Thân Hữu Tiếp Tay...
QUÊ TÔI - Anh Phương Trần Văn Ngà
Tuổi
thơ của tôi được rong chơi trên đồng ruộng bao la cò bay thẳng cánh và
thường bơi lội hay ngồi trên ghe xuồng nổi trôi trên dòng kinh Vĩnh Tế
nhiều cá tôm suốt 12 năm thời thơ ấu, cách đây hơn 78 năm. Nay chỉ còn
lưu dấu nhớ thương, hoài niệm trong ký ức của một người con của của ấp
Bà Bài năm xưa.
Quê Tôi - Ấp Bà Bài là nơi tiêu biểu, đầu sóng ngọn gió của lũ lụt ở toàn vùng nước ngập định kỳ ở miền Tây Việt Nam. Cứ sáu tháng mùa khô, sáu tháng mùa nước, một nơi nằm sát biên giới Miên-Việt.
Tôi có nhiều dịp viết về Quê Tôi sông nước hữu tình, người dân chất phát thật thà, có cuộc sống an nhiên tự tại được trời đất ưu đãi không lo cho cái ăn, chỗ nào có nước là có cá. Không có ruộng riêng chỉ đến mùa gặt, một người đi "mót lúa" chừng vài tuần cũng thừa nuôi sống gia đình về lúa gạo cả năm.
Quê tôi, ấp Bài Bài, cái ấp ít dân nhứt cũng là cái ấp ở xa, ấp cuối của xã Vĩnh Nguơn - giáp giới với xã Nhơn Hưng (quận Tịnh Biên) - thuộc quận Châu Phú, Châu Đốc. Cả xã Vĩnh Nguơn (dài gần 20 km) là vùng địa đầu biên giới với xứ Chùa Tháp Kampuchia.
Kinh Vĩnh Tế, từ nơi xuất phát, bờ Tây sông Châu Đốc (phụ lưu sông Hậu) là tỉnh lỵ Châu Đốc chạy đến quận Giang Thành (Hà Tiên - Kiên Giang) là điểm cuối cùng của con kinh (87 cây số). Thời xa xưa, hai bờ kinh, nhà cửa thưa thớt cũng lập thành được 5 xã đầu tiên: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế (thuộc quận Châu Phú - Châu Đốc), Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông (thuộc quận Tịnh Biên - Châu Đốc).
Đầu kinh Vĩnh Tế, bên bờ phải, có trụ sở xã Vĩnh Nguơn và đình làng, trường học, một chợ nhỏ họp vào buổi sáng sớm. Xã Vĩnh Nguơn có hai hướng, một hướng chạy dọc bờ sông Hậu đi ngược lên đất nước Kamphuchia, chừng 5 cây số và một hướng chạy dọc bên phải bờ phải kinh Vĩnh Tế hướng về quận Tịnh Biên, dài 15 cây số. Ấp Bà Bài toạ lạc từ cây số 8 hay 9 - một vùng đất trống, chỉ có một cái nhà. Và một vùng đất cao rộng lớn sát vòng rào với chùa Bồng Lai là khu "đất cúng" (nghĩa địa) ở cây số thứ 10.
Từ xa xưa và mãi sau này đến năm 1947, Ấp Bà Bài dân cư vẫn thưa thớt chỉ có trên dưới một trăm "nóc gia" được dựng lên trên một khoảng đất, ở trên bờ kinh dài bốn năm cây số và giáp với biên giới Miên Việt, chỉ cách kinh Vĩnh Tế, trung bình một cây số rưỡi.
Con kinh Vĩnh Tế trước năm 1975 làm gì có cây xanh um tùm như trong hình trên đầu bài vì có đến 6 tháng nước dâng cao nhận chìm bờ kinh, nền nhà thường ngập trên 2 mét và đồng ruộng chìm sâu dưới nước trên dưới 4 mét, cây cối không "trụ" nổi, chỉ có chùa Bồng Lai là có nhiều cây cổ thụ và cây ăn trái vì ở trên thế đất cao nhất của ấp.
Trước năm 1975, ấp Bà Bài là vùng đất oanh kích tự do cho nên chùa Bồng Lai đẹp đẻ đồ sộ và nhiều cây to đều bị chiến tranh tàn phá. Từ xa xưa cho đến lúc tôi ra đời năm 1935, bấy giờ, dân làng chỉ có biết làm ruộng mỗi năm có một vụ mùa vì chuyên canh lúa sạ có tên là "Nàng Tây", sau này có lúa Thần Nông. Vì vậy, đời sống dân chúng không quá sung túc, thiếu tiện nghi sinh hoạt công cộng. Nhưng, người dân lại khá nhàn hạ vì lúa sạ không phải luôn chăm sóc, bón phân làm cỏ như lúa cấy. Dù năng xuất thu hoạch thấp, nhưng lại canh tác nhiều nên không bao giờ lo thiếu lúa gạo, thực phẩm cá tôm, rùa rắn lươn, chim, chuột... có quanh năm thừa nuôi sống gia đình.
Người dân trong ấp, có nhiều thì giờ vui chơi giải trí, cờ bạc, nhậu nhẹt lu bù và bộ môn văn hoá miệt vườn "Đờn Ca Tài Tử" có cơ may phát triển mạnh suốt chiều dài của con kinh Vĩnh Tế và lan toả các làng xã lân cận.
Quê tôi còn có đặc điểm là tất cả mọi nhà của cư dân không có hàng rào bao quanh và nhà này cách nhà kia cả trăm mét, nhà không có cửa, không cần đề phòng rủi ro mất trộm. Cả ấp Bà Bài, hồi còn bé, tôi biết rõ chỉ có ba nhà có cửa, tối cửa cũng đóng mà lại không có cài then khoá lại. Ngôi nhà thứ nhứt cạnh nhà tôi cách một khoảng đất trống khá rộng gần trăm mét là nhà Ông Chín, thầy thuốc Bắc, ông là em ruột của Bà Nội tôi. Cái nhà thứ hai là nhà của Bác bảy Trực (dòng họ Kha) cũng đồ sộ như nhà ông Chín, ở vùng trên cách xa nhà tôi cả cây số, Bác là thầy giáo của trường tiểu học Nhà Bàn (xã Thới Sơn). Cái nhà thứ ba là nhà sàn có cửa nẽo chắc chắn, có cài then cẩn thận ban đêm vì là quán chạp phô duy nhứt của ấp nên phòng xa. Đó là quán của cô Hai, con gái đầu lòng của ông bà Chín, gần sát nhà cha mẹ. Còn gia đình tôi có nhiều anh em, nên nhà cũng khá to, rộng trên dưới 8 mét, dài gần 20 mét (thuộc loại nhà ba gian hai chái), nền đất, được đấp cao hơn mặt ruộng gần 2 mét. Nội thất, vào nhà thấy có ba tủ thờ đều có trưng bày lư, bình cắm nhang, đèn dùng dầu dừa. Tủ lớn nhứt ở giữa nhà có cẩn "xa cừ", hai bên tủ thờ nhỏ hơn. Trước ba tủ thờ, có hai bộ ván gõ, chiều dày hơn một tấc, luôn láng bóng dành cho ông Bà Nội. Phần sau tủ thờ, có hai buồng ngủ cửa buồng chỉ dùng màng, không cửa, vách xung quanh cũng có che chắn bằng những "tấm phên" tre dành cho ba má tôi, hai chị và cô em gái tôi ở chung một buồng. Ở giữa hai buồng ngủ cũng có một bộ ván gỗ tạp dành cho anh Bảy và tôi, hai chàng đực rựa. Phía sau cùng, một nhà bếp rất rộng cao, còn dùng làm chỗ ăn cả gia đình. Nhà bếp cao vì ba bốn bếp đều dùng củi cũng tránh được "tàn lửa" dễ gây cháy vì nhà toàn lợp lá và vách lá. Mỗi năm, Ba tôi ra kiểu cho mấy người làm công đóng hai cái bàn vuông bằng gỗ tạp chỉ dùng mấy tháng ở Bà Bài, ở trại ruộng cũng có bàn ăn y chang như vậy. Một bàn dài có thể ngồi dùng bữa cả hai chục người và một cái bàn vuông dài nhỏ dành cho những người trưởng thượng như Ông Bà Nội, Ba Má tôi hay có thêm khách... Hai bàn nối tiếp nhau. Mọi người kể cả các người giúp việc, làm công ăn cùng lúc với gia đình rất bình đẳng, không phân chia giai cấp chủ tớ.
Sở dĩ Ba tôi không cất nhà kiên cố, tránh ngập nước chỉ thêm tốn kém vì gia đình chúng tôi thường ở trên "trại ruộng" (trên đất Miên) khoảng 6 tháng, nhà ờ Bà Bài chỉ có ông bà Nội tôi ở quanh năm.
