Thân Hữu Tiếp Tay...
TẠI SAO KHÔNG CÓ CUỘC BẦU CỬ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC NĂM 1956 ? - Mai Tú Ân
( HNPD ) Trước giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính quyền VNCH
( HNPD )Trước
giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính
quyền VNCH của Tổng thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận bầu cử để thống
nhất vì sợ sẽ thất cử trước chính quyền VNDCCH của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh...
Qua nhiều sự
nghiên cứu trung thực của nhiều người thì kết luận lại là những người CS
đã nói đúng trong trường hợp bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 này.
Một điều hiếm hoi mà họ đã nói thật, nhưng cũng chỉ nói thật được một
nửa...
Như mọi người đều
biết, sau chiến thắng vang dội của những người Việt Minh ở Điện Biên Phủ
thì thế trận đã hình thành như sau. Toàn bộ vùng núi phía Bắc giáp biên
giới Trung Quốc đã lọt vào tay Việt Minh, và những người CS Trung Quốc,
đã giành được toàn bộ Trung Hoa Đại Lục, đuổi quân Tưởng ra Đài Loan
trước đó vào năm 1949. Biên giới hai nước CS đã mở toang cửa cho từng
đoàn xe tải Trung Cộng chở hàng, chở vũ khí từ Liên Xô ùn ùn sang tiếp
viện cho đồng minh mới là CS VN. Ngay trong chiến dịch Điện Biên Phủ thì
cũng có trên 3000 cố vấn Trung Cộng tham chiến.
Trước
tình hình tuyệt vọng quân sự ở phía Bắc, người Pháp không chịu nổi gánh
nặng chiến tranh 9 năm trời nên đã muốn buông bỏ, nhưng quân đội Quốc
Gia Việt Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại thì lại chưa đủ mạnh để có thể thay
thế quân Pháp làm chủ lực chống lại Việt Minh đang được sự trợ giúp vô
cùng mạnh mẽ của khối Cộng Sản, qua ngả Trung Quốc.
Cũng
xin nói thêm về sự giúp đỡ của khối CS này cho Việt Minh. Thời điểm
trước năm 1953- 54 khi đại nguyên soá J. Staline còn sống, thì mối quan
hệ đặc biệt thân thiết giữa Stalin và Mao Trạch Đông cũng như hai nhà
nước CS này là vô cùng thân thiết. Chính nhờ sự giúp đỡ vật chất, khí
tài, và chuyên gia của Liên Xô đã giúp cho CS Trung Quốc của Mao thắng
quân QDĐ của Tưởng Giới Thạch và chiếm toàn bộ đại lục. Nhưng kể từ khi
Stalin chết năm 1953, những người kế thừa như Khorussop đã bất đồng
quan điểm nghiêm trọng với Mao Trạch Đông, và dần dần hai nước từ bạn
biến thành thù. Thậm chí 2 nước còn xảy ra xung đột biên giới vào năm
1967. Và CS Bắc Việt cũng chịu sự thất thường của mối quan hệ này cũng
như sự viện trợ lên xuống tùy theo sự đóng băng của tình đồng chí giữa
hai ông lớn CS anh em. Nên có những sự kiện chính của đất nước Việt Nam
trong thời gian này cũng chịu ảnh hưởng của mối quan hệ giữa hai ông
lớn này. Đó là sự kiện Cải Cách Ruộng Đất và ký Hiệp Định Giơnevo 1954,
chia đôi đất nước. Xin hẹn dịp khác sẽ trở lại vấn đề này.
Khi
Hiệp Định Giơnevơ được ký kết thì phía của Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại
làm Quốc Trưởng và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng đã ngần ngại không tham
gia. Sau cùng thì họ cử ông Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ dẫn đầu một phái
đoàn qua Giơnever. Thụy Sĩ.
