Di Sản Hồ Chí Minh
Nguyễn Hưng Quốc - Tháng Tư và ký ức tập thể
Trước hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective memory) hay ký ức văn hoá (culture memory) là một đề tài khá mới trong giới nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu chỉ chú ý đến lý trí.
Cách đây hơn một năm, có một nghệ sĩ khá nổi tiếng từ Việt Nam sang tham
dự một sinh hoạt văn nghệ tại Úc. Sinh ở Hà Nội sau năm 1975, anh là
một nghệ sĩ tài hoa và có tinh thần cách tân khá triệt để. Và vì tinh
thần cách tân ấy, dù tài hoa, anh vẫn bị cô lập ở Việt Nam. Sự cô lập ấy
càng củng cố tư thế độc lập của anh; và tư thế độc lập ấy, đến lượt nó,
củng cố cái nhìn cởi mở về nhiều vấn đề liên quan đến chính trị và xã
hội Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp xúc thân mật với nhiều
người trong cộng đồng người Việt tại Úc, anh vẫn bị sốc. Một lần, anh
tâm sự: “Điều em ngạc nhiên nhất là bà con bên này bị ám ảnh về quá khứ
nhiều quá. Lần nói chuyện nào cũng dẫn đến những chuyện trước 75, rồi
những chuyện sau 75, từ chuyện chiến tranh đến chuyện kinh tế mới,
chuyện cải tạo và chuyện vượt biển. Ở trong nước, hầu như bọn em chẳng
bao giờ nhớ hay nghĩ đến những chuyện như vậy nữa”.
Không phải chỉ có anh bạn nghệ sĩ ấy. Tôi đã nghe nhiều người nói thế.
Có người viết hẳn trên báo chí. Là: những chuyện mà nhiều người ở hải
ngoại còn trăn trở mãi, ở trong nước, người ta đã quên mất từ lâu rồi.
Một số người còn lên giọng: Nên gạt bỏ quá khứ để hội nhập vào dòng
chuyển động không ngừng của đất nước.
Những lời phát biểu ấy khiến tôi nghĩ ngợi về đề tài ký ức.
Trước hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective
memory) hay ký ức văn hoá (culture memory) là một đề tài khá mới trong
giới nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu
chỉ chú ý đến lý trí. Từ Descartes đến Pascal và Kant, người nào cũng đề
cao lý trí, cũng đều xem lý trí là năng lực tối thượng phân biệt con
người và các loài động vật khác. Từ đầu thế kỷ 20, dưới ảnh hưởng của
Freud, và sau đó, của Jung, với nhiều trường phái khác nhau trong chủ
nghĩa hiện đại, người ta lại đề cao vô thức, xem chính vô thức mới là
động lực chính thúc đẩy và quyết định những sự lựa chọn trong đời sống
cũng như trong các hoạt động sáng tạo. Chỉ khoảng vài thập niên gần đây,
người ta mới hay đề cập đến vai trò của ký ức, thoạt đầu trong lãnh vực
xã hội học, sau, trong văn hoá học.
Có một câu nói nổi tiếng tiêu biểu cho quan niệm này: Chúng ta là những
gì chúng ta nhớ (We are what we remember). Những gì chúng ta nhớ tạo nên
ý nghĩa cho những gì chúng ta làm hoặc chứng kiến; và tất cả những gì
chúng ta làm hoặc chứng kiến được ghi nhớ ấy sẽ tạo nên hình ảnh của
chính chúng ta. Chính những hình ảnh ấy là những nguyên liệu đầu tiên và
quan trọng nhất tạo nên bản sắc của từng người. Bởi vậy những người bị
mất trí nhớ bao giờ cũng bị mất ý niệm về bản sắc: Họ không biết họ là
ai.
