Văn Học & Nghệ Thuật
Nhớ một thời VIỆT NAM CỘNG HÒA - Càphê Sàigòn .(KỲ 2)
Chẳng giấu gì mày, tao đang mặn mà với những cái tên của quá khứ cùng lá vàng rơi trên giấy, ngòai trời mưa bụi bay…Với chỉ một con đường Catina không thôi cùng những cái tên như Continental, Caravelle, Majestic, Broda,
(tiếp theo và hết)
(tiếp theo và hết)
Chẳng
giấu gì mày, tao đang mặn mà với những cái tên của quá khứ cùng lá vàng rơi
trên giấy, ngòai trời mưa bụi bay…Với chỉ một con đường Catina không thôi cùng
những cái tên như Continental, Caravelle, Majestic, Broda, La Pagode, Givral,
dẫu rằng chỉ là những cái tên. Để rồi một ngày nào đó, theo tuổi tác của những
người viễn xứ, giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu và tàn lụi
vào dĩ vãng. Nếu có thể được, cùng bên bờ đôi ngả, mày cho tao một chút vấn
vương không tưởng, như lối xe ngựa hồn thu thảo, ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
cùng những…hòai vọng. Mày vén môi : “Vậy ư “. Vậy thì mày cứ tà tà húyt gió như
người Sài Gòn năm xưa qua tiếng hát Sylvie Vartan với : ”J’attendais que ma vie
recommence..” là sắp tới đường Tư Do với mini jupe, montagut để tìm kiếm cô Bắc
kỳ nho nhỏ… em có nhìn anh giữa đám đông, trong đám đông.
Nếu
mỗi hẻm nhỏ, mỗi góc phố, mỗi hàng cây, đều thấp thoáng bóng hình của bạn xưa
trường cũ…Hãy khoan đã, mày muốn là thổ công Sài Gòn hay lõi đời với ba chữ dấm
dớ ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, ăn cơm Tầu. Mày muốn chấm bánh croissant vào cái
tách cà phê sữa to bằng cái bát ăn cơm. Hoặc giả như như ngày này năm ấy, muốn
gặp Sartre, Camus da vàng mũi tẹt đeo kính cận vuông đồi mồi to tổ bố, ngậm ống
vố dài ngoằng và luận về thuyết hiện sinh hay dấn thân cùng thân phận bèo bọt
thì cứ táp vào quán Chùa. Mày sè được ngồi trong cái ghế da to đùng, ôm cái bàn
nặng chình chịch, được nghe kể chuyện tán đào, rầu rĩ ôm gối thất tình hay châu
đầu vào nhau tính chuyện lấp bể dời sông, hay sì sầm bàn tính đường trốn lính.
Và mày sẽ được hút thuốc lá có mùi nhang thả dàn, cuối chầu là quên bẵng chuyện
ai là đầu tầu…trả tiền cà phê! Thế nên thổ địa mới được gọi là quán…chùa chăng
? Thôi thì mày cứ hoài cố nhân về những thằng áo liền quần với cái kính
ray-ban, thằng thì mầu áo hoa rừng đeo khăn quàng cổ, dẫu gì tao cũng muốn thả
rong về một thời chinh chiến cùng cái poncho mầu cứt ngựa mà mày. Thôi…”zu-lu”.
Mày ớ
ra với “zu lu”…thì cũng “dzọt” cho phải phép đấy thôi. À mày hỏi tao đi đâu hả,
thì quay về vùng đất địa linh nhân kiệt của Sài Gòn đấy mà, nhân tài và quán
“cà phê” thời nào cũng có, đông như tổ đỉa.
Vậy
thì hãy ghé quán cà phê Thu Hương, thảnh thơi bước vào một sân gạch rộng, từ
trong có thể nhìn ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh, cũng với một dàn
hoa giấy phủ rợp. Mày hãy mộng dưới hoa về một ông chủ quán khó chịu một
cách…dễ thươg. Hình như với ông, bán cà phê như một nghệ thuật kỳ thú với nghệ
thuật vị nhân sinh. Mày muốn làm một cái phin chăng ? Xin cứ ngồi yên đó, việc
của mày là đợi, đừng táy máy đụng vào làm hư ”tác phẩm” của ông ấy. Cà phê bưng
tới, ông ngồi đâu đó như rình thời gian và… rình mày. Ông rình mày như mèo rình
chuột.
Trong
lúc ông nhìn trời, cà phê trong “nồi” lặng lẽ, từng giọt, từng giọt âm thầm
theo nhau rụng xuống đáy…trầm luân. Như tao đã giải lý, cà phê rụng xuống không
hấp tấp. Một giọt cà phê tự hư vô không bào giờ vội vã. Giữa khung cảnh của cái
thời yêu cuồng sống vội ấy. Giọt cà phê chân chính không bao giờ biết nói dối.
Vẫn bình tĩnh, thong thả, đủng đỉnh lắc lư, chán chê rồi bấy giờ mới buông mình
xuống đáy tách.
Đừng
nôn nóng gì cả, mày sẽ có tách cà phê để đời. Ông sẽ xuất hiện đúng lúc cạn
phin, sẽ bỏ đường và khuấy đều cho mày và sẽ lịch sự…“Xin mời” khi mọi việc đã
mồ yên mả đẹp. Mày táy máy mở cái nắp phin ư, nước chảy ào ào để lỏng le còn gì
là Thu Hương nữa ! Mày bỏ đường ngọt như ăn chè Hiển Khánh và còn khuấy thìa
cốp cốp kiểu đó cà phê sẽ chua lét là mày giết ông ấy rồi ! Khách đến với Thu
Hương là ai ? Nhiều lắm, có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa,
Dược, Nông Lâm Súc xuống. Họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều tha tập cours
quằn tay. Nào là “Nói Với Tuổi 20” của Nhất Hạnh hay “Hố Thẳm Tư Tưởng” của Phạm
Công Thiện với mặt trăng hiếp dâm mặt trời. Hoặc giả như một thời buồn nôn phi
lý hay buồn ơi chào mi qua Jean Paul Satre, Abert Camus, Francoise Sagan. Ấy là
Sài Gòn một thời bút nghiên đèn sách đấy mày, họ kéo nhau ngồi đấy, bập môi kéo
thuốc nhả khói như điếu cầy, không phải Mélia vàng hay Basto đỏ mà phải Basto
xanh giống thuốc lá Gaulois cho ra dáng Tây, cho có vẻ phong trần cát bụi. Cứ
như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự và…thiêu đốt cuộc đời, đốt cháy thời
gian. Nể không mày.
Vừa ra
khỏi quán Thu Hương, miệng mày mấp máy ra cái điều làm một quả…quẹo trái đi ?