Đến mùa khô, vách lá chỗ nào hư, mất được thay thế hàng năm vì mùa nước nổi, cả nền nhà cũng đều bị ngập trên dưới 2 mét. Tất cả mọi đồ dùng trong nhà phải kê lên cao, còn đồng ruộng bị nhận chìm sâu đến ba bốn thước nước và lúa sạ là giống chịu nước, sống theo nước lên xuống (tiếng Pháp gọi le riz flottant - lúa nổi)
Theo truyền thuyết, tổ tiên lưu truyền lại cho các thế hệ kế thừa, một đại gia đình (Bà Bài) có trên dưới hai ba mươi người từ vùng quê của Tướng Quân Nguyễn Văn Thoại (vùng Sơn Trà - Đà Nẳng), theo chân đoàn quân của Ngài sau khi đào xong con kinh Vĩnh Tế (1819-1824), rộng trung bình 30 mét và chiều dài 87 cây số, sâu 2 mét 55. Gia đình Bà Bài vào vùng đất mới tha hồ mà khai thác mở mang diện tích thâm canh lúa cũng như chăn nuôi với đồng cỏ bạt ngàn và ao đìa, bàu, rạch chỗ nào có nước là có cá và tha hồ nuôi vịt, heo, bò... Thức ăn cho người và gia súc có thiên nhiên lo hết. Thế là ấp Bà Bài là một Thiên đàng nho nhỏ ở hạ giới. Ấp Bà Bài chỉ thiếu hạ tầng phục vụ cộng đồng như trường học, bịnh xá, chợ...
May Mắn cho ấp Bà Bài lại có một ngôi chùa, khi xưa dù nhỏ không đồ sộ "hoành tráng" như nhiều ngôi chùa trong tỉnh mà lại là ngôi chùa nổi tiếng về mặt tâm linh đạo giáo của tín hữu Bửu Sơn Kỳ Hương. Tên chùa "Bà Bài" và có tên khác là chùa Bồng Lai (Bồng Lai tự) do ông Đạo Lập (Phạm Thái Chung - một trong 12 đại đồ đệ của Đức Phật Thầy An) dựng xây từ năm 1861. Mục đích chính của việc xây chùa là chỗ tu tập của tín hữu Bửu Sơn Kỳ Hương và dân làng cũng là nơi "độ bệnh" (trị bịnh) và truyền bá tư tưởng, tinh thần yêu nước của người công dân chống giặc ngoại xâm.
Chùa Bà Bài cũng là nơi đặt Dinh Ông Thẻ số 3 trong 5 Dinh Ông Thẻ mà có tin loan truyền là nơi trấn yếm của Tổ Tiên ta chống lại quân xâm lược cướp nước (ý nói là quân Tàu trước, quân Tây đô hộ sau). Chùa Bà Bài (Bồng Lai Tự) nổi tiếng cả miền Tây.
Ấp Bà Bài được thiên nhiên ưu đãi cho cuộc sống, dân tình không tham lam, trộm cắp. Nếu nhà nào lở thiếu gạo hay thức ăn thì lại các nhà khá giả hơn xin mà không mua hay mượn gì cả. Đó là tình nghĩa đồng bào, sự giúp đở cao đẹp của người dân ấp Bà Bài thời xa xưa.
Hàng năm, Ba tôi thường có tổ chức các cuộc đua xe bò vào mùa khô nắng ráo giữa bum sóc Miên ở quận Gòi Tà Lập thuộc tỉnh Tà Keo, với người dân của ấp, cách Bà bài chừng bảy tám cây số. Ngoài ra, vào mùa xuân có hàng chục cuộc đá gà do Ba tôi tổ chức có đãi cơm miễn phí cho người tham dự. Những phái đoàn Miên của nhiều phum sóc ở tỉnh Tà Keo đem gà xuống ấp Bà Bài đấu, đều có chỗ ở đàng hoàng, Ba tôi còn lo luôn khâu ẩm thực của khách phương xa. Ba tôi thông báo các lò gà cách xa hai ba mươi cây số, từ Tân Châu, Mỹ Đức, Núi Sam, Nhà Bàn, Tịnh Biên hay xa hơn nữa mang gà đến đấu những trận "Đá Gà Quốc Tế". Người Việt tìm chỗ nghỉ ngơi ăn uống dễ dàng, vì thế Ba tôi để các chủ gà Việt tự lo lấy. Mỗi lần có cuộc đá gà quốc tế thường kéo dài bốn ngày. Ngày khai mạc có vợ chồng ông Quận Trưởng Gòi Tà Lập - Tà Keo và quan chức của quận hoặc của tỉnh đến tham dự. Phái đoàn quốc tế Miên thường sử dụng ba bốn thớt voi và hàng chục xe bò chở người và gà đi băng qua cánh ruộng khô khốc chừng bảy tám cây số. Chỉ riêng ông bà Quận Trưởng có mang theo cả một phòng ngủ được lấp ráp sát cạnh nhà tôi, còn những người khác thì vào ở chung một nhà dài có sạp bằng tre và ai cũng phải mang theo mùng, còn các cái khác Ban Tổ Chức lo hết.
Ngày đầu, Ba tôi làm một con bò và một con heo và mấy chục ký cá lóc nướng trui đãi khách. Ba ngày sau mỗi ngày làm một con bò hoặc một con heo làm thức ăn. Ban ngày chơi đá gà nhiều lắm có bốn năm hay đến 6 "độ". Ban đêm còn chơi cờ bạc, lô tô đến 11 giờ khuya phải nghỉ ăn cháo và ngủ dưỡng sức dành cho ngày hôm sau.
Ba tôi nói tiếng Miên như người Miên nên ông Quận Trưởng Gòi Tà Lập lại càng quý mến thường xuống trại ruộng của Ba tôi trên đất Miên ăn nhậu cả ngày chủ nhựt. Lần đầu tiên đến ấp Bà Bài, ông dự lễ khai mạc xong ở lại qua đêm, sau bữa ăn trưa hôm sau, ông bà Quận Trưởng và đoàn tuỳ tùng ra về với hai thớt voi và vài chiếc xe bò. Hai thớt voi, số xe bò còn lại mãi trưa ngày thứ tư mới rời ấp Bà Bài. Ngày khai mạc trận "Đá Gà Lịch Sử" Ba tôi rất tinh tế mời thêm nhiều vị Thông phán của tỉnh và hai ông Quận Trưởng Châu Phú Tịnh Biên và nhiều vị hương chức Hội Tề cùng đến tham dự và vui chơi với dân ấp Bà Bài.
Ngoài những trò vui chơi trên đất liền khô ráo, Ba tôi còn hào sản "chịu chơi", ông có đóng vài chiếc ghe đua (8 hay 12 chèo) xuồng đua (6 dầm hay 10 dầm). Thỉnh thoảng vào dịp Tết, lúc thợ cày bừa ngơi nghỉ hay những ngày lễ lớn của Chùa Bồng Lai, ông tổ chức xuồng ghe đua biểu diễn suốt dọc hai bờ kinh của ấp Bà Bài. Đó cũng là hình thức ông giúp cư dân ấp Bà Bài và khách vãng lai có thêm giải trí môn đua ghe xuồng độc đáo, cả tỉnh Châu Đốc không nơi nào có (đặc biệt ngày 30.9 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ ông Đạo Lập, người khai mở xây dựng Chùa Bà Bài. Ngày huý kỵ này được tổ chức vô cùng "hoành tráng" hơn các ngày Lễ khác).
Quê hương, chỗ chôn nhau cắt rốn, mỗi người chỉ có một, là "chùm khế ngọt" ôm ấp cả cuộc đời tuổi thơ, bé bỏng. Tôi theo gia đình lìa xa ấp Bà Bài từ năm 1947, lúc bấy giờ tôi vừa tròn 12 tuổi. Khi tản cư "chạy giặc" ra sống ở châu vi đạo Cao Đài, gần trường Nam Tiểu học tỉnh lỵ Châu Đốc. Tôi chưa học lớp một lớp hai vì vùng quê tôi không có trường học, trạm y tế, chợ búa hay bất cứ tiện nghì phục vụ cho cộng đồng dân quê. Tôi học chữ nho trước do ông Nội dạy và học tại chùa Bồng Lai do ông đạo Ba, trụ trì, cùng trang lứa với Ba tôi mà tôi gọi là Bác Ba, chỉ dạy. Còn học chữ quốc ngữ, Ba tôi có nhờ một gia sư, vợ của một ông hoạt động chánh trị ở tỉnh Sa Đéc bị mật thám Pháp tìm bắt. Hai ông bà trốn tránh "tá túc" nhà Ba tôi và anh em chúng tôi bốn người mới có cơ may học chữ quốc ngữ hơn một năm.