Nhưng ký ức có hai đặc điểm quan trọng cần lưu ý: Thứ nhất, nó không
phải là cái gì thuần tuý có tính cá nhân. Bất cứ ký ức nào cũng có tính
tương tác. Nhớ, dù là nhớ một kỷ niệm hoàn toàn riêng tư, cũng vẫn liên
hệ với một cái gì khác: một thời gian, một không gian, một cảnh huống và
những con người khác. Qua việc nhớ, do đó, chúng ta nối kết bản ngã và
môi trường chung quanh, nối kết quá khứ và hiện tại, cá nhân và tập thể,
cái riêng và cái chung. Bởi vậy ký ức nào, dù riêng tư đến mấy, vẫn lấp
lánh hồi quang của cả một cộng đồng: ký ức, một mặt, kiến tạo và nuôi
dưỡng bản sắc cá nhân, mặt khác, góp phần định hình bản sắc tập thể; rồi
chính bản sắc tập thể ấy, đến lượt nó, lại tác động ngược lại đến ký
ức, biến ký ức thành một quá trình chọn lọc liên tục. Từ đó, dẫn đến đặc
điểm thứ hai: ký ức không phải là những gì cố định. Ký ức không phải là
kho lưu trữ hình ảnh một cách máy móc và vô hồn. Ký ức, ngược lại,
không ngừng được tái tạo và không ngừng được tái cấu trúc. Cùng một sự
kiện, được nhớ trong những thời điểm khác nhau, với những quan điểm và
những tâm trạng khác nhau, chúng ta có những hình ảnh khác nhau với
những ý nghĩa khác nhau. Bởi vậy, ký ức nào cũng có tính hiện tại. Nó
không phải chỉ là quá khứ. Nó là quá khứ được hiện tại hoá. Và vì được
hiện tại hoá, quá khứ nào cũng có tính chính trị của nó. Nhớ, do đó, là
một diễn ngôn (discourse), một loại hình tự sự, ẩn giấu đằng sau những
nỗ lực diễn dịch và tái diễn dịch quá khứ để đáp ứng những thử thách của
hiện tại.
Cũng cần lưu ý là ký ức hiện diện ở mọi nền văn hoá. Ai cũng có ký ức và
cũng cần ký ức. Nhưng dường như với người Việt Nam, ký ức có tầm quan
trọng hơn hẳn ở những nơi khác, nhất là ở các nước Tây phương. Ở Tây
phương, nói chung, ký ức thường nhanh chóng được thu thập, lưu trữ, xác
minh và phân tích, cuối cùng, thành lịch sử. Ở Việt Nam, ký ức thường ở
nguyên dạng ký ức, khuất chìm trong vô thức, bàng bạc trong đời sống của
quần chúng. Cái gọi là lịch sử ở Việt Nam, phần lớn chỉ là những mảnh
ký ức rời, nhập nhoà giữa huyền thoại và sự thực, đậm đặc màu sắc truyền
thuyết. Nếu lịch sử là những đại tự sự (grand narrative), ký ức chỉ là
những tiểu tự sự. Nếu lịch sử mang tính chính quy, đặc tuyển và nhất là
tuyến tính, ký ức thường đứng ngoài mọi thiết chế, gắn liền chủ yếu với
văn hoá dân gian, thường xuyên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tương
tác trong xã hội.
Người Việt thích sống với ký ức. Người Việt ở hải ngoại lại càng thích
sống với ký ức. Rời khỏi quê hương, sống hẳn ở nước người, tuyệt đại đa
số lưu dân, trong đó có người Việt Nam, không bao giờ có thể hội nhập
hẳn vào cuộc sống mới. Họ sống lửng lơ ở giữa (in-between). Giữa gì?
Giữa quê gốc và quê mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Giữa hoài niệm và
hoài bão. Sống ở giữa là sống trên những biên giới, là lấp lửng ở bên
này và bên kia biên giới. Ở vùng biên giới ấy có gì? Chủ yếu là ký ức.
Ký ức trở thành quê hương chính của những người lưu dân, bất kể là lưu
dân nào. Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, một nhà nghiên cứu trẻ và xuất sắc ở
Úc, mới xuất bản một cuốn sách mang nhan đề rất thú vị: “Ký ức là một
quê hương khác: Phụ nữ Việt Nam lưu vong” (Memory is Another Country:
Women of the Vietnamese Diaspora, Praeger, 2009). Sẵn, xin nhắc: Trước
đó, một nhà nghiên cứu Việt học lỗi lạc khác, Huệ-Tâm Hồ-Tài, ở Mỹ, có
một tác phẩm mang nhan đề tương tự, nhưng đối tượng khảo sát lại là ở
Việt Nam thời hậu chiến: “Quê hương của ký ức: Việc tái tạo quá khứ ở
Việt Nam thời hậu kỳ xã hội chủ nghĩa” (The Country of Memory: Remaking
the Past in Late Socialist Vietnam, University of California Press,
2001). Dĩ nhiên, hai cái “quê hương” được đề cập trong hai tác phẩm vừa
kể rất khác nhau. Khác, không những ở cấp độ mà còn về bản chất: với
người trong nước, ký ức là một quê hương của lựa chọn; với những người
lưu dân hay lưu vong, ký ức là quê hương của số phận. Là quê hương duy
nhất. Ngoài nó, có khi không còn gì khác.