Ấy không được đâu, lạng quạng mày dám ngược dòng lịch sử để trở về thời hông
hoang, như ngày nào mày lại viễn mơ về những cuộc hành trình dọc theo con đường
của hai Bà, Cầu Kiệu, Võ Di Nguy, Chi Lăng là gặp lại một thoáng hương xưa với
“một tiếng kêu cha” ở bệnh viện Cộng Hòa và xa hơn một chút nữa với “hai tiếng
kêu chú” ở Ngã Ba Chú Ía. Đừng dại mày, đừng bao giờ trở về tắm lại hai lần
cùng một dòng sông để thăm…. chốn cũ người xưa. Người kỳ nữ đâu không thấy,
ngoảnh lại chỉ thấy đất xưa rày đã lên đồng, chỗ dựng nhà cửa chỗ trồng ngô
khoai. Chuyện vật đổi sao rời là vậy đấy, thưa mày.
Với
Sài Gòn không nắng thì mưa, hay tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt. Hoặc
giả như gọi nắng cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay… Với đình thụ bất tri
nhân tận khứ, xuân lai hòan phát cựu thời hoa, để nay tao thấy khúc phố nào
cũng có dăm nhà ẩn mình sau giàn bông giây hồng tươi mầu xác pháo hay dây thủy
tiên chói đỏ… Có một điều lạ, đất khách quê người, loáng một cái như một giấc
mơ hoang, tao quên bẵng đi những bụi hoa lạc loài ấy, mà chỉ miên man đến hoa
phượng, hoa điệp như con cuốc gọi hồn. Những con đường Sài Gòn qua ký ức của
tao là vậy.
Từ đầu
thập niên 60 cùng cái “sây chừng” với 1 đồng 3 điếu Ruby, để bắt đầu lớn lên
cùng tách cà phê đắng chát… sau đó phun khói mịt mù. À mày hỏi tao lầu bầu gì
ấy hả… Ừ thì tạo hóa gây chi cuộc hí trường, đến nay thấm thoắt mấy tinh sương,
rằng đường mưa ướt đất để đi xuống một chút nữa, gặp một khúc phố… Ấy là tao
muốn mày ghé quán Văn Hoa.
Quán
có món…cà phê đá, chẳng phải là đá bào, đá cục. Mỗi viên đá chỉ to bằng đầu đũa
đè lên nhau đầy ứ như bị ẩn ức. những viên đá dẫy dụa như muốn buông thả. Cầm
cái ly lên tay mát lạnh vì ẩm ướt, lắc lắc kêu lanh canh, nhấp một ngụm, lạnh
cả người, lạnh cả đầu lưỡi. Nó cứ chui tuốt xuống cổ họng, lại thấy cái lạnh
lan man khắp lục phủ ngũ tạng, len lỏi thăm thú từng phân vuông da thịt. Ngoài
một chỗ ngồi, tao muốn trở về hai bên vỉa hè đầy cây cao thẳng tắp, để trăm nhớ
nghìn thương với quán Văn Hoa cùng gió nồm rồi lại gió hanh, bể dâu thì đành bể
dâu. Chẳng là ở đấy tao có nụ hôn đầu đời thắm mùi ngô non với người tình nắng
Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em măc áo lụa Hà Đông.
Rồi
tao đưa em vào hạ, vào rạp Văn Hoa với bóng tối đèn mờ. Lần đầu tiên trong đời
tao mới biết thế nào là ngứa ngáy, là bàn tay năm ngón kiêu sa tháo mở với…sào
khô, sào ướt đến…khó chịu. Tao đang khơi đống tro tàn, nói dại chứ, ai chẳng
muốn làm người lớn thì cũng phải bước qua giữa lối đi hẹp trong bóng tối âm u.
Chữ nghĩa buông xả và niệm rằng: tao chỉ vọng cố hương qua đường xưa lối cũ
cùng một vạt áo dài ngang ngang…đầu gối. Trái nắng trở trời với mưa không ướt
đất nắng không ấm đầu, tao thương hoài nghìn năm về một tà áo tiểu thư qua tách
cà phê đá và…không hơn đấy thôi.
Thêm
một cái quán nho nhỏ để gợi nhớ đằng cuối đường Pasteur. Đầu ngã ba này là nhà
may Thiết Lập phía đường Nguyễn Đình Chiểu, cuối ngả tư kia là phở Hòa : ấy là
quán cà phê Pateur. Quán nhỏ bé với một cái tên, gọi riết thành quen vì rằng
quán có tới ba chị em, cô Hồng, cô Hà và cô út tên Khuê. Quán không có bảng
hiệu, mặt tiền trông ủ ê cũ kỹ với cửa nẻo mầu xanh lá cây. Ngày ấy tao ngất
ngư với dòng nhạc mệt mỏi cở… đại bác đêm đêm vọng về của Trịnh Công Sơn như…
cánh vạc bay, để rồi bay lên vút tận trời, từ nay xa cách mãi. Nói rõ ra là với
những âm hưởng này, khách đến quán với một chút “cát bụi” như…đàn bò vào thành
phố.
Quán
hồi đó có những ai nhỉ ? Vẫn hồn ma bóng quế của những dị tướng, dị nhân. Những
hiện tượng cổ quái của một thưở với tóc tai như tổ quạ, mặt mày nhăn nhó khó
coi, quái nữa là những khứa này lại sính nói chuyện…vô vi. Lại có khứa mang vóc
dáng khinh đời khinh bạc, đi guốc, mặc áo nâu sòng, ngồi vất mật vào tường và
lầu bầu một mình như…Bùi Giáng. Ấy đấy, khách ngồi quán đếm không xuể kể không
xong, nay lâu lâu lại có dăm thằng bạn cà phê một thuở thì thào qua điện thọai,
chuyện cũng chỉ nhắc lại quán cũ cùng thằng này thằng kia cùng một thời thế sự
du du hề một thoáng bạch câu. Quán đã đi vào quá vãng, dãy phố buồn hiu trống
vắng, ảm đạm của thành phố một thời người xe tấp nập như nêm cối.
Một
chiều, tao đã đứng ở đấy rất lâu, trước mặt quán bây giờ cái đống rác to bự sự
và u hoài về cô hàng cà phê tên Hồng giờ chẳng biêt luân lạc ở góc trời chân
biển nào. Thì đùng một cái, qua một bài viết của Phan Nghị, ông tự sự cô là
người tình liễu trai của ông trong cái tuổi thất thập cổ lai hy. Đêm đêm hồn ma
của bác phu quét đường, đàn bò, cánh vạc, đại bác, cứ
nhè
tai ông kêu réo, sau đó ông đành giã từ cõi nhân gian. Chuyện tình cô hàng cà
phê là như thế đó. Cà phê nào mà chả đắng, cuộc tình nào mà chả…đen đủi. Thì
cũng là chuyện vậy, thưa mày.