Ấp Bà Bài vô cùng may mắn có ông đạo Lập, tu tại vùng Thất Sơn, về ấp Bà Bài, thấy có vùng đất cao, cạnh bên là "đất cúng" (nghĩa địa của ấp), dân không dám cất nhà ở gần, đầu ấp. Thế là ông đạo Lập ra sức vận động kêu gọi thập phương bá tánh ở làng ấp gần Bà Bài cùng xây dựng một ngôi chùa lá trên một nền đất được đấp cao hơn mực nước dâng cao mùa nước nổi. Ban đầu, có năm nước ngập cả nền nhà chùa, chánh điện. Vì vậy cứ mỗi năm phải đấp thêm đất, ban đầu chỉ lo đấp cho cao thêm chánh điện. Từ từ đấp đất cho cho thêm cao cả sân chùa. Lúc này có nhiều tín hữu thập phương xuôi người dòng kinh Vĩnh Tế buôn bán từ Châu Đốc đến quận Giang Thành thuộc tỉnh Hà Tiên (sau này thuộc tỉnh Kiên Giang) thường ghé chiêm bái cúng dường.
Năm 2005, cũng có thể nói lần chót của tôi trong cuộc đời này còn trên thế gian, bốn anh chị em cuối cùng của dòng họ Trần về thăm quê Bà Bài. Bốn anh chị em chúng tôi, anh Bảy, em gái út ở Thành phố Châu Đốc, chị Chín từ Tây Ninh và tôi từ Mỹ mới về vài ngày. Chúng tôi vô cùng hân hoan và có nhiều cảm xúc về thăm lại quê Bà Bài thân thương sau mấy chục năm xa quê, từ năm 1947. Đến nay, bốn anh chị em cuối của dòng Trần ấp Bà Bài, bây giờ chỉ còn mình tôi và cũng có thể nói, tôi là người cao tuổi nhứt của dòng họ gia tộc Trần sanh trưởng tại ấp Bà Bài còn sống sót sau bao thăng trầm khổ luỵ của cuộc đời.
Chiều rộng Kinh Vĩnh Tế đã trải qua thời gian dài trên 200 năm, giòng nước chảy siết khi đến mùa nước nổi, làm sói mòn và sạt lở hai bờ kinh, có nơi rộng gần gấp đôi và độ sâu có nơi có thể nong hay sâu hơn nhiều so với lúc ban đầu kinh Vĩnh Tế được sử dụng.
Nói về quê Bà Bài, tới mùa nước nổi (từ giữa tháng 5 đến hết tháng 10 âm lịch) ấn tượng thấm sâu mãi mãi vào tâm trí tôi là nơi có nhiều cá tôm rùa rắn lươn, chim trời và cả chuột đồng mập ú... H: Từ trái sang phải: chị Chín, em út, tôi (thứ 10) và anh Bảy.
Tôi được sanh trong một gia đình đông con, sau tôi còn có hai em đều sanh trưởng tại ấp Bà Bài. Anh chị và hai em tôi đã ra đi về quê ấp Bà Bài từ lâu gặp lại ông bà cha mẹ, chỉ còn mình tôi và gia đình ở xa hơn nửa vòng trái đất. Ngày trở về cố hương của tôi chắc chắn sẽ không còn xa như một bản nhạc "Hỏi ai có bao giờ không trở về cát bụi đâu"?
Nhắc đến quê tôi - Ấp Bà Bài là phải đề cập đến ba thứ đặc trưng là có nhiều cá tôm, chuyên canh lúa sạ và cái đặc trưng thứ ba, dù người dân còn nghèo không có trường học mà luôn yêu thương giúp đỡ coi như cùng một gia đình và đặc biệt là không gian tham trộm cắp...
Về cá tôm, đến cuối mùa nước nổi sắp "giựt" xuống, nước đứng không còn lưu thông chảy mạnh, chừng một hai tuần, trong đồng ruộng nước có màu nâu chảy, đổ ra kinh, sông lớn gọi là "nước thúi". Thời gian đó, cá khờ, lừ đừ từ đồng tràn ra kinh Vĩnh Tế, các loại "cá trắng" như cá linh, lòng tong, thiểu, mại, cá chốt ... nổi trên mặt nước đầy kinh Vĩnh Tế vài tuần, cũng là thời điểm bắt cá dễ dàng và nhiều vô số kể. Lúc bấy giờ, các nền nhà, đường làng cũng đã khô ráo báo hiệu mùa cá tôm chính thức bắt đầu, dân chúng tha hồ mà bắt cá làm mắm làm khô, nước mắm... Bắt cá có thể không dùng dụng cụ như đặt lờ, lọp, đáy, vó càng vó gạt... có dụng cụ phương tiện sẽ bắt được nhiều cá kể cả cá lớn, tôm... Còn không có dụng cụ chỉ dùng một bàn tay với cá linh nướng trong lòng bàn tay cũng bắt được cả thùng thiếc cá chốt mất chừng trên dưới hai tiếng.
Một đứa nhỏ như tôi lúc bảy tám tuổi, bắt cá chốt bằng tay cũng bắt được nhiều cá mà phải ngồi trên xuồng và xuồng có chứa nhiều nước làm cho xuồng chìm xuống, be xuồng cách mặt nước chừng 2 tấc để dễ đưa cá vào xuồng. Dùng mồi cá linh nướng dụ cá chốt, chúng bu quanh đưa râu lên, tôi chỉ nắm râu cho vào xuồng, râu cá rất trơn nhớt và tay lại có mỡ cá nướng nên nắm râu không chặt phải có động tác thật nhanh mới đưa được cá vào xuồng. Tay phải nhanh thoăng thoắt như cái máy hoạt động liên tục, mỗi lần nắm râu thường chỉ một con, thỉnh thoảng hai hoặc ba con cũng bị nắm râu cùng một lúc. Bắt cá chốt bằng cách nắm râu cũng khá vất vả, mỏi lưng, mỏi tay và bị muỗi tha hồ đốt vì bắt cá chốt bằng tay lúc trời nhá nhem tối có trăng non hay dùng đèn dầu cá để trong xuồng chỉ có luồng ánh sáng yếu lờ mờ mới bắt được cá, sáng quá cá cũng không dám lại ăn mồi cá nướng. Với tuổi trẻ thơ, trên dưới nửa tiếng ngồi bắt cá chốt đã mệt nhoài, tôi lên bờ nghỉ, mang cá cho người nhà làm liền.
Các chị hay người giúp việc dùng đầu và ruột cá chốt nấu cho sôi khuấy tan để nguội, tôi dùng nước nấu này cũng bắt cá chốt bằng cách khác. Dưới bờ kinh trước nhà đã có sẵn hàng chục lổ đào dài chừng bảy tám tấc, ngang chừng hơn ba tấc, nước lớn ngập hố chừng hai ba tấc là lúc thích hợp nhứt, tôi múc nước nấu đầu ruột cá cho vào các hố đào, nhử cá vào ăn mồi. Khi thấy râu cá chốt ngo ngoe trên mặt nước là lúc tôi dùng cái rổ miệng rộng đủ chận kín miệng hố và hạ thấp xuống gần ngang mặt nước, tay dùng một cây que khua nước trong hố cho cá chạy ra và thật nhanh đưa rổ lên có hàng mấy chục con cá chốt và vài loại cá nhỏ khác. Hết hố này sang hố khác, cách nhau chục thước, đi qua một vòng chừng năm bảy hố và trở lại tua thứ hai cũng bắt được nhiều cá chốt cỏ cả cá linh, lòng tong và nhiều cá trắng nhỏ khác, chỉ mất trên dưới một giờ cũng bắt cá cả thùng thiếc (20 lít tương đương 20 kg).
Có nhiều cách bắt cá khác của người lớn dùng lưới, chài, vó càng, vó gạc, xây rọ, tát đìa, giở chà... bắt đủ loại cá lớn nhỏ kể cả tôm. Các ông "sa viên" làm ăn lớn bắt cá bằng cách dùng vó gạc, đáy hay xây rọ bắt cá tính bằng tấn hàng chục, trăm tấn nếu trúng mùa. Có năm cá linh nhiều quá, người ta kéo đáy lên, không có ghe mua làm nước mắm ở các nơi xa đến hay trong nhà không còn đồ dùng chứa cá linh làm mắm, đành phải đổ cá lên bờ kinh phơi làm phân để bón cây trồng, hoa màu nhứt là cây thuốc lá rất thích hợp với phân cá.
Còn cách bắt cá he bằng cách ngâm hột bông gòn cả đêm cho nó thấm nước không còn nhẹ dễ trôi. Chị dâu tôi dùng hột bông gòn đã ngâm nước, bơi xuống ra ruộng lúa hay đồng cỏ sum suê gần nhà, vạch lúa hay cỏ tạo thành một lổ trống chừng 6 tấc vuông, thả hột bông gòn làm mồi nhử cá he, mỗi lỗ cách nhau chừng hơn 10 mét. Chỗ nào hết hột bông gòn là chỗ đó có cá he, xuồng bơi lại đậu gần, thả tiếp hột bông gòn, cá he lại tiếp tục ăn là lúc câu cá he cũng bằng mồi hột bông gòn. Mỗi lổ, câu được chừng năm bảy con hay câu cá bị sẩy, cá sợ chỗ đó cá he không còn. Bơi xuồng đến chỗ khác với cách câu đó cũng được năm bảy con. Một buổi trưa nắng mất vài tiếng chị dâu tôi cũng câu đươc vài chục con cá he to béo ngậy.
