Văn Học & Nghệ Thuật
Nho Giáo
Tâm Vật Hợp Nhất:
Khi bước vào Nho Giáo, đây là điều đầu tiên cần chú ý. Xin đề nghị vài góp ý để phần nào tiếp cận quan điểm nền tảng này :
Ta chỉ biết được sự vật qua những ý niệm mà sự vật ấy gợi lên trong tâm của ta. Thấy cái bàn, ta có ý niệm cái bàn. Mỗi người có ý niệm cái bàn khác nhau, mỗi người "thấy" những khía cạnh, những đặc điểm khác nhau, dù có nhiều chỗ tương đồng. Chính nhờ những tương đồng ấy mà chúng ta thoả thuận gọi cái ấy là cái bàn.
Như vậy, điều quan trọng đối với ta là những ý niệm về sự vật, chứ sự vật thật sự, có quá nhiều khía cạnh ta không thể nắm hết nổi. Ý niệm ấy có được là nhờ ta có TÂM. Vương Thủ Nhân bảo nếu không có Tâm của ta thì ngay cả Trời Ịất, cũng nào ai biết đến?
Tuy thế Tâm không thể hoạt động khơi khơi mà phải có Vật ảnh hưởng vào thì ý niệm mới phát sinh được. Như vậy, ngoại giới, tức Vật, ảnh hưởng vào nội giới, tức Tâm, và nội giới cũng quy định, sắp xếp những cảm nhận tiếp thu được từ ngoại giới, theo những mô hình sẵn có, để làm thành ý niệm. Ý niệm hình thành không phải do vật, cũng không phải do Tâm, mà do cả hai.
Nói cách khác, vẫn với thí dụ cái bàn, ta có thể phân ra:
Cái bàn "vật lý" có thể được miêu tả bởi những tiêu chuẩn như : khối lượng, kích thước, màu sắc v.v...
Và cái bàn "tâm lý" không thể mô tả được theo cái "lý" của vật mà phải được "nhìn" với cái "lý" của tâm, tức là những tiên nghiệm, định kiến, những xúc động, kỷ niệm, mộng mơ, tư tưởng mà cái bàn ấy có thể gợi lên trong Tâm ta.
Thuyết Tâm Vật hợp nhứt cho rằng không có cái bàn vật lý, cũng không có cái bàn tâm lý tách rời khỏi thế giới hiện thực, mà chỉ có cái bàn vừa vật lý vừa tâm lý, qua đó "lý" của cả vật lẫn tâm hoà hợp trong ý niệm "cái bàn"
Quan điểm này tiềm tàng trong nhiều kinh sách, xưa nhất có lẽ là Hồng Phạm Cửu Trù, đoạn nói về ngũ hành và ngũ sự.
Rất gần với đề tài Tâm Vật hợp nhất, là vấn đề về Tinh Thần và Vật Chất trong phạm vi một cá nhân:
Thật vậy, trong mỗi con người có phần tinh thần và phần vật chất. Hai phần đó phải kết hợp lại mới ra con người. Bỏ bớt một thì hết là con người. Thậm chí hoạt động của một trong hai phần này mà kém sút thì hoạt động của toàn thể con người cũng kém đi. Thí dụ khi đau yếu mệt mỏi đói khát... thì tinh thần cũng suy kém, ý thức thành ra mơ hồ, tư tưởng có thể trở nên lệch lạc. Ngược lại, khi tinh thần bạc nhược, thân thể cũng bải hoải, tinh thần có bệnh lâu dần cơ thể cũng sanh bệnh, điều mà y khoa hiện đại ngày càng ngày càng nhận thức rõ.
Ý thức được điều này, người ta buộc phải có một cái nhìn toàn diện mỗi khi bàn đến những gì liên quan đến con người.
Thiên Nhân Hợp Nhất :
Là điều thứ hai cần nắm vững khi bàn đến Nho Giáo.
ẪThiênỮ có thể được hiểu theo nhiều cách. Sau đây là hai cách chính:
"Thiên" tức Trời, là Ịấng Tối Cao, Vị Thần trên hết các vị Thần. Ở thời thái cổ, người ta nhận thấy dân nhà Thương hay dùng chữ Thượng Ịế, còn dân nhà Chu lại hay dung chữ Thiên, sau mới pha lẫn coi Thiên như Thượng Ịế. Cần nhận rõ: cách hiểu này gán cho Trời một nhân cách chủ quan.
"Thiên" cũng có thể chỉ nguyên lý điều hành Vũ Trụ vạn vật. Ở đây Trời không có nhân cách mà chỉ là một động lực khách quan.
Nhà Nho nghiêng về lối nhìn thứ hai, tuy đôi lúc vẫn thích gọi Trời là Cha, Ịất là Mẹ, cho bớt vẻ trừu tượng. Thật ra ra khi gọi Trời là Cha Ịất là Mẹ, Nho Gia diễn dịch một tư tưởng cổ xưa cho rằng nguyên lý tự nhiên điều hành Vũ Trụ Vạn Vật cũng là cái đã SINH RA Vũ Trụ Vạn Vật. Ngoài ra họ cũng phát biểu niềm tin rằng thế lực tự nhiên ấy TỐT cho muôn vật nói chung và cho con người nói riêng, như hình ảnh cha mẹ bao bọc nuôi dạy con thơ, với cái ỡ lý ữ duy nhất là làm sao cho con cái triển nở tốt đẹp.
Một điều khác cần nói rõ là, theo Nho Gia, nguyên lý tự nhiên điều hành vạn vật cũng tiềm tàng trong vạn vật và đương nhiên là hiện hữu trong con người. Vạn vật chỉ là những hình thức phát biểu khác nhau của nguyên lý ấy. Nguyên lý ấy là BẢN THỂ của vạn vật.
Nếu ta tạm gọi Bản Thể này là THIÊN TÍNH, thì ta có thể nói như sau:
Vì có Thiên Tính tức Tính Trời nên con người hoà hợp được với Trời tức hoà hợp được với thế lực tự nhiên điều hành vũ trụ vạn vật.
Vì cùng mang Thiên Tính như vạn vật, nên con người cũng hoà hợp được với vũ trụ vạn vật, ví như anh em có cùng cha mẹ là Trời Ịất.
Hoà hợp với Trời và hoà hợp với Vạn Vật, nghĩ cho cùng thì cũng chỉ là một việc, suy từ sự chấp nhận có Thiên Tính trong con người cũng như trong vạn vật.
Ở đoạn trước ta đã nói Tâm Vật hợp nhất là hoà hợp nội giới với ngoại cảnh. Ý tưởng này càng rõ hơn với thuyết Thiên Nhân hợp nhất, con người, tức nội giới, hoà hợp với Trời Ịất Vũ Trụ Vạn Vật, tức ngoại cảnh. Ta có thể nói Thiên Nhân hợp nhất khai triển và biện minh cho Tâm Vật hợp nhất.
Tri Hành Hợp Nhất:
Là điều có thể gây nhiều thắc mắc nhất trong các lý thuyết của Nho Gia.
