Sức khỏe và đời sống
Sự Khác Biệt Giữa Virus Và Vi Khuẩn, Sự Lây Lan Và Cách Phòng Ngừa
Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Chúng ta nên biết rõ sự khác nhau giữa virus
5. Virus và vi khuẩn lây lan như thế nào
Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu
khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Chúng ta nên biết rõ sự khác
nhau giữa virus và vi khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi
bị bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
1. Virus (Vi rút) là gì
Vi rút là những sinh vật nhỏ li ti, muốn nhìn thấy chúng phải nhờ
kính hiển vi điện tử. Vi rút lớn lên và phát triển chỉ khi chúng sống
trong tế bào sống. Sống ngoài tế bào sống, vi rút sẽ tự hủy diệt, không
thể phát triển, trừ khi chúng sống trong tế bào động vật, thực vật hay
vi khuẩn. Vi rút gây bệnh cho người và vật do thở hay nuốt vào, đột nhập
vào lỗ hổng trên da.
Virus bao gồm vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp
phủ bảo vệ của protein. Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên
trong chúng.
Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực
vật cho tới vi khuẩn và vi khuẩn cổ. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi
hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất
cả các thực thể sinh học. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng
1/100 kích cỡ trung bình của một vi khuẩn.
Nguồn gốc của virus:
– Dựa vào cấu tạo: Virut do sự kết hợp giữa các đại phân tử protêin
và axit nuclêic, nằm giữa ranh giới của vật thể sống và không sống.
– Dựa vào lối sống kí sinh bắt buộc: Virut bắt nguồn từ một loại vi
sinh vật sống kí sinh thoái hóa dần các cơ quan không cần thiết.
– Dựa vào cách nhân lên: Virut có thể là một đoạn gen hay một bào
quan nào đó đã tách ra hoạt động độc lập. khi kí sinh lại, chúng có thể
nhân lên hay xen cài vào nhiễm sắc thể của tế bào.
– Theo thuyết tiến hóa: Từ các chất vô cơ dưới tác dụng của nhiệt độ
cao, áp suất lớn, và những thời kì địa chất lâu dài, khí hậu biến đổi,
các chất hữu cơ hình thành từ đơn giản đến phức tạp (CH4,CO2,NH3 —>
các nucleotic —> chuỗi nu —> axít amin —> protein —> các
dạng sống) dấu mốc quan trọng là sự hình thành các hạt côa-xéc-va có màn
bán thấm, có khả năng trao đổi chất với môi trường và có khả năng sinh
sản. Đây là một dạng sống khá giống với virút. Dần dần hoàn thiện, 1
phần là những con vi rút thời nay, phần còn lại tiến hóa thành những
dạng phức tạp hơn.
2. Vi khuẩn là gì
Vi khuẩn thuộc loại đơn bào, có ở khắp mọi
nơi, chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu vi khuẩn. Hầu hết
các vi khuẩn sinh sản bằng cách phân bào ( một tế bào tách làm đôi ). Vi
khuẩn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa của người và vật,
giúp hóa mùn cây cối và súc vật chết, giúp cho tiến trình lên men hiệu
quả.
Có khoảng 40 triệu tế bào vi khuẩn trong một gram đất và hàng triệu tế bào trong một mm nước ngọt. Ước tính có khoảng 5×1030
vi khuẩn trên Trái Đất, tạo thành một lượng sinh khối vượt hơn tất cả
động vật và thực vật. Vi khuẩn có vai trò quan trọng trong tái chế chất
dinh dưỡng như cố định nitơ từ khí quyển và gây thối rữa sinh vật khác.
Trong vùng dinh dưỡng quanh cách mạch nhiệt dịch và lỗ phun lạnh, vi
khuẩn cung cấp những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống bằng cách
biến đổi các hợp chất hòa tan như hydro sulphua và metan thành năng
lượng, chúng có thể phát triển mạnh ở nơi sâu nhất trên Trái Đất là rãnh
Mariana. Các nghiên cứu khác liên quan cũng chỉ ra rằng chúng có thể
sống bên trong các đá ở độ sâu 1900 feet bên dưới đáy biển và cách ngoài
khơi bờ biển tây bắc Hoa Kỳ.
3. Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus
* Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được
Vi khuẩn còn được gọi là vi trùng, chúng
hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật
khác. Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn ván, thương hàn,
giang mai, tả, bệnh lây qua thực phẩm và lao. Một số nhiễm khuẩn có thể
lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân. Bệnh do vi khuẩn
lây nhiễm qua tiếp xúc, không khí, thực phẩm, nước và côn trùng.
Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được
mầm bệnh, bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng sinh, được
chia làm hai nhóm là diệt khuẩn (bacteriocide) và kìm khuẩn
(bacteriostasis), với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể
tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn.
* Kháng sinh vô tác dụng với vi rút
Vi rút chỉ có thể sống và phát triển
được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác (người, động
vật và cây cỏ) và khi ra khỏi ký chủ, vào môi trường ngoài (nước, không
khí…) chúng sẽ không sống được lâu.
Ngày nay, khoa học đã phát hiện có
khoảng 2.000 loài vi rút khác nhau, trong đó có khoảng 300 loài có khả
năng gây bệnh cho người như AIDS, viêm gan B và C, sốt xuất huyết, bại
liệt, bệnh dại, đậu mùa, cúm…
Khác với vi khuẩn, vi rút đánh vào hệ
miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng mà
chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vắc xin. Riêng các loại vi rút gây
cúm, vì chúng biến chủng rất nhanh nên vắc – xin chế từ vi rút năm này
lại không hữu hiệu với cùng vi rút ấy cho năm tới. Vì thế các loại vắc
xin hiện có không ngừa được virus cúm A (H1N1).
Khi thời tiết chuyển mùa hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để vi rút gây bệnh.
4. Tại sao kháng sinh không điều trị được bệnh do virut?
Năm 1928, tại Bệnh viện Saint Mary
(London), Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh diệt khuẩn và
đặt tên là penicillin. Loại kháng sinh này được tìm ra từ nấm
Penicillium notatum. Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng sinh
penicillin và đến năm 1943, dự án sản xuất penicillin được Chính phủ Mỹ
chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời, cứu sống
được vô vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Từ penicillin, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng
sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ
chế tác dụng đối với vi khuẩn.
Kháng sinh đối với virut thì như thế nào?
Do cấu tạo virut hoàn toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó
không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều
so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là
lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được gọi là “phi tế bào”.
Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong
tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm, bởi vì virut không có hệ thống enzym
hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi
nảy nở được. Do đó, để tồn tại và phát triển thì virut phải xâm nhập vào
trong các tế bào khác (tế bào túc chủ) và “gửi” các vật liệu di truyền
của mình.
Khi vào cơ thể, áo protein bị loại bỏ, chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN
của nó, không có cách gì để nhận biết. Hơn nữa, kháng sinh diệt được vi
khuẩn vì vi khuẩn ký sinh ngoài tế bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên
vi khuẩn, còn virut nằm trong vật chất di truyền của tế bào túc chủ cho
nên nếu kháng sinh diệt virut thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào của túc
chủ (người hoặc động vật). Vì vậy, nếu thuốc kháng sinh muốn tấn công
virut sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận “tầm gửi” này
(tức là không tấn công vào tế bào túc chủ) và đây thực sự là cản trở
cực lớn. Hơn thế nữa, virut còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế
bào trước khi phát bệnh.
Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà
khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virut dựa trên cơ
sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm, nhân lên trong tế bào
túc chủ của virut. Tuy vậy, virut luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn
có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất lợi cho việc dùng
thuốc tiêu diệt chúng.
5. Virus và vi khuẩn lây lan như thế nào
– Một người bị lạnh có thể lây nhiễm vi khuẩn/virus bằng cách ho hoặc hắt hơi.
– Vi khuẩn hoặc virus có thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.
– Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột.
– Lây qua dịch cơ thể: như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa
các vi sinh vật, ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục (đặc biệt là
các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS).
– Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector.
Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus,
nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày-ruột siêu vi, lây lan qua đường
phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc,
cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống.
HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục
và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào
một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là “biên độ vật chủ” (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn
dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể
được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch thu được nhân tạo đối với
một virus xâm nhiễm nhất định.
Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi,
lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn
tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù
vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
6. Làm thế nào để tránh nhiễm trùng
– Rửa tay thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm).
– Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.
– Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.
– Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.
– Khi bị cảm cúm, hoặc hắt hơi, sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy, khăn
cá nhân để ngăn chặn đưa virus, vi khuẩn ra ngoài môi trường. Cần luyện
thói quen ho vào cánh tay áo (nếu không có khăn giấy) và khạc nhổ vào
giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác.
– Một số sinh vật bị giết khi thức ăn được nấu chín, nhưng chúng vẫn
có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa. Hạn
chế ăn các thức ăn để qua đêm, vì dù đun sôi, vi khuẩn có thể chết,
nhưng độc tố gây bệnh do vi khuẩn tạo ra trong thực phẩm vẫn còn.
– Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục.
– Giữ phong cách sống và tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khỏe mạnh.
7. Một số bệnh do vi rút gây ra và cách phòng bệnh
Tiêu chảy do vi rút:
Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota vi rút gây ra và thường chỉ kéo dài
trong 3 – 7 ngày. Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ, hơi mệt, nôn,
tiêu chảy, ở trẻ em có quấy khóc… Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân
lỏng, màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà,
hoa cải. Là một bệnh thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn
đến mất nước, mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không
được bù nước, bù điện giải kịp thời. Hiện nay, chưa có trị liệu đặc hiệu
đối với vi-rút Rota.
Hiện nay đã có vacxin ngừa
Rotavirus, 60% nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ sơ sinh và trẻ em.
Bạn nên cho bé đi uống vacxin từ tháng thứ 2 sau sinh.
Sốt do vi rút: Các triệu chứng sốt vi rút điển hình là
ban đầu sốt nhẹ khoảng 38 – 38,5 độ C, sau đó bùng lên sốt cao đến 39
độ C hoặc cao hơn. Nhiều người đau họng, ho hắng nhẹ, đau nhức mình mẩy,
vã mồ hôi, mệt mỏi. Thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự khỏi. Về điều
trị, chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm
để chữa triệu chứng đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước
muối và nhỏ mũi thường xuyên. Không nên dùng kháng sinh.
Sốt vi rút là bệnh dễ
lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do
đó, người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ
em. Nếu mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh
bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức
khỏe. Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh
dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo, súp… ngoài ra nên uống nhiều nước,
nước lọc, nước hoa quả…
8. Cách phòng ngừa các bệnh do vi khuẩn, virus gây ra
Bạn cần có một phong cách sống lành
mạnh, tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khỏe mạnh. Vì khi hệ miễn
dịch yếu thì vi khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn. Bạn cần
thực hiện 8 điều tốt sau đây nhé:
– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
– Uống đủ nước và đúng cách.
– Ngủ tốt: ngủ đúng giờ, phòng thoáng khí, đông ấm, hè mát, ngủ sâu giấc.
– Tập tốt: Tập thể dục và vận động hàng ngày, để thúc đẩy quá trình trao đổi chất và đào thải độc tố.
– Nghĩ tốt: suy nghĩ tích cực, lạc quan, để có sức khỏe tinh thần tốt.
– Môi trường sống tốt: xanh, sạch, đẹp
– Học tốt: học các kiến thức chăm sóc, bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày.
– Làm tốt: Làm tốt công việc của bạn để có tài chính tốt đảm bảo cho bản thân và gia đình.
Chúc các bạn luôn vui khỏe và hạnh phúc!
Nguồn: khoemoivui.com
Bàn ra tán vào (1)
Binh Bon
Virus CS đã giết hại hàng triệu người trên thế giới, nay vẫn còn để di chứng lại một vài nước , may nhờ được truyền dịch "kinh tế thị trường"(tư bản) nên sống mập mạp, nhưng đang bị ung thư não bộ !