Cùng
Sài Gòn lang thang trên đường Hồng Thập Tự chạy dài là gặp Đinh Tiên Hòang. Mày
vỗ vai tao… Ừ thì sắp về đến một vùng thổ ngơi mà âm hưởng là bánh cuốn Thanh
Trì nằm trong con hẻm Trần Khăc Chân, thứ bánh cuốn mỏng tang, không nhân, chấm
nước mắm nhĩ mầu cua đồng, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu rán nóng hổi, dòn tan,
thêm miếng chả quế, giò lụa trắng phau, ăn quên chết. Cũng nơi chốn này, còn có
quán chả cá Thăng Long, với xoong mỡ sôi đổ lên đĩa chả cá hòa nhập trong lá
sung, lá ổi. lá mơ xanh um. Nghe tiếng mỡ xèo xèo đầy “ấn tượng”, vậy mà tao
vắt óc nghĩ mãi không quán nó nằm ở cái xó xỉnh nào, thoáng như hiện ra ở Xóm
Chùa đường Lý Trần Quán thì phải. Ngựa xe rong ruổi, mây chiều gió sớm, thôi
thi hãy đảo qua đường xưa lối cũ với những Đinh Tiên Hoàng, Hiền Vương, để còn
gì nữa ở vùng đất im ắng này.
Ấy là tao muốn ngược về một buổi hoang sơ trở lại với một góc phố Đa Kao bây giờ, mày ngó vào một căn nhà cửa đóng then gài mà trước kia là cà phê Hân. Không nói mày cũng biết tỏng là quán loại…cao cấp vì bàn ghế ở đây đều…cao, tạo cho khách một tư thế ngồi nghiêng ngả và bàn nào cũng thủ sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất cho nó Tây. Thì như tao đã luận ngữ ở trên, người Sài Gòn thưở đó rất Tây. Ấy là chưa kể cái nghĩa địa cũng Tây nốt gần đấy. Ở quán Hân này, như mày thấy đấy, bàn này người rì rầm nói chuyện, bàn kia người trầm tư lơ đãng, tạm lắng xuống những lo toan vất vả của đời thường, chẳng ai để ý đến ai.
Ấy là tao muốn ngược về một buổi hoang sơ trở lại với một góc phố Đa Kao bây giờ, mày ngó vào một căn nhà cửa đóng then gài mà trước kia là cà phê Hân. Không nói mày cũng biết tỏng là quán loại…cao cấp vì bàn ghế ở đây đều…cao, tạo cho khách một tư thế ngồi nghiêng ngả và bàn nào cũng thủ sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất cho nó Tây. Thì như tao đã luận ngữ ở trên, người Sài Gòn thưở đó rất Tây. Ấy là chưa kể cái nghĩa địa cũng Tây nốt gần đấy. Ở quán Hân này, như mày thấy đấy, bàn này người rì rầm nói chuyện, bàn kia người trầm tư lơ đãng, tạm lắng xuống những lo toan vất vả của đời thường, chẳng ai để ý đến ai.
Ma đưa
lối quỷ dẫn đường, tao vô tình vồ được một mớ văn chương của mấy ông nhà văn Hà
Nội viết về Sài Gòn hôm nay. Đọc mà tức anh ách vì họ vào đến đây, kẻ thì bắng
nhắng như nhặng vào cầu tiêu, kẻ thì ngơ ngác như quạ vào chuồng lợn. Một bữa,
đủng đoảng thế nào tao nhúm được một bài viết của một người Hà Nội…đàn bà, viết
về Sài Gòn với quán cà phê với phố phường. Nên tao mới khoe mẽ với mày như thế
này đây:
“Tôi,
sinh ra và sống ở Hà Nôi 25 năm. Yêu Hà Nội đến cực đoan. Bỗng thấy trong mình
tìm được những lắng đọng, trầm sâu qua nhịp cầu với thành phố Sài Gòn phương
Nam như bức tranh hiện thực ba chiều gió mưa. Nắng tràn trề rất trẻ, nắng chạy
theo người, qua kẽ lá, những phố phường…”. Và một đọan khác : “Sài Gòn trên
cao, Sài Gòn dưới thấp, Sài Gòn nhìn thẳng, Sài Gòn nhìn nghiêng, Sài Gòn quay
mặt. Sài Gòn hối hả triền miên, tất bật đa đoan nhưng phóng khoáng và rộng
lượng”.
Tao
chịu đèn hột vịt nhất ở khúc này:
“Sài
Gòn mất tên… Nhưng Sài Gòn vẫn mộng mơ. Sài Gòn sóng sánh cà phê, nhớ nhung,
chạy theo ký ức, chạy theo những con đường của mưa, của nắng, của những chuyện
tình trong nhịp phồn sinh…Vậy mà bao nhà thơ, nhạc sĩ, những người gắn bó lâu
năm ở thành phố này, rất hiếm khi viết được tác phẩm thật hay về vóc dáng,
phong cách của thành phố ấy. Phải chăng vì nhiều nắng đến phát sốt, nắng đến
rực lửa ầm ào để con người Sài Gòn cởi mở hơn và cũng hồn nhiên hơn. ”.
Ngươi
viết lắng đọng :
“Anh
thầm thì hát nho nhỏ bên tai em khúc nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên” của họ
Trịnh, để em vẫn nhớ những con đường me anh chở em qua. Không phải là kẻ hoài
cổ, mà bởi vì cái đẹp của quá khứ, sao nhớ mưa xuân Hà Nội, cũng như khi chúng
mình đi trên đường phố se lạnh của Sài Gòn, đường trải gấm hoa điệp vàng và lá
me hát trong gió, lá me bay khiến nắng trong đến lạ, trong tóc em gió từng cơn
rơm rả làm những chùm quả me rụng xuống những thanh trầm quanh những thân cây
được mặc áo lụa mầu, nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát. “
Và
chấm dứt tùy bút ngắn với :
“Nhưng
cứ mỗi lần đi xa lại nhớ, lại mong trở về Sài Gòn cà phê cùng những quán cóc
vỉa hè, những vỉa hè dát nắng. Với những người đã đến, khó mà thóat khỏi những
cảm giác tiếc nuối của Sài Gòn một thuở. Nỗi nhớ chạy theo ký ức tình yêu tình
tứ-tĩnh lặng còn đến bây giờ. Sài Gòn thăng trầm binh biến, nỗi nhớ ấy cứ cuốn
hút chạy theo những con đường, con đường chạy theo những khuôn mặt già-trẻ, cũ
kỹ thanh-xuân. Sài Gòn khao khát, đi-về, lúc mệt mỏi, vô cảm, khi viên mãn-muôn
mảng mầu sắc, bức tranh hiện thực và ấn tượng của không gian ba chiều
nắng-mưa…”
Và cô
buông bút một câu để đời, tao nhớ mãi :
- Sài
Gòn đổi tên, mới cũ nhập nhòa nhưng cái tên không thể mất.