Thường nhà Nho dựa vào một câu trong Ịại Học mà cắt nghĩa Tri Hành hợp nhất, đại ý như sau :
Thấy cái đẹp liền ham, ngửi mùi thối liền ghét, thấy cái đẹp và ham cái đẹp là một, cũng như ngửi mùi thối và xa ghét cái thối. Nếu thấy cái đẹp mà không ham thích thì tại không biết cái ấy đẹp, gặp mùi thối mà không xa ghét thì tại chưa nhận ra mùi ấy thối, chứ nếu nhận ra cái đẹp hay mùi thối thì sự ham ghét đương nhiên gắn liền với cảm nhận không thể phân ra được.
Mặc dầu những lời giải thích kiểu này, nhiều người vẫn không chấp nhận được một cách thành thật ý tưởng Tri Hành hợp nhất. Chúng ta có thể lấy câu của Vương Dương Minh: "Biết mà không làm là không biết đến nơi đến chốn", để tự xét thấy nhiều khi mình biết rành rẽ chuyện gì tốt, chuyện gì phải làm, nhưng vì trăm ngàn lý do vẫn không chịu làm chuyện ấy. Ngược lại, biết rõ chuyện xấu, chuyện không nên làm, nhưng cũng vì trăm ngàn lý do vẫn cứ làm nó. Trong những trường hợp này ý tưởng "biết dễ làm khó" (tri dị hành nan) có vẻ đúng hơn là "biết, làm, là một" (tri hành hợp nhất).
Ngược lại, cũng có người cho là làm dễ, biết mới khó. Xin thuật vắn tắt câu chuyện một anh cán bộ của ông Phan Xích Long Hoàng Ðế. Ông Phan khởi nghĩa chống thực dân Pháp và mưu đánh Khám Lớn Sài Gòn. Một người cán bộ của ông được lệnh đến đó đặt trái nổ. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông Phan và một số nghĩa quân được "mời" ra Toà. Toà hỏi anh cán bộ: "Trái phá anh đặt có nổ chăng?" Ông Phan trả lời thay: "Tôi dạy nó phải đốt ngòi nổ. Nó sợ đốt cháy ngòi, lính canh sẽ nhìn thấy, nên lặng lẽ đặt trái phá rồi bỏ chạy, nếu quan Toà muốn biết có nổ hay không, thì xin cứ đốt thử !" Thì ra anh cán bộ có gan đi đặt chất nổ nhưng không nghĩ được là cần phải đốt ngòi. Làm thì dễ, mà biết mới khó, là vậy (tri nan hành dị).
Giữa "biết dễ làm khó", và "biết khó, làm dễ" làm sao biện minh được cho "biết, làm , là một"? Xin đề nghị vài suy nghĩ :
Ở trình độ của một "phàm phu tục tử" thì đương nhiên là Tri Hành không hợp nhất. Mình kiêu căng tự cho là biết tới nơi tới chốn, chứ thật ra cái biết của mình vẫn chỉ là phiến diện mà thôi chứ đã ăn thua gì đâu. Muốn cho biết với làm là một thì phải đi xa hơn cái biết thông thường mà soi thấu đến chỗ căn bản nhất của sự vật, đến bản thể của chúng. Nói cách khác là phải thấy được Thiên Tính trong mọi vật, như đã nói ở đoạn trước. Ở trình độ này, biết là làm, không còn trở ngại. Cái ẪTriỮ cực cao này gần với cái mà Vương Thủ Nhân gọi là ẪTrí Lương TriỮ.
Khi dùng chữ này thày Vương nâng cao ý tưởng "Trí tri" của Ịại Học lên đến trình độ đạt đạo, giác ngộ.
Thật ra lập luận ấy mang không ít ảnh hưởng Phật Giáo. Thày Vương Thủ Nhân cũng có một thời tu Thiền, không phải ngẫu nhiên vậy.
Nếu Thiên Nhân hợp nhất khai triển và biện minh cho Tâm Vật hợp nhất như đã nói, thì Tri Hành hợp nhất, hiểu theo ý nghĩa phải thấu suốt Thiên Tính trong mọi sự vật, chính là điều kiện của Thiên Nhân hợp nhất và của Tâm vật hợp nhất. Không thấu được Thiên Tính trong chính mình tức trong con người, và trong vạn vật, thì không thể Tri Hành hợp nhất đã đành, mà cũng khó hoà hợp được với Trời Ịất vạn vật, tức khó quan niệm được Thiên Nhân hợp nhất, đồng thời khó hoà hợp nội giới và ngoại cảnh, tức khó mà chứng nổi Tâm Vật hợp nhất.
ÐẠO NHÂN:
Những cái "hợp nhất" vừa được trình bày chung quy cũng chỉ để xác định tư thế của con người đối với Trời Ịất Vũ Trụ Vạn Vật. Khi đã thành thật chứng nghiệm được tư thế ấy, tự trong thâm tâm chứ không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi hay qua luận giải thông thái trên giấy tờ, thì con người không còn có thể nghi ngờ gì nữa đối với công việc mình phải làm, đối với bổn phận của mình trong Trời Ðất. Tri hành hợp nhất mà ! Tổng hợp bổn phận của con người trong Trời Ðất được Nho Gia gọi là Ðạo Nhân.
Ðầu tiên, NHÂN là đạo xử thế giữa người với người. Chiết tự chữ Nhân gồm bộ Nhân đứng và chữ Nhị để chỉ số nhiều.
Với ý nghĩa đó, nhà Nho đặt ra nhiều phạm vi "Ẫchuyên môn" cho Ịạo Nhân, thí dụ Nghĩa là Nhân trong sự ghét điều quấy ưa điều phải, Lễ là Nhân trong sự nhường nhịn, Trí là Nhân của sự sáng suốt phân biệt tốt xấu, hay dở, Tín là Nhân trong sự giao kết thành thật không xảo trá v.v...
Kinh sách cũng đề nghị những giai đoạn, những phương cách để con người có thể phát huy được Ịạo Nhân :
Phát huy Ịạo Nhân nơi mình, gọi là Tu Thân, trong gia đình mình gọi là Tề Gia, trong nước mình gọi là Trị Quốc, và sau cùng là đem Ịạo Nhân đến khắp mọi nơi, gọi là Bình Thiên Hạ.
Rốt ráo thì Ðạo Nhân được nới rộng ra tới Vũ Trụ Vạn Vật. Vì Vạn Vật với ta cùng một thể (Vạn Vật dữ ngã nhất thể giã - Trình Minh Ðạo) nên ỡ Nhân ữ cũng là bảo bọc, từ ái, với muôn vật, với thiên nhiên, hoà hợp nhu cầu sống của mình với nhu cầu sống của thiên nhiên, không vì dục vọng của mình mà tàn phá sát hại thiên nhiên.
Vấn đề "Nhân Chủ":
Sách Trung Dung nói:
"Thiên Mệnh chi vị Tính; suất Tính chi vị Ðạo; tu Ịạo chi vị Giáo".