----------------------------------------------------------------------------------
Sự Khác Biệt Giữa Virus Và Vi Khuẩn, Sự Lây Lan Và Cách Phòng Ngừa
Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Chúng ta nên biết rõ sự khác nhau giữa virus
Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu
khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu. Chúng ta nên biết rõ sự khác
nhau giữa virus và vi khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi
bị bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
1. Virus (Vi rút) là gì
Vi rút là những sinh vật nhỏ li ti, muốn nhìn thấy chúng phải nhờ
kính hiển vi điện tử. Vi rút lớn lên và phát triển chỉ khi chúng sống
trong tế bào sống. Sống ngoài tế bào sống, vi rút sẽ tự hủy diệt, không
thể phát triển, trừ khi chúng sống trong tế bào động vật, thực vật hay
vi khuẩn. Vi rút gây bệnh cho người và vật do thở hay nuốt vào, đột nhập
vào lỗ hổng trên da.
Virus bao gồm vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp
phủ bảo vệ của protein. Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên
trong chúng.
Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực
vật cho tới vi khuẩn và vi khuẩn cổ. Virus được tìm thấy ở hầu hết mọi
hệ sinh thái trên Trái Đất và là dạng có số lượng nhiều nhất trong tất
cả các thực thể sinh học. Một virus có kích thước trung bình vào khoảng
1/100 kích cỡ trung bình của một vi khuẩn.
Nguồn gốc của virus:
– Dựa vào cấu tạo: Virut do sự kết hợp giữa các đại phân tử protêin
và axit nuclêic, nằm giữa ranh giới của vật thể sống và không sống.
– Dựa vào lối sống kí sinh bắt buộc: Virut bắt nguồn từ một loại vi
sinh vật sống kí sinh thoái hóa dần các cơ quan không cần thiết.
– Dựa vào cách nhân lên: Virut có thể là một đoạn gen hay một bào
quan nào đó đã tách ra hoạt động độc lập. khi kí sinh lại, chúng có thể
nhân lên hay xen cài vào nhiễm sắc thể của tế bào.
– Theo thuyết tiến hóa: Từ các chất vô cơ dưới tác dụng của nhiệt độ
cao, áp suất lớn, và những thời kì địa chất lâu dài, khí hậu biến đổi,
các chất hữu cơ hình thành từ đơn giản đến phức tạp (CH4,CO2,NH3 —>
các nucleotic —> chuỗi nu —> axít amin —> protein —> các
dạng sống) dấu mốc quan trọng là sự hình thành các hạt côa-xéc-va có màn
bán thấm, có khả năng trao đổi chất với môi trường và có khả năng sinh
sản. Đây là một dạng sống khá giống với virút. Dần dần hoàn thiện, 1
phần là những con vi rút thời nay, phần còn lại tiến hóa thành những
dạng phức tạp hơn.
2. Vi khuẩn là gì
Vi khuẩn thuộc loại đơn bào, có ở khắp mọi
nơi, chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu vi khuẩn. Hầu hết
các vi khuẩn sinh sản bằng cách phân bào ( một tế bào tách làm đôi ). Vi
khuẩn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa của người và vật,
giúp hóa mùn cây cối và súc vật chết, giúp cho tiến trình lên men hiệu
quả.
Có khoảng 40 triệu tế bào vi khuẩn trong một gram đất và hàng triệu tế bào trong một mm nước ngọt. Ước tính có khoảng 5×1030
vi khuẩn trên Trái Đất, tạo thành một lượng sinh khối vượt hơn tất cả
động vật và thực vật. Vi khuẩn có vai trò quan trọng trong tái chế chất
dinh dưỡng như cố định nitơ từ khí quyển và gây thối rữa sinh vật khác.
