Truyện Ngắn & Phóng Sự
Người Mỹ Lạc Loài (Nguyen Nhung)
Tên hắn là Robert, một người Mỹ trăm phần trăm tóc vàng mắt xanh,
Truyện Nguyên Nhung
Tên hắn là Robert, một người Mỹ trăm phần trăm tóc vàng mắt xanh, sinh trưởng ở miền Trung Florida, nơi có những bãi biển đẹp tuyệt vời và khí hậu ấm áp quanh năm. Tuy vậy, vùng biển tuyệt đẹp này thỉnh thoảng có những trận cuồng phong thổi qua, đã tàn phá nhà cửa cùng hoa màu của những cư dân vùng ấy.
Người ta thân mật gọi Robert là Bob, y hệt cái vẻ loắt choắt của hắn. Dáng dấp hắn bé nhỏ nhưng rắn rỏi vì đã qua vài năm trong quân ngũ, xem ra hắn có vẻ già trước tuổi dù chưa tới ba mươi.
Thuở nhỏ, Bob đã có những ngày thơ êm ả. Nhà hắn có ba anh em, Bob, thằng Bill và con em út Nancy sống với cha mẹ trong một trang trại có những vườn cam vàng ối, ngọt lịm. Thế mà định mệnh như một bàn tay tai quái đã phủ chụp xuống đời Bob, năm Bob lên mười tuổi thì cha mẹ hắn qua đời sau một tai nạn xe hơi. Cái chết của cha mẹ còn hơn cả trận cuồng phong thổi vào mảnh vườn ấu thơ của anh em Bob, bỗng dưng một sáng một chiều đã tan đàn xẻ nghé. Thằng Bill được một cặp vợ chồng hiếm muộn xin về Boston, thuộc tiểu bang Massachusset, con em bé Nancy bụ bẫm, dễ thương đã được một người họ xa đón về Virginia. Riêng Bob, số phận hẩm hiu hơn, mãi mới có một bà cô họ dở người đón hắn xuôi về phương Nam, thành phố Houston, thuộc tiểu bang Texas.
Sở dĩ có sự kém may mắn này là vì thằng Bill và con Nancy giống mẹ, mặt mũi sáng sủa, dễ gây thiện cảm cho nên được chọn trước, còn lại Bob nhỏ con, mặt choắt như quả trám, đôi mắt xanh ánh lên tia nhìn nghịch ngợm cho nên người ta ngại ngần sợ rước của nợ vào thân. Về sau thì Bob cũng lờ mờ nhận ra rằng, hắn chỉ là thứ " chó kiểng " cho vui nhà vui cửa, rồi đến khi hắn càng lớn lên thì dưới mắt bà cô già Linda, hắn chỉ là thứ "chó ghẻ " cần phải tống đi cho đỡ chướng mắt.
Mỗi lần nhắc đến bà Linda béo mập, Bob lại có cái cảm giác ớn ợn như đã no mà còn phải ăn thêm một phần ăn những mỡ là mỡ. Hắn không biết phải mô tả thế nào về bà cô miền đồng cỏ Texas này. Mụ có cái giọng ồm ồm của người đàn ông "country" thô kệch, không hề biết đến thời trang là gì. Mới nhìn mụ , người ta cứ tưởng mụ đang sống ở thế kỷ thứ mười chín, với chiếc áo kín cổ kết đầy đăng ten và chiếc váy vải cứng sột soạt phủ quá gối, khi bước đi, cả thân hình với những khối thịt núng nính như muốn rung chuyển mặt đất. Đã vậy mụ lại còn khó tính, khó nết cho nên không một gã đàn ông nào dám mạo hiểm " sờ " vào đời mụ cả, chính vì thế mà mụ lại càng có vẻ ác cảm với những phụ nữ ít phốp pháp hơn mụ.
Mỗi buổi sáng chủ nhật, Bob ngoan ngoãn theo bà Linda đến nhà thờ. Mặc dù được giảng giải cặn kẽ thế nào đi nữa, Bob cũng không làm sao hiểu nổi những bài dụ ngôn tối nghĩa trong kinh thánh. Nhất là những bài nói về ngày tận thế, hắn chẳng bao giờ mong ngày ấy đến dù có được hứa hẹn đưa lên thiên đàng ngay lập tức, bởi hắn nghĩ những cuộc rong chơi lêu lổng với bạn bè vẫn thú vị hơn nhiều. Bà Linda cho Bob theo học nhiều lớp Kinh Thánh, hy vọng Bob sẽ trở thành một mục sư, may ra tương lai của hắn mới sáng sủa lên được.
Bob đến trường cho có đến và ra trường chỉ là chuyện tất nhiên. Không có môn nào hấp dẫn hắn bằng môn quân sự, được đi, được chạy, được nhảy, được tập ắc ê để khỏi vùi đầu vào thứ sách vở rối beng trong lớp học. Sau đó Bob tình nguyện vào quân đội, qua những tháng ngày huấn nhục ở vùng San Diego, California, Bob được phân phối sang một đơn vị bộ binh trú đóng ở Korea. Tại đây, Bob đã có mối tình đầu khá thơ mộng với một cô bé Đại Hàn, mặt tròn, da trắng, mắt ti hí hay mặc những cái váy đen dài chấm đất. Mùa Đông ở Nam Hàn thật là khắc nghiệt, mặc dù thiếu rau cỏ, Bob cũng không thể nào quen nổi cái mùi nồng nặc tỏi ớt của những hũ kim chi được ủ dưới đất, dự trữ cho mùa đông, mỗi lần theo hướng gió Bob lại thấy buồn nôn khi ngửi phải cái mùi khủng khiếp ấy.
Cô bé Đại Hàn của hắn đã xơi ngon lành những tô mì bự bốc khói với hằng vốc ớt bằm đỏ ối, khiến Bob nhận ra rằng, trong vấn đề ẩm thực thì giữa nàng và hắn, không thể nào tìm được sự hoà hợp, như " Đông là Đông mà Tây vẫn là Tây ". Nàng mũm mĩm dễ thương như con gấu nhồi bông, nhưng Bob cũng không dám nghĩ đến chuyện đem nàng về quê hương, để cùng nhau chia xẻ những bát ớt lớn trong suốt đời hắn được.
Bob hồi hương sau ba năm ở lính, rồi như là định mệnh, hắn lại chui về căn nhà cũ kỹ của bà cô già, để tiếp tục đưa bà đi lễ mỗi ngày chủ nhật. Bây giờ Bob đã có công ăn việc làm, hắn đang là y tá trong một nhà thương quân đội, bà Linda vẫn hy vọng hắn trở thành mục sư. Riêng Bob, từ ngày vào lính hắn đã học được vô khối tiếng chửi thề, một người như thế thì khó mà trở thành một nhà đạo đức ở một nơi tôn nghiêm, thánh thiện, cho dù tâm hắn rất tốt, đôi khi vô tư như một đứa trẻ nít. Bob lại không có cái diện mạo trịnh trọng của một nhà truyền giáo, cứ hình dung khi phải đóng khung trong bộ đồ lớn, với một cái cà vạt lủng lẳng như sợi giây thắt cổ, hắn lại nghẹt thở đến xuất mồ hôi hột.