Người lưu dân hay lưu vong nào cũng gắn bó với ký ức. Những người lưu
dân hay lưu vong ra đi từ một đất nước tan nát vì chiến tranh và ngập
ngụa hận thù lại càng quay quắt với ký ức. Những người lưu dân và lưu
vong đến sống ở các nền văn hoá khác, hoàn toàn xa lạ với nền văn hoá
gốc lại càng bị giam hãm trong ký ức. Nói như thế cũng là cách mặc nhiên
phân biệt hai loại ký ức: ký ức của người thắng cuộc và ký ức của các
nạn nhân.
Ký ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn
nhân. Một ký ức đầm đìa máu và nước mắt. Không phải chỉ có máu và nước
mắt thời kỳ chiến tranh mà còn có máu và nước mắt lúc chiến tranh đã kết
thúc. Ở các nhà tù và trại cải tạo. Ở các chiến dịch đánh tư sản mại
bản. Ở chính sách ngăn sông cấm chợ. Ở sự kỳ thị vùng miền và lý lịch. Ở
những cuộc di tản và vượt biên đầy hãi hùng.
Đòi hỏi những người mang trong đầu và trong tim loại ký ức đầy máu và
nước mắt ấy là một đòi hỏi vô cảm. Xuất phát từ miệng của những người
thắng cuộc, nó không những vô cảm mà còn lưu manh.
Nhớ, cách đây một hai năm gì đó, khi đọc một bài báo của một nhà văn
miền Nam từng tham gia “Mặt trận” trước năm 1975, trong đó, ông phiền
trách nhiều người ở hải ngoại sao cứ đau đáu mãi với quá khứ trong khi
ông và bạn bè và đồng chí của ông thì đã gạt hẳn tất cả qua một bên từ
lâu rồi, một người bạn tôi bình luận:
“Cứ tưởng tượng có một thằng lưu manh đến cướp nhà của người ta và đuổi
người ta ra đường. Mấy năm sau, thấy nạn nhân nằm lê lết trên vỉa hè và
nhớ tiếc ngôi nhà cũ, tên ăn cướp lên giọng: ‘Tại sao ông bà lại phải
nhớ mãi những chuyện buồn như thế? Tại sao không quên đi? Tại sao không
hướng tới tương lai để sống một cách thanh thản chứ?’ Nói xong, hắn quay
về nhà, cái căn nhà hắn cướp của người ta, ngồi trên ghế salon, gác
chân lên bàn, vừa nốc bia vừa nghĩ đến chuyện quên lãng và tha thứ như
một thứ đạo đức mới mà hắn mới phát hiện ra được.”
Tôi không chủ trương hận thù. Tôi biết có thứ đạo đức học của sự tha thứ
(ethics of forgiveness) nhưng tôi không hề tin vào thứ đạo đức học của
sự quên lãng (ethics of forgetting).
Theo tôi, không phải chỉ có bản sắc mà cả ý niệm về đạo đức cũng được
nuôi dưỡng từ ký ức, kể cả, nếu không muốn nói, nhất là, những loại ký
ức đầy máu và nước mắt.
Nguyễn Hưng Quốc
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết
trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh
quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
- "Hiệu ứng nói phét!" - by Văn Quang / Trần Văn Giang (ghi lại)
- Phiếm luận, chuyện Nhà Nước ta!!! _ Di Tĩnh Đắc ( Nguyễn Bá Chổi chuyển )
- Đánh trống, đánh chiêng học lại lịch sử Sài Gòn - by FB Nguyễn Gia Việt & Trần Văn Giang (ghi lại)
- Việt Cộng: Kế hoạch gửi tiền Quỹ vắc-xin COVID-19 để lấy lãi gây ra tranh cãi
- Ân xá Quốc tế gửi bằng chứng, đòi Việt Cộng điều tra về tin tặc tấn công giới bất đồng
Nguyễn Hưng Quốc - Tháng Tư và ký ức tập thể
Trước hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective memory) hay ký ức văn hoá (culture memory) là một đề tài khá mới trong giới nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu chỉ chú ý đến lý trí.
