Tham Khảo
Nguyễn Trần Sâm - Sự tồi tệ của tâm lý bầy đàn
Tôi chưa được thấy ở đâu một định nghĩa chính xác về tâm lý bầy đàn. Nhưng tôi đoán, cụm từ này có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất là giống như “tâm lý đám đông
Tôi chưa được thấy ở đâu một định
nghĩa chính xác về tâm lý bầy đàn. Nhưng tôi đoán, cụm từ này có thể
được hiểu theo hai cách. Thứ nhất là giống như “tâm lý đám đông”, tức là
tâm lý chung của một đám người, với những “hiệu ứng” của nó, nhưng
nghiêng về kiểu không có suy nghĩ, gần với bầy đàn động vật. Thứ hai là
tâm lý của những cá thể, luôn muốn sống giữa đám đông, sợ những khoảng
thời gian đơn độc, và làm gì cũng đều nhìn đám đông mà làm theo, gần như
không suy nghĩ, không có quan điểm và sở thích riêng.
Trong bài này, chúng tôi nói về tâm lý bầy đàn theo cách hiểu thứ hai.
Mỗi một con người đều cần đến
những người chung quanh: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đoàn thể,… Cần
vì nhiều lý do. Thứ nhất là vì có những nhu cầu trong cuộc sống mà có sự
phối hợp tập thể thì việc đáp ứng sẽ dễ dàng hơn. Thứ hai, quan trọng
hơn, là nhu cầu tình cảm: người thân là chỗ dựa tinh thần cho chúng ta.
Và thứ ba là nhu cầu nhận thức: việc trao đổi, bàn bạc, học và dạy lẫn
nhau là vô cùng quan trọng đối với việc thu nhận và sàng lọc kiến thức,
chắt lọc lấy chân lý.
Tuy nhiên, nhận thức và thế giới
nội tâm của một con người chỉ có thể hoàn thiện (theo nghĩa tương đối)
nếu người đó có khả năng ở một mình trong những khoảng thời gian khá dài
(có thể là nhiều ngày). Việc đó vừa thể hiện năng lực tự giải quyết
những vấn đề riêng tư, vừa thực sự cần thiết cho việc suy tư, nghiền
ngẫm để đạt tới tri kiến sâu sắc, thứ mà người ta khó có thể nhận được
khi ở trong đám đông ồn ào, dù là đám đông tụ tập để thảo luận những vấn
đề nhận thức, như hội thảo khoa học chẳng hạn. Nhà khoa học không thể
lúc nào cũng ở trong hội thảo; người đó cần có những lúc ngồi một mình
để ý nghĩ và trí tưởng tượng phát huy hết tác dụng. Nhà văn khi viết
cũng cần ngồi một mình. Đối với một vài tôn giáo, việc “luyện hồn” càng
cần đến sự đơn độc, thậm chí là sự cô độc. Có thể nói, nhu cầu và khả
năng sống đơn độc là thước đo sự trưởng thành của con người.
Ngược với nhu cầu và khả năng
sống đơn độc, khả năng suy ngẫm để chắt lọc chân lý, là tâm lý bầy đàn.
Đó là hiện tượng tồi tệ, với nhiều hệ lụy. Ở đây chỉ xin nêu hai hệ lụy
của tâm lý bầy đàn, một liên quan đến đời sống xã hội, và một liên quan
đến đời sống cá nhân.
Khi trong xã hội có quá ít người
không thoát khỏi tâm lý bầy đàn thì xã hội đó sẽ gặp phải rất nhiều vấn
đề nhức nhối. Trong xã hội đó, chân lý không tìm được chỗ đứng. Mỗi
thành viên trong xã hội đều sẽ trông chờ có người đem “chân lý” đến cho
họ. Khi đó, dù là cái gọi là “chân lý” thực ra là “giả lý”, họ cũng sẽ
tiếp nhận một cách hào hứng, và tôn sùng cái nhân vật đem “giả lý” đến
cho họ như một vĩ nhân, một vị cứu tinh. Rồi một nhóm người ham quyền
lực sẽ quàng cái thòng lọng vào cổ họ, kéo họ đi bất cứ đâu mà nhóm
người này muốn. Để giữ an toàn, nhóm người này tiếp tục gieo rắc và
khuyến khích tâm lý bầy đàn, không cho mọi người tiếp cận chân lý thực
sự.
Trong một xã hội như vậy, luân
lý, đạo đức sẽ suy đồi. Đạo đức chân chính sẽ bị thế chỗ bởi sự trung
thành với những kẻ cầm thòng lọng. Ai dám hé răng nói lên sự thật chẳng
những sẽ bị những kẻ cầm thòng lọng thít cổ cho đến chết, mà còn bị đồng
loại ghét bỏ. Con người sẽ trở nên dối trá, và coi dối trá là lẽ sống.
