo kiểu Nhân vị. Một mặt phê phán Chủ nghĩa Tư bản: “Công nghệ cực kỳ bành trướng mà con người vẫn bị đói rét. Những phát minh khoa học, đã cải tạo được cả thiên nhiên, mà chỉ nhằm “lợi nhuận”, không hề có mục đích phục vụ “nhu cầu” của đại đa số”. Đồng thời xuyên tạc chủ nghĩa xã hội khi cho rằng: “dưới áp lực của đoàn thể ở nơi này, cũng như ích kỷ cá nhân ở nơi khác, đời sống tinh thần và vật chất của con người trở thành nô lệ truyền kiếp để phụng sự cho chủ nghĩa duy vật”.
Về tổ chức, phỏng theo mô hình tổ chức của các đảng Cộng sản, Ngô Đình Nhu đã tổ chức ĐCLNV theo các cấp bộ từ trung ương đến cơ sở, với tổ chức cơ sở là chi bộ.
Nguyên tắc hoạt động đầu tiên của đảng này là bí mật: “tiềm lực của Đảng là cơ sở bí mật tối cần thiết để bảo vệ cho các bộ phận công khai, gặp khi tình thế thúc đẩy các hoạt động của Đảng phải rút hoàn toàn vào bí mật”.
Trong thời gian thế lực của Pháp ở miền Nam Việt Nam còn chiếm ưu thế, nhất là trong quân đội Quốc gia Việt Nam, anh em Diệm đưa đảng viên vào “nằm vùng” trong bộ máy quân sự ở các cấp, nhiệm vụ chủ yếu là do thám và thanh trừng các phần tử đối lập trong bộ máy quân sự.
Năm 1955, sau khi giải quyết xong những “rào cản” là các phe phái đối lập – thực chất là thế lực của Pháp ở chính trường miền Nam, trợ thủ cho Ngô Đình Diệm thực hiện phế truất Bảo Đại, Ngô Đình Nhu chỉ đạo thành lập thêm tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia do Trần Chánh Thành làm chủ tịch.
Hai tổ chức này dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, đã điều khiển toàn bộ tất cả các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến địa phương của trong bộ máy của chính quyền Diệm ký đơn theo mẫu sẵn bôi nhọ Bảo Đại, và suy tôn Ngô Đình Diệm, với nội dung: Lên án Bảo Đại là tên bán nước; Đồng thanh đòi truất phế Bảo Đại; Suy tôn và thề trung thành với Ngô Thủ tướng. Đồng thời trực tiếp tham gia cuộc bỏ phiếu gian lận truất phế Bảo Đại.
Sau cuộc “đảo chính” Bảo Đại “thành công”, Ngô Đình Nhu tiếp tục chỉ đạo hai tổ chức này tham gia cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp khóa I. Kết quả sau cuộc bầu cử, hai tổ chức này chiếm hơn 90% số ghế đại biểu trong quốc hội. Vì vậy, ngày 20-10-1955, bản Hiến pháp – văn bản luật cao nhất, chính thức cho ra đời chế độ Việt Nam cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, được quốc hội thông qua mau chóng.
2. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu
Ngay khi chế độ Ngô Đình Diệm được xác lập năm 1955, Ngô Đình Nhu đã thiển hiện rõ vai trò kiến trúc sư thông qua việc xác lập nên tảng tư tưởng, thiết lập cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cũng như trực tiếp tham gia hoạch định các chính sách, sách lược quan trọng của Việt Nam cộng hòa trong giai đoạn 1955-1963.
Với “hoài bão” chủ nghĩa nghĩa nhân vị sẽ bài trừ được lạc hậu, đẩy lùi được chủ nghĩa Mác xít, như Ngô Đình Diệm khẳng định: “Trong một xã hội hậu tiến như Việt Nam, nhiều cơ cấu nội bộ không thích hợp với một chế độ kinh tế lấy nhân vị làm căn bản. Người ta sẽ phí công nếu chỉ bằng lòng tô sửa lại những đường nứt nẻ ở một tòa nhà lung lay sắp đổ nát. Nếu là cần, chúng ta phải mạnh dạn đập tan những cơ cấu lỗi thời ấy đi để đặt nền tảng cho những công cuộc xây dựng mới lấy sự giải phóng nhân vị làm tiêu chuẩn. Làm như thế, chúng ta sẽ tránh khỏi sự cám dỗ của chủ nghĩa mác-xít, là thuyết đã chủ trương quyền tối thượng của kinh tế nhân vị”.
Nên khi chế độ Việt Nam cộng hòa được thành lập, Nhu đã lấy chủ thuyết Nhân vị làm hệ tư tưởng cơ bản của chế độ. Nó được thể hiện rõ nén ngay trong các thông điệp của tổng thống Ngô Đình Diệm và bản Hiến pháp của Việt Nam cộng hòa.
Ngày 17-4-1956, trong thông điệp mà Ngô Đình Diệm gửi Quốc hội yêu cầu cùng xây dựng Hiến pháp VNCH trên nền tảng Nhân vị Duy linh, ông ta nói: “căn bản chỉ có thể là căn bản duy linh, con đường ấy là con đường theo sát nhân vị, trong thể chất cũng như trong đời sống tập thể, trong sứ mệnh thiêng liêng cũng như trong cố gắng để đạt tới mức toàn thiện, toàn Hoa Kỳ về các phương diện lý trí, đạo đức và thiêng liêng”[13]. Ngày 26-10-1956, Hiến pháp của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam được ban hành. Trong lời mở đầu bản Hiến pháp có ghi: “Xây dựng dân chủ về chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng Nhân vị”[14]. Như vậy, nền tảng tư tưởng của chế độ đã được xác định, đó là thuyết Nhân vị.
Ngoài ra, chính quyền Diệm đẩy mạnh đưa chủ thuyết Nhân vị vào giảng dạy tại các giảng đường đại học, chủ trương tuyên truyền chủ thuyết Nhân vị vào xã hội miền Nam.
