Lịch Sử, Quân Sử & Huyền Thoại
Sư quốc doanh
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân
Sau khi trả lời ông Đinh Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận được một loạt thư, hỏi:
– Bà có phảI phật tử không? Chúng tôi thấy nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết đạo Phật.
– Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là phật tử?…..
Câu trả lời của tôi là:Tại sao không?
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và
triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát
triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân. Bất cứ cá nhân nào cũng có
một gốc rễ văn hóa, cũng mang một nhãn hiệu bản thể gọi là quốc tịch. Do
đó khi trong một con người cùng tồn tại song song hai tình yêu lớn: tôn
giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ vọng, hai niềm
tin.
Vì thế, câu trả lời của tôi là: Tại sao không?
Tuy nhiên, tôi chỉ là phật tử theo cách của riêng tôi. Tôi không đi lễ
chùa. Chẳng phải là cố tình tìm một cách tồn tại độc đáo nhưng vì tôi
không có khả năng thỏa hiệp, cho dù đó là một sự thỏa hiệp dễ chịu nhất.
Cách đây chừng mười bảy mười tám năm một ngày Xuân tôi đi viếng cảnh
chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải
chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là
nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng
một lần, siêng năng nhất là mùa xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn
may mắn sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ
trương”tiêu diệt tàn dư phong kiến” của chính quyền cộng sản. Không có
gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa
trông mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những cây đào và cây mai chen
vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và khi mùa thu đến, đám cành
trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một vẻ đẹp u
sầu và nghiêm cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
Hình minh họa |
Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên
bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với
chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn
dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà”sư nữ” ngoại tam tuần mắt long sòng
sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:
– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!….
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:
– Mày chết đi…..
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi bên.
Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào “ngang hông” bởi thông thường
khách thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng
tôi quen mọi ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để
hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng”mô phật” như lần trước cô ta ném
cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi
ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng
nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền
1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng
trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các
chân tu ở lại, thay cụ chủ trì.”Nhân sự” do”bên trên” đưa xuống.
Vậy cái gì là “bên trên” ?
Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp
chùa chiền xứ sở? …. Chẳng có gì bí mật cả,”bên trên” là A 25 Cục bảo
vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi
để”yểm” Hội Phật giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.
Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng
nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh,
tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là”tàn tích của chế độ phong kiến”.
Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các
tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là
Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay
thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất
cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian
không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ
theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương
Đông đứng chơ vơ không biết từ nay”người cầm lái vĩ đại” của họ sẽ là
ai? …
Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền
chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy
bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ
và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như
thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá,
nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu
cầu sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng
hơn trong vai trò”bảo vệ nền chuyên chính”. Nhiệm vụ của họ là”khống
chế hội phật giáo” biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của
quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ….điều này nữa, các
tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh
“mê tín” kia. Vậy là đội quân “sư nhà nước” được hình thành. Nguồn đào
tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển
lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ … có thành phần
cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của
Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này
được”tráng men” bằng lý thuyết đạo Phật và trước hết các phương pháp
niệm kinh, hành lễ để “vào nghề”.
Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ”tôi tớ trung thành”được
quyền thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ trục
lợi”những khát vọng tâm linh” của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần
phấp phới cưỡi xe vù vù đi “họp kín”. Họp kín ở đây tức là họp “giao
ban” ngành dọc A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những
cọc tiền thu được từ các hòm công đức là “không thể rành mạch”vì các sư
còn phải mang về quê xây nhà tầng và lo cho các con học đại học trong
nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê
quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định và ngược lại … So với các nghề
khác trong Bộ Nội vụ,”nghề làm sư” là béo bở, chỉ thua kém “Cục buôn lậu
ma túy” thôi.
Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.
Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi
cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu.
Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một ví
dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ.
Vậy tôi xin trở lại lý do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai thập kỷ
nay, sau kỷ niệm đau buồn với sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một
lần nữa bọn”thầy chùa đểu”.
Nhưng chưa hết.
Tôi không đi lễ chùa cũng còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn “đao
phủ” đi “đánh quả” thần, phật. Gọi là “đao phủ” vì chính lũ người đó
trước đây đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng
phật làm củi…. giờ đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi
người.
Vì sao có sự đổi hướng quay chiều? ….
Tôi sẽ trả lời tường tận nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng:
– Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này:
Bùi San cùng với Trần Hoàn
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Bùi San: bí thư tỉnh ủy. Trần Hoàn: trưởng ty văn hóa. Công trình chung
của họ là hủy diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn tế
Trời Đất và tiên vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ Văn
hóa, vợ con ông ta xem bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt lễ
hậu là Bia Bà để cầu cho ông được”vững vàng”. Riêng tôi, tôi nhìn thấy
ông nhiều lần cắp cặp đứng trước cổng nhà các vị”Bộ Chính trị”. Quả là
một cuộc hiệp đồng tác chiến; vợ con ông đi đút lót”thần, phật” còn ông
đi hầu hạ các”thánh sống”để ông được duy trì thêm 4 năm trên ghế bộ
trưởng vì ông đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp trên của ông đã chấm
ông “vào sổ hưu”.
– Hai là, thời kỳ Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến
dịch”Thanh Hóa hóa bộ máy cầm quyền” ông ta đã tranh thủ đào bới ngân
khố quốc gia để xây dựng lại, mở mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin
tưởng đó là tổ tiên trực tiếp, là thần hộ mạng cho mình.