Bà cô già càng ngày càng mập, tính nết càng khắc nghiệt và kỳ cục đến không chịu nổi, mỗi lần Bob dẫn một đứa bạn nào về nhà, mụ cứ theo tò tò bên cạnh, chiếu cặp mắt xanh biếc như mắt mèo, nhìn chầm chập vào người đối diện , như ngài cảnh sát bắt thóp thằng ăn trộm. Mấy thằng bạn hắn đều rút lui có trật tự, sau khi còn rủa thêm mấy câu rất là tục tĩu. Đã mấy lần bà Linda còn nói thẳng với Bob là mụ không muốn hắn dẫn về nhà những thằng " chó chết " ấy, và mụ rất phiền khi phải trả lời những cú phôn chẳng ăn nhập gì đến mụ cả.
Thật là một mụ già quá quắt, đến nước ấy thì Bob phải đi thôi, vì hắn tự do đã quen rồi, ráng về ở với bà cô chẳng phải vì tình nghĩa thắm thiết nào, mà chỉ vì sau khi tính toán những khoản chi tiêu mỗi tháng, hắn biết sẽ không kham nổi tiền nhà, tiền điện. Nhưng “con giun xéo lắm cũng quằn”, không có chỗ sống thoải mái như ý muốn đời cũng chẳng vui, nhờ vậy hắn mới quyết tâm đi tìm ra căn chung cư giá bèo một chút, bất ngờ lưu lạc vào khu có nhiều người Á châu, mà bấy lâu hắn vẫn xem là loại dân tộc kém văn minh, đang sống nhờ sống đậu trên xứ sở hắn.
Khu chung cư bề ngoài nom nhếch nhác vậy mà bên trong trông rất gọn gàng, sạch sẽ, lại đầy đủ tiện nghi. Căn phòng Bob ở ngay đầu đường, nhìn ra con đường rợp bóng cây xanh. Mỗi buổi chiều khi hoàng hôn xuống, Bob vẫn có cái thú nhìn vạt nắng vàng thoi thóp trên những mái nhà mốc thếch, tháp chuông nhà thờ vươn lên trong rừng cây phiá bên kia công viên. Bob thường ngồi hút thuốc ở lan can, quan sát những nhà Việt Nam sống chung quanh, họ đã làm hắn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, và hắn thực tình muốn kết thân với họ. Luôn luôn, hắn nhận được những nụ cười thân thiện và lời mời chào vui vẻ, khác hẳn vẻ khách sáo bên ngoài của người Mỹ , chủ nhân những căn nhà đóng kín cửa, hầu như không muốn mở cửa cho ai bước vào cái thế giới riêng tư của họ.
Mãi rồi Bob cũng quen dần với sự cởi mở của những người hàng xóm. Những người đàn bà mỗi buổi sáng liú lo chào hỏi nhau, họ nói nhiều, nhiều lắm, Bob không hiểu gì hết nhưng lờ mờ đoán rằng họ đang tâm sự với nhau về chuyện gia đình, đời sống, con cái chi chi đó. Những đứa trẻ con mới đầu nhìn Bob tò mò, e ngại, sau thấy hắn vui vẻ cũng chạy đến với Bob mỗi lần hắn thơ thẩn đứng chơi trước sân nhà. Lòng Bob lại nao nao nhớ đến mảnh đời ấu thơ xa tít tắp, đến thằng Bill, con Nancy, tiếng sóng biển rì rào và vườn cam óng vàng tiếng chim vui
Nhà hàng xóm của Bob là một cặp vợ chồng Việt Nam trung niên mới định cư ở Mỹ khoảng ba năm, họ có hai đứa con lớn và một đứa còn bé đang học trường Tiểu học, người chồng đi làm ở một nhà máy còn vợ ở nhà chăm sóc gia đình, đưa đón con đi học. Hai đứa con lớn làm thêm tí chút vào cuối tuần, vậy mà với đồng lương khiêm nhượng đó, họ sống có vẻ ung dung lắm, trong khi Bob chỉ có một mình mà lắm lúc hắn đã bấn rốn lên vì tiền.
Bob vẫn nhớ lần đầu được mời sang chơi nhà họ, mặc dù không sửa soạn trước vì Bob cũng chỉ là người khách bất đắc dĩ, người vợ đã vui vẻ đi làm ngay món chả giò ăn với bún và rau sống. Nhìn chai nước mắm nguyên chất để trên bàn, tự nhiên Bob liên tưởng đến những vại dưa kim chi ở Đại Hàn năm xưa. Hắn buột miệng :
" So hot, so hot...."
Người đàn bà thì lại nghĩ khác, bà tưởng hắn than nóng nên đã vội vã chạy lại mở chiếc quạt trần, rồi gật đầu mỉm cười với hắn. Đúng là "Ông nói gà, bà hiểu vịt " , tự nhiên Bob thấy vui vui, hắn đã ngửi thấy mùi thơm của những chiếc chả giò cuộn tròn chiên trong chảo mỡ. Khi mâm cơm dọn lên, người đàn bà đã làm xong món nước chấm, ông chồng mời hắn cuộn thử cái chả giò trong lá xà lách xanh mướt, với một chút bún trắng ngần để ăn với thứ nước chấm ấy, Bob mới khám phá rằng, chưa bao giờ hắn được tận hưởng cái hương vị thơm ngon và tròn trịa đến vậy. Bằng một sự pha chế khéo léo tuyệt vời, người đàn bà giản dị kia không cần sách vở, đã hoà hợp được tất cả cái mặn, ngọt, chua, cay của gia vị, để làm nên một thứ nước chấm lạ lùng đến thế. Nó là cả một nghệ thuật, như người hoạ sĩ pha trộn những màu sắc, để vẽ lên bầu trời những áng mây dìu dịu của một mùa xuân biêng biếc.
Bob được một bữa ngon, nó còn ngon hơn nữa vì không khí đầm ấm cuả một gia đình hạnh phúc, cả gia đình họ quây quần quanh mâm cơm, cùng ăn, cùng nói, cùng cười, ấm áp biết bao nhiêu. Qua những tiếp xúc với họ lâu dài, Bob cứ ngạc nhiên rồi ngạc nhiên, trên xứ sở này xem ra họ là những người nghèo khổ, mà sao tấm lòng họ rộng rãi vô cùng.
Bob còn được nhiều lần chung vui với họ trong những dịp lễ lạc hay cúng giỗ tổ tiên. Người nội trợ đã công phu gỡ từng thớ thịt cua trắng ngần, nhồi chung với thịt băm, nấm, củ hành, bún tàu, tiêu tỏi để làm nên món chả cua ngon tuyệt vời. Món cá hấp hành xanh cuộn bánh tráng ăn mãi không no. Món thịt bò thái mỏng trải lên chiếc chảo nóng bốc khói ăn kèm với các thứ rau cỏ, ngào ngạt mùi hành tỏi phi thơm phức. Trong cái khéo léo hòa hợp các món ăn đi với nhau thật là vừa vặn, Bob đâu dám xem thường cái dân tộc nhỏ bé này nữa, chỉ trong món ăn mà họ đã đạt đến một nghệ thuật tầm cỡ như thế, thì hẳn là tâm hồn và nếp sống dân tộc của họ đã vô cùng phong phú và đa dạng, như thế đâu dám bảo họ có một nền văn hoá nông cạn và thô sơ.