Tạo dựng cơ sở chính trị cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu biến toàn bộ nhân viên guồng máy chế độ thành đảng viên Đảng Cần lao và thành viên của Phong trào Cách mạng Quốc gia, biến hai tổ chức này thành một siêu chính quyền bên trong và bên trên chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Ngay trong tuyên ngôn của Đảng Cần lao, Ngô Đình Nhu cũng không ngần ngại cho thấy quan điểm, khi cần thiết Đảng Cần lao sẵn sàng “nhảy ra” thay thế chính quyền: “Nếu cần phải ứng phó với một tình trạng khẩn trương đặc biệt, Trung ương cũng có trọn quyền chuyển toàn bộ cơ sở thành những cơ cấu tổ chức hoạt động quyết liệt, để nắm vững phần chủ động trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ: nếu xét cần, cũng có thể thiết lập một Ủy ban chỉ đạo chánh trị, một quân ủy hội, một bộ máy phòng gian và phản gián, một cơ quan quân pháp, một tổ chức xã hội (y tế, cứu tế,…) trong tình thế đặc biệt, v. v…”
Bên cạnh một bộ phận hoạt động công khai, Ngô Đình Nhu đưa phần lớn đảng viên Đảng Cần lao tham gia hoạt động ngầm trong các tổ chức như: Thanh niên Cộng hòa do Ngô Đình Nhu làm thủ lĩnh; Phong trào Phụ nữ Liên đới, Thanh nữ Cộng hòa do Trần Lệ Xuân lãnh đạo; Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội do Trần Kim Tuyến, Tổng Thư ký Đảng Cần lao, đứng đầu; Lực lượng đặc biệt do Lê Quang Tung đứng đầu.
Các tổ chức này tùy theo vị trí, không chỉ trực tiếp tham gia vào guồng máy chính quyền VNCH, mà còn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị và xã hội khác.
Tạo dựng cơ sở pháp lý cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu trực tiếp tham gia soạn thảo bản hiến pháp – văn bản luật cao nhất của chế độ. Do đó, bản Hiến pháp này, có đầy đủ tư tưởng duy linh, hỗn tạp của chủ thuyết Nhân vị, cùng với sự khẳng định quyền lực tối cao của Tổng thống. Nhu đưa vào Hiến Pháp những nguyên tắc chính trị chà đạp lên sinh hoạt dân chủ và quyền tự do của công dân để tập trung quyền hành vào một thiểu số thống trị, tạo ra tính độc tài trong bộ luật căn bản nhất và cao nhất của quốc gia….
Với chức vị chính thức là Dân biểu Quốc hội nhưng Ngô Đình Nhu chưa bao giờ bước chân đến tòa nhà lập pháp để tham dự sinh hoạt “nghị trường”, cũng như làm trách nhiệm dân cử mà chỉ ngồi tại dinh Độc Lập với vai trò cố vấn chính trị bên cạnh tổng thống.
Chức cố vấn chính trị của Ngô Đình Nhu chưa bao giờ là một chức vụ chính thức của chính quyền như chức cố vấn được công khai hóa và qui chế hóa như của Mỹ, Anh. Ngô Đình Nhu được ca tụng là “cố vấn”, vì nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay. Với vai trò là “cố vấn chính trị” bên cạnh Tổng thống, Nhu trở thành bộ não của chế độ, nơi khai sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền hành thực sự lại nằm trong tay cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là một thực tế, do bên cạnh Ngô Đình Nhu ngoài cơ sở chính trị to lớn, nắm toàn bộ guồng máy chế độ là Đảng Cần lao và Phong trào Cách mạng Quốc gia, còn có các tổ chức đặc biệt, như Sở Nghiên cứu Chính trị của Trần Kim Tuyến – thực chất là một tổ chức tình báo làm việc trực tiếp với Nhu và lực lượng đặc biệt do Trần Quang Tung đứng đầu.
Với cơ sở đó, Ngô Đình Nhu thao túng bộ máy chế độ Việt Nam cộng hòa. Các hồi ký của các tướng lĩnh, nhân vật của chế độ Sài Gòn đã cho thấy, ở miền Nam Việt Nam không có điều gì mà Nhu không dám làm: rình rập cộng sự viên, bắt bớ một cách độc đoán những người tình nghi là đối lập, vu khống, xuyên tạc và thẳng tay thủ tiêu đối lập, lũng đoạn kinh tế.
Đỗ Mậu – một người từng ở bên cạnh nhà Ngô Đình, trong hồi ký đã viết : “Ngô Đình Nhu chỉ có cái thực là tổ chức mạng lưới do thám để cán bộ của ông ta trong quân đội và trong cơ quan chính quyền rình mò, theo dõi, báo cáo những kẻ có ý chống đối chế độ và thăng thưởng cho những kẻ trung thành với mình. Hệ thống đó chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ chế độ với một mục đích quá hẹp hòi, vì thế chế độ Ngô Đình Diệm đã mất đi sự ủng hộ của nhân dân”.
Còn tướng Cao Văn Viên nhận xét: “Ông Ngô Đình Diệm chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi; ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của Tổng thống Diệm đều do Nhu soạn thảo”
Nhìn chung, trong chế độ Việt Nam cộng hòa, dù không có bất cứ một chức vụ chính thức nào, là cố vấn chính trị của Tổng thống, Tổng bí thư Đảng Cần lao nhân vị, Tổng thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa, người chỉ huy hai ngành tình báo và mật vụ của chế độ Sài gòn, dân biểu Quốc hội, chủ tịch Ủy ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược, quyền hành của Ngô Đình Nhu là vô hạn, đôi khi lấn lướt cả Tổng thống.