Bọn trẻ chúng tôi có cách câu cá rô bằng trứng kiến vàng, mỗi đứa ngồi trên cành cây cà na, rung cây cho kiến rớt xuống nước là mồi nhử cá rô. Đến mùa cá rô nhiều vô số kể, cá bu lại đớp mồi, chúng tôi thả câu xuống có mồi kiến vàng, cá rô rất thích, đớp mồi liền. Chúng tôi câu cá rô giựt mỏi tay chừng hơn nửa tiếng cũng có vài chục con.
Tôi còn nhớ mãi, năm 9 tuổi, một trưa nắng gắt, mấy người làm công còn say ngủ, tôi lấy cây "xà búp" ba mũi có ngạnh, xuống xuồng bơi ra cái tum gần sau nhà, cách chừng ba bốn chục mét. Tôi leo lên tum cũng nằm tum đâm cá bông như người lớn. Cái tum diện tích chừng hơn 4 mét vuông, chung quanh và trên mặt tum có cây buộc làm khung và trên bề mặt phủ cỏ, giữa tum có chừa một lổ trống chừng 4 tấc vuông, trên cao có tấm bạt bằng chiếu hay đệm che nắng và che lổ tum. Người nằm tum sẽ thấy tõ từ mặt nước đến nền đất, những thuỷ sản di chuyển thường "ghé" vào tum để "nghỉ dưỡng", vui chơi, tránh nắng... Thế là người nằm tum mới có cơ hội đâm được cá bông vì cá bông có thói quen vào bóng mát của cái tum lạng lách vui chơi các buổi trưa nắng gắt. Lần đầu tiên tôi nằm tum có "Tổ đãi", một bầy cá bông có hàng mấy chục con cỡ bắp tay và chỉ có hai con cá quá to, có thể là cá mẹ cha của bầy cá. Tôi chọn lựa con cá lớn nhứt và may mắn nó đến gần lổ tum, cách mặt nước chừng hơn một tấc, tôi "bặm gan" phóng mũi chĩa xuống nghe một cái bựt, máu cá lan toả ra tùm lum vì nó dãy dụa dữ quá, tôi la to:
- Réo gọi chú Búp ra tiếp tôi bắt cá bông to sù (chú Búp theo Việt Minh từ năm 1947, sau năm 1975 chú là Huyện uỷ viên của quận Châu Phú). Chú bảo tôi ấn con cá xuống mặt đất đừng để sẩy, chờ chú ra bắt. Tôi giữ chặt cái chĩa, chú thấy con cá bông quá to, chú không dám kéo chĩa lên sợ sẩy và cũng khó bắt cá qua lổ tum vì cá to quá mà lổ tum lại nhỏ. Chú cởi quần đùi lặn xuống, đem con cá ra khỏi tum, chú ngoi lên thở và bảo tôi:
- Hãy giữ chặt cây chĩa, chú kéo xuồng lại gần chỗ cá, chú ra hiệu kéo cá lên vì chú đã dùng một khúc tầm vông nhỏ ngắn, lặn mang xuống đập đầu cá cho chết mới dám cho tôi kéo chĩa lên. Thế là chú giúp tôi đưa cá lại gần xuồng, Chú lên xuồng dùng sức cật lực kéo cá lên xuồng, xong xuôi, chú mới mặc quần lại. Cả nhà và bà con ở gần xung quanh biết tin tôi đâm được một cá bông to quá cở, nặng trên 12 kí lô, chạy lại xem.
Cái chuyện bắt cá mùa nước lên tại ấp Bà Bài khi ngoài trời mưa dông, mọi người đều ở trong nhà, người lớn uống trà bàn chuyện làm ăn. Bọn nhỏ chị em chúng tôi có thú vui chơi tiêu khiển khác, ngồi câu cá vừa giải trí vui mắt vừa có cá ăn cho bữa cơm chiều. Sát vách nhà, chúng tôi ngồi trên sạp ván kê cao hơn hai mét, gần chỗ ngủ. Tôi dùng cám rải nhử cá lại ăn, cá bu lại càng lúc càng nhiều có hàng chục loại cá trắng, cá chốt tranh dành thức ăn. Bốn chị em chúng tôi, mỗi người một cần cần câu, móc mồi bằng hột cơm nguội, hể thả câu xuống, cá ăn liền, giựt lên thường là cá lòng tong rất "háu" ăn. Chúng tôi ngồi câu trên dưới một giờ có hơn nửa thùng cá, cá lòng tong nhiều còn có cá thiểu cá mại, cá he cá chài con, cá chốt...Tôi nghiệp hai chị tám, chín của tôi ở tuổi 12, 14 phải lo làm cá ngay ướp nước mắm, tiêu hành chuẩn bị cho món kho tiêu ăn bữa cơm chiều.
Từ sáu bảy tuổi, tôi biết uốn lữ câu không có ngạnh để câu cá trong nhà, dùng những cây kim may vá "sứt đít" nướng cho đỏ, gắp bằng đũa sắt đưa cái "nõ" có sẵn uốn cây kim thành lưỡi câu và còn nướng lại phần cuối có lổ xỏ chỉ, dùng cái búa con đập dẹp chỗ đó để buộc dây nhợ và buộc vào cần câu tre. Thế là chúng tôi có nhiều cần câu không ngạnh chỉ câu cá nhỏ, ngồi trên sạp trong nhà không ra đồng dùng cần câu loại này câu cá he, cá rô, vì lưỡi câu phải có ngạnh mới dính cá ít sẩy, mua lưỡi câu này có bán trên thị trường.
Thế mạnh thứ nhứt của quê tôi - Ấp Bà Bài có nhiều cá và có nhiều cách bắt cá mà con nít như tôi, từ sáu bảy tuổi một "mình ên" đi câu hay xúc cá, bắt cá bằng tay cũng có nhiều cá đóng góp với gia đình. Còn thế mạnh thứ hai, cách chuyên canh ruộng lúa sạ ít vất vả hơn canh tác lúa cấy. Đất ruộng hàng chục hay hàng trăm, hàng ngàn mẫu ta cũng chỉ có cách duy nhứt là đợi đến mùa khô nắng gắt, cỏ chết nhiều cùng phơi mình với rơm rạ, người chủ ruộng và người làm công lần lượt đốt từ thửa ruộng. Sáng hôm sau mang theo giỏ "lượm" cua, ốc, rắn, rùa, lươn dưới các vũng nước khô cạn. Đất ruộng nhiều phải "đốt đồng" diệt cỏ cả mấy tuần và dùng tro làm phân bón cho cây lúa mà chẳng cần bón phân hoá học như làm ruộng lúa cấy. Ruộng lúa sạ thường bạt ngàn không ai "hưởn" đi nhỏ cỏ. Một mẫu lúa cấy năng xuất thu hoạch gắp ba gắp năm lần một mẩu lúa sạ. Nhưng canh tác lúa sạ thường tính hàng chục hàng trăm, ngàn mẫu, còn chuyên canh lúa cấy chừng 10 mẫu cũng đã "oải gân" rồi. Lúa cấy do con người chăm sóc như be bờ giữ nước, làm cỏ, bón phân. Còn làm lúa sạ chỉ cày và bừa lại một hai lượt, sạ lúa xuống là xong, giao phó cho trời đất thiên nhiên lo. Có nhiều vùng đất thấp lầy lội, còn ướt, không cần cày chỉ dùng trâu to khoẻ kéo bừa sắt xong rồi cũng đợi đến cuối tháng tư, đầu tháng năm có những trận mưa đầu mùa cùng sạ lúa như vùng đất có cày bừa.
Sau khi sạ lúa xong, nhà nông chuyên canh lúa sạ nghỉ ngơi gần 6 tháng, đợi nước giựt xuống khô mới thu hoạch gặt hái. Sáu tháng nước nổi cũng là 6 tháng vừa nghỉ ngơi vui chơi cũng là thời điểm đánh bắt cá và có thì giờ rảnh rổi, người nông dân chỉ còn lo kiếm mồi nhậu hoặc chơi cờ bạc hay đờn ca tài tử...
Thế mạnh cốt lõi là cả ấp Bà Bài coi như bà con ruột thịt từ bao đời, nay xa lắc xa lơ mà trong ấp không ai dám cùng nhau cưới hỏi mà phải tìm bạn đời - dâu rể ở ấp, làng khác. Tình thân ái trợ giúp nhau tận tình và không có ai gian tham trộm cắp...
Tôi yêu Quê Tôi - Ấp Bà Bài với lòng tôn kính vô bờ, tôi nghĩ trên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam khó mà có cái ấp thứ hai mà tình làng nghĩa xóm cao vời vời như Ấp Bà Bài của Quê Tôi.