Một lạ lùng nữa đối với Bob, khi người Mỹ chỉ tổ chức những ngày sinh nhật, thì người Việt lại hay tưởng niệm ngày người thân của họ nhắm mắt lìa đời. Họ gọi đó là đám giỗ. Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, xếp đầy bánh trái và hoa thơm, kèm theo một mâm cơm nấu nướng công phu, họ nghiêm chỉnh cầm những nén nhang xì xụp lạy những tấm hình của ông bà, cha mẹ trên bàn thờ. Bob thắc mắc thì họ giải thích:
" Chúng tôi luôn luôn tin có Trời và ai cũng có một tôn giáo riêng cho mình, nhưng người sinh ra và nuôi dưỡng chúng tôi lại là ông bà cha mẹ. Bởi vậy người Việt chúng tôi có một đạo hợp lẽ nhất là đạo thờ cúng ông bà. Mỗi năm, chúng tôi có vài lần tưởng niệm, để con cháu chúng tôi không bao giờ quên nguồn gốc của chúng nó, và cũng để thương yêu, hoà hợp với nhau hơn."
Bob làm sao hiểu nổi sợi giây thiêng liêng về gia đình của người Việt Nam. Người ta không chỉ mỗi năm có một ngày cho cha cho mẹ, cho ông bà tổ tiên, mà hầu như lúc nào có dịp họ vẫn nhắc nhở cho con cái trong nhà nhớ đến những bậc tiền nhân, Bob có cảm tưởng linh hồn những người khuất bóng kia, vẫn còn ẩn hiện trong cuộc sống của con cháu họ mãi mãi. Bob liên tưởng đến ông nội hắn, ngày cha mẹ hắn chết thì ông vẫn sống hẩm hiu trong viện dưỡng lão, không biết ông còn hay mất? Ngay cả mồ mả cha mẹ hắn, chắc vẫn nằm hiu quạnh trong một nghĩa trang miền quê, có hằng đàn quạ khoang rền rĩ kêu những lời buồn thảm.
Từ ngạc nhiên đến tò mò, Bob lần ra thư viện tìm đọc những cuốn sách có liên quan đến dân tộc Việt Nam nằm xa tít bên kia bờ đại dương. Một giải đất cong cong hình chữ S đã trải qua hằng ngàn năm nô lệ giặc Tàu, hằng trăm đô hộ giặc Tây, và mấy chục năm tương tàn trong máu lửa chiến tranh vì không cùng lý tưởng. Bob đã hiểu vì sao, những người chiến binh Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam khi trở về quê hương, vẫn giữ mãi trong lòng họ hình ảnh dân tộc, đất nước của một quốc gia bé nhỏ, vùng đất hiền hoà những sông, những rạch, cây cỏ xanh tươi suốt bốn mùa, phố phường đông đúc, chợ búa tấp nập, nhất là những tà áo dài của Sài Gòn năm xưa. Tà áo Việt Nam trong một ngày nắng ấm, như gió, như mây, như những cánh bướm vờn bay trên đồng cỏ biếc, không hở hang mà rất là gợi cảm, không lả lơi mà thật là quyến rũ.
Buổi chiều. Đã bao nhiêu buổi chiều, Bob ngồi một mình trên hành lang để nghe lòng mình rộn ràng theo nhịp sống của những người xung quanh. Người hàng xóm đã đi làm về, dù mệt nhọc nhưng vẫn mỉm cười khi đứa con nhỏ hớn hở mừng cha với tiếng cười vui như chim hót. Người vợ đang lui cui sửa soạn bữa cơm chiều, hạnh phúc như toả ra chung quanh họ.
Bob cứ ngồi lặng yên để tận hưởng thứ hạnh phúc của mọi người, nó có một sức lan truyền mạnh mẽ làm trái tim cô đơn của hắn cũng rộn ràng theo. Bob thấy mình cần một lần trở về Florida, miền quê cũ có vùng biển xanh với mặt trời ấm áp, về khu vườn cam nơi hắn đã mở mắt chào đời. Hắn sẽ trở về chốn xưa, đặt những nhánh hồng lên phần mộ của cha mẹ, vì từ đây Bob không bao giờ là đứa con lạc loài, mà như một loài chim, đang bay về tổ ấm.
NGUYÊN NHUNG.
Người Mỹ Lạc Loài
Truyện Nguyên Nhung
Tên hắn là Robert, một người Mỹ trăm phần trăm tóc vàng mắt xanh, sinh trưởng ở miền Trung Florida, nơi có những bãi biển đẹp tuyệt vời và khí hậu ấm áp quanh năm. Tuy vậy, vùng biển tuyệt đẹp này thỉnh thoảng có những trận cuồng phong thổi qua, đã tàn phá nhà cửa cùng hoa màu của những cư dân vùng ấy.
Người ta thân mật gọi Robert là Bob, y hệt cái vẻ loắt choắt của hắn. Dáng dấp hắn bé nhỏ nhưng rắn rỏi vì đã qua vài năm trong quân ngũ, xem ra hắn có vẻ già trước tuổi dù chưa tới ba mươi.
Thuở nhỏ, Bob đã có những ngày thơ êm ả. Nhà hắn có ba anh em, Bob, thằng Bill và con em út Nancy sống với cha mẹ trong một trang trại có những vườn cam vàng ối, ngọt lịm. Thế mà định mệnh như một bàn tay tai quái đã phủ chụp xuống đời Bob, năm Bob lên mười tuổi thì cha mẹ hắn qua đời sau một tai nạn xe hơi. Cái chết của cha mẹ còn hơn cả trận cuồng phong thổi vào mảnh vườn ấu thơ của anh em Bob, bỗng dưng một sáng một chiều đã tan đàn xẻ nghé. Thằng Bill được một cặp vợ chồng hiếm muộn xin về Boston, thuộc tiểu bang Massachusset, con em bé Nancy bụ bẫm, dễ thương đã được một người họ xa đón về Virginia. Riêng Bob, số phận hẩm hiu hơn, mãi mới có một bà cô họ dở người đón hắn xuôi về phương Nam, thành phố Houston, thuộc tiểu bang Texas.
Sở dĩ có sự kém may mắn này là vì thằng Bill và con Nancy giống mẹ, mặt mũi sáng sủa, dễ gây thiện cảm cho nên được chọn trước, còn lại Bob nhỏ con, mặt choắt như quả trám, đôi mắt xanh ánh lên tia nhìn nghịch ngợm cho nên người ta ngại ngần sợ rước của nợ vào thân. Về sau thì Bob cũng lờ mờ nhận ra rằng, hắn chỉ là thứ " chó kiểng " cho vui nhà vui cửa, rồi đến khi hắn càng lớn lên thì dưới mắt bà cô già Linda, hắn chỉ là thứ "chó ghẻ " cần phải tống đi cho đỡ chướng mắt.