Khi
Pháp phải chấp nhận ký hiệp định Genever 1954, thì chỉ có 7/9 nước tham
gia ký Hiệp Định này. Và hai nước không ký chính là Hoa Kỳ và Quốc Gia
Việt Nam. Mặc cho Pháp thúc ép, và ngay cả Quốc Trưởng Bảo Đại cũng thúc
giục nhưng Thủ tướng Ngô Đình Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận ký
hiệp định này, vì lý do như vậy sẽ chia cắt lâu dài đất nước. Ông Diệm
đã chỉ đạo cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam
dứt khoát không ký với một tuyên bố long trọng trước tất cả các đoàn để
bảo lưu ý kiến rằng :
"Việc
ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại
nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã
nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và
tước mất của Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ quốc gia. Bộ Tư lệnh Pháp
đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái
đoàn Quốc Gia Việt Nam. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị
Gienever ghi nhận một cách chính thức rằng, Việt Nam đã long trọng phản
đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện
vọng sâu xa của người dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội
Nghị ghi nhận rằng Chính phủ Việt Nam tự dành cho mình quyền hoàn toàn
tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong
công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho toàn xứ sở."
Và
khi cái Hiệp Định Giơnever 1954 tai họa đó đã được ký thì Quốc Gia Việt
Nam và Hoa Kỳ đã không ký. Ông ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bật khóc.
TTg Ngô Đình Diệm thì tuyên bố treo cờ rủ vào ngày ký kết hiệp định vì
biết trước đó là sự chia cắt lâu dài đất nước. Và ông đã có một câu nói
nổi tiếng :
"Phải thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ"
Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm biết chắc rằng, CS sẽ tráo trở chứ không bao giờ
nghiêm chỉnh thực thi hiệp định cả. Ông nói rằng chẳng bao giờ có chuyện
những người CS lại phải ký những hiệp định hòa bình với người phía thế
giới dân chủ, nếu họ không bị dồn vào chân tường. Và họ cũng chỉ ký vi
tình thế nào đó bức bách thôi. Ngay khi chưa ráo mực thì họ sẵn sàng xé
tan hết cho dù mấy cái Hiệp Định như HD Giơ ne vơ. Nên được sự ủng hộ
về mọi mặt của Hoa Kỳ, ông cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã lao vào
làm một khối lượng công việc khổng lồ như di dân vào Nam và ổn định nền
kinh tế đã tan nát thời hậu chiến. Đây là thời điểm mà ông Diệm và bào
đệ là ông Nhu đã phải làm việc đến 18 - 20 giờ mỗi ngày. Thủ tướng nói
phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống người dân khấm khá lên là những lá
phiếu xứng đáng để hai miền thống nhất.
Ta
sẽ sơ lược để tìm hiểu nhé. Thời điểm từ năm 1954, là năm ký Hiệp Định
Giơnevơ cho đến năm 1956 là năm sẽ phải Tổng tuyển cử thống nhất hai
miền, thì như các bạn đã biết là công cuộc Cải Cách Ruộng Đất đang "Long
Trời Lở Đất" trên khắp lãnh thổ miền Bắc của VNDCCH. Rồi những cuộc di
cư của hàng trăm ngàn đồng bào Công Giáo vào Nam vẫn tiếp diễn ,khiến
cho các vùng Công Giáo truyền thống như Bùi Chu, Phát Diệm...vắng tanh,
chỉ còn các cha ở lại để giữ tài sản Nhà Thờ. Vùng tập kết tự do cho dân
di cư ở vùng Hải Phòng vẫn hoạt động trong thời hạn 300 ngày. Ước tính
có khoảng 900.000 ngàn đồng bào miền Bắc đã rời bỏ quê hương, mồ mả ông
bà tổ tiên cùng nhà cửa ruộng vườn, gạt nước mắt bồng bế nhau đến khu
vực tập kết tự do chờ tàu há mồm để di cư vào Nam. Số người di cư vào
Nam này, vốn có sự căm thù hiển nhiên với CS, cộng với các Giáo Phái Cao
Đài, Hòa Hảo đều có mối thù không khoan nhượng với CS. Và hơn tất cả là
tuyệt đại đa số người Miền Nam, miền Trung đều không ủng hộ CS. Và thực
tế trong cuộc kháng chiến 9 năm thì Việt Minh không thành công ở các
lãnh thổ miền Nam và miền Trung như ở Miền Bắc được. Các khối dân trên
là một lực lượng gần như tất cả của Đệ Nhất VNCH đều ủng hộ tuyệt đối
Chính phủ của ông Ngô Đình Diệm và hoàn toàn có thể giúp chính phủ thắng
cử, nếu có một cuộc bầu cử công bằng.