Người
viết có cái tên nghe rất quen. Nhưng tao lại không nhớ mới khỉ.
Trở
lại với mấy ông nhà văn Hà Nội viết về Sài Gòn bây giờ, như cô phóng bút : “rất
hiếm khi viết được tác phẩm thật hay về vóc dáng, phong cách của thành phố ấy”.
Ngược lại, họ… bức xúc với Hà Nội có con đường ngắn nhất tên hồ Hòan Kiếm, gần
đấy có rạp cíné Lửa Hồng ở phố Hàng Trống, xa hơn một tí nữa là phôt Cầu Gỗ có
với cà phê Giảng. Nhưng họ đâu biết Sài Gòn, đường Hiền Vương với Cầu Bông có
con phố ngắn nhất là Nguyễn Phi Khanh với rạp Đa Kao.
Con phố có từ đầu thế kỷ 19, theo
cụ Hồ Biểu Chánh : “Phố là phố đúc được dựng lên chen chút lẫn nhau không thứ
tự, có cả nhà ngói, hàng rào sắt coi sạch sẽ san sát nhau…”. Hay nói khác đi
nơi đây là một góc nhỏ ẩn khuất, khu phố cổ thu hẹp, khép kín của Sài Gòn. Mày
nghĩ tao có nói quá chăng ? Thì mày hãy thử ngắm mà xem, từ con phố này gặp con
phố Nguyễn văn Thạch cũng chỉ mấy trăm thước, ở đó không có cái tập nập mắc
cưởi của phố thị, nó trầm lắng cô liêu, im ả tách biệt. Nhà nào cũng nhỏ, cất
cao hơn mặt đường mấy với bực tam cấp xi măng, mở cữa ra là có thể nghe người
bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra
bắt tay nhau được với người đối diện bên kia.
Cả con
phố ngắn nhất Sài Gòn trên, chỉ với dăm căn nhà chật chội, mái ngói xạm mầu rêu,
trồi sụt nhấp nhô. Mà cũng có một cái lạ, như tao đã thưa thốt, bỏ đi thì nhớ,
về gặp lại thấy bồi hồi vì phố cũ vẫn như vậy chẳng đổi thay, nhật mộ hương
quan hà xứ thị, yên ba giang thượng cổ nhân sầu, sầu qua nỗi nhớ cùng con phố
ấy một thời tao đã đi lại lắm lần qua những ngôi nhà cửa đóng im ỉm như trơ gan
cùng tuế nguyệt.
Ở đấy
cũng có một quán cà phê mà gần đấy có… cái cột đèn, dường như là cái chỗ người
ta dựa lưng đợi nhau. Mà mày đang múa máy chỉ chỏ gì vậy, mày lẩm nhẩm hình như
căn nhà của cụ thầy bói mù Ba La râu tóc bạc phơ có vườn hoa giấy, chẳng phái
đâu. Thằng khỉ, thì như tao vừa nói : đó quán cà phê Thái Chi năm xửa, năm xưa
với một nhớ hai quên đấy, thưa mày. Mày còn nhớ chứ, quán là cái phòng khách
chỉ đủ chỗ cho ba bốn chiếc bàn, không có nhạc, không gì cả ngoại trừ một bức
tranh đen trắng treo trên vách được cắt ra từ một tờ báo ngoại quốc. Tranh chụp
một bàn tay giắt một em bé vai đeo cặp sách, mắt mở to, miệng mếu máo, phía
dưới có hàng chữ : “Đi học hả ? Hôm qua đã đi học rồi mà”.
Khách
đến với quán nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân, ngồi dai dẳng như muốn
dính vào tường. Mà cũng quái, không biết từ hồi nào, khách hễ vào quán cà phê
mà ngồi không lâu y như rằng, là tự nhiên cảm thấy…áy náy. Và chị thì dường như
chẳng lưu tâm đến cái chân lý bất biến này. Khách ngồi không mặc khách. Chị làm
công việc…một ngày như mọi ngày của chị. Cả hai không dính dấp gì đến nhau. Vậy
đấy.
Chị
Chi pha cà phê nhưng quen tay vần là trà xanh. Mỗi người một vẻ, như quán cà
phê ông Nhân, ông Giảng, cái này số nhà 88, cái kia số100. Quán này có rượu
rhum, bơ bretel, quán kia có cà phê…”ovaltine”. Với chị thì khác, lúc nào cũng
thế, trà được bốc một nhúm ngang lòng ấm, nước vừa độ sôi, thời gian vừa đủ,
nước trà vàng tươi, ngai ngái thơm trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh
xinh. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng hột mít, vừa đủ
cho vài hớp nước nhỏ. Nhắp một ngụm trà, chuyện trên trời dưới đất, thóang
trông nhàn cư và thoát tục như ai.
Chẳng
mấy ai nhớ đến số nhà của quán chị Chi, chỉ biết rằng nó nằm ở con phố
nhỏ Nguyễn Phi Khanh. Ấy vậy mà cách đây mấy năm, ngày chị đi vào cõi tĩnh
mịch, có tới hơn hai trăm khách quen theo linh cữu chị để tiễn đưa. Nghĩ cho
cùng mấy ai được như vậy. Tất cả chỉ vì cái tình tri ngộ qua hình bóng lắng
đọng với cái tên thân quen, gần gũi: quán chị Chi.
oOo
Ừ thì
bằng vào tất cả những gì tao nhắc tới qua bài tản mạn này là một thóang ngày
cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ.
Mây vẫn bay, ngày vẫn trôi đi, ai chẳng có một cái quán của riêng mình còn đang
bồng bềnh ở đâu đó, nơi quê nhà.
Và
ngẫm cho cùng nếu có đi hết đất, có đi hết biển thì ai cũng chẳng có một hạt
sạn trong chiếc giầy, mới đầu chỉ bằng hạt cát, theo tuổi tác cứ lớn dần bằng
hạt đậu, hạt sỏi rồi thì to bằng quả núi Tu Di, và để rồi…một ngày : “Anh về
thăm chỗ đợi xưa – Cây cột đèn ấy hình như nhớ liền – Căn nhà có cội mai vàng –
Ngưoi ta đã đốn mở hàng cà phê”.
Ừ thì
bằng vào cái tuổi vắng gió đìu hiu này…Mấy ai chẳng một lần hòai cổ, hoài cố
quận với hoài cố nhân cùng Sài Gòn vắng những cơn mưa.