Mỗi lần nhắc đến bà Linda béo mập, Bob lại có cái cảm giác ớn ợn như đã no mà còn phải ăn thêm một phần ăn những mỡ là mỡ. Hắn không biết phải mô tả thế nào về bà cô miền đồng cỏ Texas này. Mụ có cái giọng ồm ồm của người đàn ông "country" thô kệch, không hề biết đến thời trang là gì. Mới nhìn mụ , người ta cứ tưởng mụ đang sống ở thế kỷ thứ mười chín, với chiếc áo kín cổ kết đầy đăng ten và chiếc váy vải cứng sột soạt phủ quá gối, khi bước đi, cả thân hình với những khối thịt núng nính như muốn rung chuyển mặt đất. Đã vậy mụ lại còn khó tính, khó nết cho nên không một gã đàn ông nào dám mạo hiểm " sờ " vào đời mụ cả, chính vì thế mà mụ lại càng có vẻ ác cảm với những phụ nữ ít phốp pháp hơn mụ.
Mỗi buổi sáng chủ nhật, Bob ngoan ngoãn theo bà Linda đến nhà thờ. Mặc dù được giảng giải cặn kẽ thế nào đi nữa, Bob cũng không làm sao hiểu nổi những bài dụ ngôn tối nghĩa trong kinh thánh. Nhất là những bài nói về ngày tận thế, hắn chẳng bao giờ mong ngày ấy đến dù có được hứa hẹn đưa lên thiên đàng ngay lập tức, bởi hắn nghĩ những cuộc rong chơi lêu lổng với bạn bè vẫn thú vị hơn nhiều. Bà Linda cho Bob theo học nhiều lớp Kinh Thánh, hy vọng Bob sẽ trở thành một mục sư, may ra tương lai của hắn mới sáng sủa lên được.
Bob đến trường cho có đến và ra trường chỉ là chuyện tất nhiên. Không có môn nào hấp dẫn hắn bằng môn quân sự, được đi, được chạy, được nhảy, được tập ắc ê để khỏi vùi đầu vào thứ sách vở rối beng trong lớp học. Sau đó Bob tình nguyện vào quân đội, qua những tháng ngày huấn nhục ở vùng San Diego, California, Bob được phân phối sang một đơn vị bộ binh trú đóng ở Korea. Tại đây, Bob đã có mối tình đầu khá thơ mộng với một cô bé Đại Hàn, mặt tròn, da trắng, mắt ti hí hay mặc những cái váy đen dài chấm đất. Mùa Đông ở Nam Hàn thật là khắc nghiệt, mặc dù thiếu rau cỏ, Bob cũng không thể nào quen nổi cái mùi nồng nặc tỏi ớt của những hũ kim chi được ủ dưới đất, dự trữ cho mùa đông, mỗi lần theo hướng gió Bob lại thấy buồn nôn khi ngửi phải cái mùi khủng khiếp ấy.
Cô bé Đại Hàn của hắn đã xơi ngon lành những tô mì bự bốc khói với hằng vốc ớt bằm đỏ ối, khiến Bob nhận ra rằng, trong vấn đề ẩm thực thì giữa nàng và hắn, không thể nào tìm được sự hoà hợp, như " Đông là Đông mà Tây vẫn là Tây ". Nàng mũm mĩm dễ thương như con gấu nhồi bông, nhưng Bob cũng không dám nghĩ đến chuyện đem nàng về quê hương, để cùng nhau chia xẻ những bát ớt lớn trong suốt đời hắn được.
Bob hồi hương sau ba năm ở lính, rồi như là định mệnh, hắn lại chui về căn nhà cũ kỹ của bà cô già, để tiếp tục đưa bà đi lễ mỗi ngày chủ nhật. Bây giờ Bob đã có công ăn việc làm, hắn đang là y tá trong một nhà thương quân đội, bà Linda vẫn hy vọng hắn trở thành mục sư. Riêng Bob, từ ngày vào lính hắn đã học được vô khối tiếng chửi thề, một người như thế thì khó mà trở thành một nhà đạo đức ở một nơi tôn nghiêm, thánh thiện, cho dù tâm hắn rất tốt, đôi khi vô tư như một đứa trẻ nít. Bob lại không có cái diện mạo trịnh trọng của một nhà truyền giáo, cứ hình dung khi phải đóng khung trong bộ đồ lớn, với một cái cà vạt lủng lẳng như sợi giây thắt cổ, hắn lại nghẹt thở đến xuất mồ hôi hột.
Bà cô già càng ngày càng mập, tính nết càng khắc nghiệt và kỳ cục đến không chịu nổi, mỗi lần Bob dẫn một đứa bạn nào về nhà, mụ cứ theo tò tò bên cạnh, chiếu cặp mắt xanh biếc như mắt mèo, nhìn chầm chập vào người đối diện , như ngài cảnh sát bắt thóp thằng ăn trộm. Mấy thằng bạn hắn đều rút lui có trật tự, sau khi còn rủa thêm mấy câu rất là tục tĩu. Đã mấy lần bà Linda còn nói thẳng với Bob là mụ không muốn hắn dẫn về nhà những thằng " chó chết " ấy, và mụ rất phiền khi phải trả lời những cú phôn chẳng ăn nhập gì đến mụ cả.
Thật là một mụ già quá quắt, đến nước ấy thì Bob phải đi thôi, vì hắn tự do đã quen rồi, ráng về ở với bà cô chẳng phải vì tình nghĩa thắm thiết nào, mà chỉ vì sau khi tính toán những khoản chi tiêu mỗi tháng, hắn biết sẽ không kham nổi tiền nhà, tiền điện. Nhưng “con giun xéo lắm cũng quằn”, không có chỗ sống thoải mái như ý muốn đời cũng chẳng vui, nhờ vậy hắn mới quyết tâm đi tìm ra căn chung cư giá bèo một chút, bất ngờ lưu lạc vào khu có nhiều người Á châu, mà bấy lâu hắn vẫn xem là loại dân tộc kém văn minh, đang sống nhờ sống đậu trên xứ sở hắn.
Khu chung cư bề ngoài nom nhếch nhác vậy mà bên trong trông rất gọn gàng, sạch sẽ, lại đầy đủ tiện nghi. Căn phòng Bob ở ngay đầu đường, nhìn ra con đường rợp bóng cây xanh. Mỗi buổi chiều khi hoàng hôn xuống, Bob vẫn có cái thú nhìn vạt nắng vàng thoi thóp trên những mái nhà mốc thếch, tháp chuông nhà thờ vươn lên trong rừng cây phiá bên kia công viên. Bob thường ngồi hút thuốc ở lan can, quan sát những nhà Việt Nam sống chung quanh, họ đã làm hắn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, và hắn thực tình muốn kết thân với họ. Luôn luôn, hắn nhận được những nụ cười thân thiện và lời mời chào vui vẻ, khác hẳn vẻ khách sáo bên ngoài của người Mỹ , chủ nhân những căn nhà đóng kín cửa, hầu như không muốn mở cửa cho ai bước vào cái thế giới riêng tư của họ.