Ngược
lại chỉ có khoảng 160.000 ngàn người vừa dân vừa quân đội của Việt Minh
đã rời bỏ quê hương để tập kết ra Bắc. Bối cảnh thì như vậy, với sự tan
hoang của cả nông thôn miền Bắc lẫn lòng dân sau 2 năm CCRĐ, cộng với
truyền thống thắng cử của nền dân chủ trước nền độc đảng thì hẳn là khôi
hài nếu cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm không dám Tổng tuyển cử vì
sợ thất cử.
Theo các quan
chức ngoại giao nước ngoài thì về cá nhân con người thì ông Ngô Đình
Diệm là một con người nhỏ bé, và đã bắt đầu hơi đẫy ra với tướng đi vội
vàng của một người đã tới tuổi già, dễ gây cảm giác cho người tiếp xúc
thấy ông là người đa cảm, yếu đuối. Ông không thích chốn đông người mà
ưa trầm tư suy ngẫm. Ông thường đến sớm hơn các em trước bàn thờ Chúa
trong các lễ, và ở lại lâu hơn tất cả. Và người ta nghĩ rằng, nếu không
có ông em Ngô Đình Nhu thông làu kinh sử, thông tuệ hơn người thì Tổng
Thống sẽ lúng túng lắm trong các buổi giao tế tiệc tùng. Thế nhưng ông
Diệm lại thường là người cương quyết và quyết định dứt khoát cùng ý chí
thể hiện đến cùng mọi quyết sách hơn là ông em. Việc cương quyết từ chối
ký Hiệp Định chính thức ở Gioneve sẽ cho chính phủ của ông, như đã nói
trong phần bảo lưu hội nghị , có "toàn quyền hoàn toàn tự do hành động
để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho toàn xứ sở." Nói thẳng ra là ông
giành quyền đáp trả xứng đáng với miền Bắc bất cứ lúc nào, và bất cứ giá
nào.
Quân đội quốc gia
được tổ chức cơ động, có sức tấn công chứ không phòng thủ xé lẻ ra như 4
quân đoàn ở 4 quân khu như sau này. Các đơn vị biệt kích gốc Bắc, Nùng
Thái...được huấn luyện để nhảy ra Bắc hoạt động du kích. như những
chuyến nhảy toán liên tục cho tới khi nền đệ 1 CH sụp đổ năm 1963. Đệ
nhị CH đã bị người Mỹ buộc đóng cửa các trại huấn luyện ở Lào. Các
chương trình biệt kích cũ, "Bóng Ma Biên Giới" phải giải thể và trở về
với hoạt động nội địa với các tên như đơn vị Biệt Cách 81. Với sự cương
quyết, không bao giờ khoan nhượng với CS, ông Diệm đã làm tất cả để mơ
một ngày Lấp Sông Bến Hải, thống nhất đất nước trong tự do chứ không
phải trong nô lệ.