Anh Phương Trần Văn Ngà (tháng 8.2025)
QUÊ TÔI - Anh Phương Trần Văn Ngà
Tuổi
thơ của tôi được rong chơi trên đồng ruộng bao la cò bay thẳng cánh và
thường bơi lội hay ngồi trên ghe xuồng nổi trôi trên dòng kinh Vĩnh Tế
nhiều cá tôm suốt 12 năm thời thơ ấu, cách đây hơn 78 năm. Nay chỉ còn
lưu dấu nhớ thương, hoài niệm trong ký ức của một người con của của ấp
Bà Bài năm xưa.
Quê Tôi - Ấp Bà Bài là nơi tiêu biểu, đầu sóng ngọn gió của lũ lụt ở toàn vùng nước ngập định kỳ ở miền Tây Việt Nam. Cứ sáu tháng mùa khô, sáu tháng mùa nước, một nơi nằm sát biên giới Miên-Việt.
Tôi có nhiều dịp viết về Quê Tôi sông nước hữu tình, người dân chất phát thật thà, có cuộc sống an nhiên tự tại được trời đất ưu đãi không lo cho cái ăn, chỗ nào có nước là có cá. Không có ruộng riêng chỉ đến mùa gặt, một người đi "mót lúa" chừng vài tuần cũng thừa nuôi sống gia đình về lúa gạo cả năm.
Quê tôi, ấp Bài Bài, cái ấp ít dân nhứt cũng là cái ấp ở xa, ấp cuối của xã Vĩnh Nguơn - giáp giới với xã Nhơn Hưng (quận Tịnh Biên) - thuộc quận Châu Phú, Châu Đốc. Cả xã Vĩnh Nguơn (dài gần 20 km) là vùng địa đầu biên giới với xứ Chùa Tháp Kampuchia.
Kinh Vĩnh Tế, từ nơi xuất phát, bờ Tây sông Châu Đốc (phụ lưu sông Hậu) là tỉnh lỵ Châu Đốc chạy đến quận Giang Thành (Hà Tiên - Kiên Giang) là điểm cuối cùng của con kinh (87 cây số). Thời xa xưa, hai bờ kinh, nhà cửa thưa thớt cũng lập thành được 5 xã đầu tiên: Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế (thuộc quận Châu Phú - Châu Đốc), Vĩnh Điều, Vĩnh Gia, Vĩnh Thông (thuộc quận Tịnh Biên - Châu Đốc).
Đầu kinh Vĩnh Tế, bên bờ phải, có trụ sở xã Vĩnh Nguơn và đình làng, trường học, một chợ nhỏ họp vào buổi sáng sớm. Xã Vĩnh Nguơn có hai hướng, một hướng chạy dọc bờ sông Hậu đi ngược lên đất nước Kamphuchia, chừng 5 cây số và một hướng chạy dọc bên phải bờ phải kinh Vĩnh Tế hướng về quận Tịnh Biên, dài 15 cây số. Ấp Bà Bài toạ lạc từ cây số 8 hay 9 - một vùng đất trống, chỉ có một cái nhà. Và một vùng đất cao rộng lớn sát vòng rào với chùa Bồng Lai là khu "đất cúng" (nghĩa địa) ở cây số thứ 10.
Từ xa xưa và mãi sau này đến năm 1947, Ấp Bà Bài dân cư vẫn thưa thớt chỉ có trên dưới một trăm "nóc gia" được dựng lên trên một khoảng đất, ở trên bờ kinh dài bốn năm cây số và giáp với biên giới Miên Việt, chỉ cách kinh Vĩnh Tế, trung bình một cây số rưỡi.
Con kinh Vĩnh Tế trước năm 1975 làm gì có cây xanh um tùm như trong hình trên đầu bài vì có đến 6 tháng nước dâng cao nhận chìm bờ kinh, nền nhà thường ngập trên 2 mét và đồng ruộng chìm sâu dưới nước trên dưới 4 mét, cây cối không "trụ" nổi, chỉ có chùa Bồng Lai là có nhiều cây cổ thụ và cây ăn trái vì ở trên thế đất cao nhất của ấp.
Trước năm 1975, ấp Bà Bài là vùng đất oanh kích tự do cho nên chùa Bồng Lai đẹp đẻ đồ sộ và nhiều cây to đều bị chiến tranh tàn phá. Từ xa xưa cho đến lúc tôi ra đời năm 1935, bấy giờ, dân làng chỉ có biết làm ruộng mỗi năm có một vụ mùa vì chuyên canh lúa sạ có tên là "Nàng Tây", sau này có lúa Thần Nông. Vì vậy, đời sống dân chúng không quá sung túc, thiếu tiện nghi sinh hoạt công cộng. Nhưng, người dân lại khá nhàn hạ vì lúa sạ không phải luôn chăm sóc, bón phân làm cỏ như lúa cấy. Dù năng xuất thu hoạch thấp, nhưng lại canh tác nhiều nên không bao giờ lo thiếu lúa gạo, thực phẩm cá tôm, rùa rắn lươn, chim, chuột... có quanh năm thừa nuôi sống gia đình.
Người dân trong ấp, có nhiều thì giờ vui chơi giải trí, cờ bạc, nhậu nhẹt lu bù và bộ môn văn hoá miệt vườn "Đờn Ca Tài Tử" có cơ may phát triển mạnh suốt chiều dài của con kinh Vĩnh Tế và lan toả các làng xã lân cận.
Quê tôi còn có đặc điểm là tất cả mọi nhà của cư dân không có hàng rào bao quanh và nhà này cách nhà kia cả trăm mét, nhà không có cửa, không cần đề phòng rủi ro mất trộm. Cả ấp Bà Bài, hồi còn bé, tôi biết rõ chỉ có ba nhà có cửa, tối cửa cũng đóng mà lại không có cài then khoá lại. Ngôi nhà thứ nhứt cạnh nhà tôi cách một khoảng đất trống khá rộng gần trăm mét là nhà Ông Chín, thầy thuốc Bắc, ông là em ruột của Bà Nội tôi. Cái nhà thứ hai là nhà của Bác bảy Trực (dòng họ Kha) cũng đồ sộ như nhà ông Chín, ở vùng trên cách xa nhà tôi cả cây số, Bác là thầy giáo của trường tiểu học Nhà Bàn (xã Thới Sơn). Cái nhà thứ ba là nhà sàn có cửa nẽo chắc chắn, có cài then cẩn thận ban đêm vì là quán chạp phô duy nhứt của ấp nên phòng xa. Đó là quán của cô Hai, con gái đầu lòng của ông bà Chín, gần sát nhà cha mẹ. Còn gia đình tôi có nhiều anh em, nên nhà cũng khá to, rộng trên dưới 8 mét, dài gần 20 mét (thuộc loại nhà ba gian hai chái), nền đất, được đấp cao hơn mặt ruộng gần 2 mét. Nội thất, vào nhà thấy có ba tủ thờ đều có trưng bày lư, bình cắm nhang, đèn dùng dầu dừa. Tủ lớn nhứt ở giữa nhà có cẩn "xa cừ", hai bên tủ thờ nhỏ hơn. Trước ba tủ thờ, có hai bộ ván gõ, chiều dày hơn một tấc, luôn láng bóng dành cho ông Bà Nội. Phần sau tủ thờ, có hai buồng ngủ cửa buồng chỉ dùng màng, không cửa, vách xung quanh cũng có che chắn bằng những "tấm phên" tre dành cho ba má tôi, hai chị và cô em gái tôi ở chung một buồng. Ở giữa hai buồng ngủ cũng có một bộ ván gỗ tạp dành cho anh Bảy và tôi, hai chàng đực rựa. Phía sau cùng, một nhà bếp rất rộng cao, còn dùng làm chỗ ăn cả gia đình. Nhà bếp cao vì ba bốn bếp đều dùng củi cũng tránh được "tàn lửa" dễ gây cháy vì nhà toàn lợp lá và vách lá. Mỗi năm, Ba tôi ra kiểu cho mấy người làm công đóng hai cái bàn vuông bằng gỗ tạp chỉ dùng mấy tháng ở Bà Bài, ở trại ruộng cũng có bàn ăn y chang như vậy. Một bàn dài có thể ngồi dùng bữa cả hai chục người và một cái bàn vuông dài nhỏ dành cho những người trưởng thượng như Ông Bà Nội, Ba Má tôi hay có thêm khách... Hai bàn nối tiếp nhau. Mọi người kể cả các người giúp việc, làm công ăn cùng lúc với gia đình rất bình đẳng, không phân chia giai cấp chủ tớ.
Sở dĩ Ba tôi không cất nhà kiên cố, tránh ngập nước chỉ thêm tốn kém vì gia đình chúng tôi thường ở trên "trại ruộng" (trên đất Miên) khoảng 6 tháng, nhà ờ Bà Bài chỉ có ông bà Nội tôi ở quanh năm.