Mãi rồi Bob cũng quen dần với sự cởi mở của những người hàng xóm. Những người đàn bà mỗi buổi sáng liú lo chào hỏi nhau, họ nói nhiều, nhiều lắm, Bob không hiểu gì hết nhưng lờ mờ đoán rằng họ đang tâm sự với nhau về chuyện gia đình, đời sống, con cái chi chi đó. Những đứa trẻ con mới đầu nhìn Bob tò mò, e ngại, sau thấy hắn vui vẻ cũng chạy đến với Bob mỗi lần hắn thơ thẩn đứng chơi trước sân nhà. Lòng Bob lại nao nao nhớ đến mảnh đời ấu thơ xa tít tắp, đến thằng Bill, con Nancy, tiếng sóng biển rì rào và vườn cam óng vàng tiếng chim vui
Nhà hàng xóm của Bob là một cặp vợ chồng Việt Nam trung niên mới định cư ở Mỹ khoảng ba năm, họ có hai đứa con lớn và một đứa còn bé đang học trường Tiểu học, người chồng đi làm ở một nhà máy còn vợ ở nhà chăm sóc gia đình, đưa đón con đi học. Hai đứa con lớn làm thêm tí chút vào cuối tuần, vậy mà với đồng lương khiêm nhượng đó, họ sống có vẻ ung dung lắm, trong khi Bob chỉ có một mình mà lắm lúc hắn đã bấn rốn lên vì tiền.
Bob vẫn nhớ lần đầu được mời sang chơi nhà họ, mặc dù không sửa soạn trước vì Bob cũng chỉ là người khách bất đắc dĩ, người vợ đã vui vẻ đi làm ngay món chả giò ăn với bún và rau sống. Nhìn chai nước mắm nguyên chất để trên bàn, tự nhiên Bob liên tưởng đến những vại dưa kim chi ở Đại Hàn năm xưa. Hắn buột miệng :
" So hot, so hot...."
Người đàn bà thì lại nghĩ khác, bà tưởng hắn than nóng nên đã vội vã chạy lại mở chiếc quạt trần, rồi gật đầu mỉm cười với hắn. Đúng là "Ông nói gà, bà hiểu vịt " , tự nhiên Bob thấy vui vui, hắn đã ngửi thấy mùi thơm của những chiếc chả giò cuộn tròn chiên trong chảo mỡ. Khi mâm cơm dọn lên, người đàn bà đã làm xong món nước chấm, ông chồng mời hắn cuộn thử cái chả giò trong lá xà lách xanh mướt, với một chút bún trắng ngần để ăn với thứ nước chấm ấy, Bob mới khám phá rằng, chưa bao giờ hắn được tận hưởng cái hương vị thơm ngon và tròn trịa đến vậy. Bằng một sự pha chế khéo léo tuyệt vời, người đàn bà giản dị kia không cần sách vở, đã hoà hợp được tất cả cái mặn, ngọt, chua, cay của gia vị, để làm nên một thứ nước chấm lạ lùng đến thế. Nó là cả một nghệ thuật, như người hoạ sĩ pha trộn những màu sắc, để vẽ lên bầu trời những áng mây dìu dịu của một mùa xuân biêng biếc.
Bob được một bữa ngon, nó còn ngon hơn nữa vì không khí đầm ấm cuả một gia đình hạnh phúc, cả gia đình họ quây quần quanh mâm cơm, cùng ăn, cùng nói, cùng cười, ấm áp biết bao nhiêu. Qua những tiếp xúc với họ lâu dài, Bob cứ ngạc nhiên rồi ngạc nhiên, trên xứ sở này xem ra họ là những người nghèo khổ, mà sao tấm lòng họ rộng rãi vô cùng.
Bob còn được nhiều lần chung vui với họ trong những dịp lễ lạc hay cúng giỗ tổ tiên. Người nội trợ đã công phu gỡ từng thớ thịt cua trắng ngần, nhồi chung với thịt băm, nấm, củ hành, bún tàu, tiêu tỏi để làm nên món chả cua ngon tuyệt vời. Món cá hấp hành xanh cuộn bánh tráng ăn mãi không no. Món thịt bò thái mỏng trải lên chiếc chảo nóng bốc khói ăn kèm với các thứ rau cỏ, ngào ngạt mùi hành tỏi phi thơm phức. Trong cái khéo léo hòa hợp các món ăn đi với nhau thật là vừa vặn, Bob đâu dám xem thường cái dân tộc nhỏ bé này nữa, chỉ trong món ăn mà họ đã đạt đến một nghệ thuật tầm cỡ như thế, thì hẳn là tâm hồn và nếp sống dân tộc của họ đã vô cùng phong phú và đa dạng, như thế đâu dám bảo họ có một nền văn hoá nông cạn và thô sơ.
Một lạ lùng nữa đối với Bob, khi người Mỹ chỉ tổ chức những ngày sinh nhật, thì người Việt lại hay tưởng niệm ngày người thân của họ nhắm mắt lìa đời. Họ gọi đó là đám giỗ. Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, xếp đầy bánh trái và hoa thơm, kèm theo một mâm cơm nấu nướng công phu, họ nghiêm chỉnh cầm những nén nhang xì xụp lạy những tấm hình của ông bà, cha mẹ trên bàn thờ. Bob thắc mắc thì họ giải thích:
" Chúng tôi luôn luôn tin có Trời và ai cũng có một tôn giáo riêng cho mình, nhưng người sinh ra và nuôi dưỡng chúng tôi lại là ông bà cha mẹ. Bởi vậy người Việt chúng tôi có một đạo hợp lẽ nhất là đạo thờ cúng ông bà. Mỗi năm, chúng tôi có vài lần tưởng niệm, để con cháu chúng tôi không bao giờ quên nguồn gốc của chúng nó, và cũng để thương yêu, hoà hợp với nhau hơn."
Bob làm sao hiểu nổi sợi giây thiêng liêng về gia đình của người Việt Nam. Người ta không chỉ mỗi năm có một ngày cho cha cho mẹ, cho ông bà tổ tiên, mà hầu như lúc nào có dịp họ vẫn nhắc nhở cho con cái trong nhà nhớ đến những bậc tiền nhân, Bob có cảm tưởng linh hồn những người khuất bóng kia, vẫn còn ẩn hiện trong cuộc sống của con cháu họ mãi mãi. Bob liên tưởng đến ông nội hắn, ngày cha mẹ hắn chết thì ông vẫn sống hẩm hiu trong viện dưỡng lão, không biết ông còn hay mất? Ngay cả mồ mả cha mẹ hắn, chắc vẫn nằm hiu quạnh trong một nghĩa trang miền quê, có hằng đàn quạ khoang rền rĩ kêu những lời buồn thảm.
Từ ngạc nhiên đến tò mò, Bob lần ra thư viện tìm đọc những cuốn sách có liên quan đến dân tộc Việt Nam nằm xa tít bên kia bờ đại dương. Một giải đất cong cong hình chữ S đã trải qua hằng ngàn năm nô lệ giặc Tàu, hằng trăm đô hộ giặc Tây, và mấy chục năm tương tàn trong máu lửa chiến tranh vì không cùng lý tưởng. Bob đã hiểu vì sao, những người chiến binh Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam khi trở về quê hương, vẫn giữ mãi trong lòng họ hình ảnh dân tộc, đất nước của một quốc gia bé nhỏ, vùng đất hiền hoà những sông, những rạch, cây cỏ xanh tươi suốt bốn mùa, phố phường đông đúc, chợ búa tấp nập, nhất là những tà áo dài của Sài Gòn năm xưa. Tà áo Việt Nam trong một ngày nắng ấm, như gió, như mây, như những cánh bướm vờn bay trên đồng cỏ biếc, không hở hang mà rất là gợi cảm, không lả lơi mà thật là quyến rũ.
