Tham Khảo
Sự điên khùng của một bạo chúa
Gesa Gottschalk
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
KHÔNG CHỈ TRÊN ĐỒNG RUỘNG là xảy ra cuộc đấu tranh vì tương lai của Trung Quốc. Ai muốn so mình với các quốc gia công nghiệp đều phải cần đến thép. Trong vòng 15 năm, sản xuất cần phải tăng lên gấp tám lần; trong đó, trước hết là giới nông dân phải làm sao cho ý muốn của Mao được thỏa mãn.
Những ai trong số đàn ông của Judong mà không làm việc ở đập nước thì phải đi lên núi để thu nhặt đá cho một lò thô sơ dùng luyện thép, những cái bây giờ thành hình ở khắp nơi trong Trung Quốc. Ở những nơi không có mỏ sắt, nông dân quẳng tất cả những gì mà họ tìm được vào trong lò như là nguyên liệu: xoong nồi, cày, xe đạp, sắt phế liệu. Năm 1958, tổng cộng có 140.000 tấn dụng cụ nông nghiệp đã bị nấu chảy ra trong tỉnh Hà Nam. Để giữ được ngọn lửa, người nông dân đốt cả bàn ghế và kèo nhà. Rừng rậm cũng trở thành nạn nhân của chiến dịch thép, từ đấy đất không còn gì để bảo vệ trước mưa gió nữa.
Nhưng trong nhiều tỉnh, hơn hai phần ba lượng thép được sản xuất như thế lại có chất lượng thấp: không thể sản xuất cả xe máy cày lẫn máy bơm hay cái cày từ đó.
Trong mùa Thu năm 1958, một năm của những chiến dịch không ngừng nghỉ mới chấm dứt. Bây giờ, các dự đoán phải được thực hiện. Thế nhưng nhiều thiết bị đã bị nấu chảy, nhiều người đàn ông vẫn còn ở trên các công trình xây dựng. Cây trồng đã chết vì chúng được trồng quá sâu hay quá gần nhau. Côn trùng tấn công đồng ruộng, vì những kẻ thù tự nhiên của chúng, chim sẻ, đã bị xua đuổi cho tới chết.
Thế nhưng Đảng cứ cương quyết buộc phải thực hiện những con số trong kế hoạch đã báo cáo. Và chính người nông dân Hà Nam thì lại hầu như không thể hy vọng được nhân nhượng.
Cả mùa Hè qua, họ đã nghe tuyên truyền chống lại người cựu lãnh đạo tỉnh Pan Fusheng. Người này ngay từ năm 1957 đã phê bình việc tập thể hóa là quá vội vã và yêu cầu trừng phạt những cán bộ nào đánh chết nông dân. Ông ấy cũng chỉ thực hiện có giới hạn một “Chiến dịch chống khuynh hữu”, vì ông ấy lo ngại cho mùa màng.
Giờ đây, Pan đã bị cho thôi chức vụ – và người kế nghiệp ông ấy Wu Zhipu muốn chứng tỏ lòng trung thành của mình, bằng cách thực hiện cuộc Đại Nhảy Vọt một cách hết sức cực đoan tại Hà Nam. Ông ấy hăm hở theo dõi những người được cho là “hữu khuynh” trong tỉnh của mình, qua đó dấy lên một bầu không khí của sự sợ hãi. Không ai còn dám nói đến việc cung cấp không tốt hay về các dự đoán quá mức. Trong lúc đó, không ai dối trá các thành tích sản xuất táo tợn như Wu Zhipu.
Qua đó, Hà Nam trở thành tỉnh gương mẫu, được báo chí ca ngợi, và chính quyền của nó được Mao ưa thích. Wu gắn kết số phận của mình với cuộc Đại Nhảy Vọt – với những hậu quả chết người cho nông dân tỉnh Hà Nam.