Đến mùa khô, vách lá chỗ nào hư, mất được thay thế hàng năm vì mùa nước nổi, cả nền nhà cũng đều bị ngập trên dưới 2 mét. Tất cả mọi đồ dùng trong nhà phải kê lên cao, còn đồng ruộng bị nhận chìm sâu đến ba bốn thước nước và lúa sạ là giống chịu nước, sống theo nước lên xuống (tiếng Pháp gọi le riz flottant - lúa nổi)
Theo truyền thuyết, tổ tiên lưu truyền lại cho các thế hệ kế thừa, một đại gia đình (Bà Bài) có trên dưới hai ba mươi người từ vùng quê của Tướng Quân Nguyễn Văn Thoại (vùng Sơn Trà - Đà Nẳng), theo chân đoàn quân của Ngài sau khi đào xong con kinh Vĩnh Tế (1819-1824), rộng trung bình 30 mét và chiều dài 87 cây số, sâu 2 mét 55. Gia đình Bà Bài vào vùng đất mới tha hồ mà khai thác mở mang diện tích thâm canh lúa cũng như chăn nuôi với đồng cỏ bạt ngàn và ao đìa, bàu, rạch chỗ nào có nước là có cá và tha hồ nuôi vịt, heo, bò... Thức ăn cho người và gia súc có thiên nhiên lo hết. Thế là ấp Bà Bài là một Thiên đàng nho nhỏ ở hạ giới. Ấp Bà Bài chỉ thiếu hạ tầng phục vụ cộng đồng như trường học, bịnh xá, chợ...
May Mắn cho ấp Bà Bài lại có một ngôi chùa, khi xưa dù nhỏ không đồ sộ "hoành tráng" như nhiều ngôi chùa trong tỉnh mà lại là ngôi chùa nổi tiếng về mặt tâm linh đạo giáo của tín hữu Bửu Sơn Kỳ Hương. Tên chùa "Bà Bài" và có tên khác là chùa Bồng Lai (Bồng Lai tự) do ông Đạo Lập (Phạm Thái Chung - một trong 12 đại đồ đệ của Đức Phật Thầy An) dựng xây từ năm 1861. Mục đích chính của việc xây chùa là chỗ tu tập của tín hữu Bửu Sơn Kỳ Hương và dân làng cũng là nơi "độ bệnh" (trị bịnh) và truyền bá tư tưởng, tinh thần yêu nước của người công dân chống giặc ngoại xâm.
Chùa Bà Bài cũng là nơi đặt Dinh Ông Thẻ số 3 trong 5 Dinh Ông Thẻ mà có tin loan truyền là nơi trấn yếm của Tổ Tiên ta chống lại quân xâm lược cướp nước (ý nói là quân Tàu trước, quân Tây đô hộ sau). Chùa Bà Bài (Bồng Lai Tự) nổi tiếng cả miền Tây.
Ấp Bà Bài được thiên nhiên ưu đãi cho cuộc sống, dân tình không tham lam, trộm cắp. Nếu nhà nào lở thiếu gạo hay thức ăn thì lại các nhà khá giả hơn xin mà không mua hay mượn gì cả. Đó là tình nghĩa đồng bào, sự giúp đở cao đẹp của người dân ấp Bà Bài thời xa xưa.
Hàng năm, Ba tôi thường có tổ chức các cuộc đua xe bò vào mùa khô nắng ráo giữa bum sóc Miên ở quận Gòi Tà Lập thuộc tỉnh Tà Keo, với người dân của ấp, cách Bà bài chừng bảy tám cây số. Ngoài ra, vào mùa xuân có hàng chục cuộc đá gà do Ba tôi tổ chức có đãi cơm miễn phí cho người tham dự. Những phái đoàn Miên của nhiều phum sóc ở tỉnh Tà Keo đem gà xuống ấp Bà Bài đấu, đều có chỗ ở đàng hoàng, Ba tôi còn lo luôn khâu ẩm thực của khách phương xa. Ba tôi thông báo các lò gà cách xa hai ba mươi cây số, từ Tân Châu, Mỹ Đức, Núi Sam, Nhà Bàn, Tịnh Biên hay xa hơn nữa mang gà đến đấu những trận "Đá Gà Quốc Tế". Người Việt tìm chỗ nghỉ ngơi ăn uống dễ dàng, vì thế Ba tôi để các chủ gà Việt tự lo lấy. Mỗi lần có cuộc đá gà quốc tế thường kéo dài bốn ngày. Ngày khai mạc có vợ chồng ông Quận Trưởng Gòi Tà Lập - Tà Keo và quan chức của quận hoặc của tỉnh đến tham dự. Phái đoàn quốc tế Miên thường sử dụng ba bốn thớt voi và hàng chục xe bò chở người và gà đi băng qua cánh ruộng khô khốc chừng bảy tám cây số. Chỉ riêng ông bà Quận Trưởng có mang theo cả một phòng ngủ được lấp ráp sát cạnh nhà tôi, còn những người khác thì vào ở chung một nhà dài có sạp bằng tre và ai cũng phải mang theo mùng, còn các cái khác Ban Tổ Chức lo hết.
Ngày đầu, Ba tôi làm một con bò và một con heo và mấy chục ký cá lóc nướng trui đãi khách. Ba ngày sau mỗi ngày làm một con bò hoặc một con heo làm thức ăn. Ban ngày chơi đá gà nhiều lắm có bốn năm hay đến 6 "độ". Ban đêm còn chơi cờ bạc, lô tô đến 11 giờ khuya phải nghỉ ăn cháo và ngủ dưỡng sức dành cho ngày hôm sau.
Ba tôi nói tiếng Miên như người Miên nên ông Quận Trưởng Gòi Tà Lập lại càng quý mến thường xuống trại ruộng của Ba tôi trên đất Miên ăn nhậu cả ngày chủ nhựt. Lần đầu tiên đến ấp Bà Bài, ông dự lễ khai mạc xong ở lại qua đêm, sau bữa ăn trưa hôm sau, ông bà Quận Trưởng và đoàn tuỳ tùng ra về với hai thớt voi và vài chiếc xe bò. Hai thớt voi, số xe bò còn lại mãi trưa ngày thứ tư mới rời ấp Bà Bài. Ngày khai mạc trận "Đá Gà Lịch Sử" Ba tôi rất tinh tế mời thêm nhiều vị Thông phán của tỉnh và hai ông Quận Trưởng Châu Phú Tịnh Biên và nhiều vị hương chức Hội Tề cùng đến tham dự và vui chơi với dân ấp Bà Bài.
Ngoài những trò vui chơi trên đất liền khô ráo, Ba tôi còn hào sản "chịu chơi", ông có đóng vài chiếc ghe đua (8 hay 12 chèo) xuồng đua (6 dầm hay 10 dầm). Thỉnh thoảng vào dịp Tết, lúc thợ cày bừa ngơi nghỉ hay những ngày lễ lớn của Chùa Bồng Lai, ông tổ chức xuồng ghe đua biểu diễn suốt dọc hai bờ kinh của ấp Bà Bài. Đó cũng là hình thức ông giúp cư dân ấp Bà Bài và khách vãng lai có thêm giải trí môn đua ghe xuồng độc đáo, cả tỉnh Châu Đốc không nơi nào có (đặc biệt ngày 30.9 âm lịch hàng năm là ngày Giỗ ông Đạo Lập, người khai mở xây dựng Chùa Bà Bài. Ngày huý kỵ này được tổ chức vô cùng "hoành tráng" hơn các ngày Lễ khác).
Quê hương, chỗ chôn nhau cắt rốn, mỗi người chỉ có một, là "chùm khế ngọt" ôm ấp cả cuộc đời tuổi thơ, bé bỏng. Tôi theo gia đình lìa xa ấp Bà Bài từ năm 1947, lúc bấy giờ tôi vừa tròn 12 tuổi. Khi tản cư "chạy giặc" ra sống ở châu vi đạo Cao Đài, gần trường Nam Tiểu học tỉnh lỵ Châu Đốc. Tôi chưa học lớp một lớp hai vì vùng quê tôi không có trường học, trạm y tế, chợ búa hay bất cứ tiện nghì phục vụ cho cộng đồng dân quê. Tôi học chữ nho trước do ông Nội dạy và học tại chùa Bồng Lai do ông đạo Ba, trụ trì, cùng trang lứa với Ba tôi mà tôi gọi là Bác Ba, chỉ dạy. Còn học chữ quốc ngữ, Ba tôi có nhờ một gia sư, vợ của một ông hoạt động chánh trị ở tỉnh Sa Đéc bị mật thám Pháp tìm bắt. Hai ông bà trốn tránh "tá túc" nhà Ba tôi và anh em chúng tôi bốn người mới có cơ may học chữ quốc ngữ hơn một năm.