Theo Theo Lưu trữ Việt Nam/ Văn Hóa Nghệ An
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- Huỳnh Ngọc Chênh - Hôm nay đón Nguyễn Thúy Hạnh về nhà, kịch tính như phim
- "Sư Minh Tuệ" - by Đỗ Duy Ngọc / Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Thế lực nào đã đầu độc tướng vi-xi Nguyễn Chí Vịnh?" - Lê Văn Đoành / Trần Văn Giang (ghi lại)
- NHỮNG NỮ LƯU LỪNG DANH Ở MỸ & THẾ GIỚI - TRẦN VĂN NGÀ
- Putin tiến thoái lưỡng nan vì đã tính sai nước cờ _ Hoài Việt
Ngô Đình Nhu – Nhà tri thức, nhà lưu trữ, nhà cố vấn chính trị
Trong khuôn viên đẹp đẽ, sang trọng của Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV tại thành phố Đà Lạt có một biệt thự sang trọng hiện đang dùng làm nhà kho lưu trữ trung chuyển, đó chính là ngôi biệt thự nghỉ cuối tuần của hai vợ chồng Ngô Đình Nhu và Trần Lệ Xuân thuở nào.
Ngô Đình Nhu sinh ngày 7-10-1910 tại xã Phước Qua, tổng Cự Chánh, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình quan lại theo đạo Thiên Chúa. Là con trai của Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái, sau những năm tháng học tập dưới sự dạy dỗ của cha và giáo hội ở Huế, Ngô Đình Nhu sang Paris theo học tại các trường Đại học Văn khoa và Ngôn ngữ phương Đông. Ông thi đỗ vào trường Cổ tự học Quốc gia vào năm 1935 và tốt nghiệp năm 1938 với luận văn về lịch sử Việt Nam lần đầu tiên được bảo vệ tại Pháp có nhan đề “Phong tục và tập quán của người Bắc Kỳ từ thế kỉ thứ 17 đến thế kỉ thứ 18 theo các du khách và các nhà truyền giáo” (Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIè et XVIIIè sècles d’après les voyageurs et missionairies). Luận văn của Ngô Đình Nhu đã gây được sự chú ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp và vì thế, ông đã được nhận giải thưởng xuất sắc.
Trở về Việt Nam với hai bằng Lưu trữ – Cổ tự và Cử nhân khoa học, Ngô Đình Nhu được bổ nhiệm Lưu trữ viên – Cổ tự tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ở Hà Nội. Ngay trong năm làm việc đầu tiên với chức danh Quản thủ viên phó hạng 3 (tháng 12-1938), Ngô Đình Nhu đã được Giám đốc Paul Boudet đánh giá là một “Lưu trữ viên – Cổ tự trẻ đầy triển vọng”.Chỉ trong một thời gian ngắn làm việc ở Hà Nội (từ tháng 2-1938 đến giữa năm 1942), Ngô Đình Nhu đã chứng tỏ năng lực của mình trong việc cộng tác với Paul Boudet và Rémi Bourgeois (Phó Giám đốc) biên soạn và xuất bản các tập 2, 3 và 4 của bộ Đông dương pháp chế toàn tập (Recueil général de la Législation et de la Règlementation de l’Indochine). Ngoài ra, Ngô Đình Nhu còn được Paul Boudet giao trách nhiệm chính trong việc chuẩn bị tài liệu để tham gia các cuộc tổ chức được triển lãm tại Hà Nội và tại Huế.
Không chỉ được nhận xét là “một công chức trẻ có giá trị nhất, hội tụ những đức tính kiên quyết và thẳng thắn, có văn hóa rộng và một khả năng nghề nghiệp hoàn hảo”, Ngô Đình Nhu còn được đánh giá là “bằng chứng của một học thuyết uyên bác, một sự hoạt động không mệt mỏi” và ông đã trở thành “một cộng sự quý báu” của Paul Boudet.Niềm đam mê trong công tác chuyên môn, năng lực làm việc và sự cộng tác có hiệu quả của Ngô Đình Nhu đã làm sống lại trong Paul Boudet niềm tin vào kế hoạch sắp xếp lại tài liệu các vương triều phong kiến Việt Nam mà Paul Boudet đã theo đuổi ngay từ những ngày đầu tiên khi đặt chân đến Đông Dương.
Cũng là một Lưu trữ viên – Cổ tự tốt nghiệp tại trường Cổ tự học Quốc gia Paris như Ngô Đình Nhu, Paul Boudet rất coi trọng các nguồn sử liệu và biện pháp bảo quản chúng. Năm 1906, lần đầu tiên tận mắt nhìn thấy Tổng đốc và các viên chức bản xứ ở các tỉnh miền Trung “đem tài liệu lưu trữ, trong đó có cả tài liệu của những năm Minh Mệnh thứ nhất ra phơi dưới nắng to để chống ẩm và đuổi côn trùng”, Paul Boudet đã đặc biệt vô cùng quan tâm đến nguồn tư liệu vô cùng quý giá đang ở trong tình trạng không được bảo quản theo đúng phương pháp khoa học.
Ngay từ thời gian đó, Paul Boudet đã muốn tiếp cận và áp dụng phương pháp phân loại của phương Tây với nguồn tài liệu này, nhằm làm cho chúng được khai thác, nghiên cứu và được sử dụng một cách có ích nhất.Sau nhiều năm cố gắng mà không có kết quả, mãi cho đến năm 1942, trải qua gần 5 năm cộng tác và chứng kiến khả năng đích thực của Ngô Dình Nhu, Paul Boudet một lần nữa lại quyết tâm thực hiện mục đích của mình. Tháng 9-1942, mặc dù “đầy nuối tiếc”nhưng Paul Boudet vẫn phải gửi Ngô Đình Nhu vào Huế để thành lập một tổ chức Lưu trữ và thư viện ở Huế và tổ chức lại tài liệu của chính phủ Nam triều vì Paul Boudet cho rằng đây là ‘một sự nghiệp cần thiết và đầy hiển hách”.