Buổi chiều. Đã bao nhiêu buổi chiều, Bob ngồi một mình trên hành lang để nghe lòng mình rộn ràng theo nhịp sống của những người xung quanh. Người hàng xóm đã đi làm về, dù mệt nhọc nhưng vẫn mỉm cười khi đứa con nhỏ hớn hở mừng cha với tiếng cười vui như chim hót. Người vợ đang lui cui sửa soạn bữa cơm chiều, hạnh phúc như toả ra chung quanh họ.
Bob cứ ngồi lặng yên để tận hưởng thứ hạnh phúc của mọi người, nó có một sức lan truyền mạnh mẽ làm trái tim cô đơn của hắn cũng rộn ràng theo. Bob thấy mình cần một lần trở về Florida, miền quê cũ có vùng biển xanh với mặt trời ấm áp, về khu vườn cam nơi hắn đã mở mắt chào đời. Hắn sẽ trở về chốn xưa, đặt những nhánh hồng lên phần mộ của cha mẹ, vì từ đây Bob không bao giờ là đứa con lạc loài, mà như một loài chim, đang bay về tổ ấm.
NGUYÊN NHUNG.
Bàn ra tán vào (1)
THE PHOENIX PROGRAM, Chiến Dịch Phượng Hoàng.
Tại sao khúc ruột ngàn dậm khi về VN mang tiếng việt kiều YÊU NƯỚC không dám bày tỏ lòng yêu nước tổ chức biểu tình phản đối thái độ bành trướng của ngoại xâm đại Hán Tầu Cộng để làm gương tốt cho tuổi trẻ sinh viên áo trắng với huy hiệu học đường đầy lòng can đảm như Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha.; một khi việt kiều đã mang quốc tịch ngoại quốc đời nào việt cộng bắt giam rồi VC họ sẽ ăn nói làm sao đây với chính quyền quốc gia của việt kiều ấy vì tội yêu nước VN… Xin thưa với quý vị: Barack Obama sẽ gặp Tập Cận Bình đầu tháng Sáu 2013 (họ sẽ gặp nhau trong 2 ngày 07 và 08/tháng 06 tại Palm Spring, cách Los Angeles khoảng 160 cây số) http://www.viet.rfi.fr/chau-a/20130521-barack-obama-se-gap-tap-can-binh-dau-thang-sau
Chúng ta nên lợi dụng cơ hội Tập Cận Bình không được phép vào tòa Bạch Óc (the White House) chúng đã bị gài bẫy vào ổ phục kích nơi thủ phủ người VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN để chúng ta biểu tình chống Trung cộng lấn chiếm biển đông, đây là cơ hội tốt cho chúng ta tại California cũng là nơi tập trung các dân tộc trong vùng ASEAN có đông cư dân như Philippines Indonesia Malaysia Japan Taiwan …. Đang bị đại Hán Tầu cộng lấn chiếm với dụng ý tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên dầu khí hải sản để cung cấp nuôi dân Tầu cộng có trên một tỷ bốn trăm triệu dân số gần phân nữa là đói nghèo.
----------------------------------------------------------------------------------
Người Mỹ Lạc Loài (Nguyen Nhung)
Tên hắn là Robert, một người Mỹ trăm phần trăm tóc vàng mắt xanh,
Người Mỹ Lạc Loài
Truyện Nguyên Nhung
Tên hắn là Robert, một người Mỹ trăm phần trăm tóc vàng mắt xanh, sinh trưởng ở miền Trung Florida, nơi có những bãi biển đẹp tuyệt vời và khí hậu ấm áp quanh năm. Tuy vậy, vùng biển tuyệt đẹp này thỉnh thoảng có những trận cuồng phong thổi qua, đã tàn phá nhà cửa cùng hoa màu của những cư dân vùng ấy.
Người ta thân mật gọi Robert là Bob, y hệt cái vẻ loắt choắt của hắn. Dáng dấp hắn bé nhỏ nhưng rắn rỏi vì đã qua vài năm trong quân ngũ, xem ra hắn có vẻ già trước tuổi dù chưa tới ba mươi.
Thuở nhỏ, Bob đã có những ngày thơ êm ả. Nhà hắn có ba anh em, Bob, thằng Bill và con em út Nancy sống với cha mẹ trong một trang trại có những vườn cam vàng ối, ngọt lịm. Thế mà định mệnh như một bàn tay tai quái đã phủ chụp xuống đời Bob, năm Bob lên mười tuổi thì cha mẹ hắn qua đời sau một tai nạn xe hơi. Cái chết của cha mẹ còn hơn cả trận cuồng phong thổi vào mảnh vườn ấu thơ của anh em Bob, bỗng dưng một sáng một chiều đã tan đàn xẻ nghé. Thằng Bill được một cặp vợ chồng hiếm muộn xin về Boston, thuộc tiểu bang Massachusset, con em bé Nancy bụ bẫm, dễ thương đã được một người họ xa đón về Virginia. Riêng Bob, số phận hẩm hiu hơn, mãi mới có một bà cô họ dở người đón hắn xuôi về phương Nam, thành phố Houston, thuộc tiểu bang Texas.
Sở dĩ có sự kém may mắn này là vì thằng Bill và con Nancy giống mẹ, mặt mũi sáng sủa, dễ gây thiện cảm cho nên được chọn trước, còn lại Bob nhỏ con, mặt choắt như quả trám, đôi mắt xanh ánh lên tia nhìn nghịch ngợm cho nên người ta ngại ngần sợ rước của nợ vào thân. Về sau thì Bob cũng lờ mờ nhận ra rằng, hắn chỉ là thứ " chó kiểng " cho vui nhà vui cửa, rồi đến khi hắn càng lớn lên thì dưới mắt bà cô già Linda, hắn chỉ là thứ "chó ghẻ " cần phải tống đi cho đỡ chướng mắt.
Mỗi lần nhắc đến bà Linda béo mập, Bob lại có cái cảm giác ớn ợn như đã no mà còn phải ăn thêm một phần ăn những mỡ là mỡ. Hắn không biết phải mô tả thế nào về bà cô miền đồng cỏ Texas này. Mụ có cái giọng ồm ồm của người đàn ông "country" thô kệch, không hề biết đến thời trang là gì. Mới nhìn mụ , người ta cứ tưởng mụ đang sống ở thế kỷ thứ mười chín, với chiếc áo kín cổ kết đầy đăng ten và chiếc váy vải cứng sột soạt phủ quá gối, khi bước đi, cả thân hình với những khối thịt núng nính như muốn rung chuyển mặt đất. Đã vậy mụ lại còn khó tính, khó nết cho nên không một gã đàn ông nào dám mạo hiểm " sờ " vào đời mụ cả, chính vì thế mà mụ lại càng có vẻ ác cảm với những phụ nữ ít phốp pháp hơn mụ.
Mỗi buổi sáng chủ nhật, Bob ngoan ngoãn theo bà Linda đến nhà thờ. Mặc dù được giảng giải cặn kẽ thế nào đi nữa, Bob cũng không làm sao hiểu nổi những bài dụ ngôn tối nghĩa trong kinh thánh. Nhất là những bài nói về ngày tận thế, hắn chẳng bao giờ mong ngày ấy đến dù có được hứa hẹn đưa lên thiên đàng ngay lập tức, bởi hắn nghĩ những cuộc rong chơi lêu lổng với bạn bè vẫn thú vị hơn nhiều. Bà Linda cho Bob theo học nhiều lớp Kinh Thánh, hy vọng Bob sẽ trở thành một mục sư, may ra tương lai của hắn mới sáng sủa lên được.