Cách đây hơn một năm, có một nghệ sĩ khá nổi tiếng từ Việt Nam sang tham
dự một sinh hoạt văn nghệ tại Úc. Sinh ở Hà Nội sau năm 1975, anh là
một nghệ sĩ tài hoa và có tinh thần cách tân khá triệt để. Và vì tinh
thần cách tân ấy, dù tài hoa, anh vẫn bị cô lập ở Việt Nam. Sự cô lập ấy
càng củng cố tư thế độc lập của anh; và tư thế độc lập ấy, đến lượt nó,
củng cố cái nhìn cởi mở về nhiều vấn đề liên quan đến chính trị và xã
hội Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian tiếp xúc thân mật với nhiều
người trong cộng đồng người Việt tại Úc, anh vẫn bị sốc. Một lần, anh
tâm sự: “Điều em ngạc nhiên nhất là bà con bên này bị ám ảnh về quá khứ
nhiều quá. Lần nói chuyện nào cũng dẫn đến những chuyện trước 75, rồi
những chuyện sau 75, từ chuyện chiến tranh đến chuyện kinh tế mới,
chuyện cải tạo và chuyện vượt biển. Ở trong nước, hầu như bọn em chẳng
bao giờ nhớ hay nghĩ đến những chuyện như vậy nữa”.
Không phải chỉ có anh bạn nghệ sĩ ấy. Tôi đã nghe nhiều người nói thế.
Có người viết hẳn trên báo chí. Là: những chuyện mà nhiều người ở hải
ngoại còn trăn trở mãi, ở trong nước, người ta đã quên mất từ lâu rồi.
Một số người còn lên giọng: Nên gạt bỏ quá khứ để hội nhập vào dòng
chuyển động không ngừng của đất nước.
Những lời phát biểu ấy khiến tôi nghĩ ngợi về đề tài ký ức.
Trước hết, cần nói ngay, ký ức, đặc biệt ký ức tập thể (collective
memory) hay ký ức văn hoá (culture memory) là một đề tài khá mới trong
giới nghiên cứu. Trước, từ thời Khai Sáng, ở con người, giới nghiên cứu
chỉ chú ý đến lý trí. Từ Descartes đến Pascal và Kant, người nào cũng đề
cao lý trí, cũng đều xem lý trí là năng lực tối thượng phân biệt con
người và các loài động vật khác. Từ đầu thế kỷ 20, dưới ảnh hưởng của
Freud, và sau đó, của Jung, với nhiều trường phái khác nhau trong chủ
nghĩa hiện đại, người ta lại đề cao vô thức, xem chính vô thức mới là
động lực chính thúc đẩy và quyết định những sự lựa chọn trong đời sống
cũng như trong các hoạt động sáng tạo. Chỉ khoảng vài thập niên gần đây,
người ta mới hay đề cập đến vai trò của ký ức, thoạt đầu trong lãnh vực
xã hội học, sau, trong văn hoá học.
Có một câu nói nổi tiếng tiêu biểu cho quan niệm này: Chúng ta là những
gì chúng ta nhớ (We are what we remember). Những gì chúng ta nhớ tạo nên
ý nghĩa cho những gì chúng ta làm hoặc chứng kiến; và tất cả những gì
chúng ta làm hoặc chứng kiến được ghi nhớ ấy sẽ tạo nên hình ảnh của
chính chúng ta. Chính những hình ảnh ấy là những nguyên liệu đầu tiên và
quan trọng nhất tạo nên bản sắc của từng người. Bởi vậy những người bị
mất trí nhớ bao giờ cũng bị mất ý niệm về bản sắc: Họ không biết họ là
ai.