Vào cuối mùa Hè 1958, Mao dự định rằng Trung Quốc sẽ có được một vụ thu hoạch kỷ lục. Trong những chuyến đi xuyên qua đất nước, ông ấy đã nhìn thấy những đống ngũ cốc ở cạnh đường, những cánh đồng lúa xanh tươi, xa ngút tầm mắt. Có lẽ ông ấy đã không nhận ra, rằng nông dân đã tuân theo mệnh lệnh của cán bộ mà trồng lại cây dọc theo tuyến đường đi của ông ấy, rằng vì ông mà họ đã đổ đống lúa mì ở ven đường – chứ không phải vì kho chứa đã đầy. Ông chủ tịch dường như hạnh phúc. Ông ấy phấn khởi khuyên nông dân nên ăn năm lần trong ngày và trong tương lai nên trồng trọt ít đi. Giới lãnh đạo Đảng đã thật sự bỏ hoang đồng ruộng trong những năm sau đó ở khắp nơi, để giảm tải cho các kho dự trữ.
Thế nhưng vụ thu hoạch kỷ lục đã không đến.
Người nông dân phải đưa cho nhà nước phần ngũ cốc thừa. Nhưng Đảng đã tính toán phần thừa này dựa trên những con số sai lầm. Và không nơi nào khác trong Trung Quốc mà chúng lại không đúng nhiều như ở Hà Nam, thay vì 35 triệu tấn ngũ cốc theo dự đoán chỉ thu hoạch được có 12,5 triệu tấn.
Judong không thể hoàn thành kế hoạch. Hầu như không còn ngũ cốc trong làng nữa. Người nông dân phải tự bào chữa hàng giờ liền trước các cán bộ trong những buổi “họp kiểm điểm”, ngày này qua ngày khác. Họ bị trói lại và bị đe dọa. Có lần Wu Tiancheng đã phải đứng bảy ngày liên tục, cho tới khi ông ấy nhận rằng có ngũ cốc được dấu ở trong làng của ông ấy. Thế nhưng những cái bây giờ được giao đi từ Judong như là “phần thừa” lại là hạt giống cũng như lương thực cho người dân làng.
Người nông dân học cách thuật lại cho các cán bộ những lời nói dối mà họ muốn nghe: chúng tôi sống tốt, chúng tôi có đủ ăn và đủ uống. Thật sự thì Wu Tiancheng phải hạn chế phần ăn trong căn bếp nhân dân. Những ngày dư thừa đã qua rồi. Chẳng bao lâu sau đó, nhà ăn chỉ còn phát cháo – nếu như nói chung là còn chia cái gì đấy – với một cục bột hấp bé tí ở trong đấy.
Để nuôi dưỡng gia đình mình, Wu lấy cắp từ kho dự trữ hay lén ra đồng, đào khoai lang, đốt lửa trong một cái lỗ, nướng những thứ có được và ăn chúng ngay tại chỗ. Những người khác lấy đậu chưa chín từ đồng ruộng, giã nát chúng ra và nấu chúng thành một món xúp bột.
Họ chỉ bí mật nấu những bữa ăn đó: vì khi cán bộ phát hiện ra khói ở đâu đó thì họ sẽ xông vào ngôi nhà đó và tịch thu tất cả những thứ có thể ăn được.
Trong khi nạn đói lan ra trong các làng mạc, giới lãnh đạo Đảng nhìn các con số thu hoạch không đạt được như là một vấn đề về ý thức hệ: người nông dân dấu ngũ cốc vì họ sợ nhận được quá ít lương thực. Sau đấy, tuy Mao đã phê bình những cán bộ quá sốt sắng và ca ngợi tính tinh khôn của nông dân. Nhưng đồng thời ông ấy cũng yêu cầu các cán bộ phải trưng thu cho đến một phần ba vụ mùa. Lại chính là bây giờ, lúc họ ít khi có ít như thế này thì những người nông dân phải giao ra nhiều như chưa từng có. Mao muốn nuôi dưỡng con người trong thành phố và làm tròn các hợp đồng quốc tế của Trung Quốc.
Vì nước Cộng hòa Nhân dân đã mua, trước hết là từ nước ngoài xã hội chủ nghĩa: cần cẩu, xe tải, động cơ, máy bơm, máy gặt đập, cả toàn bộ nhà máy thép, nhà máy xi măng, nhà máy lọc dầu, nhà máy điện,
Thế nhưng những người Cộng sản hầu như không có ngoại tệ để trả tiền cho hàng hóa. Thay vào đó, họ tiến hành kinh doanh trao đổi – trước hết là với lương thực thực phẩm: như thịt cho Liên bang Xô viết, gạo và dầu ăn cho Đông Đức.