Lịch
sử ngắn ngủi sau đó đã chỉ ra rằng ông đã đúng, bởi khoan nhượng, hay
hòa hoãn với CS là tự sát. Như Winton Sớcsin đã nói, một quốc gia hèn
nhát, không dám đối đầu sanh tử với kẻ thù thì trước sau gì cũng bị kẻ
thù đánh gục trong một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc phỏng vấn với
báo giới nước ngoài, ông Ngô Đình Nhu nói : Các bạn hãy cho tôi biết
trong lịch sử bầu cử đã có một cuộc bầu cử công bằng và tự do giữa thế
giới dân chủ và CS chưa. Ví dụ như theo Hiệp Định Gioneve thì đợt đầu sẽ
có 1400 cán bộ người của miền Bắc được đưa vào miền Nam để thực hiện
việc tổ chức bầu cử, và một số lượng tương ứng người miền Nam được đưa
ra Bắc để tổ chức vận động bầu cử. Nhưng tôi tin rằng họ sẽ đưa 1400 tên
gián điệp vào Nam để phá hoại mà chúng tôi phải cho họ ở khách sạn và
chăm lo đầy đủ, trong khi người của chúng tôi ra Bắc thì sẽ bị chửi bới
và kể cả ám sát họ nữa"...
Việc
từ chối Tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 1956 của chính quyền
miền Nam là có thật chứ không phải là sự bịa đặt của chính quyền Hà Nội.
Và chúng ta hiểu vì sao một con người Kính Chúa yêu nước như ông Diệm,
nhưng năm đó luôn đáu đáu trong lòng việc lớn nhất đời ông, đó là thống
nhất đất nước, thu giang san về một mối rồi rũ áo từ quan để trở về dòng
tu cũ để đọc kinh dâng lễ, lại từ chối việc bầu cử để thống nhất đất
nước vào năm 1956 ấy. Bởi vì ông biết là cuộc bầu cử ấy sẽ không bao giờ
có.
Và khi năm bầu cử
1956 đến, khi đó ông đã là Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã
cương quyết bác bỏ mọi khả năng bầu cử để thống nhất hai miền. Vì ông
luôn mạnh mẽ tin rằng, chính quyền CS của ông Hồ Chí Minh sẽ không
nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ trách nhiệm để có một cuộc bầu cử hợp lệ,
tự do và công bằng.
Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau đó cũng đã liên tiếp đưa ra các đề
nghị bầu cử để thống nhất đất nước theo Hiệp Định 1954, và thậm chí đưa
ra Ủy Hội Giám Sát QT. Nhưng chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đã không trả lời. Rồi chiến tranh giữa hai miền nổ ra sau
đó đưa đến bao cảnh tan nát điêu linh và kéo dài. Và bao giờ chính
quyền VNDCCH cũng lên tiếng tố cáo chính quyền VNCH của TT Diệm là kẻ
chịu hoàn toàn trách nhiệm vì không chịu tham gia bầu cử để thống nhất
hai miền. Điều đó cũng không sai...
Nhưng
trong vòng thân tình với báo giới quốc tế thì ông cố vấn Ngô Đình Nhu
bao giờ cũng cười mỉm chi mà rằng : "Các bạn có thể tiếc nuối bất cứ cái
gì, nhưng đừng tiếc nuối câu chuyện bầu cử đó. Vì nó sẽ không bao giờ
có cả. Bởi nếu có bầu cử thì cho dù chúng tôi có nhắm một mắt lại để cho
họ (CS) gian lận bầu cử thì chúng tôi vẫn thắng tuyệt đối. Vì biết chắc
rằng họ cũng phá đám bầu cử nếu thấy rằng họ không thể thắng. Họ không
bao giờ có thể thắng, nên sẽ không bao giờ có cuộc bầu cử đó "
Mai Tú Ân ( HNPD )
Mai Tú Ân ( HNPD )
TẠI SAO KHÔNG CÓ CUỘC BẦU CỬ THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC NĂM 1956 ? - Mai Tú Ân
( HNPD ) Trước giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính quyền VNCH
( HNPD )Trước
giờ chúng ta thường được thông tin của lề phải nói rằng, tại vì chính
quyền VNCH của Tổng thống Ngô Đình Diệm không chấp nhận bầu cử để thống
nhất vì sợ sẽ thất cử trước chính quyền VNDCCH của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh...