Nghĩa là:
Cái lý tự nhiên trong Vũ Trụ đem để vào con người thì gọi là cái Tính. Theo đúng Tính ấy mà sống thì gọi là Ðạo. Chăm lo tu sửa cho mọi việc luôn được đúng với Ðạo thì gọi là Giáo (theo Phan Bội Châu - chữ Giáo ở đây bao gồm cả chính trị lẫn giáo dục).
Theo câu này ta có thể nói: sống thuận đạo Nhân là sống thuận với tính người, và đồng thời cũng là sống thuận Mệnh Trời. Ta gặp lại Thiên Nhân hợp nhất...
Câu của sách Trung Dung vừa trích dẫn cũng hàm chứa một ý tưởng quan trọng là: con người có thể làm chủ việc thực thi Thiên Mệnh. Thật vậy, Thiên Mệnh gửi nơi con người gọi là Tính, nhưng con người có thể quyết định sống thuận theo Tính ấy hay không, tức là làm chủ sự "suất Tính" và việc "tu Ðạo".
Quan niệm Nhân Chủ gần đây thường được nói tới. Ta cần để ý hiểu Nhân Chủ theo ý nghĩa vừa trình bày, chứ không nên nghĩ Nhân Chủ là con người làm chủ Thiên Nhiên, thống trị vạn vật.
Chính Danh:
Tuy nói rằng ta với mọi người mọi vật đều cùng một Thể (Dân ngô đồng bào, vật ngô dữ dã - Trương Tái) nhưng nhà Nho cũng ý thức cái "Thể" ấy khi phát sinh ra trong cuộc sống thì lại mỗi người, mỗi vật một khác, thiên hình vạn trạng. Vì thế, ta không thể đối xử với mọi người, mọi vật, như nhau (như trong thuyết kiêm ái) mà phải áp dụng Ðạo Nhân một cách thích nghi với từng trường hợp:
Thích nghi với địa vị của người thi hành Ðạo Nhân, đưa đến phân biệt Ịạo làm vua, Ðạo làm dân, Ðạo làm cha, làm con, đạo của nhà giáo dục, của kẻ đắc thời, người thất thế, kẻ giàu có, người nghèo khổ, kẻ khoẻ mạnh, người đau yếu tật nguyền v.v...
Thích nghi với đối tượng của Ðạo Nhân, như Nhân với cha mẹ, gọi là Hiếu, có chỗ khác với Nhân với anh em gọi là Ðễ, Nhân với người trưởng thượng thì thiên về tôn kính, Nhân với người nhỏ hơn mình thì lại nặng phần từ ái v.v...
Ngoài ra, người Nhân còn phải cư xử với những phần tử tệ hại, xấu xa. Ðức Nhân lúc ấy đương nhiên là cũng phải thích nghi để đôi khi trở thành nghiêm khắc.
Làm cho Nhân được thích nghi với từng địa vị, từng đối tượng, đó là chủ đích của thuyết CHÍNH DANH trong Nho học.
Dịch Lý:
Ở trên đã nói nhiều tới việc sống hợp với định luật tự nhiên trong Trời Ðất. Nhưng, định luật ấy dựa vào đâu mà tìm ra được ? Có thể nói : dựa vào quan sát, cảm nghiệm thiên nhiên, hòa với xét suy, luận giải.
Một trong những lý thuyết có thể giúp ích được trong công cuộc tìm kiếm này là Dịch Lý.
Vì có quá nhiều hiện tượng trong trời đất, mỗi hiện tượng lại biến hoá không ngừng (Dịch dã biến dã), nên việc nghiên cứu chúng cho rành rẽ, vô cùng phức tạp, muôn ngàn thế hệ chưa chắc đã xong được một phần nhỏ. Vì thế, người xưa mới nghĩ ra Dịch Lý như một sự đơn giản hóa, với những cái "khung" để đặt vào đó những chuyện có cùng chung một số tính chất nhất định, để giảm thiểu số đối tượng cần được xem xét.
Ðầu tiên, người ta chỉ đặt ra hai "khung" lớn, đó là ÂM và DƯƠNG. Âm được tượng trưng bằng một gạch đứt - - và Dương, một gạch liền -
Rồi người ta chia Âm Dương thành TỨ TƯỢNG, mỗi "tượng" có hai gạch gọi là "hào" chồng lên nhau: thái dương hai gạch liền, thái âm hai gạch đứt, thiếu âm với thiếu dương một gạch liền với một gạch đứt.
Khi xếp 3 hào lên nhau thành một "quẻ" thì người ta có 8 quẻ gọi là Bát Quái. Rồi xếp 6 hào vào chung trong một loại quẻ khác (hay sắp hai quẻ ba hào của bát quái chồng lên nhau) thì có 64 quẻ của kinh Chu Dịch.
Rồi cứ như thế, người ta lý luận trên những biểu tượng thay vì trên thực tế, và từ thế hệ này sang thế hệ khác nghiền ngẫm những biến hoá của các hào, các quẻ, tượng trưng cho mọi việc trong trời đất. Những suy nghĩ trải dài trong thời gian ấy, được ghi lại trong Kinh Dịch.
Sách Hệ Từ, thuộc Dịch Kinh, nói:
"Phù Dịch, Thánh Nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên cơ dã".
Ý nói Ðạo Dịch là kết quả của việc Thánh Nhân tìm đến chỗ cực sâu mà nghiên cứu động cơ tinh vi của mọi việc. "Cơ" là cơ chế của sự biến hoá trong vũ trụ. Biết được "cơ" thì cũng chọn đựơc THỜI thụân tiện cho một công việc nhất định, hay ngược lại, trong một thời điểm nhất định, chọn được công việc thích nghi nhất đối với thời điểm ấy.
Ðến đây ta gặp lại Ịạo Nhân với thêm một yếu tố, đó là yếu tố THỜI GIAN.
Thật vậy, nếu Ịạo Nhân cho ta biết việc ta phải làm, thuyết chính danh nhắc ta phải thích nghi công việc ấy với địa vị của ta và với từng đối tượng, thì đây, Dịch Lý cho ta biết lúc nào là lúc thuận tiện nhất để làm một công việc.
TRUNG DUNG:
Trung dung là cái thắng để tránh sự quá khích, và là địa bàn giúp người tu Nhân sửa chữa những sai lầm của mình.
Thật vậy, chân lý luôn nằm trong sự dung hoà những đối nghịch, nhờ hiểu thấu thực chất của những đối nghịch ấy. Sự sai lạc thường do nghiêng về bên này hay bên kia thái quá làm cho mất quân bình, lỗi Trung Dung. Trở về với Trung Dung là trở về với Ðạo, là noi theo lẽ tự nhiên của Trời Ðất, tức "suất tính", tức thuận Thiên mệnh, như câu "ẪThiên Mệnh chi vị Tính, suất Tính chi vị Ðạo" đã được trích dẫn ở trên.