Ấp Bà Bài vô cùng may mắn có ông đạo Lập, tu tại vùng Thất Sơn, về ấp Bà Bài, thấy có vùng đất cao, cạnh bên là "đất cúng" (nghĩa địa của ấp), dân không dám cất nhà ở gần, đầu ấp. Thế là ông đạo Lập ra sức vận động kêu gọi thập phương bá tánh ở làng ấp gần Bà Bài cùng xây dựng một ngôi chùa lá trên một nền đất được đấp cao hơn mực nước dâng cao mùa nước nổi. Ban đầu, có năm nước ngập cả nền nhà chùa, chánh điện. Vì vậy cứ mỗi năm phải đấp thêm đất, ban đầu chỉ lo đấp cho cao thêm chánh điện. Từ từ đấp đất cho cho thêm cao cả sân chùa. Lúc này có nhiều tín hữu thập phương xuôi người dòng kinh Vĩnh Tế buôn bán từ Châu Đốc đến quận Giang Thành thuộc tỉnh Hà Tiên (sau này thuộc tỉnh Kiên Giang) thường ghé chiêm bái cúng dường.
Năm 2005, cũng có thể nói lần chót của tôi trong cuộc đời này còn trên thế gian, bốn anh chị em cuối cùng của dòng họ Trần về thăm quê Bà Bài. Bốn anh chị em chúng tôi, anh Bảy, em gái út ở Thành phố Châu Đốc, chị Chín từ Tây Ninh và tôi từ Mỹ mới về vài ngày. Chúng tôi vô cùng hân hoan và có nhiều cảm xúc về thăm lại quê Bà Bài thân thương sau mấy chục năm xa quê, từ năm 1947. Đến nay, bốn anh chị em cuối của dòng Trần ấp Bà Bài, bây giờ chỉ còn mình tôi và cũng có thể nói, tôi là người cao tuổi nhứt của dòng họ gia tộc Trần sanh trưởng tại ấp Bà Bài còn sống sót sau bao thăng trầm khổ luỵ của cuộc đời.
Chiều rộng Kinh Vĩnh Tế đã trải qua thời gian dài trên 200 năm, giòng nước chảy siết khi đến mùa nước nổi, làm sói mòn và sạt lở hai bờ kinh, có nơi rộng gần gấp đôi và độ sâu có nơi có thể nong hay sâu hơn nhiều so với lúc ban đầu kinh Vĩnh Tế được sử dụng.
Nói về quê Bà Bài, tới mùa nước nổi (từ giữa tháng 5 đến hết tháng 10 âm lịch) ấn tượng thấm sâu mãi mãi vào tâm trí tôi là nơi có nhiều cá tôm rùa rắn lươn, chim trời và cả chuột đồng mập ú... H: Từ trái sang phải: chị Chín, em út, tôi (thứ 10) và anh Bảy.
Tôi được sanh trong một gia đình đông con, sau tôi còn có hai em đều sanh trưởng tại ấp Bà Bài. Anh chị và hai em tôi đã ra đi về quê ấp Bà Bài từ lâu gặp lại ông bà cha mẹ, chỉ còn mình tôi và gia đình ở xa hơn nửa vòng trái đất. Ngày trở về cố hương của tôi chắc chắn sẽ không còn xa như một bản nhạc "Hỏi ai có bao giờ không trở về cát bụi đâu"?
Nhắc đến quê tôi - Ấp Bà Bài là phải đề cập đến ba thứ đặc trưng là có nhiều cá tôm, chuyên canh lúa sạ và cái đặc trưng thứ ba, dù người dân còn nghèo không có trường học mà luôn yêu thương giúp đỡ coi như cùng một gia đình và đặc biệt là không gian tham trộm cắp...
Về cá tôm, đến cuối mùa nước nổi sắp "giựt" xuống, nước đứng không còn lưu thông chảy mạnh, chừng một hai tuần, trong đồng ruộng nước có màu nâu chảy, đổ ra kinh, sông lớn gọi là "nước thúi". Thời gian đó, cá khờ, lừ đừ từ đồng tràn ra kinh Vĩnh Tế, các loại "cá trắng" như cá linh, lòng tong, thiểu, mại, cá chốt ... nổi trên mặt nước đầy kinh Vĩnh Tế vài tuần, cũng là thời điểm bắt cá dễ dàng và nhiều vô số kể. Lúc bấy giờ, các nền nhà, đường làng cũng đã khô ráo báo hiệu mùa cá tôm chính thức bắt đầu, dân chúng tha hồ mà bắt cá làm mắm làm khô, nước mắm... Bắt cá có thể không dùng dụng cụ như đặt lờ, lọp, đáy, vó càng vó gạt... có dụng cụ phương tiện sẽ bắt được nhiều cá kể cả cá lớn, tôm... Còn không có dụng cụ chỉ dùng một bàn tay với cá linh nướng trong lòng bàn tay cũng bắt được cả thùng thiếc cá chốt mất chừng trên dưới hai tiếng.
Một đứa nhỏ như tôi lúc bảy tám tuổi, bắt cá chốt bằng tay cũng bắt được nhiều cá mà phải ngồi trên xuồng và xuồng có chứa nhiều nước làm cho xuồng chìm xuống, be xuồng cách mặt nước chừng 2 tấc để dễ đưa cá vào xuồng. Dùng mồi cá linh nướng dụ cá chốt, chúng bu quanh đưa râu lên, tôi chỉ nắm râu cho vào xuồng, râu cá rất trơn nhớt và tay lại có mỡ cá nướng nên nắm râu không chặt phải có động tác thật nhanh mới đưa được cá vào xuồng. Tay phải nhanh thoăng thoắt như cái máy hoạt động liên tục, mỗi lần nắm râu thường chỉ một con, thỉnh thoảng hai hoặc ba con cũng bị nắm râu cùng một lúc. Bắt cá chốt bằng cách nắm râu cũng khá vất vả, mỏi lưng, mỏi tay và bị muỗi tha hồ đốt vì bắt cá chốt bằng tay lúc trời nhá nhem tối có trăng non hay dùng đèn dầu cá để trong xuồng chỉ có luồng ánh sáng yếu lờ mờ mới bắt được cá, sáng quá cá cũng không dám lại ăn mồi cá nướng. Với tuổi trẻ thơ, trên dưới nửa tiếng ngồi bắt cá chốt đã mệt nhoài, tôi lên bờ nghỉ, mang cá cho người nhà làm liền.
Các chị hay người giúp việc dùng đầu và ruột cá chốt nấu cho sôi khuấy tan để nguội, tôi dùng nước nấu này cũng bắt cá chốt bằng cách khác. Dưới bờ kinh trước nhà đã có sẵn hàng chục lổ đào dài chừng bảy tám tấc, ngang chừng hơn ba tấc, nước lớn ngập hố chừng hai ba tấc là lúc thích hợp nhứt, tôi múc nước nấu đầu ruột cá cho vào các hố đào, nhử cá vào ăn mồi. Khi thấy râu cá chốt ngo ngoe trên mặt nước là lúc tôi dùng cái rổ miệng rộng đủ chận kín miệng hố và hạ thấp xuống gần ngang mặt nước, tay dùng một cây que khua nước trong hố cho cá chạy ra và thật nhanh đưa rổ lên có hàng mấy chục con cá chốt và vài loại cá nhỏ khác. Hết hố này sang hố khác, cách nhau chục thước, đi qua một vòng chừng năm bảy hố và trở lại tua thứ hai cũng bắt được nhiều cá chốt cỏ cả cá linh, lòng tong và nhiều cá trắng nhỏ khác, chỉ mất trên dưới một giờ cũng bắt cá cả thùng thiếc (20 lít tương đương 20 kg).
Có nhiều cách bắt cá khác của người lớn dùng lưới, chài, vó càng, vó gạc, xây rọ, tát đìa, giở chà... bắt đủ loại cá lớn nhỏ kể cả tôm. Các ông "sa viên" làm ăn lớn bắt cá bằng cách dùng vó gạc, đáy hay xây rọ bắt cá tính bằng tấn hàng chục, trăm tấn nếu trúng mùa. Có năm cá linh nhiều quá, người ta kéo đáy lên, không có ghe mua làm nước mắm ở các nơi xa đến hay trong nhà không còn đồ dùng chứa cá linh làm mắm, đành phải đổ cá lên bờ kinh phơi làm phân để bón cây trồng, hoa màu nhứt là cây thuốc lá rất thích hợp với phân cá.
Còn cách bắt cá he bằng cách ngâm hột bông gòn cả đêm cho nó thấm nước không còn nhẹ dễ trôi. Chị dâu tôi dùng hột bông gòn đã ngâm nước, bơi xuống ra ruộng lúa hay đồng cỏ sum suê gần nhà, vạch lúa hay cỏ tạo thành một lổ trống chừng 6 tấc vuông, thả hột bông gòn làm mồi nhử cá he, mỗi lỗ cách nhau chừng hơn 10 mét. Chỗ nào hết hột bông gòn là chỗ đó có cá he, xuồng bơi lại đậu gần, thả tiếp hột bông gòn, cá he lại tiếp tục ăn là lúc câu cá he cũng bằng mồi hột bông gòn. Mỗi lổ, câu được chừng năm bảy con hay câu cá bị sẩy, cá sợ chỗ đó cá he không còn. Bơi xuồng đến chỗ khác với cách câu đó cũng được năm bảy con. Một buổi trưa nắng mất vài tiếng chị dâu tôi cũng câu đươc vài chục con cá he to béo ngậy.