Qua nhiều sự
nghiên cứu trung thực của nhiều người thì kết luận lại là những người CS
đã nói đúng trong trường hợp bầu cử thống nhất đất nước năm 1956 này.
Một điều hiếm hoi mà họ đã nói thật, nhưng cũng chỉ nói thật được một
nửa...
Như mọi người đều
biết, sau chiến thắng vang dội của những người Việt Minh ở Điện Biên Phủ
thì thế trận đã hình thành như sau. Toàn bộ vùng núi phía Bắc giáp biên
giới Trung Quốc đã lọt vào tay Việt Minh, và những người CS Trung Quốc,
đã giành được toàn bộ Trung Hoa Đại Lục, đuổi quân Tưởng ra Đài Loan
trước đó vào năm 1949. Biên giới hai nước CS đã mở toang cửa cho từng
đoàn xe tải Trung Cộng chở hàng, chở vũ khí từ Liên Xô ùn ùn sang tiếp
viện cho đồng minh mới là CS VN. Ngay trong chiến dịch Điện Biên Phủ thì
cũng có trên 3000 cố vấn Trung Cộng tham chiến.
Trước
tình hình tuyệt vọng quân sự ở phía Bắc, người Pháp không chịu nổi gánh
nặng chiến tranh 9 năm trời nên đã muốn buông bỏ, nhưng quân đội Quốc
Gia Việt Nam của Quốc Trưởng Bảo Đại thì lại chưa đủ mạnh để có thể thay
thế quân Pháp làm chủ lực chống lại Việt Minh đang được sự trợ giúp vô
cùng mạnh mẽ của khối Cộng Sản, qua ngả Trung Quốc.
Cũng
xin nói thêm về sự giúp đỡ của khối CS này cho Việt Minh. Thời điểm
trước năm 1953- 54 khi đại nguyên soá J. Staline còn sống, thì mối quan
hệ đặc biệt thân thiết giữa Stalin và Mao Trạch Đông cũng như hai nhà
nước CS này là vô cùng thân thiết. Chính nhờ sự giúp đỡ vật chất, khí
tài, và chuyên gia của Liên Xô đã giúp cho CS Trung Quốc của Mao thắng
quân QDĐ của Tưởng Giới Thạch và chiếm toàn bộ đại lục. Nhưng kể từ khi
Stalin chết năm 1953, những người kế thừa như Khorussop đã bất đồng
quan điểm nghiêm trọng với Mao Trạch Đông, và dần dần hai nước từ bạn
biến thành thù. Thậm chí 2 nước còn xảy ra xung đột biên giới vào năm
1967. Và CS Bắc Việt cũng chịu sự thất thường của mối quan hệ này cũng
như sự viện trợ lên xuống tùy theo sự đóng băng của tình đồng chí giữa
hai ông lớn CS anh em. Nên có những sự kiện chính của đất nước Việt Nam
trong thời gian này cũng chịu ảnh hưởng của mối quan hệ giữa hai ông
lớn này. Đó là sự kiện Cải Cách Ruộng Đất và ký Hiệp Định Giơnevo 1954,
chia đôi đất nước. Xin hẹn dịp khác sẽ trở lại vấn đề này.
Khi
Hiệp Định Giơnevơ được ký kết thì phía của Quốc Gia Việt Nam do Bảo Đại
làm Quốc Trưởng và Ngô Đình Diệm làm thủ tướng đã ngần ngại không tham
gia. Sau cùng thì họ cử ông Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ dẫn đầu một phái
đoàn qua Giơnever. Thụy Sĩ.