Người sống đạo Nhân, nắm lấy "chính danh", để thích nghi với VIỆC, tìm về Dịch Lý để thích nghi với THỜI, nhưng vẫn luôn giữ TRUNG DUNG để không mất cái cội rễ, cái cuống rốn nối liền mình với Ịạo, với Tính, với Thiên Mệnh, với cái nguyên lý cấu thành vạn vật.
NHẤT QUÁN:
Ða số những lý thuyết vừa được trình bày, nào Trung Dung, Dịch Lý, cũng như các tư tưởng Thiên Nhân, Tâm Vật, Tri Hành hợp nhứt, chẳng qua đều chỉ là những cách phát biểu đặc biệt của nguyên lý ÂM DƯƠNG, tức định luật hoà hợp những đối nghịch. Làm sao những đối nghịch có thể hoà hợp được với nhau? Là vì chúng đều có chung một BẢN THỂ, tuy Bản Thể ấy, khi thị hiện ra, thì có muôn ngàn khác biệt, mang thiên hình vạn trạng. Nếu Âm Dương biểu tượng cho sự Ịối Nghịch thì cái gì biểu tượng cho sự Ịồng Nhất giữa muôn vật?
Ðó là nguồn của ÂM DƯƠNG, có khi gọi là ỊẠO.
Ðạo hay Thiên Tính hay Thiên Mệnh v.v... đều là những khái niệm gần với nhau. Sở dĩ có nhiều cách nói để diễn tả Ịạo là vì không có cách nào đúng cả. Ịạo là cái không thể nói ra được (Ðạo bất khả ngôn dã - Vương Dương Minh).
Xin thuật lại một đoạn của sách Luật Ngữ:
"Ðức Khổng Tử nói với Tăng Tử (tên thày là Sâm):
Anh Sâm à, Ðạo của ta chỉ cần một điều thôi là đủ bao quán hết.
Tăng Tử trả lời: dạ !"
(Tử viết: Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi. Tăng Tử viết: Duỵ !)
Ta nhận thấy Tăng Tử không cần hỏi lại coi cái bao quán hết Ịạo của thày mình là cái gì? Chỉ dạ. Ịức Khổng, sau khi thày Tăng trả lời dạ, cũng bỏ đi ra, không cần giảng giải cái nhất quán ấy như thế nào!
Nhu cầu giảm bớt "tiêu chuẩn":
Ðến đây, có lẽ bạn đọc cũng đồng ý với người viết là Ðạo Nho như vừa được trình bày quả là cực cao, cực khó. Nghiệm được Thiên Tính, đạt được Ðạo, hoà hợp được với Trời, với Vạn Vật v.v... đều là những chuyện dành cho bậc Thánh. Ðám "ăn tục nói phét" chúng ta chỉ bàn chơi cho vui thôi chứ nào dám dự vào trong muôn một?
Có lẽ người xưa cũng đã nghĩ tới điều ấy. Vì thế họ buộc phải "giảm tiêu chuẩn", bằng cách bày ra những lý tưởng thấp hơn cái mẫu mực dành cho Thánh Nhân kia, để người thường dễ noi theo. Thí dụ họ đặt ra một mẫu người ở giữa phàm phu và bực Thánh, gọi là Quân Tử, với những đức tính như hoà nhi bất đồng, căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng, thái nhi bất kiêu, cư vô cầu an, thực vô cầu bão (ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no - Nguyễn Công Trứ) v.v...
Nhiều khi lý tưởng quân tử cũng vẫn còn cao quá, cần bớt thêm chút nữa. Xin kể một đoạn đối thoại giữa Ịức Khổng và Thày Tử Lộ:
"Thày Tử Lộ hỏi làm sao cho nên người? Ðức Khổng trả lời: phải có trí khôn như Tang Võ Trọng, phải có lòng đạo đức, dẹp dục vọng như Công Xước, phải hùng dũng can đảm như Biện Trang Tử, phải có tài nghệ khéo léo về ngành nghề chuyên môn như Nhiệm Cầu, rồi lại phải thông thạo văn chương lễ nhạc, đủ hết tất cả những thứ ấy mới gọi được là nên người.
Thày Tử Lộ nghe qua phát ngán, mới trả lời Thày mình như sau: "Ở thời đại bây giờ muốn nên người cần gì phải lôi thôi dữ vậy! Thấy chuyện có lợi thì nghĩ ngay tới nghĩa, trái nghĩa thì không làm, thấy việc nguy hiểm mà khi cần thiết vẫn dám nhào vô, đã nói điều chi thì giữ lấy lời, không thất hứa với anh em, đại khái vậy cũng có thể nên người được rồi".
(Tử Lộ vấn thành nhân. Tử viết: Nhược Tang Vũ Trọng chi trí, Công Xước chi bất dục, Biện Trang Tử chi Dũng, Nhiệm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, diệc khả dĩ vi thành Nhân hỹ. Tử Lộ viết: Kim chi thành nhân dã, hà tất nhiên ! Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hỹ)
Kết:
LẬP TÂM là bước đầu để vào Nho Giáo như lời Tống Nho Trương Hoành Cừ: "Vị thiên địa lập Tâm". Lập Tâm rốt ráo thì đạt đến một quan niệm về Tâm bao trùm cả vũ trụ, trong đó Tâm và Vật, nội giới với ngoại cảnh, người và thiên nhiên, không còn cách trở, cảm thông hoà hợp.
Ích lợi của quan điểm này, ngay khi nó vừa hé lộ trong Tâm, là thay vì tự nghĩ mình như một "khối vật chất" tạm thời biết suy tư trong khi chờ đợi rữa nát, người ta có thể quan niệm rằng nếu Trời Ịất còn mãi thì ta cũng mãi còn với Vũ Trụ Vạn Vật. Khi ấy, sống thuận với cái lẽ Trời, mà mình chân thành cảm nhận, trở nên một lý tưởng. Người ta lấy đó làm thú vui trong mỗi giây lát của hiện tại, để rồi, vào phút lâm chung, bình thản gửi mình cho Trời Ðất. Ịó là chương trình sống của Nho Gia.
Ðồng thời, khi đã Lập Tâm, thì người ta cũng ý thức ngay đến trách nhiệm (sứ mạng), không những với tha nhân, như ý nghĩa câu ỡ Vị nhân sinh lập mạng ữ cũng của Trương Hoành Cừ, mà cả với toàn thể thiên nhiên, với mọi sự vật quanh mình. Lập mạng, là làm điều Nhân quanh mình một cách an lạc tự tại, là sẵn sàng gánh vác việc thiên hạ, dù việc nhỏ, việc lớn, khó hay dễ, thành công hay thất bại, vẫn chỉ lấy TẬN TÂM làm tiêu chuẩn. Từ Lập Tâm đến Tận Tâm, có lẽ là một tóm lược khá đầy đủ của lý tưởng nhà Nho vậy.