– Ba là, vài năm gần đây nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố rằng họ
Trần sắp sửa bước vào thời kỳ “đại phát” vì Trần Đức Lương vừa cho xây
khu mộ cổ họ Trần tại Thái Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế “rồng
phục” sao cho ít nhất, chín đời họ Trần sẽ liên tục “làm vua”, v.v. và
v.v.
Theo logic, ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy bọn cầm
quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ Mã …. sẽ lần lượt vét ngân khố quốc gia
để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng dòng tộc của chúng với một chủ
đích hoặc ngụy trang hoặc lộ liễu: Duy trì quyền lực.
Quyền lợi, đó là căn nguyên sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm quyền.
Marx và Lénine hết sài được thì quay sang “đầu tư, đánh quả” thần, phật.
Hạng người ti tiện, lòng tham ngùn ngụt như vậy làm gì có “tâm hồn tôn
giáo”?…, nhất là một tôn giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc
trên tinh thần khắc kỷ như đạo Phật? … Không phải vô cớ mà so với đạo
Hồi và Thiên Chúa giáo, đạo Phật có ít tín đồ hơn. Con đường dốc khó
trèo. Con đường dốc ấy làm sao tương hợp được với bọn cởi áo đao phủ
khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay trang phục sân khấu, không
một chút ngượng ngùng, không mảy may hối tâm, không một lần thành khẩn
trước tha nhân.
Lẽ ra, chính quyền Việt Nam phải xin lỗi dân chúng một cách công khai,
một cách thanh thật, một cách nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng
miếu, đào bới san ủi mồ mả tiền nhân của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ
đã phải làm điều đó trước khi đặt chân lên thềm những đền chùa mà dân
chúng gom góp xây dựng lại.
Nhưng cái ngã mạn của kẻ cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ không
cần xin lỗi ai bởi vì họ tự nhận là “Đảng thần thánh và vĩ đại”. Và vì
“thần thánh và vĩ đại” họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân từng
cảnh báo:
“Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành”
Tôi chuyển sang mục thứ hai: Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi.
Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng không tin tuyệt đối vào lòng từ bi.
Đối với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước song
song với một trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.
Khi lòng từ bi không được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng
đưa ta đến tai họa. Chỉ cần nhớ lại tích “Đường Tam Tạng đi lấy kinh” là
đủ. Đã bao nhiêu lần vị sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để
xiết chặt vòng kim cô làm Tôn Ngộ Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và
cũng chớ nên quên rằng bao nhiêu lần ông ta mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn
Hành Giả đi giải cứu.
Khi thiếu khả năng chiến đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của chúng ta
biến thành chất dầu nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và
chính cỗ máy này sẽ nghiền nát chúng sinh. Một dân tộc hiền hòa như dân
tộc Tây Tạng đã mất nước vì thiếu khả năng chiến đấu. Quân lính Trung
Quốc không chỉ xâm chiếm, tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng
vào đầu vào họng các nhà sư và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức
tra tấn thời Trung cổ.
Thêm một ví dụ nữa: Ai cũng biết ở Khơ-me đạo Phật là quốc giáo. Vậy mà
chính tại xứ sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn hai triệu người bị
giết dưới chính quyền Khơ-me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều cuộc tán sát
man rợ lại xảy ra chính tại các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng biến
thành địa ngục và giờ đây, thành một thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của
các nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần tám tháng tù, tôi nhớ nhất câu này:
– Chị sẽ được ra tương ớt! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Không phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì thái độ của những người
nói. Họ có một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên đáng sợ. Tôi không
thù ghét họ: một đại tá, một đại úy, một trung úy. Có lẽ về bản chất họ
không phải người ác người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm cái
việc”nghiền người khác ra tương ớt”. Vì thế, đối với họ, việc nghiền ai
đó ra tương ớt là phận sự, là phương tiện sinh tồn, giống như người thợ
phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp xào món rau.
– Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Mỗi lần nghe câu nói đó, tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh phúc
thanh thản của “Gã nông phu vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên nếp
cỏ ngủ ngon lành”.
Đương nhiên, họ chuẩn bị mọi sự để cho tôi ra”tương ớt”. Nhưng không may
cho họ, một tuần sau cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của chủ
nghĩa xã hội sụp đổ tan tành, cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái xanh
tái xám, mặt họ hiện lên nỗi hoang mang thê thảm, không còn chút tự tin.
Họ phải dừng tay, không dám cho tôi ra “tương ớt”…. Và rồi, với 95 triệu
franc viện trợ không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà nước
cộng sản đã thả tôi ra….
Hơn một thập kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh”tương ớt”. Vì cỗ
máy nghiền con người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền
những người khác. Cả một đội ngũ”thợ nghiền” tiếp tục nuôi sống bản thân
cũng như vợ con họ bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng lòng
từ bi hỉ xả như vũ khí tối hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy nghiền
này chăng? ….
?….?….
Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn, khả năng con người cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.
Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh của Phật Tử cũng như của giáo dân không thể chỉ
tựa trên sức mạnh của lòng từ ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có chiến
lược và chiến thuật, tùy cơ ứng biến. Và dù đứng dưới bóng Phật hay
bóng Chúa, con người cũng cần có một bộ óc phán đoán phân tích sắc bén
cộng với một khả năng đủ cho việc chống lại cái ác, bên cạnh lòng hỉ xả
từ bi,
Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ trương
đạo Phật trở thành “quốc giáo”, tôi đấu tranh cho một nền dân chủ đích
thực mà nền dân chủ đích thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước thế tục
trong đó tất thảy các tôn giáo đều được bảo vệ một cách bình đẳng nhưng
trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa vụ làm công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường xuyên
các chính phủ thối nát, lạm nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn tại
đúng với tư cách tôn giáo, đền chùa và nhà thờ mới tồn tại như những
chốn thiêng liêng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cõi người mà không
bị biến thành đồn bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường hào trá hình ức
hiếp người tu hành và bóc lột chúng sinh.