Khi
Pháp phải chấp nhận ký hiệp định Genever 1954, thì chỉ có 7/9 nước tham
gia ký Hiệp Định này. Và hai nước không ký chính là Hoa Kỳ và Quốc Gia
Việt Nam. Mặc cho Pháp thúc ép, và ngay cả Quốc Trưởng Bảo Đại cũng thúc
giục nhưng Thủ tướng Ngô Đình Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận ký
hiệp định này, vì lý do như vậy sẽ chia cắt lâu dài đất nước. Ông Diệm
đã chỉ đạo cho ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, trưởng đoàn Quốc Gia Việt Nam
dứt khoát không ký với một tuyên bố long trọng trước tất cả các đoàn để
bảo lưu ý kiến rằng :
"Việc
ký hiệp định giữa Pháp và Việt Minh có những điều khoản gây nguy hại
nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam. Hiệp định đã
nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và
tước mất của Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ quốc gia. Bộ Tư lệnh Pháp
đã tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái
đoàn Quốc Gia Việt Nam. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội nghị
Gienever ghi nhận một cách chính thức rằng, Việt Nam đã long trọng phản
đối cách ký kết Hiệp định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện
vọng sâu xa của người dân Việt. Chính phủ Quốc gia Việt Nam yêu cầu Hội
Nghị ghi nhận rằng Chính phủ Việt Nam tự dành cho mình quyền hoàn toàn
tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong
công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho toàn xứ sở."
Và
khi cái Hiệp Định Giơnever 1954 tai họa đó đã được ký thì Quốc Gia Việt
Nam và Hoa Kỳ đã không ký. Ông ngoại trưởng Trần Văn Đỗ đã bật khóc.
TTg Ngô Đình Diệm thì tuyên bố treo cờ rủ vào ngày ký kết hiệp định vì
biết trước đó là sự chia cắt lâu dài đất nước. Và ông đã có một câu nói
nổi tiếng :
"Phải thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ"
Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm biết chắc rằng, CS sẽ tráo trở chứ không bao giờ
nghiêm chỉnh thực thi hiệp định cả. Ông nói rằng chẳng bao giờ có chuyện
những người CS lại phải ký những hiệp định hòa bình với người phía thế
giới dân chủ, nếu họ không bị dồn vào chân tường. Và họ cũng chỉ ký vi
tình thế nào đó bức bách thôi. Ngay khi chưa ráo mực thì họ sẵn sàng xé
tan hết cho dù mấy cái Hiệp Định như HD Giơ ne vơ. Nên được sự ủng hộ
về mọi mặt của Hoa Kỳ, ông cùng chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã lao vào
làm một khối lượng công việc khổng lồ như di dân vào Nam và ổn định nền
kinh tế đã tan nát thời hậu chiến. Đây là thời điểm mà ông Diệm và bào
đệ là ông Nhu đã phải làm việc đến 18 - 20 giờ mỗi ngày. Thủ tướng nói
phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống người dân khấm khá lên là những lá
phiếu xứng đáng để hai miền thống nhất.
Ta
sẽ sơ lược để tìm hiểu nhé. Thời điểm từ năm 1954, là năm ký Hiệp Định
Giơnevơ cho đến năm 1956 là năm sẽ phải Tổng tuyển cử thống nhất hai
miền, thì như các bạn đã biết là công cuộc Cải Cách Ruộng Đất đang "Long
Trời Lở Đất" trên khắp lãnh thổ miền Bắc của VNDCCH. Rồi những cuộc di
cư của hàng trăm ngàn đồng bào Công Giáo vào Nam vẫn tiếp diễn ,khiến
cho các vùng Công Giáo truyền thống như Bùi Chu, Phát Diệm...vắng tanh,
chỉ còn các cha ở lại để giữ tài sản Nhà Thờ. Vùng tập kết tự do cho dân
di cư ở vùng Hải Phòng vẫn hoạt động trong thời hạn 300 ngày. Ước tính
có khoảng 900.000 ngàn đồng bào miền Bắc đã rời bỏ quê hương, mồ mả ông
bà tổ tiên cùng nhà cửa ruộng vườn, gạt nước mắt bồng bế nhau đến khu
vực tập kết tự do chờ tàu há mồm để di cư vào Nam. Số người di cư vào
Nam này, vốn có sự căm thù hiển nhiên với CS, cộng với các Giáo Phái Cao
Đài, Hòa Hảo đều có mối thù không khoan nhượng với CS. Và hơn tất cả là
tuyệt đại đa số người Miền Nam, miền Trung đều không ủng hộ CS. Và thực
tế trong cuộc kháng chiến 9 năm thì Việt Minh không thành công ở các
lãnh thổ miền Nam và miền Trung như ở Miền Bắc được. Các khối dân trên
là một lực lượng gần như tất cả của Đệ Nhất VNCH đều ủng hộ tuyệt đối
Chính phủ của ông Ngô Đình Diệm và hoàn toàn có thể giúp chính phủ thắng
cử, nếu có một cuộc bầu cử công bằng.