Rồi
mày cũng sẽ có một ngày…
Phí Ngọc Hùng
Bàn ra tán vào (0)
Nhớ một thời VIỆT NAM CỘNG HÒA - Càphê Sàigòn .(KỲ 2)
Chẳng giấu gì mày, tao đang mặn mà với những cái tên của quá khứ cùng lá vàng rơi trên giấy, ngòai trời mưa bụi bay…Với chỉ một con đường Catina không thôi cùng những cái tên như Continental, Caravelle, Majestic, Broda,
(tiếp theo và hết)
Chẳng
giấu gì mày, tao đang mặn mà với những cái tên của quá khứ cùng lá vàng rơi
trên giấy, ngòai trời mưa bụi bay…Với chỉ một con đường Catina không thôi cùng
những cái tên như Continental, Caravelle, Majestic, Broda, La Pagode, Givral,
dẫu rằng chỉ là những cái tên. Để rồi một ngày nào đó, theo tuổi tác của những
người viễn xứ, giấy đỏ buồn không thắm, mực đọng trong nghiên sầu và tàn lụi
vào dĩ vãng. Nếu có thể được, cùng bên bờ đôi ngả, mày cho tao một chút vấn
vương không tưởng, như lối xe ngựa hồn thu thảo, ngõ cũ lâu đài bóng tịch dương
cùng những…hòai vọng. Mày vén môi : “Vậy ư “. Vậy thì mày cứ tà tà húyt gió như
người Sài Gòn năm xưa qua tiếng hát Sylvie Vartan với : ”J’attendais que ma vie
recommence..” là sắp tới đường Tư Do với mini jupe, montagut để tìm kiếm cô Bắc
kỳ nho nhỏ… em có nhìn anh giữa đám đông, trong đám đông.
Nếu
mỗi hẻm nhỏ, mỗi góc phố, mỗi hàng cây, đều thấp thoáng bóng hình của bạn xưa
trường cũ…Hãy khoan đã, mày muốn là thổ công Sài Gòn hay lõi đời với ba chữ dấm
dớ ở nhà Tây, lấy vợ Nhật, ăn cơm Tầu. Mày muốn chấm bánh croissant vào cái
tách cà phê sữa to bằng cái bát ăn cơm. Hoặc giả như như ngày này năm ấy, muốn
gặp Sartre, Camus da vàng mũi tẹt đeo kính cận vuông đồi mồi to tổ bố, ngậm ống
vố dài ngoằng và luận về thuyết hiện sinh hay dấn thân cùng thân phận bèo bọt
thì cứ táp vào quán Chùa. Mày sè được ngồi trong cái ghế da to đùng, ôm cái bàn
nặng chình chịch, được nghe kể chuyện tán đào, rầu rĩ ôm gối thất tình hay châu
đầu vào nhau tính chuyện lấp bể dời sông, hay sì sầm bàn tính đường trốn lính.
Và mày sẽ được hút thuốc lá có mùi nhang thả dàn, cuối chầu là quên bẵng chuyện
ai là đầu tầu…trả tiền cà phê! Thế nên thổ địa mới được gọi là quán…chùa chăng
? Thôi thì mày cứ hoài cố nhân về những thằng áo liền quần với cái kính
ray-ban, thằng thì mầu áo hoa rừng đeo khăn quàng cổ, dẫu gì tao cũng muốn thả
rong về một thời chinh chiến cùng cái poncho mầu cứt ngựa mà mày. Thôi…”zu-lu”.
Mày ớ
ra với “zu lu”…thì cũng “dzọt” cho phải phép đấy thôi. À mày hỏi tao đi đâu hả,
thì quay về vùng đất địa linh nhân kiệt của Sài Gòn đấy mà, nhân tài và quán
“cà phê” thời nào cũng có, đông như tổ đỉa.
Vậy
thì hãy ghé quán cà phê Thu Hương, thảnh thơi bước vào một sân gạch rộng, từ
trong có thể nhìn ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh, cũng với một dàn
hoa giấy phủ rợp. Mày hãy mộng dưới hoa về một ông chủ quán khó chịu một
cách…dễ thươg. Hình như với ông, bán cà phê như một nghệ thuật kỳ thú với nghệ
thuật vị nhân sinh. Mày muốn làm một cái phin chăng ? Xin cứ ngồi yên đó, việc
của mày là đợi, đừng táy máy đụng vào làm hư ”tác phẩm” của ông ấy. Cà phê bưng
tới, ông ngồi đâu đó như rình thời gian và… rình mày. Ông rình mày như mèo rình
chuột.
Trong
lúc ông nhìn trời, cà phê trong “nồi” lặng lẽ, từng giọt, từng giọt âm thầm
theo nhau rụng xuống đáy…trầm luân. Như tao đã giải lý, cà phê rụng xuống không
hấp tấp. Một giọt cà phê tự hư vô không bào giờ vội vã. Giữa khung cảnh của cái
thời yêu cuồng sống vội ấy. Giọt cà phê chân chính không bao giờ biết nói dối.
Vẫn bình tĩnh, thong thả, đủng đỉnh lắc lư, chán chê rồi bấy giờ mới buông mình
xuống đáy tách.
Đừng
nôn nóng gì cả, mày sẽ có tách cà phê để đời. Ông sẽ xuất hiện đúng lúc cạn
phin, sẽ bỏ đường và khuấy đều cho mày và sẽ lịch sự…“Xin mời” khi mọi việc đã
mồ yên mả đẹp. Mày táy máy mở cái nắp phin ư, nước chảy ào ào để lỏng le còn gì
là Thu Hương nữa ! Mày bỏ đường ngọt như ăn chè Hiển Khánh và còn khuấy thìa
cốp cốp kiểu đó cà phê sẽ chua lét là mày giết ông ấy rồi ! Khách đến với Thu
Hương là ai ? Nhiều lắm, có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa,
Dược, Nông Lâm Súc xuống. Họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều tha tập cours
quằn tay. Nào là “Nói Với Tuổi 20” của Nhất Hạnh hay “Hố Thẳm Tư Tưởng” của Phạm
Công Thiện với mặt trăng hiếp dâm mặt trời. Hoặc giả như một thời buồn nôn phi
lý hay buồn ơi chào mi qua Jean Paul Satre, Abert Camus, Francoise Sagan. Ấy là
Sài Gòn một thời bút nghiên đèn sách đấy mày, họ kéo nhau ngồi đấy, bập môi kéo
thuốc nhả khói như điếu cầy, không phải Mélia vàng hay Basto đỏ mà phải Basto
xanh giống thuốc lá Gaulois cho ra dáng Tây, cho có vẻ phong trần cát bụi. Cứ
như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự và…thiêu đốt cuộc đời, đốt cháy thời
gian. Nể không mày.
Vừa ra
khỏi quán Thu Hương, miệng mày mấp máy ra cái điều làm một quả…quẹo trái đi ?