NguyenVSau Post
Bàn ra tán vào (0)
Nho Giáo
Tâm Vật Hợp Nhất:
Khi bước vào Nho Giáo, đây là điều đầu tiên cần chú ý. Xin đề nghị vài góp ý để phần nào tiếp cận quan điểm nền tảng này :
Ta chỉ biết được sự vật qua những ý niệm mà sự vật ấy gợi lên trong tâm của ta. Thấy cái bàn, ta có ý niệm cái bàn. Mỗi người có ý niệm cái bàn khác nhau, mỗi người "thấy" những khía cạnh, những đặc điểm khác nhau, dù có nhiều chỗ tương đồng. Chính nhờ những tương đồng ấy mà chúng ta thoả thuận gọi cái ấy là cái bàn.
Như vậy, điều quan trọng đối với ta là những ý niệm về sự vật, chứ sự vật thật sự, có quá nhiều khía cạnh ta không thể nắm hết nổi. Ý niệm ấy có được là nhờ ta có TÂM. Vương Thủ Nhân bảo nếu không có Tâm của ta thì ngay cả Trời Ịất, cũng nào ai biết đến?
Tuy thế Tâm không thể hoạt động khơi khơi mà phải có Vật ảnh hưởng vào thì ý niệm mới phát sinh được. Như vậy, ngoại giới, tức Vật, ảnh hưởng vào nội giới, tức Tâm, và nội giới cũng quy định, sắp xếp những cảm nhận tiếp thu được từ ngoại giới, theo những mô hình sẵn có, để làm thành ý niệm. Ý niệm hình thành không phải do vật, cũng không phải do Tâm, mà do cả hai.
Nói cách khác, vẫn với thí dụ cái bàn, ta có thể phân ra:
Cái bàn "vật lý" có thể được miêu tả bởi những tiêu chuẩn như : khối lượng, kích thước, màu sắc v.v...
Và cái bàn "tâm lý" không thể mô tả được theo cái "lý" của vật mà phải được "nhìn" với cái "lý" của tâm, tức là những tiên nghiệm, định kiến, những xúc động, kỷ niệm, mộng mơ, tư tưởng mà cái bàn ấy có thể gợi lên trong Tâm ta.
Thuyết Tâm Vật hợp nhứt cho rằng không có cái bàn vật lý, cũng không có cái bàn tâm lý tách rời khỏi thế giới hiện thực, mà chỉ có cái bàn vừa vật lý vừa tâm lý, qua đó "lý" của cả vật lẫn tâm hoà hợp trong ý niệm "cái bàn"
Quan điểm này tiềm tàng trong nhiều kinh sách, xưa nhất có lẽ là Hồng Phạm Cửu Trù, đoạn nói về ngũ hành và ngũ sự.
Rất gần với đề tài Tâm Vật hợp nhất, là vấn đề về Tinh Thần và Vật Chất trong phạm vi một cá nhân:
Thật vậy, trong mỗi con người có phần tinh thần và phần vật chất. Hai phần đó phải kết hợp lại mới ra con người. Bỏ bớt một thì hết là con người. Thậm chí hoạt động của một trong hai phần này mà kém sút thì hoạt động của toàn thể con người cũng kém đi. Thí dụ khi đau yếu mệt mỏi đói khát... thì tinh thần cũng suy kém, ý thức thành ra mơ hồ, tư tưởng có thể trở nên lệch lạc. Ngược lại, khi tinh thần bạc nhược, thân thể cũng bải hoải, tinh thần có bệnh lâu dần cơ thể cũng sanh bệnh, điều mà y khoa hiện đại ngày càng ngày càng nhận thức rõ.
Ý thức được điều này, người ta buộc phải có một cái nhìn toàn diện mỗi khi bàn đến những gì liên quan đến con người.
Thiên Nhân Hợp Nhất :
Là điều thứ hai cần nắm vững khi bàn đến Nho Giáo.
ẪThiênỮ có thể được hiểu theo nhiều cách. Sau đây là hai cách chính:
"Thiên" tức Trời, là Ịấng Tối Cao, Vị Thần trên hết các vị Thần. Ở thời thái cổ, người ta nhận thấy dân nhà Thương hay dùng chữ Thượng Ịế, còn dân nhà Chu lại hay dung chữ Thiên, sau mới pha lẫn coi Thiên như Thượng Ịế. Cần nhận rõ: cách hiểu này gán cho Trời một nhân cách chủ quan.
"Thiên" cũng có thể chỉ nguyên lý điều hành Vũ Trụ vạn vật. Ở đây Trời không có nhân cách mà chỉ là một động lực khách quan.
Nhà Nho nghiêng về lối nhìn thứ hai, tuy đôi lúc vẫn thích gọi Trời là Cha, Ịất là Mẹ, cho bớt vẻ trừu tượng. Thật ra ra khi gọi Trời là Cha Ịất là Mẹ, Nho Gia diễn dịch một tư tưởng cổ xưa cho rằng nguyên lý tự nhiên điều hành Vũ Trụ Vạn Vật cũng là cái đã SINH RA Vũ Trụ Vạn Vật. Ngoài ra họ cũng phát biểu niềm tin rằng thế lực tự nhiên ấy TỐT cho muôn vật nói chung và cho con người nói riêng, như hình ảnh cha mẹ bao bọc nuôi dạy con thơ, với cái ỡ lý ữ duy nhất là làm sao cho con cái triển nở tốt đẹp.
Một điều khác cần nói rõ là, theo Nho Gia, nguyên lý tự nhiên điều hành vạn vật cũng tiềm tàng trong vạn vật và đương nhiên là hiện hữu trong con người. Vạn vật chỉ là những hình thức phát biểu khác nhau của nguyên lý ấy. Nguyên lý ấy là BẢN THỂ của vạn vật.
Nếu ta tạm gọi Bản Thể này là THIÊN TÍNH, thì ta có thể nói như sau:
Vì có Thiên Tính tức Tính Trời nên con người hoà hợp được với Trời tức hoà hợp được với thế lực tự nhiên điều hành vũ trụ vạn vật.
Vì cùng mang Thiên Tính như vạn vật, nên con người cũng hoà hợp được với vũ trụ vạn vật, ví như anh em có cùng cha mẹ là Trời Ịất.
Hoà hợp với Trời và hoà hợp với Vạn Vật, nghĩ cho cùng thì cũng chỉ là một việc, suy từ sự chấp nhận có Thiên Tính trong con người cũng như trong vạn vật.
Ở đoạn trước ta đã nói Tâm Vật hợp nhất là hoà hợp nội giới với ngoại cảnh. Ý tưởng này càng rõ hơn với thuyết Thiên Nhân hợp nhất, con người, tức nội giới, hoà hợp với Trời Ịất Vũ Trụ Vạn Vật, tức ngoại cảnh. Ta có thể nói Thiên Nhân hợp nhất khai triển và biện minh cho Tâm Vật hợp nhất.
Tri Hành Hợp Nhất:
Là điều có thể gây nhiều thắc mắc nhất trong các lý thuyết của Nho Gia.