Tuy chính thức trở về Huế vào tháng 9-1942 nhưng trên thực tế, ngay từ tháng 2-1942, Ngô Đình Nhu đã thống nhất với ông Trần Văn Lý, Đổng lý Ngự tiền văn phòng của triều đình một kế hoạch nhằm cứu châu bản đang được cất giữ ở Nội các ra khỏi tình trạng bị hư hỏng nặng do không có người chăm sóc. Bản tấu của ông Trần Văn Lý xin đưa tất cả tài liệu trong Nội các ra Viện Văn hóa để có nhân viên chuyên trách trông nom, và xin đề nghị tổ chức một Hội đồng để chỉnh đốn đã được vua Bảo Đại chuẩn y. Hội đồng này do Ngô Đình Nhu làm chủ tịch, làm việc theo moọt phương pháp thống nhất: kiểm tra châu bản, chia ra từng loại, sắp xếp theo thứ tự thời gian rồi đóng thành từng tập có tiêu đề rõ ràng.
Trở thành Quản thủ viên của cơ quan Lưu trữ và Thư viện Trung Kỳ ở Huế từ ngày 1-1-1943, Ngô Đình Nhu bắt đầu sự nghiệp mới của mình với không ít khó khăn. Chính trong thời gian thử thách với hai nhiệm vụ nặng nề này, Ngô Đình Nhu lại một lần nữa chứng tỏ bản lĩnh của “một người có học thức, một công chức đặc biệt” với phong cách làm việc “đầy nghị lực, đầy năng động”.
Ngày 29-3-1943, Nghị định tổ chức lại cơ quan Lưu trữ và Thư viện của chính phủ Bảo hộ và chính phủ Nam triều do Paul Boudet chuẩn bị đã được Toàn quyền Đông Dương ký ban hành. Nghị định quy định: Lưu trữ và Thư viện của chính phủ An Nam được đặt dưới sự chỉ đaọ trực tiếp về mặt hành chính của Bộ Quốc gia Giáo dục và dưới sự kiểm soát về mặt kĩ thuật của Quản thủ viên Lưu trữ và Thư viện, người được giao nhiệm vụ ‘làm cố vấn cho chính phủ nhà vua trong mọi lĩnh vực có liên quan đến tài liệu và lưu trữ thư viện”.
Nhiệm vụ của Cố vấn – Quản thủ viên này được giao cho Ngô Đình Nhu, theo các điều 3 và 4 của dụ số 61 ngày 11-7 năm Bảo Đại thứ 18 (tức ngày 11-8-1943) do vua Bảo Đại ký về thành lập tổ chức Lưu trữ và Thư viện của chính phủ An Nam.
Và ngày 29-4-1943, sau hôn lễ với Trần Lệ Xuân, Ngô Đình Nhu bắt đầu cuộc sống mới tại nhà số 19 đường Alexandres des Rhodes (Huế).Trong thời gian 3 năm, từ 1942 đến 1944, với vai trò Chủ tịch hội đồng cứu nguy châu bản và Cố vấn kĩ thuật, Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần quan trọng vào việc tập trung tài liệu của 5 nguồn (Quốc Sử quán, Tàng Thơ lâu, Nội các, Viện Cơ mật trước đấy và Thư viện Bảo Đại) vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của chính phủ Nam triều.Riêng đối với số châu bản ở Nội các, sau gần 2 năm làm việc dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, Hội đồng đã làm ra được 3 bản thống kê bằng chữ Hán và Việt: một bản dâng ngự lãm, một bản lưu hồ sơ và một bản gửi cho Viện Văn hóa. Tiếp đó, Hội đồng đã xin Khâm Thiên giám chọn ngày tốt để cung nghênh châu bản ra Viện Văn hóa. Tất cả châu bản sau khi thống kê đều được lưu giữ trên những kệ sách mới đóng và sắp đặt rất có thứ tự.
Vô cùng hài lòng về những kết quả to lớn đó, Paul Boudet đã đánh giá Ngô Đình Nhu là “một cộng sự hạng nhất” vì theo Paul Boudet, Ngô Đình Nhu đã “hội tụ được cùng một lúc văn hóa truyền thống không thể thiếu trong vai trò của một Quản thủ viên Lưu trữ Hoàng triều và một khả năng hoàn hảo về nghề nghiệp nhờ có học thức uyên bác và vững chắc cho tổ chức Lưu trữ và Thư viện An Nam và Lưu trữ của Hoàng triều”.
Thật đáng tiếc là công việc đang tiến hành với kết quả ban đầu khả quan như thế thì xảy ra cuộc đảo chính Nhật- Pháp ngày 9-3-1945, rồi chiến tranh kéo dài… Bao nhiêu tài liệu lưu trữ của Hoàng triều đã bị mất, hỏng do thiếu người chăm sóc. Theo tục truyền, có rất nhiều châu bản được bày bán công khai tại các chợ Đông Ba, Bao Vinh, Nam Phổ, Sam… Vì vậy, một phân lớn châu bản đã bị mất hẳn, không thể nào tìm lại được.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương đã có một sự thay đổi lớn về tổ chức, bắt đầu từ ngày 18-4-1945 bằng việc thải hồi các nhân viên người Pháp. Theo đề nghị của giáo sư S. Kudo (Giám đốc mới của Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương), Toàn quyền Đông Dương là Yuichi Tsuchihashi đã bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm Phó Giám đốc của Sở. Sau đó, Ngô Đình Nhu đã tới Hà Nội và đã có 3 tuần gặp gỡ với Giáo sư S. Kudo trong cương vị mới. Ngày 31-7-1945, được sự đồng ý của Kudo, Ngô Đình Nhu đã quay lại Huế để tiếp tục công việc ở Viện Văn hóa.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng đã được thành lập. Ngay từ những ngày đầu tiên, Lưu trữ và Thư viện đã được chính quyền cách mạng quan tâm đến. Ngày 8-9-1945, tức là chỉ 6 ngày sau khi Việt nam tổ chức tuyên bố độc lập ở Quảng trường Ba Đình lịch sử, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp đã thay mặt Chủ tịch chính phủ lâm thời ký 2 sắc lệnh có liên quan đến Thư viện và Lưu trữ. Sắc lệnh thứ nhất sáp nhập các thư viện công (trong đó có thư viện Pierre Pasquier trực thuộc sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương) và một số cơ quan văn hóa khác vào Bộ Quốc gia Giáo dục. Sắc lệnh tiếp theo cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.
