Văn Học & Nghệ Thuật
Phòng trà ca nhạc Sài Gòn xưa: Danh ca đất bắc thành danh ở phương nam
Năm 1967, nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) nhận tổ chức phòng trà Đêm Màu Hồng (cũng là tên một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền).
Những sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của ban
hợp ca Thăng Long đã biến phòng trà này thành nơi nổi tiếng nhất và là
nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng đầu đô thành Sài Gòn.
Hồi tưởng lại Hà Nội
Đêm Màu Hồng dùng ánh sáng màu hồng không đỏ, không chói gắt. Nhiều
người từng nói rằng đến Đêm Màu Hồng để hồi tưởng lại Hà Nội. Tiếng hát
gia đình Thăng Long đã gợi lại cho người nghe nhiều kỷ niệm êm đềm về
36 phố phường. Thăng Long là ban hợp ca điêu luyện và trình diễn sang
trọng nhất theo nhận định của giới sành nhạc. Ban này thành lập năm 1949
ở Hà Nội, gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Khánh Ngọc và Thái
Thanh. Năm 1951, họ di cư vào nam và trình diễn tại Sài Gòn đến 1975,
gắn liền với phòng trà Đêm Màu Hồng. Ban hợp ca trình bày những nhạc
phẩm bất hủ của các nhạc sĩ đã nổi danh từ thời tiền chiến, nổi bật là
Phạm Đình Chương và Phạm Duy.
Từ khi “nhập cư” Sài Gòn, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh và Thái
Hằng đã làm “nóng” các sân khấu đại nhạc hội qua các bản hợp ca vui
tươi, dí dỏm như Ngựa phi đường xa của Lê Yên, Tiếng dân chài của Phạm
Đình Chương... Họ hợp ca bản nào là bản đó nổi lên một sắc thái đậm đà
như những món gia vị bỏ vào tô phở. Có phải vì vậy mà giới ca nhạc phòng
trà đã gọi họ bằng những cái biệt hiệu thật ngộ nghĩnh: Hoài Chanh,
Hoài Ớt, Thái Tiêu, Thái Hành.
Người đến Đêm Màu Hồng nhận xét Thái Thanh là giọng ca không có
tuổi, giọng hát ca dao tình tự đã làm rung động nhiều lớp người. Trong
số những người rung động về thanh và sắc của Thái Thanh có nhà văn M.T.
Ông đã viết bài ca ngợi Thái Thanh và si mê nữ danh ca ấy. Chẳng may,
nhà văn đã bị Lê Quỳnh - chồng của Thái Thanh - đánh tại phòng trà Đêm
Màu Hồng, gây ra dư luận một thời.
Tam ca nữ nổi danh
Ngoài ban hợp ca Thăng Long, còn có ban tam ca Đông Phương là ban
tam ca độc quyền của Đêm Màu Hồng. Đây là ban tam ca nữ đầu tiên hát
nhạc dân ca ba miền nên nổi tiếng rất nhanh. Khi thành lập, những cô gái
trong ban tam ca đã xác định “đường lối” là chỉ trình bày những nét
tinh anh của dân ca cổ truyền bằng nghệ thuật hòa âm hiện đại. “Một
hướng đi khác lạ khi năm 1971 nhạc nước ngoài gần như xâm chiếm thị
trường âm nhạc cộng với những bài ca được ra đời trong tình trạng đẻ non
thiếu tháng. Phong trào du ca và dân ca thì lại quá nhỏ hẹp”, tác giả
Ngọc Hoài Phương viết trong tờ Kịch ảnh số 457. Mỗi đêm tại phòng trà
Đêm Màu Hồng họ đều hát ít nhất ba bài dân ca của ba miền Bắc - Trung -
Nam. Quan họ Bắc Ninh xen với một bài Lý con sáo xứ Quảng và bài Lý con
quạ miền Nam. Ba cô đều mặc áo dài, khăn đóng trông rất nền nã. Ban tam
ca này có vốn liếng là 50 bài dân ca đã soạn sẵn hòa âm. Sự thành công
của ban tam ca một phần là nhờ công của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu soạn hòa
âm trên 20 bài.
Ban tam ca Đông Phương có lối trình diễn độc đáo nên cũng có một số
khán giả chọn lọc. Phần lớn khán giả tới nghe dân ca là nghệ sĩ, giới
trí thức, sinh viên. Nói chung là giới có trình độ thưởng ngoạn cao.