Bây giờ, là một câu hỏi có tính riêng tư:
– Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền?
Tôi xin trả lời:
– Sự đưa dẫn của số phận.
Đúng như vậy. Tất cả những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không trù
tính. Tất cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn
suốt phần đời tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số
phận. Tuổi thơ, tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thành tôi
cũng không hình dung được có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ
này. Tương tự như thế, chưa bao giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà
Phật.
Sau cái chết của cha tôi 1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu hình.
Vì sao, chính tôi cũng không rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng đời
người thường chưa chất những ngộ nhận, những nhầm tưởng, những bí ẩn,
những che giấu…. tất cả những gì mà ta thường gọi là “bờ lú bến mê”.
Trong quan hệ giữa con người với con người, những mê lú thường đem lại
khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ đau càng lớn. Bởi vì, chỉ
những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta đau đớn. Phật tổ
Như Lai dạy:”Con cái là những sợi xích bằng vàng”. Với tôi, sự thật dạy
thêm vế đối:”Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc”. Trong gia đình tôi,
tồn tại một nguyên tắc “Gia pháp cao hơn quốc pháp”. Vì lẽ đó, trong hơn
một thập kỷ cha tôi đã áp dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật quân đội
để ép tôi sống với người chồng cũ, vì “bỏ chồng là điếm nhục gia
phong”…..Có lẽ vì những ẩn ức đó tôi bỗng có nhu cầu siêu hình sau cái
chết của ông, dù người âm kẻ dương chúng tôi vẫn là cha con và vẫn có
nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì những ẩn ức đó cuộc gặp gỡ và thờ
phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh duyên, một may mắn vĩ đại
và thần bí.
Là người viết văn tôi biết rằng với thời gian và qua thời gian tất thảy
các nhân vật lớn thuộc mọi tôn giáo đều được thần thoại hóa. Nhưng cho
dù tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc, mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt chân
dung tôi vẫn thấy Phật Bà là một nhân cách vĩ đại tỏa sáng. Bị chinh
phục hoàn toàn vì nàng công chúa từ bỏ cuộc đời xa hoa của hoàng cung,
chạy trốn sự truy đuổi của quân lính triều đình, cưỡi hổ về phương Nam
tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy nhiên phương Tây có câu:”Mọi con đường đều dẫn đến Roma”.
Tôi tin rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói chung
cũng như cửa Phật nói riêng. Tùy theo duyên phận từng người, họ có thể
dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn, lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay
nông, thành thực hay chiếu lệ, v.v.
Đối với tôi, đạo Phật đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng: Tính vô thường
của Tồn Sinh, luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt,v.v. Nhưng
trước tất thảy mọi triết thuyết, đạo Phật dạy ta xử lý ra sao trong các
mối mâu thuẫn nan giải của đời người. Lịch sử cá nhân của Quán Âm Bồ
Tát đem cho tôi một sức mạnh mới mẻ và sự thanh thản triệt để trong tâm
hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con người vĩ đại đã giải quyết ra sao
mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối cảnh tình huyết nhục.
Tôi hiểu rằng ngoại trừ ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người phải
tự mình sinh đẻ ra mình, và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự
quyết định cho nhân cách cũng như sự nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải vinh quang cũng không phải chiến thắng mà chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc “Chuyện Quan
Âm”. Cho nên tôi như được hồi sinh khi tẩy xóa mọi ẩn ức, thanh lọc tâm
hồn. Tôi cúi đầu trước vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và chỉ
ông mới tạo ra tôi nhưng tôi vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn, không
mảy may nao núng. Tôi cũng không bao giờ ép duyên hay can thiệp vào đời
tư của các con tôi. Và bài học lớn lao ấy tôi học được từ Phật bà Quan
Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa tôi đến cửa Thiền.
Cuối cùng, để cảm ơn tất cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật tử tôi xin phép nói rằng:
Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền chùa,
mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà
mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo… Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống
tôi sẽ lại “vãn cảnh chùa”, để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh
cao của hoa mộc hoa sói, hoa lan…. những loài hoa chỉ được phép trồng
nơi thiêng liêng hương khói.
Dương thu Hương
(Việt Thức)
Bàn ra tán vào (2)
Moirocongsan
HOA KHAI KIEN PHAT !
----------------------------------------------------------------------------------
người Saigon trước 1975
Đừng tin những gì cộng sản nói . . . dương thu hương - viết thường - trước kia cũng là việt cộng tức là cộng sản . Con cắc kề lúc xanh lúc đỏ tùy theo thời thế bọn việt cộng sớm đầu tối đánh cũng thế.
----------------------------------------------------------------------------------
Các tin đã đăng
- "Người Do Thái và Nước Mỹ" - by Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Ý Kiến Về Hai Chữ GIAO CHỈ" - Tôn Thất Tuệ / Trần Văn Giang (ghi lại).
- "Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Nhà tiên tri của Việt tộc" - Trần Văn Giang (ghi lại)
- "Giao Chỉ hay Giao Châu?" - Hồ Bạch Thảo - Trần Văn Giang (ghi lại)
Sư quốc doanh
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân
Sau khi trả lời ông Đinh Ngọc Ninh bỗng nhiên tôi nhận được một loạt thư, hỏi:
– Bà có phảI phật tử không? Chúng tôi thấy nhiều quan điểm trong bài viết của bà rất gần với lý thuyết đạo Phật.