Sắc lệnh này thể hiện chính sách trọng dụng nhân tài của chính quyền cách mạng Việt Nam.Sau chuyến đi công cán ở Thuận Hóa để tổ chức việc phân tán tài liệu của Viện Văn hóa theo sự vụ lệnh số 125-ND ngày 4-3-1946, Ngô Đình Nhu đã trở lại Hà Nội ngày 20-5-1946, tiếp tục chỉ đạo công việc chuyên môn ở Sở.
Tờ trình số 365 ngày 16-11-1946, về công việc của Phòng Thư mục và Pháp chế của Giám đốc Sở Lưu trữ công văn và Thư viên toàn quốc gửi Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục với chữ kí tay của Ngô Đình Nhu là bằng chứng cuối cùng về hoạt động của ông trong lĩnh vực Lưu trữ – Thư viện.
Rõ ràng là, Ngô Đình Nhu đã để lại một dấu ấn không nhỏ trong lịch sử Lưu trữ Việt Nam thời kì 1938-1946, đặc biệt đối với sự sống còn của tài liệu châu bản triều Nguyễn vô giá của chúng ta.
Năm 1946, Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh trong nhóm Công giáo mà Nhu đang tập hợp, chạy về Phát Diệm – khu an toàn của Công giáo thời đó. Ẩn náu ở Phát Diệm ít ngày, Nhu chạy vào Thanh Hóa, nhờ linh mục xứ đạo ở đây che dấu, giới thiệu kết bạn với Trần Kim Tuyến, vốn là chủng sinh ở tiểu chủng viện Thanh Hóa mà sau này là Tổng Thơ ký Đảng Cần lao Nhân vị, trùm mật vụ của Đảng Cần lao dưới chế độ Diệm. Tại đây, Nhu tham gia vào các tổ chức phản động đội lốt Công giáo chống lại chính phủ kháng chiến của Việt Minh. Sau đó, Ngô Đình Nhu tìm đường chạy trốn vào Nam.
Năm 1950, khi Ngô Đình Diệm sang Mỹ vận động chính trị, Nhu cùng Bửu Dưỡng, Ngô Văn Thúy, Lý Văn Lập kết hợp thuyết Nhân Vị (Personalism) của Emmannuel Mouriers với triết lý của Thiên Chúa giáo hình thành chủ thuyết Nhân vị Duy linh, hay thuyết Nhân vị Á Đông nhằm hậu thuẫn cho anh trai. Trên nền tảng thuyết Nhân vị (Personnalism) của nhà trí thức Thiên Chúa giáo người Pháp, Emmanuel Mouniers, kết hợp với những bài thuyết giảng giáo lý của các giám mục Công giáo, Ngô Đình Nhu cùng các linh mục hòa trộn thêm một mớ tư tưởng góp nhặt gồm một ít từ giáo lý Thiên Chúa Giáo, thuyết Kiêm Ai của Khổng Tử, vài nét của chủ nghĩa Tư bản cùng với chủ nghĩa Duy Linh chống cộng do Nhu sáng tác để hình thành chủ thuyết vừa triết lý vừa chính trị gọi là chủ nghĩa Nhân Vị. Về căn bản chủ thuyết nhân vị đề cao cá nhân, lấy con người (ở đây là các vĩ nhân, một cá nhân riêng biệt) làm trung tâm. Nhân Vị là vị thế của con người, lấy con người làm trung tâm trong mối tương quan với đồng loại, thiên nhiên và Thượng đế. Người là trung tâm để phục vụ, có ưu thế hơn các thực tế khác như dân tộc, nhân loại, hay nhu cầu vật chất. Con người có phần xác và phần hồn, mà linh hồn là cốt lõi vì nó là “một loài linh thiêng, vô hình, bất tử và bất diệt”. Trên mặt triết học, học thuyết này triển khai có hệ thống những phạm trù tôn giáo của thuyết Duy Linh nặng nề về mặt tín ngưỡng của giáo lý Thiên Chúa giáo. Đến năm 1951, khi Nhu rời Đà Lạt xuống Sài Gòn khái niệm Cần Lao được thêm vào vế thứ hai của lý thuyết. Và công khai phổ biến trên tuần báo Xã Hội.
Tuy nhiên, chủ thuyết của Ngô Đình Nhu đã không được các trí thức Việt Nam cùng thời thừa nhận. Kỳ giả Stanley Karnow đã nêu lên những nhận định của những người đường thời về chủ thuyết này như sau: “Thuyết Nhân Vị của Ngô Đình Nhu đã chịu 2 sự tai hại. Thứ nhất là ngay cả giới trí thức mà còn không thể hiểu nổi thuyết đó là gì huống chi quần chúng. Thứ hai là ông Ngô Đình Nhu bị người thừa kế của Mounier lên án là “gian lận” trên tờ báo Công Giáo Esprit tại Pháp. Ngô Đình Nhu cố gắng tổng hợp một cách quá gượng ép nhiều hệ thống tư tưởng vào thuyết Nhân Vị của ông ta, vì tuy chủ yếu mô phỏng thuyết Nhân Vị Mounier nhưng ông lại muốn có những thêm bớt, đổi thay cho có vẻ đó là sáng tạo độc lập riêng của mình. Đã thế ông Nhu tuy là một người Việt trí thức nhưng lại xuất thân từ trường Tây nên không viết được hay không muốn viết bài bằng quốc ngữ mà chỉ muốn viết bằng tiếng Pháp rồi có người dịch ra tiếng Việt. Do đó bản dịch không lột hết được tư tưởng của ông ta. Nguyên bản tiếng Pháp đã khúc mắc khó hiểu vì khó khăn diễn đạt thì bản dịch Việt ngữ chắc chắn như một mớ chỉ rối. Chẳng trách, ngay đến giờ này, một lý thuyết gia đã từng nhận là chỉ đạo sinh mệnh quốc gia suốt 9 năm trời như thế mà không để lại được một tác phẩm nghiên cứu nào, lại càng không để lại một vết tích suy tư nào trong tâm thức dân tộc, ngoại trừ một thiểu số “hoài Ngô” chỉ biết hò hét 2 chữ Nhân Vị nhạt nhẽo”.