Bọn trẻ chúng tôi có cách câu cá rô bằng trứng kiến vàng, mỗi đứa ngồi trên cành cây cà na, rung cây cho kiến rớt xuống nước là mồi nhử cá rô. Đến mùa cá rô nhiều vô số kể, cá bu lại đớp mồi, chúng tôi thả câu xuống có mồi kiến vàng, cá rô rất thích, đớp mồi liền. Chúng tôi câu cá rô giựt mỏi tay chừng hơn nửa tiếng cũng có vài chục con.
Tôi còn nhớ mãi, năm 9 tuổi, một trưa nắng gắt, mấy người làm công còn say ngủ, tôi lấy cây "xà búp" ba mũi có ngạnh, xuống xuồng bơi ra cái tum gần sau nhà, cách chừng ba bốn chục mét. Tôi leo lên tum cũng nằm tum đâm cá bông như người lớn. Cái tum diện tích chừng hơn 4 mét vuông, chung quanh và trên mặt tum có cây buộc làm khung và trên bề mặt phủ cỏ, giữa tum có chừa một lổ trống chừng 4 tấc vuông, trên cao có tấm bạt bằng chiếu hay đệm che nắng và che lổ tum. Người nằm tum sẽ thấy tõ từ mặt nước đến nền đất, những thuỷ sản di chuyển thường "ghé" vào tum để "nghỉ dưỡng", vui chơi, tránh nắng... Thế là người nằm tum mới có cơ hội đâm được cá bông vì cá bông có thói quen vào bóng mát của cái tum lạng lách vui chơi các buổi trưa nắng gắt. Lần đầu tiên tôi nằm tum có "Tổ đãi", một bầy cá bông có hàng mấy chục con cỡ bắp tay và chỉ có hai con cá quá to, có thể là cá mẹ cha của bầy cá. Tôi chọn lựa con cá lớn nhứt và may mắn nó đến gần lổ tum, cách mặt nước chừng hơn một tấc, tôi "bặm gan" phóng mũi chĩa xuống nghe một cái bựt, máu cá lan toả ra tùm lum vì nó dãy dụa dữ quá, tôi la to:
- Réo gọi chú Búp ra tiếp tôi bắt cá bông to sù (chú Búp theo Việt Minh từ năm 1947, sau năm 1975 chú là Huyện uỷ viên của quận Châu Phú). Chú bảo tôi ấn con cá xuống mặt đất đừng để sẩy, chờ chú ra bắt. Tôi giữ chặt cái chĩa, chú thấy con cá bông quá to, chú không dám kéo chĩa lên sợ sẩy và cũng khó bắt cá qua lổ tum vì cá to quá mà lổ tum lại nhỏ. Chú cởi quần đùi lặn xuống, đem con cá ra khỏi tum, chú ngoi lên thở và bảo tôi:
- Hãy giữ chặt cây chĩa, chú kéo xuồng lại gần chỗ cá, chú ra hiệu kéo cá lên vì chú đã dùng một khúc tầm vông nhỏ ngắn, lặn mang xuống đập đầu cá cho chết mới dám cho tôi kéo chĩa lên. Thế là chú giúp tôi đưa cá lại gần xuồng, Chú lên xuồng dùng sức cật lực kéo cá lên xuồng, xong xuôi, chú mới mặc quần lại. Cả nhà và bà con ở gần xung quanh biết tin tôi đâm được một cá bông to quá cở, nặng trên 12 kí lô, chạy lại xem.
Cái chuyện bắt cá mùa nước lên tại ấp Bà Bài khi ngoài trời mưa dông, mọi người đều ở trong nhà, người lớn uống trà bàn chuyện làm ăn. Bọn nhỏ chị em chúng tôi có thú vui chơi tiêu khiển khác, ngồi câu cá vừa giải trí vui mắt vừa có cá ăn cho bữa cơm chiều. Sát vách nhà, chúng tôi ngồi trên sạp ván kê cao hơn hai mét, gần chỗ ngủ. Tôi dùng cám rải nhử cá lại ăn, cá bu lại càng lúc càng nhiều có hàng chục loại cá trắng, cá chốt tranh dành thức ăn. Bốn chị em chúng tôi, mỗi người một cần cần câu, móc mồi bằng hột cơm nguội, hể thả câu xuống, cá ăn liền, giựt lên thường là cá lòng tong rất "háu" ăn. Chúng tôi ngồi câu trên dưới một giờ có hơn nửa thùng cá, cá lòng tong nhiều còn có cá thiểu cá mại, cá he cá chài con, cá chốt...Tôi nghiệp hai chị tám, chín của tôi ở tuổi 12, 14 phải lo làm cá ngay ướp nước mắm, tiêu hành chuẩn bị cho món kho tiêu ăn bữa cơm chiều.
Từ sáu bảy tuổi, tôi biết uốn lữ câu không có ngạnh để câu cá trong nhà, dùng những cây kim may vá "sứt đít" nướng cho đỏ, gắp bằng đũa sắt đưa cái "nõ" có sẵn uốn cây kim thành lưỡi câu và còn nướng lại phần cuối có lổ xỏ chỉ, dùng cái búa con đập dẹp chỗ đó để buộc dây nhợ và buộc vào cần câu tre. Thế là chúng tôi có nhiều cần câu không ngạnh chỉ câu cá nhỏ, ngồi trên sạp trong nhà không ra đồng dùng cần câu loại này câu cá he, cá rô, vì lưỡi câu phải có ngạnh mới dính cá ít sẩy, mua lưỡi câu này có bán trên thị trường.
Thế mạnh thứ nhứt của quê tôi - Ấp Bà Bài có nhiều cá và có nhiều cách bắt cá mà con nít như tôi, từ sáu bảy tuổi một "mình ên" đi câu hay xúc cá, bắt cá bằng tay cũng có nhiều cá đóng góp với gia đình. Còn thế mạnh thứ hai, cách chuyên canh ruộng lúa sạ ít vất vả hơn canh tác lúa cấy. Đất ruộng hàng chục hay hàng trăm, hàng ngàn mẫu ta cũng chỉ có cách duy nhứt là đợi đến mùa khô nắng gắt, cỏ chết nhiều cùng phơi mình với rơm rạ, người chủ ruộng và người làm công lần lượt đốt từ thửa ruộng. Sáng hôm sau mang theo giỏ "lượm" cua, ốc, rắn, rùa, lươn dưới các vũng nước khô cạn. Đất ruộng nhiều phải "đốt đồng" diệt cỏ cả mấy tuần và dùng tro làm phân bón cho cây lúa mà chẳng cần bón phân hoá học như làm ruộng lúa cấy. Ruộng lúa sạ thường bạt ngàn không ai "hưởn" đi nhỏ cỏ. Một mẫu lúa cấy năng xuất thu hoạch gắp ba gắp năm lần một mẩu lúa sạ. Nhưng canh tác lúa sạ thường tính hàng chục hàng trăm, ngàn mẫu, còn chuyên canh lúa cấy chừng 10 mẫu cũng đã "oải gân" rồi. Lúa cấy do con người chăm sóc như be bờ giữ nước, làm cỏ, bón phân. Còn làm lúa sạ chỉ cày và bừa lại một hai lượt, sạ lúa xuống là xong, giao phó cho trời đất thiên nhiên lo. Có nhiều vùng đất thấp lầy lội, còn ướt, không cần cày chỉ dùng trâu to khoẻ kéo bừa sắt xong rồi cũng đợi đến cuối tháng tư, đầu tháng năm có những trận mưa đầu mùa cùng sạ lúa như vùng đất có cày bừa.
Sau khi sạ lúa xong, nhà nông chuyên canh lúa sạ nghỉ ngơi gần 6 tháng, đợi nước giựt xuống khô mới thu hoạch gặt hái. Sáu tháng nước nổi cũng là 6 tháng vừa nghỉ ngơi vui chơi cũng là thời điểm đánh bắt cá và có thì giờ rảnh rổi, người nông dân chỉ còn lo kiếm mồi nhậu hoặc chơi cờ bạc hay đờn ca tài tử...
Thế mạnh cốt lõi là cả ấp Bà Bài coi như bà con ruột thịt từ bao đời, nay xa lắc xa lơ mà trong ấp không ai dám cùng nhau cưới hỏi mà phải tìm bạn đời - dâu rể ở ấp, làng khác. Tình thân ái trợ giúp nhau tận tình và không có ai gian tham trộm cắp...
Tôi yêu Quê Tôi - Ấp Bà Bài với lòng tôn kính vô bờ, tôi nghĩ trên đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam khó mà có cái ấp thứ hai mà tình làng nghĩa xóm cao vời vời như Ấp Bà Bài của Quê Tôi.
Anh Phương Trần Văn Ngà (tháng 8.2025)