Giới lãnh đạo quanh Mao cương quyết thực hiện các cam kết của họ, ngay cả khi người dân của chính họ phải trả giá. Nhận định tình hình hoàn toàn sai lầm, các quan chức cao cấp trong Đảng đề nghị giải quyết vấn đề xuất khẩu bằng cách mỗi một người Trung Quốc từ bỏ một vài quả trứng, nửa cân thịt và một ít ngũ cốc.
Bây giờ, có hàng triệu người từ các ngôi làng của những người đang đói ăn ở khắp nơi trong nước bỏ vào thành phố bất chấp lệnh cấm, nhiều người cố gắng bỏ trốn qua biên giới với Miến Điện hay Việt Nam hay chạy đến những tỉnh hẻo lánh. Nông dân vùng Tín Dương nhận được thư từ của họ hàng và bạn bè từ Thanh Hải và Cam Túc. Họ nhận được tiền và những chỉ dẫn cụ thể cho một chuyến bỏ trốn.
Có lẽ là một lá thư như thế đã khiến cho Wu Tiancheng quyết định bỏ Judong ra đi.
Bằng mưu mẹo và trộm cắp, người nông dân trẻ tuổi đó đã mang gia đình của anh ấy qua được mùa Đông. Nhưng anh ấy nhìn thấy sự khốn khó xung quanh mình ngày càng lớn hơn. Anh ấy cần phải làm gì?
Anh ấy có quen biết ở trong tỉnh Thanh Hải tương đối thưa thớt dân cư. Ai làm việc ở đấy sẽ nhận được phần ăn đều đặn. Tin tức đấy chắc hẳn phải giống như những tín hiệu cứu thoát cho Wu. Anh ấy bàn bạc với bạn bè của anh ấy. Thế rồi, trong mùa Xuân 1959, anh ấy dẫn những người đàn ông trẻ thuộc nhóm sản xuất của mình đến tuyến đường sắt.
(Còn tiếp)
Gesa Gottschalk
Phan Ba dịch
Bàn ra tán vào (0)
Các tin đã đăng
Sự điên khùng của một bạo chúa
Gesa Gottschalk
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO EPOCHE xuất bản
KHÔNG CHỈ TRÊN ĐỒNG RUỘNG là xảy ra cuộc đấu tranh vì tương lai của Trung Quốc. Ai muốn so mình với các quốc gia công nghiệp đều phải cần đến thép. Trong vòng 15 năm, sản xuất cần phải tăng lên gấp tám lần; trong đó, trước hết là giới nông dân phải làm sao cho ý muốn của Mao được thỏa mãn.
Những ai trong số đàn ông của Judong mà không làm việc ở đập nước thì phải đi lên núi để thu nhặt đá cho một lò thô sơ dùng luyện thép, những cái bây giờ thành hình ở khắp nơi trong Trung Quốc. Ở những nơi không có mỏ sắt, nông dân quẳng tất cả những gì mà họ tìm được vào trong lò như là nguyên liệu: xoong nồi, cày, xe đạp, sắt phế liệu. Năm 1958, tổng cộng có 140.000 tấn dụng cụ nông nghiệp đã bị nấu chảy ra trong tỉnh Hà Nam. Để giữ được ngọn lửa, người nông dân đốt cả bàn ghế và kèo nhà. Rừng rậm cũng trở thành nạn nhân của chiến dịch thép, từ đấy đất không còn gì để bảo vệ trước mưa gió nữa.
Nhưng trong nhiều tỉnh, hơn hai phần ba lượng thép được sản xuất như thế lại có chất lượng thấp: không thể sản xuất cả xe máy cày lẫn máy bơm hay cái cày từ đó.
Trong mùa Thu năm 1958, một năm của những chiến dịch không ngừng nghỉ mới chấm dứt. Bây giờ, các dự đoán phải được thực hiện. Thế nhưng nhiều thiết bị đã bị nấu chảy, nhiều người đàn ông vẫn còn ở trên các công trình xây dựng. Cây trồng đã chết vì chúng được trồng quá sâu hay quá gần nhau. Côn trùng tấn công đồng ruộng, vì những kẻ thù tự nhiên của chúng, chim sẻ, đã bị xua đuổi cho tới chết.