Ấy không được đâu, lạng quạng mày dám ngược dòng lịch sử để trở về thời hông
hoang, như ngày nào mày lại viễn mơ về những cuộc hành trình dọc theo con đường
của hai Bà, Cầu Kiệu, Võ Di Nguy, Chi Lăng là gặp lại một thoáng hương xưa với
“một tiếng kêu cha” ở bệnh viện Cộng Hòa và xa hơn một chút nữa với “hai tiếng
kêu chú” ở Ngã Ba Chú Ía. Đừng dại mày, đừng bao giờ trở về tắm lại hai lần
cùng một dòng sông để thăm…. chốn cũ người xưa. Người kỳ nữ đâu không thấy,
ngoảnh lại chỉ thấy đất xưa rày đã lên đồng, chỗ dựng nhà cửa chỗ trồng ngô
khoai. Chuyện vật đổi sao rời là vậy đấy, thưa mày.
Với
Sài Gòn không nắng thì mưa, hay tháng sáu trời mưa, trời mưa không dứt. Hoặc
giả như gọi nắng cho cơn mê chiều nhiều hoa trắng bay… Với đình thụ bất tri
nhân tận khứ, xuân lai hòan phát cựu thời hoa, để nay tao thấy khúc phố nào
cũng có dăm nhà ẩn mình sau giàn bông giây hồng tươi mầu xác pháo hay dây thủy
tiên chói đỏ… Có một điều lạ, đất khách quê người, loáng một cái như một giấc
mơ hoang, tao quên bẵng đi những bụi hoa lạc loài ấy, mà chỉ miên man đến hoa
phượng, hoa điệp như con cuốc gọi hồn. Những con đường Sài Gòn qua ký ức của
tao là vậy.
Từ đầu
thập niên 60 cùng cái “sây chừng” với 1 đồng 3 điếu Ruby, để bắt đầu lớn lên
cùng tách cà phê đắng chát… sau đó phun khói mịt mù. À mày hỏi tao lầu bầu gì
ấy hả… Ừ thì tạo hóa gây chi cuộc hí trường, đến nay thấm thoắt mấy tinh sương,
rằng đường mưa ướt đất để đi xuống một chút nữa, gặp một khúc phố… Ấy là tao
muốn mày ghé quán Văn Hoa.
Quán
có món…cà phê đá, chẳng phải là đá bào, đá cục. Mỗi viên đá chỉ to bằng đầu đũa
đè lên nhau đầy ứ như bị ẩn ức. những viên đá dẫy dụa như muốn buông thả. Cầm
cái ly lên tay mát lạnh vì ẩm ướt, lắc lắc kêu lanh canh, nhấp một ngụm, lạnh
cả người, lạnh cả đầu lưỡi. Nó cứ chui tuốt xuống cổ họng, lại thấy cái lạnh
lan man khắp lục phủ ngũ tạng, len lỏi thăm thú từng phân vuông da thịt. Ngoài
một chỗ ngồi, tao muốn trở về hai bên vỉa hè đầy cây cao thẳng tắp, để trăm nhớ
nghìn thương với quán Văn Hoa cùng gió nồm rồi lại gió hanh, bể dâu thì đành bể
dâu. Chẳng là ở đấy tao có nụ hôn đầu đời thắm mùi ngô non với người tình nắng
Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em măc áo lụa Hà Đông.
Rồi
tao đưa em vào hạ, vào rạp Văn Hoa với bóng tối đèn mờ. Lần đầu tiên trong đời
tao mới biết thế nào là ngứa ngáy, là bàn tay năm ngón kiêu sa tháo mở với…sào
khô, sào ướt đến…khó chịu. Tao đang khơi đống tro tàn, nói dại chứ, ai chẳng
muốn làm người lớn thì cũng phải bước qua giữa lối đi hẹp trong bóng tối âm u.
Chữ nghĩa buông xả và niệm rằng: tao chỉ vọng cố hương qua đường xưa lối cũ
cùng một vạt áo dài ngang ngang…đầu gối. Trái nắng trở trời với mưa không ướt
đất nắng không ấm đầu, tao thương hoài nghìn năm về một tà áo tiểu thư qua tách
cà phê đá và…không hơn đấy thôi.
Thêm
một cái quán nho nhỏ để gợi nhớ đằng cuối đường Pasteur. Đầu ngã ba này là nhà
may Thiết Lập phía đường Nguyễn Đình Chiểu, cuối ngả tư kia là phở Hòa : ấy là
quán cà phê Pateur. Quán nhỏ bé với một cái tên, gọi riết thành quen vì rằng
quán có tới ba chị em, cô Hồng, cô Hà và cô út tên Khuê. Quán không có bảng
hiệu, mặt tiền trông ủ ê cũ kỹ với cửa nẻo mầu xanh lá cây. Ngày ấy tao ngất
ngư với dòng nhạc mệt mỏi cở… đại bác đêm đêm vọng về của Trịnh Công Sơn như…
cánh vạc bay, để rồi bay lên vút tận trời, từ nay xa cách mãi. Nói rõ ra là với
những âm hưởng này, khách đến quán với một chút “cát bụi” như…đàn bò vào thành
phố.
Quán
hồi đó có những ai nhỉ ? Vẫn hồn ma bóng quế của những dị tướng, dị nhân. Những
hiện tượng cổ quái của một thưở với tóc tai như tổ quạ, mặt mày nhăn nhó khó
coi, quái nữa là những khứa này lại sính nói chuyện…vô vi. Lại có khứa mang vóc
dáng khinh đời khinh bạc, đi guốc, mặc áo nâu sòng, ngồi vất mật vào tường và
lầu bầu một mình như…Bùi Giáng. Ấy đấy, khách ngồi quán đếm không xuể kể không
xong, nay lâu lâu lại có dăm thằng bạn cà phê một thuở thì thào qua điện thọai,
chuyện cũng chỉ nhắc lại quán cũ cùng thằng này thằng kia cùng một thời thế sự
du du hề một thoáng bạch câu. Quán đã đi vào quá vãng, dãy phố buồn hiu trống
vắng, ảm đạm của thành phố một thời người xe tấp nập như nêm cối.
Một
chiều, tao đã đứng ở đấy rất lâu, trước mặt quán bây giờ cái đống rác to bự sự
và u hoài về cô hàng cà phê tên Hồng giờ chẳng biêt luân lạc ở góc trời chân
biển nào. Thì đùng một cái, qua một bài viết của Phan Nghị, ông tự sự cô là
người tình liễu trai của ông trong cái tuổi thất thập cổ lai hy. Đêm đêm hồn ma
của bác phu quét đường, đàn bò, cánh vạc, đại bác, cứ
nhè
tai ông kêu réo, sau đó ông đành giã từ cõi nhân gian. Chuyện tình cô hàng cà
phê là như thế đó. Cà phê nào mà chả đắng, cuộc tình nào mà chả…đen đủi. Thì
cũng là chuyện vậy, thưa mày.