Bob đến trường cho có đến và ra trường chỉ là chuyện tất nhiên. Không có môn nào hấp dẫn hắn bằng môn quân sự, được đi, được chạy, được nhảy, được tập ắc ê để khỏi vùi đầu vào thứ sách vở rối beng trong lớp học. Sau đó Bob tình nguyện vào quân đội, qua những tháng ngày huấn nhục ở vùng San Diego, California, Bob được phân phối sang một đơn vị bộ binh trú đóng ở Korea. Tại đây, Bob đã có mối tình đầu khá thơ mộng với một cô bé Đại Hàn, mặt tròn, da trắng, mắt ti hí hay mặc những cái váy đen dài chấm đất. Mùa Đông ở Nam Hàn thật là khắc nghiệt, mặc dù thiếu rau cỏ, Bob cũng không thể nào quen nổi cái mùi nồng nặc tỏi ớt của những hũ kim chi được ủ dưới đất, dự trữ cho mùa đông, mỗi lần theo hướng gió Bob lại thấy buồn nôn khi ngửi phải cái mùi khủng khiếp ấy.
Cô bé Đại Hàn của hắn đã xơi ngon lành những tô mì bự bốc khói với hằng vốc ớt bằm đỏ ối, khiến Bob nhận ra rằng, trong vấn đề ẩm thực thì giữa nàng và hắn, không thể nào tìm được sự hoà hợp, như " Đông là Đông mà Tây vẫn là Tây ". Nàng mũm mĩm dễ thương như con gấu nhồi bông, nhưng Bob cũng không dám nghĩ đến chuyện đem nàng về quê hương, để cùng nhau chia xẻ những bát ớt lớn trong suốt đời hắn được.
Bob hồi hương sau ba năm ở lính, rồi như là định mệnh, hắn lại chui về căn nhà cũ kỹ của bà cô già, để tiếp tục đưa bà đi lễ mỗi ngày chủ nhật. Bây giờ Bob đã có công ăn việc làm, hắn đang là y tá trong một nhà thương quân đội, bà Linda vẫn hy vọng hắn trở thành mục sư. Riêng Bob, từ ngày vào lính hắn đã học được vô khối tiếng chửi thề, một người như thế thì khó mà trở thành một nhà đạo đức ở một nơi tôn nghiêm, thánh thiện, cho dù tâm hắn rất tốt, đôi khi vô tư như một đứa trẻ nít. Bob lại không có cái diện mạo trịnh trọng của một nhà truyền giáo, cứ hình dung khi phải đóng khung trong bộ đồ lớn, với một cái cà vạt lủng lẳng như sợi giây thắt cổ, hắn lại nghẹt thở đến xuất mồ hôi hột.
Bà cô già càng ngày càng mập, tính nết càng khắc nghiệt và kỳ cục đến không chịu nổi, mỗi lần Bob dẫn một đứa bạn nào về nhà, mụ cứ theo tò tò bên cạnh, chiếu cặp mắt xanh biếc như mắt mèo, nhìn chầm chập vào người đối diện , như ngài cảnh sát bắt thóp thằng ăn trộm. Mấy thằng bạn hắn đều rút lui có trật tự, sau khi còn rủa thêm mấy câu rất là tục tĩu. Đã mấy lần bà Linda còn nói thẳng với Bob là mụ không muốn hắn dẫn về nhà những thằng " chó chết " ấy, và mụ rất phiền khi phải trả lời những cú phôn chẳng ăn nhập gì đến mụ cả.
Thật là một mụ già quá quắt, đến nước ấy thì Bob phải đi thôi, vì hắn tự do đã quen rồi, ráng về ở với bà cô chẳng phải vì tình nghĩa thắm thiết nào, mà chỉ vì sau khi tính toán những khoản chi tiêu mỗi tháng, hắn biết sẽ không kham nổi tiền nhà, tiền điện. Nhưng “con giun xéo lắm cũng quằn”, không có chỗ sống thoải mái như ý muốn đời cũng chẳng vui, nhờ vậy hắn mới quyết tâm đi tìm ra căn chung cư giá bèo một chút, bất ngờ lưu lạc vào khu có nhiều người Á châu, mà bấy lâu hắn vẫn xem là loại dân tộc kém văn minh, đang sống nhờ sống đậu trên xứ sở hắn.
Khu chung cư bề ngoài nom nhếch nhác vậy mà bên trong trông rất gọn gàng, sạch sẽ, lại đầy đủ tiện nghi. Căn phòng Bob ở ngay đầu đường, nhìn ra con đường rợp bóng cây xanh. Mỗi buổi chiều khi hoàng hôn xuống, Bob vẫn có cái thú nhìn vạt nắng vàng thoi thóp trên những mái nhà mốc thếch, tháp chuông nhà thờ vươn lên trong rừng cây phiá bên kia công viên. Bob thường ngồi hút thuốc ở lan can, quan sát những nhà Việt Nam sống chung quanh, họ đã làm hắn đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, và hắn thực tình muốn kết thân với họ. Luôn luôn, hắn nhận được những nụ cười thân thiện và lời mời chào vui vẻ, khác hẳn vẻ khách sáo bên ngoài của người Mỹ , chủ nhân những căn nhà đóng kín cửa, hầu như không muốn mở cửa cho ai bước vào cái thế giới riêng tư của họ.
Mãi rồi Bob cũng quen dần với sự cởi mở của những người hàng xóm. Những người đàn bà mỗi buổi sáng liú lo chào hỏi nhau, họ nói nhiều, nhiều lắm, Bob không hiểu gì hết nhưng lờ mờ đoán rằng họ đang tâm sự với nhau về chuyện gia đình, đời sống, con cái chi chi đó. Những đứa trẻ con mới đầu nhìn Bob tò mò, e ngại, sau thấy hắn vui vẻ cũng chạy đến với Bob mỗi lần hắn thơ thẩn đứng chơi trước sân nhà. Lòng Bob lại nao nao nhớ đến mảnh đời ấu thơ xa tít tắp, đến thằng Bill, con Nancy, tiếng sóng biển rì rào và vườn cam óng vàng tiếng chim vui
Nhà hàng xóm của Bob là một cặp vợ chồng Việt Nam trung niên mới định cư ở Mỹ khoảng ba năm, họ có hai đứa con lớn và một đứa còn bé đang học trường Tiểu học, người chồng đi làm ở một nhà máy còn vợ ở nhà chăm sóc gia đình, đưa đón con đi học. Hai đứa con lớn làm thêm tí chút vào cuối tuần, vậy mà với đồng lương khiêm nhượng đó, họ sống có vẻ ung dung lắm, trong khi Bob chỉ có một mình mà lắm lúc hắn đã bấn rốn lên vì tiền.
Bob vẫn nhớ lần đầu được mời sang chơi nhà họ, mặc dù không sửa soạn trước vì Bob cũng chỉ là người khách bất đắc dĩ, người vợ đã vui vẻ đi làm ngay món chả giò ăn với bún và rau sống. Nhìn chai nước mắm nguyên chất để trên bàn, tự nhiên Bob liên tưởng đến những vại dưa kim chi ở Đại Hàn năm xưa. Hắn buột miệng :
" So hot, so hot...."