Trong cuộc sống cá nhân (và gia
đình), tâm lý bầy đàn làm người ta không thể phấn đấu vì những gì thực
sự có ích lợi cho bản thân. Những kẻ không giàu, thậm chí rất nghèo,
cũng thi nhau vung tiền, kể cả tiền vay mượn, vào những việc lễ lạt, thủ
tục vô bổ, để rồi sau đó sống trong nghèo túng và cắn xé lẫn nhau. “Con
gà tức nhau tiếng gáy” chính là một biểu hiện của tâm lý bầy đàn. Một
biểu hiện khác là “miếng giữa làng bằng sàng xó bếp” – xô xát, tranh
cướp nhau chỉ để được một “miếng” không đáng gì, để sau đó sống trong
thù hằn, mệt mỏi.
Có những kẻ thấy người khác ở
trong tổ chức này nọ có vẻ oai và có “màu”, cũng cố “phấn đấu” để lọt
được vào cùng “đội ngũ” với những ông bà oai oách đó, cuối cùng chỉ làm
rào chắn để các ông bà đó yên tâm mà “ăn” của thiên hạ. Có kẻ thấy người
ta có chức tước, được trọng vọng, cũng cố chạy chọt chỉ để cũng có được
tí chức sắc, dù hữu danh vô thực. Có kẻ thấy người ta là giáo sư, tiến
sỹ, được xưng tụng rổn rảng tại chốn đông người, cũng cố bỏ tiền để kiếm
lấy cái chữ “tiến” hay “thạc” chi đó cho đỡ kém cạnh, mà không biết
trước được rằng cái giá phải trả lớn hơn nhiều so với cái thu được,
trong khi nhận thức thuần túy cũng chẳng tăng thêm được tí nào.
Về lâu dài, muốn tiến tới một xã
hội lành mạnh, còn trước mắt là tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn cho
chính mình, con người ta buộc phải thoát khỏi tâm lý bầy đàn. Đã có cái
đầu riêng của mình, hãy dùng nó để suy nghĩ!
(Tất nhiên, tôi biết có hàng ngàn
người nghĩ giỏi hơn tôi, và vì vậy những lời tôi nói đây là lời tâm sự
với những người không ở trong hàng ngàn người đó.)
NGUYỄN TRẦN SÂM
(Blog Đào Hiếu)
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Nguyễn Trần Sâm - Sự tồi tệ của tâm lý bầy đàn
Tôi chưa được thấy ở đâu một định nghĩa chính xác về tâm lý bầy đàn. Nhưng tôi đoán, cụm từ này có thể được hiểu theo hai cách. Thứ nhất là giống như “tâm lý đám đông
Tôi chưa được thấy ở đâu một định
nghĩa chính xác về tâm lý bầy đàn. Nhưng tôi đoán, cụm từ này có thể
được hiểu theo hai cách. Thứ nhất là giống như “tâm lý đám đông”, tức là
tâm lý chung của một đám người, với những “hiệu ứng” của nó, nhưng
nghiêng về kiểu không có suy nghĩ, gần với bầy đàn động vật. Thứ hai là
tâm lý của những cá thể, luôn muốn sống giữa đám đông, sợ những khoảng
thời gian đơn độc, và làm gì cũng đều nhìn đám đông mà làm theo, gần như
không suy nghĩ, không có quan điểm và sở thích riêng.
Trong bài này, chúng tôi nói về tâm lý bầy đàn theo cách hiểu thứ hai.
Mỗi một con người đều cần đến
những người chung quanh: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, đoàn thể,… Cần
vì nhiều lý do. Thứ nhất là vì có những nhu cầu trong cuộc sống mà có sự
phối hợp tập thể thì việc đáp ứng sẽ dễ dàng hơn. Thứ hai, quan trọng
hơn, là nhu cầu tình cảm: người thân là chỗ dựa tinh thần cho chúng ta.
Và thứ ba là nhu cầu nhận thức: việc trao đổi, bàn bạc, học và dạy lẫn
nhau là vô cùng quan trọng đối với việc thu nhận và sàng lọc kiến thức,
chắt lọc lấy chân lý.
Tuy nhiên, nhận thức và thế giới
nội tâm của một con người chỉ có thể hoàn thiện (theo nghĩa tương đối)
nếu người đó có khả năng ở một mình trong những khoảng thời gian khá dài
(có thể là nhiều ngày). Việc đó vừa thể hiện năng lực tự giải quyết
những vấn đề riêng tư, vừa thực sự cần thiết cho việc suy tư, nghiền
ngẫm để đạt tới tri kiến sâu sắc, thứ mà người ta khó có thể nhận được
khi ở trong đám đông ồn ào, dù là đám đông tụ tập để thảo luận những vấn
đề nhận thức, như hội thảo khoa học chẳng hạn. Nhà khoa học không thể
lúc nào cũng ở trong hội thảo; người đó cần có những lúc ngồi một mình
để ý nghĩ và trí tưởng tượng phát huy hết tác dụng. Nhà văn khi viết
cũng cần ngồi một mình. Đối với một vài tôn giáo, việc “luyện hồn” càng
cần đến sự đơn độc, thậm chí là sự cô độc. Có thể nói, nhu cầu và khả
năng sống đơn độc là thước đo sự trưởng thành của con người.