Cùng
Sài Gòn lang thang trên đường Hồng Thập Tự chạy dài là gặp Đinh Tiên Hòang. Mày
vỗ vai tao… Ừ thì sắp về đến một vùng thổ ngơi mà âm hưởng là bánh cuốn Thanh
Trì nằm trong con hẻm Trần Khăc Chân, thứ bánh cuốn mỏng tang, không nhân, chấm
nước mắm nhĩ mầu cua đồng, cay xè vị ớt bột, kèm miếng đậu rán nóng hổi, dòn tan,
thêm miếng chả quế, giò lụa trắng phau, ăn quên chết. Cũng nơi chốn này, còn có
quán chả cá Thăng Long, với xoong mỡ sôi đổ lên đĩa chả cá hòa nhập trong lá
sung, lá ổi. lá mơ xanh um. Nghe tiếng mỡ xèo xèo đầy “ấn tượng”, vậy mà tao
vắt óc nghĩ mãi không quán nó nằm ở cái xó xỉnh nào, thoáng như hiện ra ở Xóm
Chùa đường Lý Trần Quán thì phải. Ngựa xe rong ruổi, mây chiều gió sớm, thôi
thi hãy đảo qua đường xưa lối cũ với những Đinh Tiên Hoàng, Hiền Vương, để còn
gì nữa ở vùng đất im ắng này.
Ấy là tao muốn ngược về một buổi hoang sơ trở lại với một góc phố Đa Kao bây giờ, mày ngó vào một căn nhà cửa đóng then gài mà trước kia là cà phê Hân. Không nói mày cũng biết tỏng là quán loại…cao cấp vì bàn ghế ở đây đều…cao, tạo cho khách một tư thế ngồi nghiêng ngả và bàn nào cũng thủ sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất cho nó Tây. Thì như tao đã luận ngữ ở trên, người Sài Gòn thưở đó rất Tây. Ấy là chưa kể cái nghĩa địa cũng Tây nốt gần đấy. Ở quán Hân này, như mày thấy đấy, bàn này người rì rầm nói chuyện, bàn kia người trầm tư lơ đãng, tạm lắng xuống những lo toan vất vả của đời thường, chẳng ai để ý đến ai.
Ấy là tao muốn ngược về một buổi hoang sơ trở lại với một góc phố Đa Kao bây giờ, mày ngó vào một căn nhà cửa đóng then gài mà trước kia là cà phê Hân. Không nói mày cũng biết tỏng là quán loại…cao cấp vì bàn ghế ở đây đều…cao, tạo cho khách một tư thế ngồi nghiêng ngả và bàn nào cũng thủ sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất cho nó Tây. Thì như tao đã luận ngữ ở trên, người Sài Gòn thưở đó rất Tây. Ấy là chưa kể cái nghĩa địa cũng Tây nốt gần đấy. Ở quán Hân này, như mày thấy đấy, bàn này người rì rầm nói chuyện, bàn kia người trầm tư lơ đãng, tạm lắng xuống những lo toan vất vả của đời thường, chẳng ai để ý đến ai.
Ma đưa
lối quỷ dẫn đường, tao vô tình vồ được một mớ văn chương của mấy ông nhà văn Hà
Nội viết về Sài Gòn hôm nay. Đọc mà tức anh ách vì họ vào đến đây, kẻ thì bắng
nhắng như nhặng vào cầu tiêu, kẻ thì ngơ ngác như quạ vào chuồng lợn. Một bữa,
đủng đoảng thế nào tao nhúm được một bài viết của một người Hà Nội…đàn bà, viết
về Sài Gòn với quán cà phê với phố phường. Nên tao mới khoe mẽ với mày như thế
này đây:
“Tôi,
sinh ra và sống ở Hà Nôi 25 năm. Yêu Hà Nội đến cực đoan. Bỗng thấy trong mình
tìm được những lắng đọng, trầm sâu qua nhịp cầu với thành phố Sài Gòn phương
Nam như bức tranh hiện thực ba chiều gió mưa. Nắng tràn trề rất trẻ, nắng chạy
theo người, qua kẽ lá, những phố phường…”. Và một đọan khác : “Sài Gòn trên
cao, Sài Gòn dưới thấp, Sài Gòn nhìn thẳng, Sài Gòn nhìn nghiêng, Sài Gòn quay
mặt. Sài Gòn hối hả triền miên, tất bật đa đoan nhưng phóng khoáng và rộng
lượng”.
Tao
chịu đèn hột vịt nhất ở khúc này:
“Sài
Gòn mất tên… Nhưng Sài Gòn vẫn mộng mơ. Sài Gòn sóng sánh cà phê, nhớ nhung,
chạy theo ký ức, chạy theo những con đường của mưa, của nắng, của những chuyện
tình trong nhịp phồn sinh…Vậy mà bao nhà thơ, nhạc sĩ, những người gắn bó lâu
năm ở thành phố này, rất hiếm khi viết được tác phẩm thật hay về vóc dáng,
phong cách của thành phố ấy. Phải chăng vì nhiều nắng đến phát sốt, nắng đến
rực lửa ầm ào để con người Sài Gòn cởi mở hơn và cũng hồn nhiên hơn. ”.
Ngươi
viết lắng đọng :
“Anh
thầm thì hát nho nhỏ bên tai em khúc nhạc “Em còn nhớ hay em đã quên” của họ
Trịnh, để em vẫn nhớ những con đường me anh chở em qua. Không phải là kẻ hoài
cổ, mà bởi vì cái đẹp của quá khứ, sao nhớ mưa xuân Hà Nội, cũng như khi chúng
mình đi trên đường phố se lạnh của Sài Gòn, đường trải gấm hoa điệp vàng và lá
me hát trong gió, lá me bay khiến nắng trong đến lạ, trong tóc em gió từng cơn
rơm rả làm những chùm quả me rụng xuống những thanh trầm quanh những thân cây
được mặc áo lụa mầu, nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát. “
Và
chấm dứt tùy bút ngắn với :
“Nhưng
cứ mỗi lần đi xa lại nhớ, lại mong trở về Sài Gòn cà phê cùng những quán cóc
vỉa hè, những vỉa hè dát nắng. Với những người đã đến, khó mà thóat khỏi những
cảm giác tiếc nuối của Sài Gòn một thuở. Nỗi nhớ chạy theo ký ức tình yêu tình
tứ-tĩnh lặng còn đến bây giờ. Sài Gòn thăng trầm binh biến, nỗi nhớ ấy cứ cuốn
hút chạy theo những con đường, con đường chạy theo những khuôn mặt già-trẻ, cũ
kỹ thanh-xuân. Sài Gòn khao khát, đi-về, lúc mệt mỏi, vô cảm, khi viên mãn-muôn
mảng mầu sắc, bức tranh hiện thực và ấn tượng của không gian ba chiều
nắng-mưa…”
Và cô
buông bút một câu để đời, tao nhớ mãi :
- Sài
Gòn đổi tên, mới cũ nhập nhòa nhưng cái tên không thể mất.