Năm 1953, nhằm tạo lực lượng cho Diệm, Nhu cùng Trần Văn Đỗ, Trần Chánh Thành, Nguyễn Tăng Nguyên, Trần Trung Dung xin phép Bửu Lộc – đang làm Thủ tướng Chính phủ tay sai thực dân Pháp lúc đó, cho ra đời một lực lượng thợ thuyền lấy tên là “Tổng Liên Đoàn Lao Công” dựa theo mô hình của lực lượng thợ thuyền Thiên Chúa giáo Pháp. Vào tháng 9/1953, Nhu tiếp tục tổ chức hội nghị “Đại đoàn kết”, đòi hỏi hòa bình cho Việt Nam gồm các đoàn thể chính trị gồm luôn cả Bảy Viễn và các giáo phái. Song song đó, Nhu bí mật cho ra đời đảng “Cần Lao Nhân Vị Cách mạng”. Năm 1954, Ngô Đình Nhu càng đẩy mạnh chủ thuyết Nhân vị trong xã hội miền Nam, đồng thời đưa nó thành nền tảng tư tưởng của các tổ chức do ông ta sáng lập, nhằm hậu thuẫn chính trị cho anh trai. Chủ thuyết này và các lực lượng chính trị do Ngô Đình Nhu lập ra sau đó trở thành nền tảng tư tưởng và cơ sở chính trị của chế độ Ngô Đình Diệm.
Tháng 6-1954, trước khi Hiệp định Genève về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Ngô Đình Diệm được Mỹ đưa về Sài Gòn làm Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc trưởng. Với âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành con đê ngăn chặn làn sóng đỏ tràn xuống Đông Nam á, Mỹ bất chấp Hiệp định Genève, hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm hất cẳng thực dân Pháp, lập ra cái gọi là Việt Nam cộng hòa.
Việc ra đời của chế độ Việt Nam cộng hòa năm 1955 do Ngô Đình Diệm cầm đầu, ngoài vai trò của Mỹ còn có sự trợ thủ đắc lực của Ngô Đình Nhu. Vai trò của ông ta được thể hiện rõ nét qua việc thành lập hai tổ chức Đảng Cần lao Nhân vị và Phong trào Cách mạng Quốc gia và điều khiển 2 tổ chức này thanh trừng các phần tử đối lập và tham gia các “trò chơi” dân chủ do Mỹ – Diệm lập ra. Mà thể hiện rõ nhất là trong cuộc trưng cầu dân ý, truất phế Bảo Đại và cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp năm 1955.
Ngày 2 tháng 9 năm 1954, Đảng Cần lao Nhân vị chính thức thành lập (Nghị định số 116/BNV/CT), với nòng cốt là các tổ chức, lực lượng Công giáo phản động được thành lập từ sau cách mạng tháng Tám năm 1945, như: Liên đoàn Công giáo, Thanh niên Công giáo, Xã hội Công giáo,… Thành phần của đảng này chủ yếu là chức sắc và tín đồ Công giáo trong số dân di cư và công chức cùng sĩ quan trung cao cấp trong quân đội, với số lượng đảng viên lên tới 70 ngàn người. Ban Chấp hành Trung ương có các ủy viên: Trần Trung Dung, Nguyễn Tăng Nguyên, Lý Trung Dung, Hà Đức Minh, Trần Quốc Bửu, Võ Như Nguyện, Lê Văn Đông do Ngô Đình Nhu làm Tổng bí thư.
Đảng cương và tuyên ngôn của Đảng Cần lao đã cho thấy rõ vai trò của nó cũng như của Ngô Đình Nhu đối với chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Mục đích của đảng là: “tranh đấu để thực hiện lý tưởng cách mạng Nhân vị… đoàn kết các tầng lớp dân chúng; kiến thiết Quốc gia trên bốn lĩnh vực: tinh thần – xã hội – chánh trị và kinh tế” và hoạt động theo nguyên tắc “dân chủ tập trung”.
Tuyên ngôn của Đảng Cần lao được phổ biến rộng rãi với những ngôn từ cổ súy cho sự tự do, dân chủ theo kiểu Nhân vị. Một mặt phê phán Chủ nghĩa Tư bản: “Công nghệ cực kỳ bành trướng mà con người vẫn bị đói rét. Những phát minh khoa học, đã cải tạo được cả thiên nhiên, mà chỉ nhằm “lợi nhuận”, không hề có mục đích phục vụ “nhu cầu” của đại đa số”. Đồng thời xuyên tạc chủ nghĩa xã hội khi cho rằng: “dưới áp lực của đoàn thể ở nơi này, cũng như ích kỷ cá nhân ở nơi khác, đời sống tinh thần và vật chất của con người trở thành nô lệ truyền kiếp để phụng sự cho chủ nghĩa duy vật”.
Về tổ chức, phỏng theo mô hình tổ chức của các đảng Cộng sản, Ngô Đình Nhu đã tổ chức ĐCLNV theo các cấp bộ từ trung ương đến cơ sở, với tổ chức cơ sở là chi bộ.