Ngược với nhu cầu và khả năng
sống đơn độc, khả năng suy ngẫm để chắt lọc chân lý, là tâm lý bầy đàn.
Đó là hiện tượng tồi tệ, với nhiều hệ lụy. Ở đây chỉ xin nêu hai hệ lụy
của tâm lý bầy đàn, một liên quan đến đời sống xã hội, và một liên quan
đến đời sống cá nhân.
Khi trong xã hội có quá ít người
không thoát khỏi tâm lý bầy đàn thì xã hội đó sẽ gặp phải rất nhiều vấn
đề nhức nhối. Trong xã hội đó, chân lý không tìm được chỗ đứng. Mỗi
thành viên trong xã hội đều sẽ trông chờ có người đem “chân lý” đến cho
họ. Khi đó, dù là cái gọi là “chân lý” thực ra là “giả lý”, họ cũng sẽ
tiếp nhận một cách hào hứng, và tôn sùng cái nhân vật đem “giả lý” đến
cho họ như một vĩ nhân, một vị cứu tinh. Rồi một nhóm người ham quyền
lực sẽ quàng cái thòng lọng vào cổ họ, kéo họ đi bất cứ đâu mà nhóm
người này muốn. Để giữ an toàn, nhóm người này tiếp tục gieo rắc và
khuyến khích tâm lý bầy đàn, không cho mọi người tiếp cận chân lý thực
sự.
Trong một xã hội như vậy, luân
lý, đạo đức sẽ suy đồi. Đạo đức chân chính sẽ bị thế chỗ bởi sự trung
thành với những kẻ cầm thòng lọng. Ai dám hé răng nói lên sự thật chẳng
những sẽ bị những kẻ cầm thòng lọng thít cổ cho đến chết, mà còn bị đồng
loại ghét bỏ. Con người sẽ trở nên dối trá, và coi dối trá là lẽ sống.
Trong cuộc sống cá nhân (và gia
đình), tâm lý bầy đàn làm người ta không thể phấn đấu vì những gì thực
sự có ích lợi cho bản thân. Những kẻ không giàu, thậm chí rất nghèo,
cũng thi nhau vung tiền, kể cả tiền vay mượn, vào những việc lễ lạt, thủ
tục vô bổ, để rồi sau đó sống trong nghèo túng và cắn xé lẫn nhau. “Con
gà tức nhau tiếng gáy” chính là một biểu hiện của tâm lý bầy đàn. Một
biểu hiện khác là “miếng giữa làng bằng sàng xó bếp” – xô xát, tranh
cướp nhau chỉ để được một “miếng” không đáng gì, để sau đó sống trong
thù hằn, mệt mỏi.
Có những kẻ thấy người khác ở
trong tổ chức này nọ có vẻ oai và có “màu”, cũng cố “phấn đấu” để lọt
được vào cùng “đội ngũ” với những ông bà oai oách đó, cuối cùng chỉ làm
rào chắn để các ông bà đó yên tâm mà “ăn” của thiên hạ. Có kẻ thấy người
ta có chức tước, được trọng vọng, cũng cố chạy chọt chỉ để cũng có được
tí chức sắc, dù hữu danh vô thực. Có kẻ thấy người ta là giáo sư, tiến
sỹ, được xưng tụng rổn rảng tại chốn đông người, cũng cố bỏ tiền để kiếm
lấy cái chữ “tiến” hay “thạc” chi đó cho đỡ kém cạnh, mà không biết
trước được rằng cái giá phải trả lớn hơn nhiều so với cái thu được,
trong khi nhận thức thuần túy cũng chẳng tăng thêm được tí nào.
Về lâu dài, muốn tiến tới một xã
hội lành mạnh, còn trước mắt là tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn cho
chính mình, con người ta buộc phải thoát khỏi tâm lý bầy đàn. Đã có cái
đầu riêng của mình, hãy dùng nó để suy nghĩ!
(Tất nhiên, tôi biết có hàng ngàn
người nghĩ giỏi hơn tôi, và vì vậy những lời tôi nói đây là lời tâm sự
với những người không ở trong hàng ngàn người đó.)
NGUYỄN TRẦN SÂM
(Blog Đào Hiếu)