Thế nhưng Đảng cứ cương quyết buộc phải thực hiện những con số trong kế hoạch đã báo cáo. Và chính người nông dân Hà Nam thì lại hầu như không thể hy vọng được nhân nhượng.
Cả mùa Hè qua, họ đã nghe tuyên truyền chống lại người cựu lãnh đạo tỉnh Pan Fusheng. Người này ngay từ năm 1957 đã phê bình việc tập thể hóa là quá vội vã và yêu cầu trừng phạt những cán bộ nào đánh chết nông dân. Ông ấy cũng chỉ thực hiện có giới hạn một “Chiến dịch chống khuynh hữu”, vì ông ấy lo ngại cho mùa màng.
Giờ đây, Pan đã bị cho thôi chức vụ – và người kế nghiệp ông ấy Wu Zhipu muốn chứng tỏ lòng trung thành của mình, bằng cách thực hiện cuộc Đại Nhảy Vọt một cách hết sức cực đoan tại Hà Nam. Ông ấy hăm hở theo dõi những người được cho là “hữu khuynh” trong tỉnh của mình, qua đó dấy lên một bầu không khí của sự sợ hãi. Không ai còn dám nói đến việc cung cấp không tốt hay về các dự đoán quá mức. Trong lúc đó, không ai dối trá các thành tích sản xuất táo tợn như Wu Zhipu.
Qua đó, Hà Nam trở thành tỉnh gương mẫu, được báo chí ca ngợi, và chính quyền của nó được Mao ưa thích. Wu gắn kết số phận của mình với cuộc Đại Nhảy Vọt – với những hậu quả chết người cho nông dân tỉnh Hà Nam.
Vào cuối mùa Hè 1958, Mao dự định rằng Trung Quốc sẽ có được một vụ thu hoạch kỷ lục. Trong những chuyến đi xuyên qua đất nước, ông ấy đã nhìn thấy những đống ngũ cốc ở cạnh đường, những cánh đồng lúa xanh tươi, xa ngút tầm mắt. Có lẽ ông ấy đã không nhận ra, rằng nông dân đã tuân theo mệnh lệnh của cán bộ mà trồng lại cây dọc theo tuyến đường đi của ông ấy, rằng vì ông mà họ đã đổ đống lúa mì ở ven đường – chứ không phải vì kho chứa đã đầy. Ông chủ tịch dường như hạnh phúc. Ông ấy phấn khởi khuyên nông dân nên ăn năm lần trong ngày và trong tương lai nên trồng trọt ít đi. Giới lãnh đạo Đảng đã thật sự bỏ hoang đồng ruộng trong những năm sau đó ở khắp nơi, để giảm tải cho các kho dự trữ.
Thế nhưng vụ thu hoạch kỷ lục đã không đến.
Người nông dân phải đưa cho nhà nước phần ngũ cốc thừa. Nhưng Đảng đã tính toán phần thừa này dựa trên những con số sai lầm. Và không nơi nào khác trong Trung Quốc mà chúng lại không đúng nhiều như ở Hà Nam, thay vì 35 triệu tấn ngũ cốc theo dự đoán chỉ thu hoạch được có 12,5 triệu tấn.
Judong không thể hoàn thành kế hoạch. Hầu như không còn ngũ cốc trong làng nữa. Người nông dân phải tự bào chữa hàng giờ liền trước các cán bộ trong những buổi “họp kiểm điểm”, ngày này qua ngày khác. Họ bị trói lại và bị đe dọa. Có lần Wu Tiancheng đã phải đứng bảy ngày liên tục, cho tới khi ông ấy nhận rằng có ngũ cốc được dấu ở trong làng của ông ấy. Thế nhưng những cái bây giờ được giao đi từ Judong như là “phần thừa” lại là hạt giống cũng như lương thực cho người dân làng.
Người nông dân học cách thuật lại cho các cán bộ những lời nói dối mà họ muốn nghe: chúng tôi sống tốt, chúng tôi có đủ ăn và đủ uống. Thật sự thì Wu Tiancheng phải hạn chế phần ăn trong căn bếp nhân dân. Những ngày dư thừa đã qua rồi. Chẳng bao lâu sau đó, nhà ăn chỉ còn phát cháo – nếu như nói chung là còn chia cái gì đấy – với một cục bột hấp bé tí ở trong đấy.