– Nếu điều chúng tôi nghi ngờ là đúng, tại sao một người đấu tranh cho dân chủ lại có thể là phật tử?…..
Câu trả lời của tôi là:Tại sao không?
Đạo Phật không biên giới. Đó là một tôn giáo thẫm đẫm tính đạo đức và
triết lý. Đạo Phật cũng như bất cứ tôn giáo nào khác đều tồn tại và phát
triển thông qua hằng hà sa số các cá nhân. Bất cứ cá nhân nào cũng có
một gốc rễ văn hóa, cũng mang một nhãn hiệu bản thể gọi là quốc tịch. Do
đó khi trong một con người cùng tồn tại song song hai tình yêu lớn: tôn
giáo và tổ quốc, người đó ắt phải tranh đấu cho hai kỳ vọng, hai niềm
tin.
Vì thế, câu trả lời của tôi là: Tại sao không?
Tuy nhiên, tôi chỉ là phật tử theo cách của riêng tôi. Tôi không đi lễ
chùa. Chẳng phải là cố tình tìm một cách tồn tại độc đáo nhưng vì tôi
không có khả năng thỏa hiệp, cho dù đó là một sự thỏa hiệp dễ chịu nhất.
Cách đây chừng mười bảy mười tám năm một ngày Xuân tôi đi viếng cảnh
chùa. Ngôi chùa đó nằm gần phủ Tây Hồ. Trên đường tới phủ rẽ tay phải
chừng non trăm mét là tới. Tôi không còn nhớ rõ tên chùa mặc dù đó là
nơi trước khi xảy ra sự việc năm nào tôi cũng tới, khoảng một hai tháng
một lần, siêng năng nhất là mùa xuân và mùa Thu. Đó là ngôi chùa cổ còn
may mắn sót lại sau những cơn đốt phá đình chùa đền miếu theo chủ
trương”tiêu diệt tàn dư phong kiến” của chính quyền cộng sản. Không có
gì đặc biệt ở ngôi chùa ấy, ngoài một mảnh vườn nhỏ vừa trồng đào vừa
trông mai. Có lẽ cảnh tượng thân ái của những cây đào và cây mai chen
vai, thích cánh cuốn hút tôi vào mùa xuân và khi mùa thu đến, đám cành
trần trụi khẳng khiu vươn lên trong lặng lẽ cũng mang lại một vẻ đẹp u
sầu và nghiêm cẩn, vẻ đep ta thường gặp ở mọi ngôi chùa cổ xứ Bắc.
Hình minh họa |
Trưa hôm đó, tôi qua cổng chùa đi vào ngôi nhà ngang. Vừa đặt chân lên
bậc tam cấp tôi chứng kiến một cảnh tượng không tương hợp chút nào với
chốn từ bi: Trên tấm phản gỗ mốc, sư cụ bà ốm nằm còng queo, bát cháo ăn
dở ở một góc phản khô đét lại. Nhà”sư nữ” ngoại tam tuần mắt long sòng
sọc, tay nắm cổ người bệnh lắc, miệng rít lên:
– Mày chết đi, mày chết ngay đi cho người ta nhờ!….
Sư cụ đã quá yếu không động cựa nổi, cái đầu lắc lư ngật ngưỡng như quả bưởi trong tay người đàn bà trẻ hung hãn:
– Mày chết đi…..
Tôi định lui ra nhưng cô ta đã nhìn thấy tôi. Quá muộn cho cả đôi bên.
Hẳn cô ta không ngờ có kẻ đột nhập vào “ngang hông” bởi thông thường
khách thập phương phải qua sân đi vào chùa chính. Cô ta không biết rằng
tôi quen mọi ngõ ngách và thường đi tắt qua nhà ngang vào chùa sau để
hầu chuyện sư cụ. Không thể mở miệng”mô phật” như lần trước cô ta ném
cho tôi một cái nhìn giận dữ và thách thức rồi ngoay ngoảy quay đi. Tôi
ngồi xuống phản với sư cụ. Cụ không mở mắt nổi và giọng nói đã đứt quãng
nhưng hoàn toàn minh mẫn. Đó là người đã xuống tóc từ thời chính quyền
1945 chưa thiết lập, đã duy trì và tu tạo ngôi chùa này qua mọi thăng
trầm của thời gian. Nhưng cụ không có mảy may quyền hành để lưu giữ các
chân tu ở lại, thay cụ chủ trì.”Nhân sự” do”bên trên” đưa xuống.
Vậy cái gì là “bên trên” ?
Quyền lực nào áp chế những người tu hành và thả lũ lợn bẩn thỉu vào khắp
chùa chiền xứ sở? …. Chẳng có gì bí mật cả,”bên trên” là A 25 Cục bảo
vệ văn hóa thuộc Tổng cục 1 Bộ Nội vụ. A 25 có nhiệm vụ đào tạo sư sãi
để”yểm” Hội Phật giáo Việt Nam, để trấn giữ hệ thống chùa toàn quốc.
Không ai quên rằng chính nhà nước cộng sản đã dấy lên cơn bão kinh hoàng
nhằm tàn phá đình chùa, đền miếu thậm chí đào mồ hốt mả chúng sinh,
tiêu diệt tất cả những gì mà họ cho là”tàn tích của chế độ phong kiến”.