Đầu tiên là giọng ca Hồng Vân - tiếng hát của một cô gái miền
Trung, giọng thanh, trong, thường giữ bè chính, luôn đứng giữa khi trình
diễn. Ngoài giờ ca hát, cô là công chức tại Trung tâm học liệu Bộ Giáo
dục. Hồng Vân tự học nhạc từ nhỏ. Năm 1967 bắt đầu ngâm thơ và hát ở đài
phát thanh, truyền hình. Thoạt đầu cô là biên tập viên của đài phát
thanh, thử hát chơi trong chương trình nhạc chủ đề của Vũ Đình Toàn và
Vũ Thành An. Năm 1968, nhạc sĩ Hùng Lân từ Mỹ về đang có khuynh hướng
phát triển dân ca, dân nhạc nên đã hướng dẫn Hồng Vân vào con đường nhạc
dân ca. Lúc ấy, ngoài giờ hát với ban tam ca, khi lên hát trên ti vi,
cô cũng chọn hát dân ca - con đường đi riêng của mình cho đến sau năm
1975, giọng hát này vẫn không gì thay đổi.
Kế đến là Tuyết Hằng - ca sĩ người miền Nam, giọng nữ cao. Tên thật
là Nguyễn Thị Quyên, vợ của Nguyễn Cao Hoàn (nhạc sĩ cố vấn cho ban tam
ca). Xuất thân từ Trường Quốc gia âm nhạc nhưng cô đi hát chỉ là nghề
phụ vì công việc chính là xướng ngôn viên đài phát thanh.
Sau cùng là giọng ca Thu Hà - một giọng trầm đặc biệt. Cô có tên
thật là Nguyễn Thị Minh Nguyệt, con gái Hà Nội. Học nhạc với các sơ
Trường Notre Dame des Missions Thanh Hóa, khi di cư vào nam học nhạc với
Hùng Lân. Thu Hà đi hát chỉ là nghề phụ vì còn là một cô giáo.
Mặc dầu có hai ban hợp ca thuộc loại đình đám, không đụng hàng như
vậy nhưng nhạc sĩ Hoài Bắc đã cho chương trình thay đổi bằng ban tứ ca
“Bốn anh em nhà Dalton” với Ngọc Thi, Nhật Bằng, Hoài Trung và Hoài
Khanh. Họ trình diễn những bản nhạc ngoại quốc vui nhộn, trẻ trung đem
đến cho Đêm Màu Hồng một không khí mới lạ.
Lê Văn Nghĩa
Bàn ra tán vào (0)
Phòng trà ca nhạc Sài Gòn xưa: Danh ca đất bắc thành danh ở phương nam
Năm 1967, nhạc sĩ Hoài Bắc (Phạm Đình Chương) nhận tổ chức phòng trà Đêm Màu Hồng (cũng là tên một ca khúc mà ông phổ nhạc từ thơ của Thanh Tâm Tuyền).
Những sáng tác nổi danh của ông và sự trình diễn điêu luyện của ban
hợp ca Thăng Long đã biến phòng trà này thành nơi nổi tiếng nhất và là
nơi tụ tập của những nghệ sĩ hàng đầu đô thành Sài Gòn.
Hồi tưởng lại Hà Nội
Đêm Màu Hồng dùng ánh sáng màu hồng không đỏ, không chói gắt. Nhiều
người từng nói rằng đến Đêm Màu Hồng để hồi tưởng lại Hà Nội. Tiếng hát
gia đình Thăng Long đã gợi lại cho người nghe nhiều kỷ niệm êm đềm về
36 phố phường. Thăng Long là ban hợp ca điêu luyện và trình diễn sang
trọng nhất theo nhận định của giới sành nhạc. Ban này thành lập năm 1949
ở Hà Nội, gồm Hoài Bắc, Hoài Trung, Thái Hằng, Khánh Ngọc và Thái
Thanh. Năm 1951, họ di cư vào nam và trình diễn tại Sài Gòn đến 1975,
gắn liền với phòng trà Đêm Màu Hồng. Ban hợp ca trình bày những nhạc
phẩm bất hủ của các nhạc sĩ đã nổi danh từ thời tiền chiến, nổi bật là
Phạm Đình Chương và Phạm Duy.
Từ khi “nhập cư” Sài Gòn, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh và Thái
Hằng đã làm “nóng” các sân khấu đại nhạc hội qua các bản hợp ca vui
tươi, dí dỏm như Ngựa phi đường xa của Lê Yên, Tiếng dân chài của Phạm
Đình Chương... Họ hợp ca bản nào là bản đó nổi lên một sắc thái đậm đà
như những món gia vị bỏ vào tô phở. Có phải vì vậy mà giới ca nhạc phòng
trà đã gọi họ bằng những cái biệt hiệu thật ngộ nghĩnh: Hoài Chanh,
Hoài Ớt, Thái Tiêu, Thái Hành.