Ngược
lại chỉ có khoảng 160.000 ngàn người vừa dân vừa quân đội của Việt Minh
đã rời bỏ quê hương để tập kết ra Bắc. Bối cảnh thì như vậy, với sự tan
hoang của cả nông thôn miền Bắc lẫn lòng dân sau 2 năm CCRĐ, cộng với
truyền thống thắng cử của nền dân chủ trước nền độc đảng thì hẳn là khôi
hài nếu cho rằng chính quyền Ngô Đình Diệm không dám Tổng tuyển cử vì
sợ thất cử.
Theo các quan
chức ngoại giao nước ngoài thì về cá nhân con người thì ông Ngô Đình
Diệm là một con người nhỏ bé, và đã bắt đầu hơi đẫy ra với tướng đi vội
vàng của một người đã tới tuổi già, dễ gây cảm giác cho người tiếp xúc
thấy ông là người đa cảm, yếu đuối. Ông không thích chốn đông người mà
ưa trầm tư suy ngẫm. Ông thường đến sớm hơn các em trước bàn thờ Chúa
trong các lễ, và ở lại lâu hơn tất cả. Và người ta nghĩ rằng, nếu không
có ông em Ngô Đình Nhu thông làu kinh sử, thông tuệ hơn người thì Tổng
Thống sẽ lúng túng lắm trong các buổi giao tế tiệc tùng. Thế nhưng ông
Diệm lại thường là người cương quyết và quyết định dứt khoát cùng ý chí
thể hiện đến cùng mọi quyết sách hơn là ông em. Việc cương quyết từ chối
ký Hiệp Định chính thức ở Gioneve sẽ cho chính phủ của ông, như đã nói
trong phần bảo lưu hội nghị , có "toàn quyền hoàn toàn tự do hành động
để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực
hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho toàn xứ sở." Nói thẳng ra là ông
giành quyền đáp trả xứng đáng với miền Bắc bất cứ lúc nào, và bất cứ giá
nào.
Quân đội quốc gia
được tổ chức cơ động, có sức tấn công chứ không phòng thủ xé lẻ ra như 4
quân đoàn ở 4 quân khu như sau này. Các đơn vị biệt kích gốc Bắc, Nùng
Thái...được huấn luyện để nhảy ra Bắc hoạt động du kích. như những
chuyến nhảy toán liên tục cho tới khi nền đệ 1 CH sụp đổ năm 1963. Đệ
nhị CH đã bị người Mỹ buộc đóng cửa các trại huấn luyện ở Lào. Các
chương trình biệt kích cũ, "Bóng Ma Biên Giới" phải giải thể và trở về
với hoạt động nội địa với các tên như đơn vị Biệt Cách 81. Với sự cương
quyết, không bao giờ khoan nhượng với CS, ông Diệm đã làm tất cả để mơ
một ngày Lấp Sông Bến Hải, thống nhất đất nước trong tự do chứ không
phải trong nô lệ.