Thường nhà Nho dựa vào một câu trong Ịại Học mà cắt nghĩa Tri Hành hợp nhất, đại ý như sau :
Thấy cái đẹp liền ham, ngửi mùi thối liền ghét, thấy cái đẹp và ham cái đẹp là một, cũng như ngửi mùi thối và xa ghét cái thối. Nếu thấy cái đẹp mà không ham thích thì tại không biết cái ấy đẹp, gặp mùi thối mà không xa ghét thì tại chưa nhận ra mùi ấy thối, chứ nếu nhận ra cái đẹp hay mùi thối thì sự ham ghét đương nhiên gắn liền với cảm nhận không thể phân ra được.
Mặc dầu những lời giải thích kiểu này, nhiều người vẫn không chấp nhận được một cách thành thật ý tưởng Tri Hành hợp nhất. Chúng ta có thể lấy câu của Vương Dương Minh: "Biết mà không làm là không biết đến nơi đến chốn", để tự xét thấy nhiều khi mình biết rành rẽ chuyện gì tốt, chuyện gì phải làm, nhưng vì trăm ngàn lý do vẫn không chịu làm chuyện ấy. Ngược lại, biết rõ chuyện xấu, chuyện không nên làm, nhưng cũng vì trăm ngàn lý do vẫn cứ làm nó. Trong những trường hợp này ý tưởng "biết dễ làm khó" (tri dị hành nan) có vẻ đúng hơn là "biết, làm, là một" (tri hành hợp nhất).
Ngược lại, cũng có người cho là làm dễ, biết mới khó. Xin thuật vắn tắt câu chuyện một anh cán bộ của ông Phan Xích Long Hoàng Ðế. Ông Phan khởi nghĩa chống thực dân Pháp và mưu đánh Khám Lớn Sài Gòn. Một người cán bộ của ông được lệnh đến đó đặt trái nổ. Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, ông Phan và một số nghĩa quân được "mời" ra Toà. Toà hỏi anh cán bộ: "Trái phá anh đặt có nổ chăng?" Ông Phan trả lời thay: "Tôi dạy nó phải đốt ngòi nổ. Nó sợ đốt cháy ngòi, lính canh sẽ nhìn thấy, nên lặng lẽ đặt trái phá rồi bỏ chạy, nếu quan Toà muốn biết có nổ hay không, thì xin cứ đốt thử !" Thì ra anh cán bộ có gan đi đặt chất nổ nhưng không nghĩ được là cần phải đốt ngòi. Làm thì dễ, mà biết mới khó, là vậy (tri nan hành dị).
Giữa "biết dễ làm khó", và "biết khó, làm dễ" làm sao biện minh được cho "biết, làm , là một"? Xin đề nghị vài suy nghĩ :
Ở trình độ của một "phàm phu tục tử" thì đương nhiên là Tri Hành không hợp nhất. Mình kiêu căng tự cho là biết tới nơi tới chốn, chứ thật ra cái biết của mình vẫn chỉ là phiến diện mà thôi chứ đã ăn thua gì đâu. Muốn cho biết với làm là một thì phải đi xa hơn cái biết thông thường mà soi thấu đến chỗ căn bản nhất của sự vật, đến bản thể của chúng. Nói cách khác là phải thấy được Thiên Tính trong mọi vật, như đã nói ở đoạn trước. Ở trình độ này, biết là làm, không còn trở ngại. Cái ẪTriỮ cực cao này gần với cái mà Vương Thủ Nhân gọi là ẪTrí Lương TriỮ.
Khi dùng chữ này thày Vương nâng cao ý tưởng "Trí tri" của Ịại Học lên đến trình độ đạt đạo, giác ngộ.
Thật ra lập luận ấy mang không ít ảnh hưởng Phật Giáo. Thày Vương Thủ Nhân cũng có một thời tu Thiền, không phải ngẫu nhiên vậy.
Nếu Thiên Nhân hợp nhất khai triển và biện minh cho Tâm Vật hợp nhất như đã nói, thì Tri Hành hợp nhất, hiểu theo ý nghĩa phải thấu suốt Thiên Tính trong mọi sự vật, chính là điều kiện của Thiên Nhân hợp nhất và của Tâm vật hợp nhất. Không thấu được Thiên Tính trong chính mình tức trong con người, và trong vạn vật, thì không thể Tri Hành hợp nhất đã đành, mà cũng khó hoà hợp được với Trời Ịất vạn vật, tức khó quan niệm được Thiên Nhân hợp nhất, đồng thời khó hoà hợp nội giới và ngoại cảnh, tức khó mà chứng nổi Tâm Vật hợp nhất.
ÐẠO NHÂN:
Những cái "hợp nhất" vừa được trình bày chung quy cũng chỉ để xác định tư thế của con người đối với Trời Ịất Vũ Trụ Vạn Vật. Khi đã thành thật chứng nghiệm được tư thế ấy, tự trong thâm tâm chứ không phải chỉ trên đầu môi chót lưỡi hay qua luận giải thông thái trên giấy tờ, thì con người không còn có thể nghi ngờ gì nữa đối với công việc mình phải làm, đối với bổn phận của mình trong Trời Ðất. Tri hành hợp nhất mà ! Tổng hợp bổn phận của con người trong Trời Ðất được Nho Gia gọi là Ðạo Nhân.
Ðầu tiên, NHÂN là đạo xử thế giữa người với người. Chiết tự chữ Nhân gồm bộ Nhân đứng và chữ Nhị để chỉ số nhiều.
Với ý nghĩa đó, nhà Nho đặt ra nhiều phạm vi "Ẫchuyên môn" cho Ịạo Nhân, thí dụ Nghĩa là Nhân trong sự ghét điều quấy ưa điều phải, Lễ là Nhân trong sự nhường nhịn, Trí là Nhân của sự sáng suốt phân biệt tốt xấu, hay dở, Tín là Nhân trong sự giao kết thành thật không xảo trá v.v...
Kinh sách cũng đề nghị những giai đoạn, những phương cách để con người có thể phát huy được Ịạo Nhân :
Phát huy Ịạo Nhân nơi mình, gọi là Tu Thân, trong gia đình mình gọi là Tề Gia, trong nước mình gọi là Trị Quốc, và sau cùng là đem Ịạo Nhân đến khắp mọi nơi, gọi là Bình Thiên Hạ.
Rốt ráo thì Ðạo Nhân được nới rộng ra tới Vũ Trụ Vạn Vật. Vì Vạn Vật với ta cùng một thể (Vạn Vật dữ ngã nhất thể giã - Trình Minh Ðạo) nên ỡ Nhân ữ cũng là bảo bọc, từ ái, với muôn vật, với thiên nhiên, hoà hợp nhu cầu sống của mình với nhu cầu sống của thiên nhiên, không vì dục vọng của mình mà tàn phá sát hại thiên nhiên.
Vấn đề "Nhân Chủ":
Sách Trung Dung nói:
"Thiên Mệnh chi vị Tính; suất Tính chi vị Ðạo; tu Ịạo chi vị Giáo".