Nguyên tắc hoạt động đầu tiên của đảng này là bí mật: “tiềm lực của Đảng là cơ sở bí mật tối cần thiết để bảo vệ cho các bộ phận công khai, gặp khi tình thế thúc đẩy các hoạt động của Đảng phải rút hoàn toàn vào bí mật”.
Trong thời gian thế lực của Pháp ở miền Nam Việt Nam còn chiếm ưu thế, nhất là trong quân đội Quốc gia Việt Nam, anh em Diệm đưa đảng viên vào “nằm vùng” trong bộ máy quân sự ở các cấp, nhiệm vụ chủ yếu là do thám và thanh trừng các phần tử đối lập trong bộ máy quân sự.
Năm 1955, sau khi giải quyết xong những “rào cản” là các phe phái đối lập – thực chất là thế lực của Pháp ở chính trường miền Nam, trợ thủ cho Ngô Đình Diệm thực hiện phế truất Bảo Đại, Ngô Đình Nhu chỉ đạo thành lập thêm tổ chức Phong trào Cách mạng Quốc gia do Trần Chánh Thành làm chủ tịch.
Hai tổ chức này dưới sự chỉ đạo của Ngô Đình Nhu, đã điều khiển toàn bộ tất cả các cơ quan, đoàn thể từ trung ương đến địa phương của trong bộ máy của chính quyền Diệm ký đơn theo mẫu sẵn bôi nhọ Bảo Đại, và suy tôn Ngô Đình Diệm, với nội dung: Lên án Bảo Đại là tên bán nước; Đồng thanh đòi truất phế Bảo Đại; Suy tôn và thề trung thành với Ngô Thủ tướng. Đồng thời trực tiếp tham gia cuộc bỏ phiếu gian lận truất phế Bảo Đại.
Sau cuộc “đảo chính” Bảo Đại “thành công”, Ngô Đình Nhu tiếp tục chỉ đạo hai tổ chức này tham gia cuộc bầu cử Quốc hội lập pháp khóa I. Kết quả sau cuộc bầu cử, hai tổ chức này chiếm hơn 90% số ghế đại biểu trong quốc hội. Vì vậy, ngày 20-10-1955, bản Hiến pháp – văn bản luật cao nhất, chính thức cho ra đời chế độ Việt Nam cộng hòa do Ngô Đình Diệm làm Tổng thống, được quốc hội thông qua mau chóng.
2. Ông cố vấn Ngô Đình Nhu
Ngay khi chế độ Ngô Đình Diệm được xác lập năm 1955, Ngô Đình Nhu đã thiển hiện rõ vai trò kiến trúc sư thông qua việc xác lập nên tảng tư tưởng, thiết lập cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý, cũng như trực tiếp tham gia hoạch định các chính sách, sách lược quan trọng của Việt Nam cộng hòa trong giai đoạn 1955-1963.
Với “hoài bão” chủ nghĩa nghĩa nhân vị sẽ bài trừ được lạc hậu, đẩy lùi được chủ nghĩa Mác xít, như Ngô Đình Diệm khẳng định: “Trong một xã hội hậu tiến như Việt Nam, nhiều cơ cấu nội bộ không thích hợp với một chế độ kinh tế lấy nhân vị làm căn bản. Người ta sẽ phí công nếu chỉ bằng lòng tô sửa lại những đường nứt nẻ ở một tòa nhà lung lay sắp đổ nát. Nếu là cần, chúng ta phải mạnh dạn đập tan những cơ cấu lỗi thời ấy đi để đặt nền tảng cho những công cuộc xây dựng mới lấy sự giải phóng nhân vị làm tiêu chuẩn. Làm như thế, chúng ta sẽ tránh khỏi sự cám dỗ của chủ nghĩa mác-xít, là thuyết đã chủ trương quyền tối thượng của kinh tế nhân vị”.
Nên khi chế độ Việt Nam cộng hòa được thành lập, Nhu đã lấy chủ thuyết Nhân vị làm hệ tư tưởng cơ bản của chế độ. Nó được thể hiện rõ nén ngay trong các thông điệp của tổng thống Ngô Đình Diệm và bản Hiến pháp của Việt Nam cộng hòa.
Ngày 17-4-1956, trong thông điệp mà Ngô Đình Diệm gửi Quốc hội yêu cầu cùng xây dựng Hiến pháp VNCH trên nền tảng Nhân vị Duy linh, ông ta nói: “căn bản chỉ có thể là căn bản duy linh, con đường ấy là con đường theo sát nhân vị, trong thể chất cũng như trong đời sống tập thể, trong sứ mệnh thiêng liêng cũng như trong cố gắng để đạt tới mức toàn thiện, toàn Hoa Kỳ về các phương diện lý trí, đạo đức và thiêng liêng”[13]. Ngày 26-10-1956, Hiến pháp của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam được ban hành. Trong lời mở đầu bản Hiến pháp có ghi: “Xây dựng dân chủ về chánh trị, kinh tế, xã hội, văn hóa cho toàn dân trong sự tôn trọng Nhân vị”[14]. Như vậy, nền tảng tư tưởng của chế độ đã được xác định, đó là thuyết Nhân vị.
Ngoài ra, chính quyền Diệm đẩy mạnh đưa chủ thuyết Nhân vị vào giảng dạy tại các giảng đường đại học, chủ trương tuyên truyền chủ thuyết Nhân vị vào xã hội miền Nam.