Nhưng ký ức có hai đặc điểm quan trọng cần lưu ý: Thứ nhất, nó không
phải là cái gì thuần tuý có tính cá nhân. Bất cứ ký ức nào cũng có tính
tương tác. Nhớ, dù là nhớ một kỷ niệm hoàn toàn riêng tư, cũng vẫn liên
hệ với một cái gì khác: một thời gian, một không gian, một cảnh huống và
những con người khác. Qua việc nhớ, do đó, chúng ta nối kết bản ngã và
môi trường chung quanh, nối kết quá khứ và hiện tại, cá nhân và tập thể,
cái riêng và cái chung. Bởi vậy ký ức nào, dù riêng tư đến mấy, vẫn lấp
lánh hồi quang của cả một cộng đồng: ký ức, một mặt, kiến tạo và nuôi
dưỡng bản sắc cá nhân, mặt khác, góp phần định hình bản sắc tập thể; rồi
chính bản sắc tập thể ấy, đến lượt nó, lại tác động ngược lại đến ký
ức, biến ký ức thành một quá trình chọn lọc liên tục. Từ đó, dẫn đến đặc
điểm thứ hai: ký ức không phải là những gì cố định. Ký ức không phải là
kho lưu trữ hình ảnh một cách máy móc và vô hồn. Ký ức, ngược lại,
không ngừng được tái tạo và không ngừng được tái cấu trúc. Cùng một sự
kiện, được nhớ trong những thời điểm khác nhau, với những quan điểm và
những tâm trạng khác nhau, chúng ta có những hình ảnh khác nhau với
những ý nghĩa khác nhau. Bởi vậy, ký ức nào cũng có tính hiện tại. Nó
không phải chỉ là quá khứ. Nó là quá khứ được hiện tại hoá. Và vì được
hiện tại hoá, quá khứ nào cũng có tính chính trị của nó. Nhớ, do đó, là
một diễn ngôn (discourse), một loại hình tự sự, ẩn giấu đằng sau những
nỗ lực diễn dịch và tái diễn dịch quá khứ để đáp ứng những thử thách của
hiện tại.
Cũng cần lưu ý là ký ức hiện diện ở mọi nền văn hoá. Ai cũng có ký ức và
cũng cần ký ức. Nhưng dường như với người Việt Nam, ký ức có tầm quan
trọng hơn hẳn ở những nơi khác, nhất là ở các nước Tây phương. Ở Tây
phương, nói chung, ký ức thường nhanh chóng được thu thập, lưu trữ, xác
minh và phân tích, cuối cùng, thành lịch sử. Ở Việt Nam, ký ức thường ở
nguyên dạng ký ức, khuất chìm trong vô thức, bàng bạc trong đời sống của
quần chúng. Cái gọi là lịch sử ở Việt Nam, phần lớn chỉ là những mảnh
ký ức rời, nhập nhoà giữa huyền thoại và sự thực, đậm đặc màu sắc truyền
thuyết. Nếu lịch sử là những đại tự sự (grand narrative), ký ức chỉ là
những tiểu tự sự. Nếu lịch sử mang tính chính quy, đặc tuyển và nhất là
tuyến tính, ký ức thường đứng ngoài mọi thiết chế, gắn liền chủ yếu với
văn hoá dân gian, thường xuyên chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tương
tác trong xã hội.
Người Việt thích sống với ký ức. Người Việt ở hải ngoại lại càng thích
sống với ký ức. Rời khỏi quê hương, sống hẳn ở nước người, tuyệt đại đa
số lưu dân, trong đó có người Việt Nam, không bao giờ có thể hội nhập
hẳn vào cuộc sống mới. Họ sống lửng lơ ở giữa (in-between). Giữa gì?
Giữa quê gốc và quê mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Giữa hoài niệm và
hoài bão. Sống ở giữa là sống trên những biên giới, là lấp lửng ở bên
này và bên kia biên giới. Ở vùng biên giới ấy có gì? Chủ yếu là ký ức.