Trong một thời gian dài, những người cộng sản muốn xóa sạch tất cả các
tôn giáo, bắt chúng sinh thờ vị thần duy nhất mắt xanh mũi lõ tên là
Karl Marx và đám tông đồ của ông ta. Nhưng để xóa đi một đức tin và thay
thế vào một đức tin khác không dễ dàng như họ tưởng. Và không phải bất
cứ lúc nào họng súng cũng đem lại những kết quả mong muốn. Thời gian
không ủng hộ họ. Bức tường Berlin sụp đổ và Lénine vĩ đại của họ sụp đổ
theo. Dân Nga xích cổ tượng ông ta kéo lê trên bùn. Đám tín đồ phương
Đông đứng chơ vơ không biết từ nay”người cầm lái vĩ đại” của họ sẽ là
ai? …
Trong lúc đó dân chúng ào ào dựng đình, cất chùa. Khắp nơi miếu mạo, đền
chùa, lăng tẩm dựng lên theo trí nhớ. Chính quyền cộng sản có thể truy
bức tàn sát chúng sinh, cướp bóc phá hủy tài sản của họ, nhưng trí nhớ
và niềm tin là những thứ không thể bắn thủng bằng các loại đạn. Và như
thế, giờ đây dân chúng đã xây lại tất cả những gì đã từng bị họ tàn phá,
nếu không nói là còn nhiều hơn. Nhu cầu tâm linh hóa ra cũng là một nhu
cầu sinh tử của kiếp người. Trước tình hình này A 25 trở nên quan trọng
hơn trong vai trò”bảo vệ nền chuyên chính”. Nhiệm vụ của họ là”khống
chế hội phật giáo” biến chùa chiền toàn quốc thành hệ thống pháo đài của
quyền lực, rình mò theo dõi tư tưởng dân chúng và ….điều này nữa, các
tín đồ của Marx không quên: tận thu nguồn lợi béo bở từ đám chúng sinh
“mê tín” kia. Vậy là đội quân “sư nhà nước” được hình thành. Nguồn đào
tạo chính là C 500 (đại học ngành an ninh). Thêm nữa, sinh viên tuyển
lựa từ các đại học khác như Tổng hợp, Sư phạm, Ngoại ngữ … có thành phần
cơ bản (lý lịch đáng tin cậy) được vũ trang bằng lý thuyết giai cấp của
Marx-Lénine và một thứ chủ nghĩa duy vật hạ đẳng. Sau đó, lớp người này
được”tráng men” bằng lý thuyết đạo Phật và trước hết các phương pháp
niệm kinh, hành lễ để “vào nghề”.
Như thế nhà nước cộng sản đã tạo nên một đội ngũ”tôi tớ trung thành”được
quyền thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất và nhục thể dựa trên sự đầu cơ trục
lợi”những khát vọng tâm linh” của dân chúng. Các ông sư bà sư áo quần
phấp phới cưỡi xe vù vù đi “họp kín”. Họp kín ở đây tức là họp “giao
ban” ngành dọc A 25. Họ báo cáo rành mạch mọi thành tích. Riêng những
cọc tiền thu được từ các hòm công đức là “không thể rành mạch”vì các sư
còn phải mang về quê xây nhà tầng và lo cho các con học đại học trong
nước và ngoài nước. Sư hành nghề ở Thái Nguyên, Hà Bắc thường có quê
quán gia thất tại Thanh Hóa, Nam Định và ngược lại … So với các nghề
khác trong Bộ Nội vụ,”nghề làm sư” là béo bở, chỉ thua kém “Cục buôn lậu
ma túy” thôi.
Cả một bộ máy lừa bịp vận hành nghiễm nhiên và ngang nhiên dưới ánh mặt trời, trước mắt dân chúng.
Dân chúng, tuy thường xuyên phải cúi mặt nhẫn nhục cam chịu, đôi khi
cũng vùng lên tranh đấu, đòi đuổi sư nhà nước, giành chùa cho chân tu.
Vụ biểu tình của các tín đồ chùa Láng Hà Nội cách đây ba năm là một ví
dụ. Trong tối hôm đó, công an đã bắt giam trên một trăm tín đồ.
Vậy tôi xin trở lại lý do khiến tôi không đi lên chùa từ gần hai thập kỷ
nay, sau kỷ niệm đau buồn với sư cụ tôi không còn muốn nhìn thấy một
lần nữa bọn”thầy chùa đểu”.
Nhưng chưa hết.
Tôi không đi lễ chùa cũng còn vì chùa chiền giờ đây đầy rẫy bọn “đao
phủ” đi “đánh quả” thần, phật. Gọi là “đao phủ” vì chính lũ người đó
trước đây đã ra lệnh phá đình chùa, đuổi sư sãi, vặt cổ vặt tay tượng
phật làm củi…. giờ đây chúng lại xì xụp hương khói hơn tất thẩy mọi
người.
Vì sao có sự đổi hướng quay chiều? ….