Người đàn bà thì lại nghĩ khác, bà tưởng hắn than nóng nên đã vội vã chạy lại mở chiếc quạt trần, rồi gật đầu mỉm cười với hắn. Đúng là "Ông nói gà, bà hiểu vịt " , tự nhiên Bob thấy vui vui, hắn đã ngửi thấy mùi thơm của những chiếc chả giò cuộn tròn chiên trong chảo mỡ. Khi mâm cơm dọn lên, người đàn bà đã làm xong món nước chấm, ông chồng mời hắn cuộn thử cái chả giò trong lá xà lách xanh mướt, với một chút bún trắng ngần để ăn với thứ nước chấm ấy, Bob mới khám phá rằng, chưa bao giờ hắn được tận hưởng cái hương vị thơm ngon và tròn trịa đến vậy. Bằng một sự pha chế khéo léo tuyệt vời, người đàn bà giản dị kia không cần sách vở, đã hoà hợp được tất cả cái mặn, ngọt, chua, cay của gia vị, để làm nên một thứ nước chấm lạ lùng đến thế. Nó là cả một nghệ thuật, như người hoạ sĩ pha trộn những màu sắc, để vẽ lên bầu trời những áng mây dìu dịu của một mùa xuân biêng biếc.
Bob được một bữa ngon, nó còn ngon hơn nữa vì không khí đầm ấm cuả một gia đình hạnh phúc, cả gia đình họ quây quần quanh mâm cơm, cùng ăn, cùng nói, cùng cười, ấm áp biết bao nhiêu. Qua những tiếp xúc với họ lâu dài, Bob cứ ngạc nhiên rồi ngạc nhiên, trên xứ sở này xem ra họ là những người nghèo khổ, mà sao tấm lòng họ rộng rãi vô cùng.
Bob còn được nhiều lần chung vui với họ trong những dịp lễ lạc hay cúng giỗ tổ tiên. Người nội trợ đã công phu gỡ từng thớ thịt cua trắng ngần, nhồi chung với thịt băm, nấm, củ hành, bún tàu, tiêu tỏi để làm nên món chả cua ngon tuyệt vời. Món cá hấp hành xanh cuộn bánh tráng ăn mãi không no. Món thịt bò thái mỏng trải lên chiếc chảo nóng bốc khói ăn kèm với các thứ rau cỏ, ngào ngạt mùi hành tỏi phi thơm phức. Trong cái khéo léo hòa hợp các món ăn đi với nhau thật là vừa vặn, Bob đâu dám xem thường cái dân tộc nhỏ bé này nữa, chỉ trong món ăn mà họ đã đạt đến một nghệ thuật tầm cỡ như thế, thì hẳn là tâm hồn và nếp sống dân tộc của họ đã vô cùng phong phú và đa dạng, như thế đâu dám bảo họ có một nền văn hoá nông cạn và thô sơ.
Một lạ lùng nữa đối với Bob, khi người Mỹ chỉ tổ chức những ngày sinh nhật, thì người Việt lại hay tưởng niệm ngày người thân của họ nhắm mắt lìa đời. Họ gọi đó là đám giỗ. Trên bàn thờ khói hương nghi ngút, xếp đầy bánh trái và hoa thơm, kèm theo một mâm cơm nấu nướng công phu, họ nghiêm chỉnh cầm những nén nhang xì xụp lạy những tấm hình của ông bà, cha mẹ trên bàn thờ. Bob thắc mắc thì họ giải thích:
" Chúng tôi luôn luôn tin có Trời và ai cũng có một tôn giáo riêng cho mình, nhưng người sinh ra và nuôi dưỡng chúng tôi lại là ông bà cha mẹ. Bởi vậy người Việt chúng tôi có một đạo hợp lẽ nhất là đạo thờ cúng ông bà. Mỗi năm, chúng tôi có vài lần tưởng niệm, để con cháu chúng tôi không bao giờ quên nguồn gốc của chúng nó, và cũng để thương yêu, hoà hợp với nhau hơn."
Bob làm sao hiểu nổi sợi giây thiêng liêng về gia đình của người Việt Nam. Người ta không chỉ mỗi năm có một ngày cho cha cho mẹ, cho ông bà tổ tiên, mà hầu như lúc nào có dịp họ vẫn nhắc nhở cho con cái trong nhà nhớ đến những bậc tiền nhân, Bob có cảm tưởng linh hồn những người khuất bóng kia, vẫn còn ẩn hiện trong cuộc sống của con cháu họ mãi mãi. Bob liên tưởng đến ông nội hắn, ngày cha mẹ hắn chết thì ông vẫn sống hẩm hiu trong viện dưỡng lão, không biết ông còn hay mất? Ngay cả mồ mả cha mẹ hắn, chắc vẫn nằm hiu quạnh trong một nghĩa trang miền quê, có hằng đàn quạ khoang rền rĩ kêu những lời buồn thảm.
Từ ngạc nhiên đến tò mò, Bob lần ra thư viện tìm đọc những cuốn sách có liên quan đến dân tộc Việt Nam nằm xa tít bên kia bờ đại dương. Một giải đất cong cong hình chữ S đã trải qua hằng ngàn năm nô lệ giặc Tàu, hằng trăm đô hộ giặc Tây, và mấy chục năm tương tàn trong máu lửa chiến tranh vì không cùng lý tưởng. Bob đã hiểu vì sao, những người chiến binh Mỹ trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam khi trở về quê hương, vẫn giữ mãi trong lòng họ hình ảnh dân tộc, đất nước của một quốc gia bé nhỏ, vùng đất hiền hoà những sông, những rạch, cây cỏ xanh tươi suốt bốn mùa, phố phường đông đúc, chợ búa tấp nập, nhất là những tà áo dài của Sài Gòn năm xưa. Tà áo Việt Nam trong một ngày nắng ấm, như gió, như mây, như những cánh bướm vờn bay trên đồng cỏ biếc, không hở hang mà rất là gợi cảm, không lả lơi mà thật là quyến rũ.
Buổi chiều. Đã bao nhiêu buổi chiều, Bob ngồi một mình trên hành lang để nghe lòng mình rộn ràng theo nhịp sống của những người xung quanh. Người hàng xóm đã đi làm về, dù mệt nhọc nhưng vẫn mỉm cười khi đứa con nhỏ hớn hở mừng cha với tiếng cười vui như chim hót. Người vợ đang lui cui sửa soạn bữa cơm chiều, hạnh phúc như toả ra chung quanh họ.
Bob cứ ngồi lặng yên để tận hưởng thứ hạnh phúc của mọi người, nó có một sức lan truyền mạnh mẽ làm trái tim cô đơn của hắn cũng rộn ràng theo. Bob thấy mình cần một lần trở về Florida, miền quê cũ có vùng biển xanh với mặt trời ấm áp, về khu vườn cam nơi hắn đã mở mắt chào đời. Hắn sẽ trở về chốn xưa, đặt những nhánh hồng lên phần mộ của cha mẹ, vì từ đây Bob không bao giờ là đứa con lạc loài, mà như một loài chim, đang bay về tổ ấm.
NGUYÊN NHUNG.