Để nuôi dưỡng gia đình mình, Wu lấy cắp từ kho dự trữ hay lén ra đồng, đào khoai lang, đốt lửa trong một cái lỗ, nướng những thứ có được và ăn chúng ngay tại chỗ. Những người khác lấy đậu chưa chín từ đồng ruộng, giã nát chúng ra và nấu chúng thành một món xúp bột.
Họ chỉ bí mật nấu những bữa ăn đó: vì khi cán bộ phát hiện ra khói ở đâu đó thì họ sẽ xông vào ngôi nhà đó và tịch thu tất cả những thứ có thể ăn được.
Trong khi nạn đói lan ra trong các làng mạc, giới lãnh đạo Đảng nhìn các con số thu hoạch không đạt được như là một vấn đề về ý thức hệ: người nông dân dấu ngũ cốc vì họ sợ nhận được quá ít lương thực. Sau đấy, tuy Mao đã phê bình những cán bộ quá sốt sắng và ca ngợi tính tinh khôn của nông dân. Nhưng đồng thời ông ấy cũng yêu cầu các cán bộ phải trưng thu cho đến một phần ba vụ mùa. Lại chính là bây giờ, lúc họ ít khi có ít như thế này thì những người nông dân phải giao ra nhiều như chưa từng có. Mao muốn nuôi dưỡng con người trong thành phố và làm tròn các hợp đồng quốc tế của Trung Quốc.
Vì nước Cộng hòa Nhân dân đã mua, trước hết là từ nước ngoài xã hội chủ nghĩa: cần cẩu, xe tải, động cơ, máy bơm, máy gặt đập, cả toàn bộ nhà máy thép, nhà máy xi măng, nhà máy lọc dầu, nhà máy điện,
Thế nhưng những người Cộng sản hầu như không có ngoại tệ để trả tiền cho hàng hóa. Thay vào đó, họ tiến hành kinh doanh trao đổi – trước hết là với lương thực thực phẩm: như thịt cho Liên bang Xô viết, gạo và dầu ăn cho Đông Đức.
Giới lãnh đạo quanh Mao cương quyết thực hiện các cam kết của họ, ngay cả khi người dân của chính họ phải trả giá. Nhận định tình hình hoàn toàn sai lầm, các quan chức cao cấp trong Đảng đề nghị giải quyết vấn đề xuất khẩu bằng cách mỗi một người Trung Quốc từ bỏ một vài quả trứng, nửa cân thịt và một ít ngũ cốc.
Bây giờ, có hàng triệu người từ các ngôi làng của những người đang đói ăn ở khắp nơi trong nước bỏ vào thành phố bất chấp lệnh cấm, nhiều người cố gắng bỏ trốn qua biên giới với Miến Điện hay Việt Nam hay chạy đến những tỉnh hẻo lánh. Nông dân vùng Tín Dương nhận được thư từ của họ hàng và bạn bè từ Thanh Hải và Cam Túc. Họ nhận được tiền và những chỉ dẫn cụ thể cho một chuyến bỏ trốn.
Có lẽ là một lá thư như thế đã khiến cho Wu Tiancheng quyết định bỏ Judong ra đi.
Bằng mưu mẹo và trộm cắp, người nông dân trẻ tuổi đó đã mang gia đình của anh ấy qua được mùa Đông. Nhưng anh ấy nhìn thấy sự khốn khó xung quanh mình ngày càng lớn hơn. Anh ấy cần phải làm gì?
Anh ấy có quen biết ở trong tỉnh Thanh Hải tương đối thưa thớt dân cư. Ai làm việc ở đấy sẽ nhận được phần ăn đều đặn. Tin tức đấy chắc hẳn phải giống như những tín hiệu cứu thoát cho Wu. Anh ấy bàn bạc với bạn bè của anh ấy. Thế rồi, trong mùa Xuân 1959, anh ấy dẫn những người đàn ông trẻ thuộc nhóm sản xuất của mình đến tuyến đường sắt.
(Còn tiếp)
Gesa Gottschalk
Phan Ba dịch