Tôi sẽ trả lời tường tận nhưng trước hết, để tránh rơi vào lối ám chỉ chung chung tôi xin nêu dẫn chứng:
– Một là, những người dân Huế cỡ trung niên hẳn chưa quên câu ca này:
Bùi San cùng với Trần Hoàn
Hai thằng ngu ấy phá đàn Nam Giao
Bùi San: bí thư tỉnh ủy. Trần Hoàn: trưởng ty văn hóa. Công trình chung
của họ là hủy diệt một di tích lịch sử nơi xưa kia các vua Nguyễn tế
Trời Đất và tiên vương. Sau này, ông Trần Hoàn ra làm bộ trưởng Bộ Văn
hóa, vợ con ông ta xem bói từ Nam ra Bắc, khấn lễ mọi nơi, đặc biệt lễ
hậu là Bia Bà để cầu cho ông được”vững vàng”. Riêng tôi, tôi nhìn thấy
ông nhiều lần cắp cặp đứng trước cổng nhà các vị”Bộ Chính trị”. Quả là
một cuộc hiệp đồng tác chiến; vợ con ông đi đút lót”thần, phật” còn ông
đi hầu hạ các”thánh sống”để ông được duy trì thêm 4 năm trên ghế bộ
trưởng vì ông đã già lại quá nhiều khiếu kiện, cấp trên của ông đã chấm
ông “vào sổ hưu”.
– Hai là, thời kỳ Lê Khả Phiêu làm tổng bí thư Đảng, ngoài chiến
dịch”Thanh Hóa hóa bộ máy cầm quyền” ông ta đã tranh thủ đào bới ngân
khố quốc gia để xây dựng lại, mở mang hoành tráng đền thờ Lê Lai, tin
tưởng đó là tổ tiên trực tiếp, là thần hộ mạng cho mình.
– Ba là, vài năm gần đây nhiều người họ Trần vênh vang tuyên bố rằng họ
Trần sắp sửa bước vào thời kỳ “đại phát” vì Trần Đức Lương vừa cho xây
khu mộ cổ họ Trần tại Thái Bình. Khu mộ này sẽ được xây theo thế “rồng
phục” sao cho ít nhất, chín đời họ Trần sẽ liên tục “làm vua”, v.v. và
v.v.
Theo logic, ngày nào chế độ độc tài này còn tồn tại thì tất thảy bọn cầm
quyền họ Miêu họ Thử họ Ngưu họ Mã …. sẽ lần lượt vét ngân khố quốc gia
để xây dựng mồ mả đền miếu cho riêng dòng tộc của chúng với một chủ
đích hoặc ngụy trang hoặc lộ liễu: Duy trì quyền lực.
Quyền lợi, đó là căn nguyên sự quay chiều đổi hướng của kẻ cầm quyền.
Marx và Lénine hết sài được thì quay sang “đầu tư, đánh quả” thần, phật.
Hạng người ti tiện, lòng tham ngùn ngụt như vậy làm gì có “tâm hồn tôn
giáo”?…, nhất là một tôn giáo có quá nhiều yêu cầu đạo đức, cấu trúc
trên tinh thần khắc kỷ như đạo Phật? … Không phải vô cớ mà so với đạo
Hồi và Thiên Chúa giáo, đạo Phật có ít tín đồ hơn. Con đường dốc khó
trèo. Con đường dốc ấy làm sao tương hợp được với bọn cởi áo đao phủ
khoác áo cà sa điềm nhiên như diễn viên thay trang phục sân khấu, không
một chút ngượng ngùng, không mảy may hối tâm, không một lần thành khẩn
trước tha nhân.
Lẽ ra, chính quyền Việt Nam phải xin lỗi dân chúng một cách công khai,
một cách thanh thật, một cách nghiêm khắc vì tội ác phá đền chùa lăng
miếu, đào bới san ủi mồ mả tiền nhân của chúng sinh. Nếu họ cải tâm họ
đã phải làm điều đó trước khi đặt chân lên thềm những đền chùa mà dân
chúng gom góp xây dựng lại.
Nhưng cái ngã mạn của kẻ cầm quyền khiến lương tâm họ mù tối. Họ không
cần xin lỗi ai bởi vì họ tự nhận là “Đảng thần thánh và vĩ đại”. Và vì
“thần thánh và vĩ đại” họ đã thản nhiên làm cái việc mà cổ nhân từng
cảnh báo:
“Thế gian có mặt mũi nào
Đã nhổ lại liếm làm sao cho đành”
Tôi chuyển sang mục thứ hai: Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi.
Không đi lễ chùa đã đành, tôi cũng không tin tuyệt đối vào lòng từ bi.
Đối với tôi, lòng từ bi không thể độc hành. Lòng từ bi phải bước song
song với một trí tuệ sáng suốt và khả năng chiến đấu chống lại điều ác.
Khi lòng từ bi không được rọi chiếu dưới ánh sáng trí tuệ, nó dễ dàng
đưa ta đến tai họa. Chỉ cần nhớ lại tích “Đường Tam Tạng đi lấy kinh” là
đủ. Đã bao nhiêu lần vị sư phụ này mắc lừa bọn yêu quái, niệm chú để
xiết chặt vòng kim cô làm Tôn Ngộ Không đau đớn vật vã điên cuồng. Và
cũng chớ nên quên rằng bao nhiêu lần ông ta mắc lừa, bấy nhiêu lần Tôn
Hành Giả đi giải cứu.
Khi thiếu khả năng chiến đấu chống lại cái ác, lòng từ bi của chúng ta
biến thành chất dầu nhờn, bôi trơn cỗ máy nghiền của loài ngạ quỷ và
chính cỗ máy này sẽ nghiền nát chúng sinh. Một dân tộc hiền hòa như dân
tộc Tây Tạng đã mất nước vì thiếu khả năng chiến đấu. Quân lính Trung
Quốc không chỉ xâm chiếm, tàn phá đất nước Tây Tạng mà còn đổ than hồng
vào đầu vào họng các nhà sư và tra tấn họ bằng tất cả những hình thức
tra tấn thời Trung cổ.