Nghĩa là:
Cái lý tự nhiên trong Vũ Trụ đem để vào con người thì gọi là cái Tính. Theo đúng Tính ấy mà sống thì gọi là Ðạo. Chăm lo tu sửa cho mọi việc luôn được đúng với Ðạo thì gọi là Giáo (theo Phan Bội Châu - chữ Giáo ở đây bao gồm cả chính trị lẫn giáo dục).
Theo câu này ta có thể nói: sống thuận đạo Nhân là sống thuận với tính người, và đồng thời cũng là sống thuận Mệnh Trời. Ta gặp lại Thiên Nhân hợp nhất...
Câu của sách Trung Dung vừa trích dẫn cũng hàm chứa một ý tưởng quan trọng là: con người có thể làm chủ việc thực thi Thiên Mệnh. Thật vậy, Thiên Mệnh gửi nơi con người gọi là Tính, nhưng con người có thể quyết định sống thuận theo Tính ấy hay không, tức là làm chủ sự "suất Tính" và việc "tu Ðạo".
Quan niệm Nhân Chủ gần đây thường được nói tới. Ta cần để ý hiểu Nhân Chủ theo ý nghĩa vừa trình bày, chứ không nên nghĩ Nhân Chủ là con người làm chủ Thiên Nhiên, thống trị vạn vật.
Chính Danh:
Tuy nói rằng ta với mọi người mọi vật đều cùng một Thể (Dân ngô đồng bào, vật ngô dữ dã - Trương Tái) nhưng nhà Nho cũng ý thức cái "Thể" ấy khi phát sinh ra trong cuộc sống thì lại mỗi người, mỗi vật một khác, thiên hình vạn trạng. Vì thế, ta không thể đối xử với mọi người, mọi vật, như nhau (như trong thuyết kiêm ái) mà phải áp dụng Ðạo Nhân một cách thích nghi với từng trường hợp:
Thích nghi với địa vị của người thi hành Ðạo Nhân, đưa đến phân biệt Ịạo làm vua, Ðạo làm dân, Ðạo làm cha, làm con, đạo của nhà giáo dục, của kẻ đắc thời, người thất thế, kẻ giàu có, người nghèo khổ, kẻ khoẻ mạnh, người đau yếu tật nguyền v.v...
Thích nghi với đối tượng của Ðạo Nhân, như Nhân với cha mẹ, gọi là Hiếu, có chỗ khác với Nhân với anh em gọi là Ðễ, Nhân với người trưởng thượng thì thiên về tôn kính, Nhân với người nhỏ hơn mình thì lại nặng phần từ ái v.v...
Ngoài ra, người Nhân còn phải cư xử với những phần tử tệ hại, xấu xa. Ðức Nhân lúc ấy đương nhiên là cũng phải thích nghi để đôi khi trở thành nghiêm khắc.
Làm cho Nhân được thích nghi với từng địa vị, từng đối tượng, đó là chủ đích của thuyết CHÍNH DANH trong Nho học.
Dịch Lý:
Ở trên đã nói nhiều tới việc sống hợp với định luật tự nhiên trong Trời Ðất. Nhưng, định luật ấy dựa vào đâu mà tìm ra được ? Có thể nói : dựa vào quan sát, cảm nghiệm thiên nhiên, hòa với xét suy, luận giải.
Một trong những lý thuyết có thể giúp ích được trong công cuộc tìm kiếm này là Dịch Lý.
Vì có quá nhiều hiện tượng trong trời đất, mỗi hiện tượng lại biến hoá không ngừng (Dịch dã biến dã), nên việc nghiên cứu chúng cho rành rẽ, vô cùng phức tạp, muôn ngàn thế hệ chưa chắc đã xong được một phần nhỏ. Vì thế, người xưa mới nghĩ ra Dịch Lý như một sự đơn giản hóa, với những cái "khung" để đặt vào đó những chuyện có cùng chung một số tính chất nhất định, để giảm thiểu số đối tượng cần được xem xét.
Ðầu tiên, người ta chỉ đặt ra hai "khung" lớn, đó là ÂM và DƯƠNG. Âm được tượng trưng bằng một gạch đứt - - và Dương, một gạch liền -
Rồi người ta chia Âm Dương thành TỨ TƯỢNG, mỗi "tượng" có hai gạch gọi là "hào" chồng lên nhau: thái dương hai gạch liền, thái âm hai gạch đứt, thiếu âm với thiếu dương một gạch liền với một gạch đứt.
Khi xếp 3 hào lên nhau thành một "quẻ" thì người ta có 8 quẻ gọi là Bát Quái. Rồi xếp 6 hào vào chung trong một loại quẻ khác (hay sắp hai quẻ ba hào của bát quái chồng lên nhau) thì có 64 quẻ của kinh Chu Dịch.
Rồi cứ như thế, người ta lý luận trên những biểu tượng thay vì trên thực tế, và từ thế hệ này sang thế hệ khác nghiền ngẫm những biến hoá của các hào, các quẻ, tượng trưng cho mọi việc trong trời đất. Những suy nghĩ trải dài trong thời gian ấy, được ghi lại trong Kinh Dịch.
Sách Hệ Từ, thuộc Dịch Kinh, nói:
"Phù Dịch, Thánh Nhân chi sở dĩ cực thâm nhi nghiên cơ dã".
Ý nói Ðạo Dịch là kết quả của việc Thánh Nhân tìm đến chỗ cực sâu mà nghiên cứu động cơ tinh vi của mọi việc. "Cơ" là cơ chế của sự biến hoá trong vũ trụ. Biết được "cơ" thì cũng chọn đựơc THỜI thụân tiện cho một công việc nhất định, hay ngược lại, trong một thời điểm nhất định, chọn được công việc thích nghi nhất đối với thời điểm ấy.
Ðến đây ta gặp lại Ịạo Nhân với thêm một yếu tố, đó là yếu tố THỜI GIAN.
Thật vậy, nếu Ịạo Nhân cho ta biết việc ta phải làm, thuyết chính danh nhắc ta phải thích nghi công việc ấy với địa vị của ta và với từng đối tượng, thì đây, Dịch Lý cho ta biết lúc nào là lúc thuận tiện nhất để làm một công việc.
TRUNG DUNG:
Trung dung là cái thắng để tránh sự quá khích, và là địa bàn giúp người tu Nhân sửa chữa những sai lầm của mình.
Thật vậy, chân lý luôn nằm trong sự dung hoà những đối nghịch, nhờ hiểu thấu thực chất của những đối nghịch ấy. Sự sai lạc thường do nghiêng về bên này hay bên kia thái quá làm cho mất quân bình, lỗi Trung Dung. Trở về với Trung Dung là trở về với Ðạo, là noi theo lẽ tự nhiên của Trời Ðất, tức "suất tính", tức thuận Thiên mệnh, như câu "ẪThiên Mệnh chi vị Tính, suất Tính chi vị Ðạo" đã được trích dẫn ở trên.