Trong vùng dinh dưỡng quanh cách mạch nhiệt dịch và lỗ phun lạnh, vi
khuẩn cung cấp những chất dinh dưỡng cần thiết cho sự sống bằng cách
biến đổi các hợp chất hòa tan như hydro sulphua và metan thành năng
lượng, chúng có thể phát triển mạnh ở nơi sâu nhất trên Trái Đất là rãnh
Mariana. Các nghiên cứu khác liên quan cũng chỉ ra rằng chúng có thể
sống bên trong các đá ở độ sâu 1900 feet bên dưới đáy biển và cách ngoài
khơi bờ biển tây bắc Hoa Kỳ.
3. Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus
* Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được
Vi khuẩn còn được gọi là vi trùng, chúng
hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật
khác. Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn ván, thương hàn,
giang mai, tả, bệnh lây qua thực phẩm và lao. Một số nhiễm khuẩn có thể
lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân. Bệnh do vi khuẩn
lây nhiễm qua tiếp xúc, không khí, thực phẩm, nước và côn trùng.
Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được
mầm bệnh, bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng sinh, được
chia làm hai nhóm là diệt khuẩn (bacteriocide) và kìm khuẩn
(bacteriostasis), với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể
tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn.
* Kháng sinh vô tác dụng với vi rút
Vi rút chỉ có thể sống và phát triển
được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác (người, động
vật và cây cỏ) và khi ra khỏi ký chủ, vào môi trường ngoài (nước, không
khí…) chúng sẽ không sống được lâu.
Ngày nay, khoa học đã phát hiện có
khoảng 2.000 loài vi rút khác nhau, trong đó có khoảng 300 loài có khả
năng gây bệnh cho người như AIDS, viêm gan B và C, sốt xuất huyết, bại
liệt, bệnh dại, đậu mùa, cúm…
Khác với vi khuẩn, vi rút đánh vào hệ
miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng mà
chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vắc xin. Riêng các loại vi rút gây
cúm, vì chúng biến chủng rất nhanh nên vắc – xin chế từ vi rút năm này
lại không hữu hiệu với cùng vi rút ấy cho năm tới. Vì thế các loại vắc
xin hiện có không ngừa được virus cúm A (H1N1).
Khi thời tiết chuyển mùa hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để vi rút gây bệnh.
4. Tại sao kháng sinh không điều trị được bệnh do virut?
Năm 1928, tại Bệnh viện Saint Mary
(London), Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh diệt khuẩn và
đặt tên là penicillin. Loại kháng sinh này được tìm ra từ nấm
Penicillium notatum. Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng sinh
penicillin và đến năm 1943, dự án sản xuất penicillin được Chính phủ Mỹ
chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời, cứu sống
được vô vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Từ penicillin, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng
sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ
chế tác dụng đối với vi khuẩn.
Kháng sinh đối với virut thì như thế nào?
Do cấu tạo virut hoàn toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó
không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều
so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là
lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được gọi là “phi tế bào”.
Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong
tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm, bởi vì virut không có hệ thống enzym
hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi
nảy nở được. Do đó, để tồn tại và phát triển thì virut phải xâm nhập vào
trong các tế bào khác (tế bào túc chủ) và “gửi” các vật liệu di truyền
của mình.
Khi vào cơ thể, áo protein bị loại bỏ, chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN
của nó, không có cách gì để nhận biết. Hơn nữa, kháng sinh diệt được vi
khuẩn vì vi khuẩn ký sinh ngoài tế bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên
vi khuẩn, còn virut nằm trong vật chất di truyền của tế bào túc chủ cho
nên nếu kháng sinh diệt virut thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào của túc
chủ (người hoặc động vật). Vì vậy, nếu thuốc kháng sinh muốn tấn công
virut sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận “tầm gửi” này
(tức là không tấn công vào tế bào túc chủ) và đây thực sự là cản trở
cực lớn. Hơn thế nữa, virut còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế
bào trước khi phát bệnh.
Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà
khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virut dựa trên cơ
sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm, nhân lên trong tế bào
túc chủ của virut. Tuy vậy, virut luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn
có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất lợi cho việc dùng
thuốc tiêu diệt chúng.
5. Virus và vi khuẩn lây lan như thế nào
– Một người bị lạnh có thể lây nhiễm vi khuẩn/virus bằng cách ho hoặc hắt hơi.