Tạo dựng cơ sở chính trị cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu biến toàn bộ nhân viên guồng máy chế độ thành đảng viên Đảng Cần lao và thành viên của Phong trào Cách mạng Quốc gia, biến hai tổ chức này thành một siêu chính quyền bên trong và bên trên chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Ngay trong tuyên ngôn của Đảng Cần lao, Ngô Đình Nhu cũng không ngần ngại cho thấy quan điểm, khi cần thiết Đảng Cần lao sẵn sàng “nhảy ra” thay thế chính quyền: “Nếu cần phải ứng phó với một tình trạng khẩn trương đặc biệt, Trung ương cũng có trọn quyền chuyển toàn bộ cơ sở thành những cơ cấu tổ chức hoạt động quyết liệt, để nắm vững phần chủ động trong mọi hoàn cảnh. Ví dụ: nếu xét cần, cũng có thể thiết lập một Ủy ban chỉ đạo chánh trị, một quân ủy hội, một bộ máy phòng gian và phản gián, một cơ quan quân pháp, một tổ chức xã hội (y tế, cứu tế,…) trong tình thế đặc biệt, v. v…”
Bên cạnh một bộ phận hoạt động công khai, Ngô Đình Nhu đưa phần lớn đảng viên Đảng Cần lao tham gia hoạt động ngầm trong các tổ chức như: Thanh niên Cộng hòa do Ngô Đình Nhu làm thủ lĩnh; Phong trào Phụ nữ Liên đới, Thanh nữ Cộng hòa do Trần Lệ Xuân lãnh đạo; Sở Nghiên cứu chính trị – xã hội do Trần Kim Tuyến, Tổng Thư ký Đảng Cần lao, đứng đầu; Lực lượng đặc biệt do Lê Quang Tung đứng đầu.
Các tổ chức này tùy theo vị trí, không chỉ trực tiếp tham gia vào guồng máy chính quyền VNCH, mà còn có nhiệm vụ theo dõi, giám sát hoạt động của các tổ chức chính trị và xã hội khác.
Tạo dựng cơ sở pháp lý cho chế độ Việt Nam cộng hòa, Ngô Đình Nhu trực tiếp tham gia soạn thảo bản hiến pháp – văn bản luật cao nhất của chế độ. Do đó, bản Hiến pháp này, có đầy đủ tư tưởng duy linh, hỗn tạp của chủ thuyết Nhân vị, cùng với sự khẳng định quyền lực tối cao của Tổng thống. Nhu đưa vào Hiến Pháp những nguyên tắc chính trị chà đạp lên sinh hoạt dân chủ và quyền tự do của công dân để tập trung quyền hành vào một thiểu số thống trị, tạo ra tính độc tài trong bộ luật căn bản nhất và cao nhất của quốc gia….
Với chức vị chính thức là Dân biểu Quốc hội nhưng Ngô Đình Nhu chưa bao giờ bước chân đến tòa nhà lập pháp để tham dự sinh hoạt “nghị trường”, cũng như làm trách nhiệm dân cử mà chỉ ngồi tại dinh Độc Lập với vai trò cố vấn chính trị bên cạnh tổng thống.
Chức cố vấn chính trị của Ngô Đình Nhu chưa bao giờ là một chức vụ chính thức của chính quyền như chức cố vấn được công khai hóa và qui chế hóa như của Mỹ, Anh. Ngô Đình Nhu được ca tụng là “cố vấn”, vì nắm trọn quyền hành quốc gia trong tay. Với vai trò là “cố vấn chính trị” bên cạnh Tổng thống, Nhu trở thành bộ não của chế độ, nơi khai sanh và điều khiển tất cả mọi sách lược của quốc gia. Với cái bề ngoài khôn khéo, tế nhị và kín đáo, ông tỏ ra phục tùng người anh Tổng thống, nhưng quyền hành thực sự lại nằm trong tay cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu.
Đó cũng là một thực tế, do bên cạnh Ngô Đình Nhu ngoài cơ sở chính trị to lớn, nắm toàn bộ guồng máy chế độ là Đảng Cần lao và Phong trào Cách mạng Quốc gia, còn có các tổ chức đặc biệt, như Sở Nghiên cứu Chính trị của Trần Kim Tuyến – thực chất là một tổ chức tình báo làm việc trực tiếp với Nhu và lực lượng đặc biệt do Trần Quang Tung đứng đầu.
Với cơ sở đó, Ngô Đình Nhu thao túng bộ máy chế độ Việt Nam cộng hòa. Các hồi ký của các tướng lĩnh, nhân vật của chế độ Sài Gòn đã cho thấy, ở miền Nam Việt Nam không có điều gì mà Nhu không dám làm: rình rập cộng sự viên, bắt bớ một cách độc đoán những người tình nghi là đối lập, vu khống, xuyên tạc và thẳng tay thủ tiêu đối lập, lũng đoạn kinh tế.
Đỗ Mậu – một người từng ở bên cạnh nhà Ngô Đình, trong hồi ký đã viết : “Ngô Đình Nhu chỉ có cái thực là tổ chức mạng lưới do thám để cán bộ của ông ta trong quân đội và trong cơ quan chính quyền rình mò, theo dõi, báo cáo những kẻ có ý chống đối chế độ và thăng thưởng cho những kẻ trung thành với mình. Hệ thống đó chỉ làm nhiệm vụ bảo vệ chế độ với một mục đích quá hẹp hòi, vì thế chế độ Ngô Đình Diệm đã mất đi sự ủng hộ của nhân dân”.
Còn tướng Cao Văn Viên nhận xét: “Ông Ngô Đình Diệm chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi; ông không thể làm gì nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của Tổng thống Diệm đều do Nhu soạn thảo”
Nhìn chung, trong chế độ Việt Nam cộng hòa, dù không có bất cứ một chức vụ chính thức nào, là cố vấn chính trị của Tổng thống, Tổng bí thư Đảng Cần lao nhân vị, Tổng thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa, người chỉ huy hai ngành tình báo và mật vụ của chế độ Sài gòn, dân biểu Quốc hội, chủ tịch Ủy ban liên bộ đặc trách ấp chiến lược, quyền hành của Ngô Đình Nhu là vô hạn, đôi khi lấn lướt cả Tổng thống.
Theo Theo Lưu trữ Việt Nam/ Văn Hóa Nghệ An