Ký ức trở thành quê hương chính của những người lưu dân, bất kể là lưu
dân nào. Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn, một nhà nghiên cứu trẻ và xuất sắc ở
Úc, mới xuất bản một cuốn sách mang nhan đề rất thú vị: “Ký ức là một
quê hương khác: Phụ nữ Việt Nam lưu vong” (Memory is Another Country:
Women of the Vietnamese Diaspora, Praeger, 2009). Sẵn, xin nhắc: Trước
đó, một nhà nghiên cứu Việt học lỗi lạc khác, Huệ-Tâm Hồ-Tài, ở Mỹ, có
một tác phẩm mang nhan đề tương tự, nhưng đối tượng khảo sát lại là ở
Việt Nam thời hậu chiến: “Quê hương của ký ức: Việc tái tạo quá khứ ở
Việt Nam thời hậu kỳ xã hội chủ nghĩa” (The Country of Memory: Remaking
the Past in Late Socialist Vietnam, University of California Press,
2001). Dĩ nhiên, hai cái “quê hương” được đề cập trong hai tác phẩm vừa
kể rất khác nhau. Khác, không những ở cấp độ mà còn về bản chất: với
người trong nước, ký ức là một quê hương của lựa chọn; với những người
lưu dân hay lưu vong, ký ức là quê hương của số phận. Là quê hương duy
nhất. Ngoài nó, có khi không còn gì khác.
Người lưu dân hay lưu vong nào cũng gắn bó với ký ức. Những người lưu
dân hay lưu vong ra đi từ một đất nước tan nát vì chiến tranh và ngập
ngụa hận thù lại càng quay quắt với ký ức. Những người lưu dân và lưu
vong đến sống ở các nền văn hoá khác, hoàn toàn xa lạ với nền văn hoá
gốc lại càng bị giam hãm trong ký ức. Nói như thế cũng là cách mặc nhiên
phân biệt hai loại ký ức: ký ức của người thắng cuộc và ký ức của các
nạn nhân.
Ký ức của cộng đồng người Việt ở hải ngoại chủ yếu là ký ức của nạn
nhân. Một ký ức đầm đìa máu và nước mắt. Không phải chỉ có máu và nước
mắt thời kỳ chiến tranh mà còn có máu và nước mắt lúc chiến tranh đã kết
thúc. Ở các nhà tù và trại cải tạo. Ở các chiến dịch đánh tư sản mại
bản. Ở chính sách ngăn sông cấm chợ. Ở sự kỳ thị vùng miền và lý lịch. Ở
những cuộc di tản và vượt biên đầy hãi hùng.
Đòi hỏi những người mang trong đầu và trong tim loại ký ức đầy máu và
nước mắt ấy là một đòi hỏi vô cảm. Xuất phát từ miệng của những người
thắng cuộc, nó không những vô cảm mà còn lưu manh.
Nhớ, cách đây một hai năm gì đó, khi đọc một bài báo của một nhà văn
miền Nam từng tham gia “Mặt trận” trước năm 1975, trong đó, ông phiền
trách nhiều người ở hải ngoại sao cứ đau đáu mãi với quá khứ trong khi
ông và bạn bè và đồng chí của ông thì đã gạt hẳn tất cả qua một bên từ
lâu rồi, một người bạn tôi bình luận:
“Cứ tưởng tượng có một thằng lưu manh đến cướp nhà của người ta và đuổi
người ta ra đường. Mấy năm sau, thấy nạn nhân nằm lê lết trên vỉa hè và
nhớ tiếc ngôi nhà cũ, tên ăn cướp lên giọng: ‘Tại sao ông bà lại phải
nhớ mãi những chuyện buồn như thế? Tại sao không quên đi? Tại sao không
hướng tới tương lai để sống một cách thanh thản chứ?’ Nói xong, hắn quay
về nhà, cái căn nhà hắn cướp của người ta, ngồi trên ghế salon, gác
chân lên bàn, vừa nốc bia vừa nghĩ đến chuyện quên lãng và tha thứ như
một thứ đạo đức mới mà hắn mới phát hiện ra được.”
Tôi không chủ trương hận thù. Tôi biết có thứ đạo đức học của sự tha thứ
(ethics of forgiveness) nhưng tôi không hề tin vào thứ đạo đức học của
sự quên lãng (ethics of forgetting).
Theo tôi, không phải chỉ có bản sắc mà cả ý niệm về đạo đức cũng được
nuôi dưỡng từ ký ức, kể cả, nếu không muốn nói, nhất là, những loại ký
ức đầy máu và nước mắt.
Nguyễn Hưng Quốc
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết
trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh
quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
(VOA)