Lịch
sử ngắn ngủi sau đó đã chỉ ra rằng ông đã đúng, bởi khoan nhượng, hay
hòa hoãn với CS là tự sát. Như Winton Sớcsin đã nói, một quốc gia hèn
nhát, không dám đối đầu sanh tử với kẻ thù thì trước sau gì cũng bị kẻ
thù đánh gục trong một cuộc chiến tranh. Trong các cuộc phỏng vấn với
báo giới nước ngoài, ông Ngô Đình Nhu nói : Các bạn hãy cho tôi biết
trong lịch sử bầu cử đã có một cuộc bầu cử công bằng và tự do giữa thế
giới dân chủ và CS chưa. Ví dụ như theo Hiệp Định Gioneve thì đợt đầu sẽ
có 1400 cán bộ người của miền Bắc được đưa vào miền Nam để thực hiện
việc tổ chức bầu cử, và một số lượng tương ứng người miền Nam được đưa
ra Bắc để tổ chức vận động bầu cử. Nhưng tôi tin rằng họ sẽ đưa 1400 tên
gián điệp vào Nam để phá hoại mà chúng tôi phải cho họ ở khách sạn và
chăm lo đầy đủ, trong khi người của chúng tôi ra Bắc thì sẽ bị chửi bới
và kể cả ám sát họ nữa"...
Việc
từ chối Tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 1956 của chính quyền
miền Nam là có thật chứ không phải là sự bịa đặt của chính quyền Hà Nội.
Và chúng ta hiểu vì sao một con người Kính Chúa yêu nước như ông Diệm,
nhưng năm đó luôn đáu đáu trong lòng việc lớn nhất đời ông, đó là thống
nhất đất nước, thu giang san về một mối rồi rũ áo từ quan để trở về dòng
tu cũ để đọc kinh dâng lễ, lại từ chối việc bầu cử để thống nhất đất
nước vào năm 1956 ấy. Bởi vì ông biết là cuộc bầu cử ấy sẽ không bao giờ
có.
Và khi năm bầu cử
1956 đến, khi đó ông đã là Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa, ông đã
cương quyết bác bỏ mọi khả năng bầu cử để thống nhất hai miền. Vì ông
luôn mạnh mẽ tin rằng, chính quyền CS của ông Hồ Chí Minh sẽ không
nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ trách nhiệm để có một cuộc bầu cử hợp lệ,
tự do và công bằng.
Chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau đó cũng đã liên tiếp đưa ra các đề
nghị bầu cử để thống nhất đất nước theo Hiệp Định 1954, và thậm chí đưa
ra Ủy Hội Giám Sát QT. Nhưng chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống
Ngô Đình Diệm đã không trả lời. Rồi chiến tranh giữa hai miền nổ ra sau
đó đưa đến bao cảnh tan nát điêu linh và kéo dài. Và bao giờ chính
quyền VNDCCH cũng lên tiếng tố cáo chính quyền VNCH của TT Diệm là kẻ
chịu hoàn toàn trách nhiệm vì không chịu tham gia bầu cử để thống nhất
hai miền. Điều đó cũng không sai...
Nhưng
trong vòng thân tình với báo giới quốc tế thì ông cố vấn Ngô Đình Nhu
bao giờ cũng cười mỉm chi mà rằng : "Các bạn có thể tiếc nuối bất cứ cái
gì, nhưng đừng tiếc nuối câu chuyện bầu cử đó. Vì nó sẽ không bao giờ
có cả. Bởi nếu có bầu cử thì cho dù chúng tôi có nhắm một mắt lại để cho
họ (CS) gian lận bầu cử thì chúng tôi vẫn thắng tuyệt đối. Vì biết chắc
rằng họ cũng phá đám bầu cử nếu thấy rằng họ không thể thắng. Họ không
bao giờ có thể thắng, nên sẽ không bao giờ có cuộc bầu cử đó "
Mai Tú Ân ( HNPD )
Mai Tú Ân ( HNPD )