– Vi khuẩn hoặc virus có thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.
– Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột.
– Lây qua dịch cơ thể: như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa
các vi sinh vật, ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục (đặc biệt là
các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS).
– Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector.
Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus,
nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày-ruột siêu vi, lây lan qua đường
phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc,
cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống.
HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục
và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào
một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là “biên độ vật chủ” (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm.
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn
dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể
được tạo ra bởi vắc-xin, giúp tạo ra miễn dịch thu được nhân tạo đối với
một virus xâm nhiễm nhất định.
Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi,
lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn
tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù
vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
6. Làm thế nào để tránh nhiễm trùng
– Rửa tay thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm).
– Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.
– Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.
– Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.
– Khi bị cảm cúm, hoặc hắt hơi, sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy, khăn
cá nhân để ngăn chặn đưa virus, vi khuẩn ra ngoài môi trường. Cần luyện
thói quen ho vào cánh tay áo (nếu không có khăn giấy) và khạc nhổ vào
giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác.
– Một số sinh vật bị giết khi thức ăn được nấu chín, nhưng chúng vẫn
có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa. Hạn
chế ăn các thức ăn để qua đêm, vì dù đun sôi, vi khuẩn có thể chết,
nhưng độc tố gây bệnh do vi khuẩn tạo ra trong thực phẩm vẫn còn.
– Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục.
– Giữ phong cách sống và tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khỏe mạnh.
7. Một số bệnh do vi rút gây ra và cách phòng bệnh
Tiêu chảy do vi rút:
Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota vi rút gây ra và thường chỉ kéo dài
trong 3 – 7 ngày. Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ, hơi mệt, nôn,
tiêu chảy, ở trẻ em có quấy khóc… Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân
lỏng, màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà,
hoa cải. Là một bệnh thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn
đến mất nước, mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không
được bù nước, bù điện giải kịp thời. Hiện nay, chưa có trị liệu đặc hiệu
đối với vi-rút Rota.
Hiện nay đã có vacxin ngừa
Rotavirus, 60% nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ sơ sinh và trẻ em.
Bạn nên cho bé đi uống vacxin từ tháng thứ 2 sau sinh.
Sốt do vi rút: Các triệu chứng sốt vi rút điển hình là
ban đầu sốt nhẹ khoảng 38 – 38,5 độ C, sau đó bùng lên sốt cao đến 39
độ C hoặc cao hơn. Nhiều người đau họng, ho hắng nhẹ, đau nhức mình mẩy,
vã mồ hôi, mệt mỏi. Thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự khỏi. Về điều
trị, chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm
để chữa triệu chứng đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước
muối và nhỏ mũi thường xuyên. Không nên dùng kháng sinh.
Sốt vi rút là bệnh dễ
lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do
đó, người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ
em. Nếu mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh
bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức
khỏe. Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh
dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo, súp… ngoài ra nên uống nhiều nước,
nước lọc, nước hoa quả…
8. Cách phòng ngừa các bệnh do vi khuẩn, virus gây ra
Bạn cần có một phong cách sống lành
mạnh, tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khỏe mạnh. Vì khi hệ miễn
dịch yếu thì vi khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn. Bạn cần
thực hiện 8 điều tốt sau đây nhé:
– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
– Uống đủ nước và đúng cách.
– Ngủ tốt: ngủ đúng giờ, phòng thoáng khí, đông ấm, hè mát, ngủ sâu giấc.
– Tập tốt: Tập thể dục và vận động hàng ngày, để thúc đẩy quá trình trao đổi chất và đào thải độc tố.
– Nghĩ tốt: suy nghĩ tích cực, lạc quan, để có sức khỏe tinh thần tốt.
– Môi trường sống tốt: xanh, sạch, đẹp
– Học tốt: học các kiến thức chăm sóc, bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày.
– Làm tốt: Làm tốt công việc của bạn để có tài chính tốt đảm bảo cho bản thân và gia đình.
Chúc các bạn luôn vui khỏe và hạnh phúc!
Nguồn: khoemoivui.com