Thêm một ví dụ nữa: Ai cũng biết ở Khơ-me đạo Phật là quốc giáo. Vậy mà
chính tại xứ sở này nạn diệt chủng đã xảy ra. Hơn hai triệu người bị
giết dưới chính quyền Khơ-me đỏ. Thê thảm thay, rất nhiều cuộc tán sát
man rợ lại xảy ra chính tại các chùa. Nơi thờ cúng linh thiêng biến
thành địa ngục và giờ đây, thành một thứ bảo tàng lưu giữ đầu lâu của
các nạn nhân.
Với nghiệm sinh, tôi xin góp một dẫn dụ nhỏ. Năm 1991, trong gần tám tháng tù, tôi nhớ nhất câu này:
– Chị sẽ được ra tương ớt! Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Không phải vì câu nói được lặp đi lặp lại mà vì thái độ của những người
nói. Họ có một vẻ hài lòng đáng sợ, một sự điềm nhiên đáng sợ. Tôi không
thù ghét họ: một đại tá, một đại úy, một trung úy. Có lẽ về bản chất họ
không phải người ác người xấu. Nhưng họ đã được đào tạo để làm cái
việc”nghiền người khác ra tương ớt”. Vì thế, đối với họ, việc nghiền ai
đó ra tương ớt là phận sự, là phương tiện sinh tồn, giống như người thợ
phay bào một con ốc thép hoặc người đầu bếp xào món rau.
– Chị sẽ được nghiền ra tương ớt!
Mỗi lần nghe câu nói đó, tôi đọc thấy trên gương mặt họ niềm hạnh phúc
thanh thản của “Gã nông phu vừa cày xong thửa ruộng, Ngả mình trên nếp
cỏ ngủ ngon lành”.
Đương nhiên, họ chuẩn bị mọi sự để cho tôi ra”tương ớt”. Nhưng không may
cho họ, một tuần sau cuộc đảo chính ở Nga thất bại, thành trì của chủ
nghĩa xã hội sụp đổ tan tành, cả ê-kíp ba người hỏi cung tôi tái xanh
tái xám, mặt họ hiện lên nỗi hoang mang thê thảm, không còn chút tự tin.
Họ phải dừng tay, không dám cho tôi ra “tương ớt”…. Và rồi, với 95 triệu
franc viện trợ không hoàn lại của chính phủ đảng Xã hội Pháp, nhà nước
cộng sản đã thả tôi ra….
Hơn một thập kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên hình ảnh”tương ớt”. Vì cỗ
máy nghiền con người ra tương ớt vẫn tồn tại. Và nó tiếp tục nghiền
những người khác. Cả một đội ngũ”thợ nghiền” tiếp tục nuôi sống bản thân
cũng như vợ con họ bằng nghề nghiệp này. Liệu các vị có thể dùng lòng
từ bi hỉ xả như vũ khí tối hậu và duy nhất để làm thay đổi cỗ máy nghiền
này chăng? ….
?….?….
Tôi không tin.
Vì thời gian hữu hạn, khả năng con người cũng hữu hạn.
Vì sự tập nhiễm là bản năng thứ hai có sức mạnh ghê gớm mà chỉ riêng lòng tốt không đủ để đổi thay.
Vì lẽ đó, cuộc đấu tranh của Phật Tử cũng như của giáo dân không thể chỉ
tựa trên sức mạnh của lòng từ ái. Cuộc đấu tranh nào cũng phải có chiến
lược và chiến thuật, tùy cơ ứng biến. Và dù đứng dưới bóng Phật hay
bóng Chúa, con người cũng cần có một bộ óc phán đoán phân tích sắc bén
cộng với một khả năng đủ cho việc chống lại cái ác, bên cạnh lòng hỉ xả
từ bi,
Tôi là phật tử theo kiểu của riêng tôi vì tôi không bao giờ chủ trương
đạo Phật trở thành “quốc giáo”, tôi đấu tranh cho một nền dân chủ đích
thực mà nền dân chủ đích thực chỉ cho phép tồn tại một nhà nước thế tục
trong đó tất thảy các tôn giáo đều được bảo vệ một cách bình đẳng nhưng
trước hết mọi tín đồ đều có nghĩa vụ làm công dân xứng đáng.
Với tôi, chỉ có một nền dân chủ đích thực cho phép thay đổi thường xuyên
các chính phủ thối nát, lạm nhũng mới cho phép các tôn giáo tồn tại
đúng với tư cách tôn giáo, đền chùa và nhà thờ mới tồn tại như những
chốn thiêng liêng nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của cõi người mà không
bị biến thành đồn bốt bảo vệ cho quyền lực nơi đám cường hào trá hình ức
hiếp người tu hành và bóc lột chúng sinh.
Bây giờ, là một câu hỏi có tính riêng tư:
– Cơ duyên nào đưa bà đến cửa thiền?
Tôi xin trả lời:
– Sự đưa dẫn của số phận.
Đúng như vậy. Tất cả những ngả rẽ lớn trên đường đời, tôi không trù
tính. Tất cả, đều xảy ra như những ngẫu nhiên. Nói một cách bóng bẩy hơn
suốt phần đời tôi đã trải qua là tạo phẩm dưới bàn tay vô hình của số
phận. Tuổi thơ, tôi không mơ ước làm nghề viết văn. Trưởng thành tôi
cũng không hình dung được có ngày tôi trở thành kẻ thù số 1 của chế độ
này. Tương tự như thế, chưa bao giờ tôi cố ý đi tìm đọc giáo lý nhà
Phật.