Người
viết có cái tên nghe rất quen. Nhưng tao lại không nhớ mới khỉ.
Trở
lại với mấy ông nhà văn Hà Nội viết về Sài Gòn bây giờ, như cô phóng bút : “rất
hiếm khi viết được tác phẩm thật hay về vóc dáng, phong cách của thành phố ấy”.
Ngược lại, họ… bức xúc với Hà Nội có con đường ngắn nhất tên hồ Hòan Kiếm, gần
đấy có rạp cíné Lửa Hồng ở phố Hàng Trống, xa hơn một tí nữa là phôt Cầu Gỗ có
với cà phê Giảng. Nhưng họ đâu biết Sài Gòn, đường Hiền Vương với Cầu Bông có
con phố ngắn nhất là Nguyễn Phi Khanh với rạp Đa Kao.
Con phố có từ đầu thế kỷ 19, theo
cụ Hồ Biểu Chánh : “Phố là phố đúc được dựng lên chen chút lẫn nhau không thứ
tự, có cả nhà ngói, hàng rào sắt coi sạch sẽ san sát nhau…”. Hay nói khác đi
nơi đây là một góc nhỏ ẩn khuất, khu phố cổ thu hẹp, khép kín của Sài Gòn. Mày
nghĩ tao có nói quá chăng ? Thì mày hãy thử ngắm mà xem, từ con phố này gặp con
phố Nguyễn văn Thạch cũng chỉ mấy trăm thước, ở đó không có cái tập nập mắc
cưởi của phố thị, nó trầm lắng cô liêu, im ả tách biệt. Nhà nào cũng nhỏ, cất
cao hơn mặt đường mấy với bực tam cấp xi măng, mở cữa ra là có thể nghe người
bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra
bắt tay nhau được với người đối diện bên kia.
Cả con
phố ngắn nhất Sài Gòn trên, chỉ với dăm căn nhà chật chội, mái ngói xạm mầu rêu,
trồi sụt nhấp nhô. Mà cũng có một cái lạ, như tao đã thưa thốt, bỏ đi thì nhớ,
về gặp lại thấy bồi hồi vì phố cũ vẫn như vậy chẳng đổi thay, nhật mộ hương
quan hà xứ thị, yên ba giang thượng cổ nhân sầu, sầu qua nỗi nhớ cùng con phố
ấy một thời tao đã đi lại lắm lần qua những ngôi nhà cửa đóng im ỉm như trơ gan
cùng tuế nguyệt.
Ở đấy
cũng có một quán cà phê mà gần đấy có… cái cột đèn, dường như là cái chỗ người
ta dựa lưng đợi nhau. Mà mày đang múa máy chỉ chỏ gì vậy, mày lẩm nhẩm hình như
căn nhà của cụ thầy bói mù Ba La râu tóc bạc phơ có vườn hoa giấy, chẳng phái
đâu. Thằng khỉ, thì như tao vừa nói : đó quán cà phê Thái Chi năm xửa, năm xưa
với một nhớ hai quên đấy, thưa mày. Mày còn nhớ chứ, quán là cái phòng khách
chỉ đủ chỗ cho ba bốn chiếc bàn, không có nhạc, không gì cả ngoại trừ một bức
tranh đen trắng treo trên vách được cắt ra từ một tờ báo ngoại quốc. Tranh chụp
một bàn tay giắt một em bé vai đeo cặp sách, mắt mở to, miệng mếu máo, phía
dưới có hàng chữ : “Đi học hả ? Hôm qua đã đi học rồi mà”.
Khách
đến với quán nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân, ngồi dai dẳng như muốn
dính vào tường. Mà cũng quái, không biết từ hồi nào, khách hễ vào quán cà phê
mà ngồi không lâu y như rằng, là tự nhiên cảm thấy…áy náy. Và chị thì dường như
chẳng lưu tâm đến cái chân lý bất biến này. Khách ngồi không mặc khách. Chị làm
công việc…một ngày như mọi ngày của chị. Cả hai không dính dấp gì đến nhau. Vậy
đấy.
Chị
Chi pha cà phê nhưng quen tay vần là trà xanh. Mỗi người một vẻ, như quán cà
phê ông Nhân, ông Giảng, cái này số nhà 88, cái kia số100. Quán này có rượu
rhum, bơ bretel, quán kia có cà phê…”ovaltine”. Với chị thì khác, lúc nào cũng
thế, trà được bốc một nhúm ngang lòng ấm, nước vừa độ sôi, thời gian vừa đủ,
nước trà vàng tươi, ngai ngái thơm trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh
xinh. Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng hột mít, vừa đủ
cho vài hớp nước nhỏ. Nhắp một ngụm trà, chuyện trên trời dưới đất, thóang
trông nhàn cư và thoát tục như ai.
Chẳng
mấy ai nhớ đến số nhà của quán chị Chi, chỉ biết rằng nó nằm ở con phố
nhỏ Nguyễn Phi Khanh. Ấy vậy mà cách đây mấy năm, ngày chị đi vào cõi tĩnh
mịch, có tới hơn hai trăm khách quen theo linh cữu chị để tiễn đưa. Nghĩ cho
cùng mấy ai được như vậy. Tất cả chỉ vì cái tình tri ngộ qua hình bóng lắng
đọng với cái tên thân quen, gần gũi: quán chị Chi.
oOo
Ừ thì
bằng vào tất cả những gì tao nhắc tới qua bài tản mạn này là một thóang ngày
cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ.
Mây vẫn bay, ngày vẫn trôi đi, ai chẳng có một cái quán của riêng mình còn đang
bồng bềnh ở đâu đó, nơi quê nhà.
Và
ngẫm cho cùng nếu có đi hết đất, có đi hết biển thì ai cũng chẳng có một hạt
sạn trong chiếc giầy, mới đầu chỉ bằng hạt cát, theo tuổi tác cứ lớn dần bằng
hạt đậu, hạt sỏi rồi thì to bằng quả núi Tu Di, và để rồi…một ngày : “Anh về
thăm chỗ đợi xưa – Cây cột đèn ấy hình như nhớ liền – Căn nhà có cội mai vàng –
Ngưoi ta đã đốn mở hàng cà phê”.
Ừ thì
bằng vào cái tuổi vắng gió đìu hiu này…Mấy ai chẳng một lần hòai cổ, hoài cố
quận với hoài cố nhân cùng Sài Gòn vắng những cơn mưa.
Rồi
mày cũng sẽ có một ngày…
Phí Ngọc Hùng