Người sống đạo Nhân, nắm lấy "chính danh", để thích nghi với VIỆC, tìm về Dịch Lý để thích nghi với THỜI, nhưng vẫn luôn giữ TRUNG DUNG để không mất cái cội rễ, cái cuống rốn nối liền mình với Ịạo, với Tính, với Thiên Mệnh, với cái nguyên lý cấu thành vạn vật.
NHẤT QUÁN:
Ða số những lý thuyết vừa được trình bày, nào Trung Dung, Dịch Lý, cũng như các tư tưởng Thiên Nhân, Tâm Vật, Tri Hành hợp nhứt, chẳng qua đều chỉ là những cách phát biểu đặc biệt của nguyên lý ÂM DƯƠNG, tức định luật hoà hợp những đối nghịch. Làm sao những đối nghịch có thể hoà hợp được với nhau? Là vì chúng đều có chung một BẢN THỂ, tuy Bản Thể ấy, khi thị hiện ra, thì có muôn ngàn khác biệt, mang thiên hình vạn trạng. Nếu Âm Dương biểu tượng cho sự Ịối Nghịch thì cái gì biểu tượng cho sự Ịồng Nhất giữa muôn vật?
Ðó là nguồn của ÂM DƯƠNG, có khi gọi là ỊẠO.
Ðạo hay Thiên Tính hay Thiên Mệnh v.v... đều là những khái niệm gần với nhau. Sở dĩ có nhiều cách nói để diễn tả Ịạo là vì không có cách nào đúng cả. Ịạo là cái không thể nói ra được (Ðạo bất khả ngôn dã - Vương Dương Minh).
Xin thuật lại một đoạn của sách Luật Ngữ:
"Ðức Khổng Tử nói với Tăng Tử (tên thày là Sâm):
Anh Sâm à, Ðạo của ta chỉ cần một điều thôi là đủ bao quán hết.
Tăng Tử trả lời: dạ !"
(Tử viết: Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi. Tăng Tử viết: Duỵ !)
Ta nhận thấy Tăng Tử không cần hỏi lại coi cái bao quán hết Ịạo của thày mình là cái gì? Chỉ dạ. Ịức Khổng, sau khi thày Tăng trả lời dạ, cũng bỏ đi ra, không cần giảng giải cái nhất quán ấy như thế nào!
Nhu cầu giảm bớt "tiêu chuẩn":
Ðến đây, có lẽ bạn đọc cũng đồng ý với người viết là Ðạo Nho như vừa được trình bày quả là cực cao, cực khó. Nghiệm được Thiên Tính, đạt được Ðạo, hoà hợp được với Trời, với Vạn Vật v.v... đều là những chuyện dành cho bậc Thánh. Ðám "ăn tục nói phét" chúng ta chỉ bàn chơi cho vui thôi chứ nào dám dự vào trong muôn một?
Có lẽ người xưa cũng đã nghĩ tới điều ấy. Vì thế họ buộc phải "giảm tiêu chuẩn", bằng cách bày ra những lý tưởng thấp hơn cái mẫu mực dành cho Thánh Nhân kia, để người thường dễ noi theo. Thí dụ họ đặt ra một mẫu người ở giữa phàm phu và bực Thánh, gọi là Quân Tử, với những đức tính như hoà nhi bất đồng, căng nhi bất tranh, quần nhi bất đảng, thái nhi bất kiêu, cư vô cầu an, thực vô cầu bão (ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no - Nguyễn Công Trứ) v.v...
Nhiều khi lý tưởng quân tử cũng vẫn còn cao quá, cần bớt thêm chút nữa. Xin kể một đoạn đối thoại giữa Ịức Khổng và Thày Tử Lộ:
"Thày Tử Lộ hỏi làm sao cho nên người? Ðức Khổng trả lời: phải có trí khôn như Tang Võ Trọng, phải có lòng đạo đức, dẹp dục vọng như Công Xước, phải hùng dũng can đảm như Biện Trang Tử, phải có tài nghệ khéo léo về ngành nghề chuyên môn như Nhiệm Cầu, rồi lại phải thông thạo văn chương lễ nhạc, đủ hết tất cả những thứ ấy mới gọi được là nên người.
Thày Tử Lộ nghe qua phát ngán, mới trả lời Thày mình như sau: "Ở thời đại bây giờ muốn nên người cần gì phải lôi thôi dữ vậy! Thấy chuyện có lợi thì nghĩ ngay tới nghĩa, trái nghĩa thì không làm, thấy việc nguy hiểm mà khi cần thiết vẫn dám nhào vô, đã nói điều chi thì giữ lấy lời, không thất hứa với anh em, đại khái vậy cũng có thể nên người được rồi".
(Tử Lộ vấn thành nhân. Tử viết: Nhược Tang Vũ Trọng chi trí, Công Xước chi bất dục, Biện Trang Tử chi Dũng, Nhiệm Cầu chi nghệ, văn chi dĩ lễ nhạc, diệc khả dĩ vi thành Nhân hỹ. Tử Lộ viết: Kim chi thành nhân dã, hà tất nhiên ! Kiến lợi tư nghĩa, kiến nguy thụ mệnh, cửu yếu bất vong bình sinh chi ngôn, diệc khả dĩ vi thành nhân hỹ)
Kết:
LẬP TÂM là bước đầu để vào Nho Giáo như lời Tống Nho Trương Hoành Cừ: "Vị thiên địa lập Tâm". Lập Tâm rốt ráo thì đạt đến một quan niệm về Tâm bao trùm cả vũ trụ, trong đó Tâm và Vật, nội giới với ngoại cảnh, người và thiên nhiên, không còn cách trở, cảm thông hoà hợp.
Ích lợi của quan điểm này, ngay khi nó vừa hé lộ trong Tâm, là thay vì tự nghĩ mình như một "khối vật chất" tạm thời biết suy tư trong khi chờ đợi rữa nát, người ta có thể quan niệm rằng nếu Trời Ịất còn mãi thì ta cũng mãi còn với Vũ Trụ Vạn Vật. Khi ấy, sống thuận với cái lẽ Trời, mà mình chân thành cảm nhận, trở nên một lý tưởng. Người ta lấy đó làm thú vui trong mỗi giây lát của hiện tại, để rồi, vào phút lâm chung, bình thản gửi mình cho Trời Ðất. Ịó là chương trình sống của Nho Gia.
Ðồng thời, khi đã Lập Tâm, thì người ta cũng ý thức ngay đến trách nhiệm (sứ mạng), không những với tha nhân, như ý nghĩa câu ỡ Vị nhân sinh lập mạng ữ cũng của Trương Hoành Cừ, mà cả với toàn thể thiên nhiên, với mọi sự vật quanh mình. Lập mạng, là làm điều Nhân quanh mình một cách an lạc tự tại, là sẵn sàng gánh vác việc thiên hạ, dù việc nhỏ, việc lớn, khó hay dễ, thành công hay thất bại, vẫn chỉ lấy TẬN TÂM làm tiêu chuẩn. Từ Lập Tâm đến Tận Tâm, có lẽ là một tóm lược khá đầy đủ của lý tưởng nhà Nho vậy.
NguyenVSau Post