Người đến Đêm Màu Hồng nhận xét Thái Thanh là giọng ca không có
tuổi, giọng hát ca dao tình tự đã làm rung động nhiều lớp người. Trong
số những người rung động về thanh và sắc của Thái Thanh có nhà văn M.T.
Ông đã viết bài ca ngợi Thái Thanh và si mê nữ danh ca ấy. Chẳng may,
nhà văn đã bị Lê Quỳnh - chồng của Thái Thanh - đánh tại phòng trà Đêm
Màu Hồng, gây ra dư luận một thời.
Tam ca nữ nổi danh
Ngoài ban hợp ca Thăng Long, còn có ban tam ca Đông Phương là ban
tam ca độc quyền của Đêm Màu Hồng. Đây là ban tam ca nữ đầu tiên hát
nhạc dân ca ba miền nên nổi tiếng rất nhanh. Khi thành lập, những cô gái
trong ban tam ca đã xác định “đường lối” là chỉ trình bày những nét
tinh anh của dân ca cổ truyền bằng nghệ thuật hòa âm hiện đại. “Một
hướng đi khác lạ khi năm 1971 nhạc nước ngoài gần như xâm chiếm thị
trường âm nhạc cộng với những bài ca được ra đời trong tình trạng đẻ non
thiếu tháng. Phong trào du ca và dân ca thì lại quá nhỏ hẹp”, tác giả
Ngọc Hoài Phương viết trong tờ Kịch ảnh số 457. Mỗi đêm tại phòng trà
Đêm Màu Hồng họ đều hát ít nhất ba bài dân ca của ba miền Bắc - Trung -
Nam. Quan họ Bắc Ninh xen với một bài Lý con sáo xứ Quảng và bài Lý con
quạ miền Nam. Ba cô đều mặc áo dài, khăn đóng trông rất nền nã. Ban tam
ca này có vốn liếng là 50 bài dân ca đã soạn sẵn hòa âm. Sự thành công
của ban tam ca một phần là nhờ công của nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu soạn hòa
âm trên 20 bài.
Ban tam ca Đông Phương có lối trình diễn độc đáo nên cũng có một số
khán giả chọn lọc. Phần lớn khán giả tới nghe dân ca là nghệ sĩ, giới
trí thức, sinh viên. Nói chung là giới có trình độ thưởng ngoạn cao.
Đầu tiên là giọng ca Hồng Vân - tiếng hát của một cô gái miền
Trung, giọng thanh, trong, thường giữ bè chính, luôn đứng giữa khi trình
diễn. Ngoài giờ ca hát, cô là công chức tại Trung tâm học liệu Bộ Giáo
dục. Hồng Vân tự học nhạc từ nhỏ. Năm 1967 bắt đầu ngâm thơ và hát ở đài
phát thanh, truyền hình. Thoạt đầu cô là biên tập viên của đài phát
thanh, thử hát chơi trong chương trình nhạc chủ đề của Vũ Đình Toàn và
Vũ Thành An. Năm 1968, nhạc sĩ Hùng Lân từ Mỹ về đang có khuynh hướng
phát triển dân ca, dân nhạc nên đã hướng dẫn Hồng Vân vào con đường nhạc
dân ca. Lúc ấy, ngoài giờ hát với ban tam ca, khi lên hát trên ti vi,
cô cũng chọn hát dân ca - con đường đi riêng của mình cho đến sau năm
1975, giọng hát này vẫn không gì thay đổi.
Kế đến là Tuyết Hằng - ca sĩ người miền Nam, giọng nữ cao. Tên thật
là Nguyễn Thị Quyên, vợ của Nguyễn Cao Hoàn (nhạc sĩ cố vấn cho ban tam
ca). Xuất thân từ Trường Quốc gia âm nhạc nhưng cô đi hát chỉ là nghề
phụ vì công việc chính là xướng ngôn viên đài phát thanh.
Sau cùng là giọng ca Thu Hà - một giọng trầm đặc biệt. Cô có tên
thật là Nguyễn Thị Minh Nguyệt, con gái Hà Nội. Học nhạc với các sơ
Trường Notre Dame des Missions Thanh Hóa, khi di cư vào nam học nhạc với
Hùng Lân. Thu Hà đi hát chỉ là nghề phụ vì còn là một cô giáo.
Mặc dầu có hai ban hợp ca thuộc loại đình đám, không đụng hàng như
vậy nhưng nhạc sĩ Hoài Bắc đã cho chương trình thay đổi bằng ban tứ ca
“Bốn anh em nhà Dalton” với Ngọc Thi, Nhật Bằng, Hoài Trung và Hoài
Khanh. Họ trình diễn những bản nhạc ngoại quốc vui nhộn, trẻ trung đem
đến cho Đêm Màu Hồng một không khí mới lạ.
Lê Văn Nghĩa