Sau cái chết của cha tôi 1992 trong tôi bỗng nảy sinh nhu cầu siêu hình.
Vì sao, chính tôi cũng không rõ. Có điều, tôi biết chắc chắn rằng đời
người thường chưa chất những ngộ nhận, những nhầm tưởng, những bí ẩn,
những che giấu…. tất cả những gì mà ta thường gọi là “bờ lú bến mê”.
Trong quan hệ giữa con người với con người, những mê lú thường đem lại
khổ đau, hờn oán. Thâm tình càng sâu, khổ đau càng lớn. Bởi vì, chỉ
những người ta yêu thương mới có khả năng làm cho ta đau đớn. Phật tổ
Như Lai dạy:”Con cái là những sợi xích bằng vàng”. Với tôi, sự thật dạy
thêm vế đối:”Cha mẹ là những chiếc cùm bằng ngọc”. Trong gia đình tôi,
tồn tại một nguyên tắc “Gia pháp cao hơn quốc pháp”. Vì lẽ đó, trong hơn
một thập kỷ cha tôi đã áp dụng với tôi mọi hình thức kỷ luật quân đội
để ép tôi sống với người chồng cũ, vì “bỏ chồng là điếm nhục gia
phong”…..Có lẽ vì những ẩn ức đó tôi bỗng có nhu cầu siêu hình sau cái
chết của ông, dù người âm kẻ dương chúng tôi vẫn là cha con và vẫn có
nhu cầu trò chuyện. Cũng chính vì những ẩn ức đó cuộc gặp gỡ và thờ
phụng Phật bà Quan Âm đối với tôi là một hạnh duyên, một may mắn vĩ đại
và thần bí.
Là người viết văn tôi biết rằng với thời gian và qua thời gian tất thảy
các nhân vật lớn thuộc mọi tôn giáo đều được thần thoại hóa. Nhưng cho
dù tước bỏ mọi chi tiết huyền hoặc, mọi sợi chỉ óng ánh thêu dệt chân
dung tôi vẫn thấy Phật Bà là một nhân cách vĩ đại tỏa sáng. Bị chinh
phục hoàn toàn vì nàng công chúa từ bỏ cuộc đời xa hoa của hoàng cung,
chạy trốn sự truy đuổi của quân lính triều đình, cưỡi hổ về phương Nam
tu hành, tôi đi tìm đọc giáo lý nhà Phật.
Vậy là con đường tôi đi ngược chiều với nhiều người khác. Tuy nhiên phương Tây có câu:”Mọi con đường đều dẫn đến Roma”.
Tôi tin rằng có nhiều con đường khác nhau dẫn đến tôn giáo nói chung
cũng như cửa Phật nói riêng. Tùy theo duyên phận từng người, họ có thể
dấn thân vào hành trình đó sớm hay muộn, lâu dài hay ngắn ngủi, sâu hay
nông, thành thực hay chiếu lệ, v.v.
Đối với tôi, đạo Phật đem lại nhiều chân lý vĩnh hằng: Tính vô thường
của Tồn Sinh, luật ly hợp của con người, vòng quay Sinh Diệt,v.v. Nhưng
trước tất thảy mọi triết thuyết, đạo Phật dạy ta xử lý ra sao trong các
mối mâu thuẫn nan giải của đời người. Lịch sử cá nhân của Quán Âm Bồ
Tát đem cho tôi một sức mạnh mới mẻ và sự thanh thản triệt để trong tâm
hồn. Tôi hiểu là từ ngàn xưa những con người vĩ đại đã giải quyết ra sao
mối mâu thuẫn giữa các thế hệ đặt trong bối cảnh tình huyết nhục.
Tôi hiểu rằng ngoại trừ ngày cha mẹ đặt ta vào cõi đời, con người phải
tự mình sinh đẻ ra mình, và lần sinh trưởng thứ hai này mới thực sự
quyết định cho nhân cách cũng như sự nghiệp.
Tôi hiểu rằng không phải vinh quang cũng không phải chiến thắng mà chính là Tình Yêu và sự Hy Sinh nâng con người lên cao.
Và tất thảy những ý tưởng ấy được chắt lọc ra khi tôi đọc “Chuyện Quan
Âm”. Cho nên tôi như được hồi sinh khi tẩy xóa mọi ẩn ức, thanh lọc tâm
hồn. Tôi cúi đầu trước vong linh cha tôi vì hiểu rằng chính ông và chỉ
ông mới tạo ra tôi nhưng tôi vẫn đi đúng con đường tôi đã chọn, không
mảy may nao núng. Tôi cũng không bao giờ ép duyên hay can thiệp vào đời
tư của các con tôi. Và bài học lớn lao ấy tôi học được từ Phật bà Quan
Âm. Ngài chính là cơ duyên đưa tôi đến cửa Thiền.
Cuối cùng, để cảm ơn tất cả những ai đã quan tâm hỏi tôi, nhất là các Phật tử tôi xin phép nói rằng:
Tôi vẫn mơ ước có một ngày, khi lũ lợn bẩn thỉu bị đuổi khỏi đền chùa,
mọi nơi thờ cúng linh thiêng được trả lại cho các chân tu những người mà
mệnh và nghiệp gắn kết họ với tôn giáo… Ngày ấy, nếu Trời còn cho sống
tôi sẽ lại “vãn cảnh chùa”, để thưởng thức mùi hương thuần khiết, thanh
cao của hoa mộc hoa sói, hoa lan…. những loài hoa chỉ được phép trồng
nơi thiêng liêng hương khói.
Dương thu Hương
(Việt Thức)